Vai trò người vợ trong gia đình

77

images (1)Ý thức gia đình là nền tảng xã hội, nên quốc gia nào cũng đề cao gia đình, luật pháp nào cũng muốn bảo đảm gia đình. Vậy mà dường như số ly thân, ly dị vẫn tăng, ở Âu Mỹ cũng như tại Việt Nam.

Để tránh đổ vỡ, đã có rất nhiều sách báo, tài liệu… được biên soạn thành cẩm nang, nghệ thuật, chỉ dẫn bí quyết, trao truyền kinh nghiệm xây dựng hạnh phúc.

Phần tôi, cuộc đời cho nhìn thấy một số sự việc, cũng như những người quan tâm đến gia đình đều thấy, tôi xin gợi kể để chúng ta cùng suy nghĩ.

I. NGƯỜI VỢ TRUYỀN THỐNG

A. TỨ ĐỨC

Nói đến vai trò người vợ, lệ thường hay nhắc CÔNG-DUNG-NGÔN-HẠNH. Xã hội Việt Nam chẳng những xem tứ đức như mẫu mực thẩm định phẩm giá người nữ, mà còn là điều kiện căn bản để xây dựng hạnh phúc gia đình.

1. CÔNG : việc làm. Công việc trong nhà, công việc ngoài vườn rẩy ruộng đồng, buôn gánh bán bưng nơi các phiên chợ ngày mùa, lúc rạng đông, nắng cháy, mưa dầm hay trăng thanh gió mát… Mỗi thời điểm một công việc, thuở thanh bình cũng như khi ly loạn.

Rồi theo thời gian, được cắp sách đến trường, bước chân vào chế độ lương bổng, người nữ lần hồi hiện diện ở các ngành nghề càng lúc càng nhiều. Sự phân nhiệm truyền thống (chồng đi làm, vợ ở nhà lo nội trợ) cũng thay đổi để hòa nhập với đời sống mới. Người vợ đi làm để chia xẻ gánh nặng cơm áo với chồng, để thêm phương tiện học hành cho con, để dự phòng tương lai, để thi thố sở học… Và tuy đi làm, người vợ vẫn tiếp tục “giữ việc trong nhà”.

2. DUNG : nhan sắc. Ta thường nghe nhắc “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nhưng gỗ tốt đâu có nghĩa là không nên tu bổ nước sơn; nhất là sau vài lần sinh nở, bận chồng lo con, tất bật việc trong việc ngoài, vóc dáng thay đổi theo tuổi đời…

Nhận định : “Nhan sắc làm thỏa mãn giác quan, còn đức tính làm thỏa mãn tâm hồn” nhắn nhủ người nữ lưu tâm cả hương lẫn sắc.

Thống kê gần đây cho thấy 93% đàn ông được hỏi, vẫn trả lời muốn có một người vợ xinh xắn. Điều này chứng tỏ chữ DUNG mà cổ nhân xếp kể vào hàng tứ đức chưa lỗi thời, mất giá. Nói thế, dĩ nhiên không có nghĩa là chỉ chú tâm điểm trang, trau chuốt bề ngoài. Ai cũng biết thể chất mong manh, rồi sẽ tàn phai và người được trọng nể thực sự không do bởi Dung. Nhưng theo ý kiến của nhiều ông chồng thì người chồng chắc chắn sẽ hài lòng khi thấy vợ, dù bận rộn cũng dành ra một chút thời giờ, chăm sóc dung nhan, vệ sinh thân xác, ăn mặc sạch sẽ tươm tất, vừa chừng thích nghi. Và thế hệ các bà mẹ ngày xưa thường dặn dò con gái phải nương theo ý chồng.

3. NGÔN : lời nói. Lời nói thể hiện phần nào nhân cách. Xưa nay đều chuộng từ tốn, nhẹ nhàng : “nói ngọt lọt đến xương”. Nét duyên dáng lịch thiệp tuy được xem như năng khiếu song vẫn có thể trau giồi luyện tập : “lựa lời mà nói”. Con người vốn bất toàn, nên đời sống vợ chồng rất cần sự đối thoại. Vấn đề càng tế nhị khi muốn giúp nhau cải sửa, thăng tiến. Nếu phải đề cập tới thói tật của nhau “hãy tung banh cách nào để bên kia còn bắt được”.

