Triết Lý với… Khỉ

95

Một năm mới lại bắt đầu. Năm nay, 2016, là năm Bính Thân, năm cầm tinh con Khỉ – một loài động vật khéo bắt chước và hay làm trò cười, người ta gọi là “trò khỉ”.

Chuyện kể rằng…

indexSau khi chết, con khỉ nọ liền đi gặp Diêm vương để xin kiếp sau được làm người. Diêm vương nói như một mệnh lệnh: “Muốn làm người, ngươi phải nhổ hết lông trên thân thể của ngươi”.

Nói xong, Diêm vương kêu lũ quỷ đè khỉ ra mà nhổ long. Mới bị nhổ một sợi lông, con khỉ la lên: “Đau chết đi được!”. Nghe vậy, Diêm vương cười to và nói: “Một sợi lông mày cũng không muốn nhổ, làm sao làm người được chứ?”.

Vâng, làm người thật khó, không dễ chút nào. Sống đúng con người lại càng khó hơn. Con khỉ phải nhổ hết lông mới có thể làm người, chúng ta cũng phải nhổ hết các sợi lông thói hư và tật xấu thì mới nên người. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã bắt chúng ta nhổ hết lông để nên người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26). Có vậy thì mới nên hoàn thiện và nhân từ như Thiên Chúa Cha được.

Từ bỏ chính mình thật khó. Vì phải bỏ biết bao thứ liên quan Mắt, Tai và Miệng – chưa kể đến Óc, Tim, Tứ Chi,… Nhưng phải bỏ, vì đó cũng là triết lý của năm mới: Tống cựu, nghinh tân – bỏ cái cũ nếu nó xấu, đón cái mới nếu nó đẹp.

Trình thuật Mc 7:31-37 cho biết việc Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng. Tình trạng điếc liên quan TAI, tình trạng ngọng hoặc câm liên quan MIỆNG, tình trạng đui mù liên quan MẮT. Trình thuật Mc 8:22-26 cho biết Chúa Giêsu đã chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa. Còn trình thuật Mc 10:46-52 (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43) cho biết Chúa Giêsu đã chữa lành một người mù tại Giê-ri-khô. Và rồi Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót mà chữa lành họ: “Ép-pha-tha!” (Εφφαθα – Hãy mở ra!).

Bị tình trạng “ba không” như vậy thì thật là khổ, ở đây là dạng “ba không thụ động”. Tuy nhiên, trong cuộc sống có những khi chúng ta cần phải biết “ba không chủ động”. Dạng “ba không chủ động” còn có dạng tích cực và tiêu cực. Tình trạng “ba không” này gợi nhớ tới bộ Khỉ Tam Không: Một con khỉ bịt tai, một con khỉ bịt mắt, và một con khỉ bịt miệng. Tức là không nghe, không nhìn, và không nghe.

Ba hình tượng đó cũng nhắc nhở chúng ta về cách sống vô cảm: Sống an phận, mặc kệ những gì đang xảy ra xung quanh, và người ta gọi đó là những người theo quan niệm “mackeno” – tức là “mặc kệ nó”. Tuong tự câu người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Ai sao mặc ai, miễn sao mình “khỏe re” là được!

Giữa cuộc đời đầy các điều thị phi và nhiễu nhương này, nếu cứ “an phận” và vô cảm như vậy thì xã hội sẽ đi đến đâu, còn gì là tình người? Và nếu cứ bịt tai, bịt mắt, bịt miệng như thế cả cuộc đời, cuộc sống còn gì là thú vị? Là Kitô hữu thì không thể và không có quyền sống vô cảm, nghĩa là phải biết yêu thương, biết chạnh lòng trắc ẩn, biết thể hiện lòng thương xót như Chúa Giêsu đã sống.

Người ta cho rằng bức tượng “Khỉ Tam Không” này có nguồn gốc Ấn độ từ vài ngàn năm trước. Nguyên là bức tượng Thần Vajrakilaya, vị thần có 6 tay, mỗi đôi tay dùng để bịt hai mắt, hai tai và hai miệng. Có ý khuyên răn người ta “không nhìn bậy, không nghe bậy, và không nói bậy”.