4. HẠNH : hạnh kiểm, liên quan đến tính nết, đức độ. Nữ giới được huấn dạy theo những tiêu chuẩn mà xã hội quí trọng : tiết hạnh, chung thủy… Tứ đức kèm thêm tam tùng định phận cuộc đời người vợ.

B. TAM TÒNG

Tam tòng :

          Tại gia tòng phụ : ở nhà vâng lời cha.

          Xuất giá tòng phu : có gia đình lệ thuộc chồng.

          Phu tử tòng tử : chồng chết theo con.

Dòng văn học đã lưu lại hình ảnh người vợ truyền thống qua nết “chịu thương chịu khó” quen thuộc, tưởng chừng như đó là bản chất đích thực của thân phận nữ nhi. Suốt đời tận tụy, nhẫn nhục chịu đựng mọi tình huống : nhọc nhằn, cực khổ, bị phụ rẩy để bỏ, bị dằn vặt bạc đãi… có khi còn phải nén lòng cưới vợ nhỏ cho chồng. “Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công” (Trần Tế Xương).

Nhưng từ những “thua thiệt” giữ vai phụ thuộc chồng con, một số rất đông người vợ đảm đang quán xuyến, quản trị vuông tròn trong ngoài, và “nội trợ” đã chuyển hóa thành “nội tướng” như xã hội gọi nhận.

II. NGƯỜI VỢ NGÀY NAY

A. ĐỐI NỘI : VỚI NGƯỜI CHỒNG

          Có người tóm tắt dí dõm như sau :

          là bà bếp để cho chàng những bữa ăn ngon.

          là cô làm công để thu dọn gọn sạch nhà cửa, giặt ủi áo quần.

          là bạn gái điểm trang xinh lịch để cùng chàng ra phố, đó đây.

          là phụ tá giúp chàng trong công việc, hoạt động.

          là tri kỷ để chàng tâm sự, gởi gắm lý tưởng, ước mơ.

          là tình nhân sẵn sàng chìu chàng trong lạc thú gối chăn.

          là người chia xẻ gánh nặng tài chánh khi cần.

          là thuộc quyền để thỉnh thoảng chàng trút cơn nóng giận.

Thời nay, bởi môi trường xã hội, các gia đình trẻ dường như quen dần với ý thức đồng hành, trách nhiệm phân chia, nên nhiều người chồng vui lòng san sẻ nhọc nhằn với vợ, tiếp giúp phần nào các việc mà trước đây xem như thuộc phạm vi nội trợ.

Dù vậy, ý kiến kể trên chưa hẳn xưa cũ, hết hiệu lực. Qua sách báo, và đối với một số người, đó vẫn là cách giữ gìn hạnh phúc gia đình.

B. ĐỐI NGOẠI : với những người khác

Bên cạnh vai trò nội bộ với chồng, người vợ còn phải tiếp giao với ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng nội ngoại, bằng hữu, láng giềng…

          “Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận,

          Ngoài nên danh, trong vững mối giềng”.

Hành xử đúng bực, không qua so đo tính toán, dè xẻn, biết tận dụng của cải thế gian để mưu ích lợi tinh thần cho gia đình, cộng đồng, xã hội… để

          “Trước là đắc nghĩa cùng chồng

          Sau là họ mạc cũng không chê cười”.

Bằng ấy trách nhiệm nhiêu khê, có khi không mấy ai gọi nhắc đích danh công-dung-ngôn-hạnh, song chính thực vẫn là tứ đức gia truyền. Nhà văn René Bazin đã nhìn thấy tinh thần sống cho gia đình và vì gia đình khi nói : Nếu bạn thấy một gia đình hạnh phúc, bạn nên tin rằng ở trong gia đình đó có một người đàn bà biết quên mình”.

          “Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,

          Nỗi trong thân tộc, nỗi gần nỗi xa”.

Hình ảnh người vợ lý tưởng đó đã vượt không gian, thời gian, hiện diện trong công đồng dân tộc nói riêng, công đồng nhân loại nói chung, và trước thềm thế kỷ 21 vẫn còn được kỳ vọng lưu giữ.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN

Chỉ người trong cuộc mới thấm thía tường tận căn nguyên phức tạp. Kẻ bàng quan khó biết đầy đủ các ân tình tế nhị. Tuy nhiên qua các khảo nghiệm, thăm dò, có thể nhìn thấy một số vấn đề.

A. NỘI TẠI : Vấn đề giữa đôi bạn

Có người nói “Bây giờ đám cưới với người yêu thì còn dễ, chớ sống với người yêu chưa chắc đã dễ”. Thật vậy. Bầu khí xã hội thay đổi, các rào cản ngày trước lần hồi mất thế, những ý niệm về tự do, bình đẳng, hạnh phúc cá nhân, quyền phụ nữ… làm biến đổi tâm thức con người. Nếu gọi đó là thăng tiến thì đồng thời cũng là thử thách.

Vị trí phụ nữ thay đổi thì liên hệ vợ chồng phức tạp hơn. Nữ giới hội nhập quá nhanh hoặc nam giới chưa kịp thích nghi đều có thể khơi tạo vấn đề.

Chẳng hạn, mặc dù đã biết “Sau khi thành hôn, cả hai vợ chồng đều có nhiệm vụ và quyền lợi bằng nhau trong tất cả những gì liên hệ đến đời sống chung” (GL 1135) và Dân luật Pháp (điều khoản 212-215) cũng ghi tương tự, nhưng thực tế có khi ít được lưu ý đưa tới tranh cải, bất hòa.

Bất đồng ý kiến liên quan đến.

1. Quyền hạn và trách nhiệm :

– từ những tiện nghi vật chất : quần áo, bàn tủ, lót gạch, trải thảm, mua nhà, mua xe… (không đồng ý vì cách chưng dọn, chọn màu, chọn kiểu, chọn nhản hiệu, chọn giá…).

– đến đời sống tinh thần của gia đình : chọn sách báo, giải trí, nghỉ hè, giáo dục con cái, sinh hoạt cộng đồng… (tự quyết, đặt bên kia trước sự đã rồi, hoặc buông xuôi, phó mặc).

2. Tiền bạc :

Trừ trường hợp cá biệt, thường cộng lương chung xài. Có thể gặp vấn đề vì bất đồng ý kiến về :

– quan niệm sống : thí dụ “lấy của che thân” khác với “lấy thân che của”, có sao hưởng vậy hay đầu tư sinh lợi…

– quyền tư hữu giữa vợ chồng : một đàng nghĩ lương là công sức riêng, tự tiện tiêu xài, người kia khỏi thắc mắc hạch hỏi. Đàng khác nghĩ đã thuộc về nhau thì mọi sự phải là của chung, nên cho nhau biết, từ những chi phí chính đáng và cả khi chợt hứng tiêu hoang. Nhiều lúc vấn đề không ở số tiền tiêu xài mà do thái độ cư xử.

3. Vấn đề tính dục :

Ngoài các lấn cấn kể trên, còn một lý do tế nhị, ít muốn đề cập, đó là vấn đề liên quan đến tình dục. Biết rằng đầu đời hôn nhân tràn đầy vui vẻ, nhưng tiện dịp cũng xin trình bày như một chuẩn bị tâm lý, dự phòng tương lai xa.

VỊ TRÍ TÍNH DỤC TRONG HÔN NHÂN

Nhu cầu tính dục có ở nam cũng như nữ. Tiết giảm hay buông thả là tùy người, tùy ảnh hưởng giáo dục, tùy cách sống và môi trường sống.

Cuộc sống vợ chồng thể hiện phần nào ý nghĩa của nhu cầu tính dục : yêu nhau tự hiến.

          Nhưng sau một quảng đời hôn nhân :

          vì quá bận rộn công việc làm ăn,

          vì cực nhọc lo âu cho con cái,

          vì điều kiện sinh sống,

          vì mệt mỏi, bệnh hoạn, tuổi tác ,

          vì miệt mài một thứ đam mê khác,

          vì lỗi lầm của người bạn đời…

          vợ hay chồng có thể hờ hửng hoặc từ chối việc gối chăn.

Khi nhu cầu tính dục không được đáp ứng, có thể trở thành vấn đề, cho chính đương sự, gia đình và những người chung quanh (tâm thần trống trải, cuộc sống kém hứng khởi, tội phạm liên quan đến tình dục, bất trung trong đời sống vợ chồng…).

Sự kiện nầy có tính cách tương đối, chỉ đúng với một số trường hợp. Không thiếu người biết tự chế sống quân bình.

Tuổi Hồi Xuân : được y khoa nhìn nhận. Cuộc thăm dò đăng trên báo Plein Vie tháng 11.1997, 84% người trên 50 tuổi cho rằng tính dục là điều kiện quan trọng để “bon équilibre”.

Tuổi hồi xuân là thời kỳ dễ phát sinh khủng hoảng tính dục. Sau những cực nhọc gầy dựng sự nghiệp (việc làm, nhà ở…) nuôi dạy con cái, đó là lúc được coi như thư thả, ổn định. Kinh nghiệm hơn khi trẻ, có tiền hơn hồi mới lớn nên dễ năng động và tích cực hơn trong mọi ý muốn. Vì thế, đây cũng là khoảng thời gian rất cần ý thức, cảm thông, nâng đỡ và trách

Ý thức rằng hôn nhân hạnh phúc không xa lìa tình yêu nam nữ. Nhưng gia đình không chỉ đơn thuần dựa trên tình yêu thể xác, vì dục cảm có thể suy giảm theo thời gian; còn gia đình dự phòng người nữ với trách nhiệm truyền sinh mà con cái – hệ quả của tình yêu – là mối dây liên kết vợ chồng.

Tình nghĩa cảm thông giúp nhau tỏ bày thẳng thắn, đồng ý chữa trị hoặc tiết chế, bằng các sinh hoạt lành mạnh hữu ích, thể hiện phong cách sống an nhiên tự tại.

XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ TÍNH DỤC

Thời nay, ngoài những cặp ly thân – ly dị, còn có những vợ chồng tuy vẫn sống chung một nhà nhưng mỗi bên hoặc một bên có liên hệ giao tình riêng tư. Chuyện ngoại tình không phải mới lạ song con số gia tăng đáng suy nghĩ. Chung thủy bây giờ cũng là một thử thách.

Mấy nguyên nhân giải thích :

          đời sống hôn nhân nhàm chán, không như ý.

          giao tiếp nhiều nên đâm ra so sánh.

          đi làm gặp đối tượng mới.

          bị cám dỗ bởi sắc, lợi, danh, tài…

          ảnh hưởng xã hội.

Với người đàn bà : ngoài lý do chồng có người khác, chồng không nâng đỡ, dùng quyền lực lấn áp, bạo hành, gần đây còn thêm : chồng không đáp ứng nhu cầu sinh lý.

ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI :

Tự do cá nhân được đề cao. Thân xác thuộc chủ quyền cá nhân nên toàn quyền trong vấn đề tính dục, đưa dần tới khuynh hướng dung túng tự do luyến ái.

Kỷ thuật y khoa tiến bộ, ngừa chữa phòng chống hiệu quả các bệnh chứng sinh dục. Công nhận ngừa thai và phá thai.

Tính dục được công khai luận bàn, được xem là bản năng sinh lý tự nhiên (hàm nghĩa không quan trọng việc tiết chế). Trào lưu duy-sinh-lý kết hợp vì nhu cầu thụ hưởng hổ tương, mơ hồ giữa lạc thú xác thân và tình yêu vợ chồng.

Thủ tục ly thân, ly dị dễ và nhanh hơn trước. Hôn nhân theo luật đời chỉ còn là khế ước pháp lý, có thể chấm dứt hợp đồng khi cảm thấy bị tù túng, mất tự do.

Với người đàn bà : ý niệm về hôn nhân và gia đình thay đổi : ít khoan nhượng chuyện chồng ngoại tình, tự do tự lập theo cơ chế xã hội, không nhất thiết phải có nhiều con để nương cậy tuổi già, “tỏ ra đòi hỏi nhiều hơn trong việc gối chăn” (Source INED, Figaro 28.2.1998).

Bằng ấy đổi thay làm cho xã hội lần hồi thay đổi cách nhìn, dễ chấp nhận chuyện ngoại tình (vì việc tự do riêng tư, của ai nấy biết), ly dị từ bị qui trách, dè bỉu đã trở thành căn chứng xã hội.

Sự biến thái này là một đe dọa, đồng thời cũng là một trăn trở của xã hội thời nay đối với gia đình.

B. NGOẠI TẠI : Vấn đề giữa đôi bạn và ngoại giới.

Đời sống không chỉ có hai ta, nên nhiều lúc vì những người chung quanh mà vợ chồng cũng mất vui.

1. Gia đình nội ngoại : không phải gia đình nào cũng gặp cảnh ông bà, cha mẹ, anh chị em gây tạo vấn đề cho đôi vợ chồng. Đa số thường được hai bên nội ngoại thương mến, đùm bọc, dìu dắt qua cơn hoạn nạn, chung vui xẻ buồn.

Bất đắc dĩ gặp vấn đề thì trong nhiều trường hợp không hẳn vì sự kiện xảy ra làm cho vợ chồng bất hòa, mà thường do thái độ tự ái lệch lạc, phản ứng theo cảm tính nhất thời của vợ hoặc chồng làm cho vấn đề trở thành trầm trọng, có khi đưa tới ly thân, ly dị hoặc bi thảm hơn, chọn cái chết để mong cảnh tỉnh vợ hoặc chồng.

Thẳng thắn nhìn nhận sự thật giúp đôi bạn dễ chịu đựng hơn vì thấy được cảm thông, chia xẻ.

Ngoài ra, vẫn còn một số gia đình lưu giữ ảnh hưởng Trung Hoa xưa, xem người vợ là “chiếc áo”, có thể thay đổi :

“Anh em cốt nhục đồng bào,

Vợ chồng như áo mặc vào cởi ra”.

Khác với tín điều Kitô giáo : “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người chẳng được phân ly” (Mt 19,1-9).

Vì thế, vợ chồng nên bàn thảo, phân định rõ ràng vị trí và giới hạn của đôi bên, thỏa thuận một cách thế hành xử hợp tình hợp lý để tránh mặc cảm mất mát, tranh giành.

2. Hoạt động ngoài gia đình : Vừa thể chất vừa tâm linh, vừa chung đời sống vừa chung trách nhiệm, tình vợ chồng keo sơn gắn bó, trổi vượt và khác biệt. Nhưng bên cạnh đó, còn tình bằng hữu, láng giềng, đồng nghiệp, đồng chí hướng… Nếu không được bạn đời chia xẻ, nếu không giữ đúng giới hạn, không cân phân cách thế hành xử, có thể tạo ra nghi kỵ, bất

Với người đàn bà : bên cạnh những thành công trong đời ai cũng muốn có một gia đình yên ấm. Ngay cả đàn bà Mỹ, theo báo chí được coi là “cấp tiến” nhất cũng đồng ý như vậy.

Theo “Người Việt Year Book” 1990 : Đàn bà Việt Nam ở Mỹ, thuộc thế hệ di dân thứ nhứt được xem như “thành công” trong việc hội nhập. Phụ nữ dấn thân nhiều hơn xưa, nhưng giới hạn ràng buộc bởi nam giới (đặc biệt bởi người chồng) vẫn còn. Tương đối dễ được chấp nhận trong các công tác xã hội, sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, giáo dục.
Người đàn bà thành công ngoài xã hội mà vẫn giữ được gia đình yên ấm không phải hoàn toàn do tài khéo của các bà xã, chính nhờ được ông chồng có tinh thần cởi mở, cảm thông, chia xẻ. Nói cách khác, người chồng giữ vai trò quyết định về sự thành công hài hòa của người vợ (trong gia đình và ngoài xã hội).

Xem thế, hoạt động ngoài gia đình với người vợ Việt Nam vô cùng tế nhị. Thành công cá nhân, niềm hãnh diện riêng tư không hẳn luôn luôn là hạnh phúc của gia đình; có khi còn đưa tới bất hòa, đổ vở. Mỗi thời điểm một công việc cần thiết, ưu tiên. Phải cân nhắc giữa công danh, sự nghiệp và hạnh phúc gia đình; sự lựa chọn lắm lúc rất xót xa và đó cũng là

IV. XÂY DỰNG GIA ĐÌNH

Lộ trình hôn nhân có ánh sáng hạnh phúc mà cũng có bóng tối buồn sầu. Để giảm thiểu các vấn đề trong đời sống hôn nhân, theo

A. THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC (Synode des Evêques) 1980 :

          “Gia đình cần phải có sự hiệp thông, tham dự và đối thoại”.

1. Hiệp thông trong ý thức

          a) Về hôn nhân gia đình :

“Dù tin tưởng chung một đời một mộng

Em là em, Anh vẫn cứ là anh” (Xuân diệu)

Do đó, hôn nhân là một lựa chọn ẩn tàng hy sinh. Không mấy khi đòi hỏi tức thời hy sinh mạng sống, nhưng “Yêu là chết trong lòng một ít”, mỗi bên đều phải trừ bớt tự do cá nhân, khoan nhượng liên lĩ cho đời sống chung triển nở như “từng ước từng mơ”.

b) Về bản chất khác biệt nguyên thủy : như quan niệm Kitô giáo, triết lý đông phương và khoa học nhìn nhận, như hai mặt của một đồng tiền, hai hàng sắt song hành của một tuyến đường rầy xe lửa, có nhau, cần nhau :

“Mình với ta tuy hai mà một

Ta với mình tuy một mà hai”.

Khác biệt nhưng không đối chọi, có thể đồng tình nhưng không đòi buộc đồng hóa, trái lại còn bổ túc cho nhau, cùng nhau đồng hành :

“Đôi ta lên thác xuống ghềnh

Em ra đứng mũi cho Anh chịu sào”

Hình ảnh xác định vị trí cần thiết của hai người để một cộng thể là con thuyền nhẹ nhàng tới bến bình yên.

2. Tham dự bằng hành động định hướng đời sống chung, bàn thảo, phác họa, tổ chức gây tạo bầu khí thuận lợi cho gia đình phát triển bình thường. Nói theo tục ngữ dân gian “thuận vợ thuận chồng” hay như nhà văn Saint Exupéry : “yêu nhau không chỉ nhìn nhau, nhưng cùng nhau nhìn về một hướng”

Theo ông John Gottman, giáo sư Tâm lý Đại học Washington (25 năm chuyên nghiên cứu các vấn đề của hôn nhân) thì tình bạn hỗ tương giữa vợ chồng là xi măng nối kết đôi bạn. Mỗi bên có thể thổ lộ với người bạn đời niềm ước mơ, hy vọng, nỗi lo âu, sợ hãi, sở thích v.v.

Vấn đề bà mẹ đi làm : Theo kết quả khảo sát của Đại học Wharton (Hoa Kỳ) : Số giờ làm việc không ảnh hưởng đến tính tình trẻ con. Chính tinh thần của bà mẹ mới quan trọng.

Nếu người mẹ thoải mái trong công việc ở sở, về nhà với tâm hồn thanh thản thì đứa bé lớn lên bình thường như người mẹ ở nhà.

Với bà mẹ không đi làm : ở nhà mà trí óc mệt mỏi, lo lắng, làm việc nhà trong uể oải, buồn chán thì kết quả cũng như người mẹ đi làm có tâm thần căng thẳng, âu lo. (Chân Văn, Thế Kỷ 21 tháng 9.1996)

Tuổi theo niên kỷ (năm sinh) không thay đổi những “tuổi sinh học” “tuổi tâm lý học” tác động bởi cách sống và cách nhìn cuộc đời.

Ngày nay, có khi ở cạnh nhau mà lặng lẽ, vội vàng, dường như thiếu thời giờ hỏi han, chăm sóc nhau, thiếu cảm thông trong những vất vả lo toan, những trống vắng tinh thần bất chợt…

Đời sống đầy đủ tiện nghi, dễ bị cuốn xoáy theo đà khuyến khích tiêu dùng, cung phụng cá nhân tự do hưởng thụ. Và cách sống nuông chìu ý thích cá nhân (cả khi gọi là giải trí tại gia bằng Tivi, video, sách báo, trò chơi điện tử, internet…) dễ trở thành thói quen khó bỏ, lần hồi đâm ra ơ hờ với gia đình, lạnh nhạt với họ hàng, làng xóm.

Khi các phần tử trong gia đình cảm thấy cô độc, bất an, bất mãn thì hoặc tự khép mình trong đơn lẻ muộn phiền, hoặc đi tìm lối thoát, hy vọng được lắng nghe, ước muốn gặp chia xẻ. Cả hai cách không chắc kết quả lúc nào cũng bình thường như ý, nhất là với tuổi trẻ.

Đừng quên hạnh phúc của đôi bạn cũng là hạnh phúc của gia đình. Theo thống kê, 75% người được hỏi đồng ý cả hai vợ chồng phải cùng chia xẻ trách nhiệm giáo dục con cái, cùng “đồng lao cộng tác” bởi vì đối với tuổi trẻ đời sống gia đình rất cần thiết (75%) và không thể thay thế (86%). (Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris tháng 2.1998).

Không “tề” được “gia” có thể góp phần vào khó khăn chung của xã hội. Phải chăng tác phong hung hăng, bạo động cũng là một hình thức phản kháng, đòi được chú ý, lắng nghe.

Làm sao để mỗi người trong gia đình tương quan tham dự, cảm nhận được tình thương vẫn âm thầm hiện hữu ngay cả lúc mà nếp sống tưởng chừng như tẻ nhạt, thụ động, nhàm chán. Đó là một trấn an trở nên cần thiết cho gia đình thời nay.

3. Đối thoại : Bầu khí gia đình sống động nhờ thói quen chia xẻ : nói lên và lắng nghe luân phiên về những vấn đề gặp thấy hằng ngày, từ vui buồn đến thắc mắc lo âu, cả khi phân vân trước cám dỗ, cạm bẫy mời gọi.

Theo Cha Olivier de Dinechin (chuyên viên thuộc Ủy Ban Mục Vụ Gia Đình Pháp) “cần phải nổ lực đối thoại” dẫu có khi chưa được trang bị đầy đủ để đối thoại.

Đối thoại cởi mở, thẳng thắn tỏ bày ý nghĩ để nhìn ra thực tế. Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng có ngay được sự đồng thuận. Nhưng với thời gian, với kinh nghiệm trường đời, và đặc biệt với thiện chí, có thể chuyển hóa những bất đồng thành cảm thông tương nhượng.

Đối thoại còn ngừa và chữa những bất hòa, tránh tình trạng lún sâu trong bất mãn, giận hờn. Một cuối tuần rảnh rỗi, một buổi tối thân mật, mấy ngày hè dạo chơi, giải trí… đều có thể thuận lợi cho việc đối thoại, cho sự diễn giải thuyết phục lẫn nhau dung hợp để cùng xây dựng tương lai gia đình. Đó là thể hiện nghĩa tình chân thật, sức mạnh cốt lõi san bằng tìn

B. VAI TRÒ TÔN GIÁO VÀ LUÂN LÝ

Truyền thống tôn giáo cũng như luân lý cổ võ khoan nhượng, làm hòa, nhắc nhở cái bất toàn của con người, khuyến khích hướng thượng. Chính nhờ thiện cản thủ đắc nên sau những giận hờn bất chợt, những đôi co khó tránh trong cuộc đời hôn nhân đăng đẳng, lương tâm thôi thúc mỗi người suy nghĩ lại để “ăn ở cho phải đạo”, cư xử cho phải lẽ.

Chọn đời sống thực hành đức tin cũng là cách định hướng cho gia đình sống lành mạnh, an hòa. Do đó những buổi tĩnh tâm, hành hương, những chương trình hội thảo về gia đình đều là dịp để nhìn lại chính mình, để cải thiện, vun bồi hay để thêm sức chịu đựng giữ lời thề hứa bất khả phân ly của ngày đám cưới.

Ở đây vẫn ngọn trúc xanh, vẫn hoa vạn thọ, vẫn hát quan họ, vẫn điệu thương hồ… như cái phong thái gia đình Việt Nam vẫn bàng bạc trong cộng đồng với ít nhiều thay đổi hiển nhiên theo môi trường sinh sống. Và con người có khả năng sinh động, gạn lọc, chọn ước muốn bảo vệ hôn nhân là điểm sáng cốt lõi lương tâm dành cho gia đình : Hạnh Phúc Hôn Nhân.

Ông Baden Powell, người khai sáng Phong Trào Hướng Đạo nói : “Sự thành công đích thực duy nhất trong cuộc đời là sống hạnh phúc”.

Cầu chúc các Anh Chị thành công như vậy.

Đặc biệt chúc các Chị là sức sống, không chỉ sức sống thể chất mà là sức sống của gia đình, của xã hội, sống với sự cảm thông, nâng đỡ của người chồng quảng đại, sẵn sàng nhìn nhận vị thế của vợ mình trong xã hội ngày nay.

Chúc mỗi gia đình là “Gia Đình, Hồng Ân, Dấn Thân và Hy Vọng cho nhân loại”

Nữ G. S. Tạ Thanh Minh Khánh, Paris