Sau đó, vào khoảng thế kỷ VIII, đời nhà Đường (Tang Dynasty), một thiền sư người Nhật đến Trung hoa và đã mang theo tư tưởng này về Nhật. Tại Nikko (cách Tokyo chừng 140 cây số về hướng Bắc), ở đền Toshogu hiện nay còn lưu giữ một bức điêu khắc cổ là ba con khỉ với ba tên là Mizaru, Kikazaru và Iwazaru. Từ “zaru” gần giống âm với “saru” – nghĩa là con khỉ, nên người ta khắc hình ba con khỉ bịt mắt, bịt tai, bịt miệng với vẻ mặt ngộ nghĩnh để biểu thị cho triết lý sống này. Bức tượng gỗ này của nghệ nhân Hidari Jingoro nổi tiếng từ thế kỷ XVII.

Con che mắt tên là Mizaru – nghĩa là “tôi không nhìn thấy điều xấu”, con bịt tai là Kikazaru – “tôi không nghe những điều xấu”, con bịt miệng là Iwazaru – nghĩa là “tôi không nói điều xấu”.

Điều này cũng mang tư tưởng của Khổng Tử. Sách Luận Ngữ cho biết rằng khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân và những điều gì cần phải làm, Khổng Tử đáp: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” – nghĩa là “không nhìn điều sai, không nghe điều bậy, không nói điều trái, không làm điều quấy”.

Tuy nhiên, người Nhật thâm ý hơn nhiều: “Bịt mắt để dùng TÂM mà nhìn, bịt  tai để dùng TÂM mà nghe, bịt miệng để dùng TÂM mà nói. Khi TÂM ở trạng thái “tịnh”, không bị quấy rầy bởi những điều xấu thì từ TÂM mới phát sinh những điều “thiện”, dùng cái TÂM thiện mà nói. Cái TÂM rất quan trọng: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI” (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Nhờ có “tâm” mà người ta không nói những lời không tốt, những lời làm đau khổ người khác, hoặc những lời làm chết người.

Tư tưởng trên được danh nhân Mahatma Gandhi (1869-1948) áp dụng làm phương châm trong đời sống và trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ. Lúc nào ông cũng mang theo bên mình hình tượng bộ khỉ tam không như lời nhắc nhở vậy. Người ta diễn đạt triết lý “Tam Không” theo cách khác: “Có người thấy và nói ra nhưng họ không bao giờ nghe theo những gì người khác nói; có người không bao giờ thấy bất cứ gì, nhưng họ nghe người khác và nói ra; có người nghe và thấy nhiều việc nhưng họ không bao giờ nói ra hết”.

Theo triết lý Đông phương, mọi sự vật trong đời đều bị chi phối bởi triết lý Âm Dương tương phản. Động thái của ba con khỉ có thể nói lên tính chất tương phản của luật âm dương trong cuộc sống hằng ngày.

Hình ảnh “Khỉ Tam Không” nhắc nhở về tầm quan trọng của “tâm viên, ý mã” trong phép thiền. Tâm của chúng ta như con khỉ, ý của chúng ta như con ngựa. Người ta phải biết kiểm soát cái tâm vọng động, chẳng khác gì con khỉ chạy lăng xăng. “Tâm viên, ý mã” là tâm lăng xăng như loài khỉ, và ý hướng loạn động như loài ngựa. Loài khỉ thường hay nhảy nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành cây này sang cành cây khác, lại hay phá phách, bắt chước, thế nên người ta thường nói “liếng khỉ”. Loài ngựa cũng thích chạy lung tung nên người ta phải đóng móng và tra hàm thiếc cho ngựa, nếu không thì “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”.

Tâm người ta không khi nào được yên, cứ lăng xăng, lộn xộn, suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, từ quá khứ đến hiện tại, tương lai, đó là “tâm viên, ý mã”. Loại “tâm” này đưa người ta đến loạn động, phát sinh đủ thứ phiền não, nếu không tu thân thì không thể vững chắc như chiếc kiềng ba chân. Thật vậy, tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, ta đây vẫn vững như kiềng ba châm”.

Triết lý “tam không” cũng không xa rời Kinh Thánh, vì trong Kinh Thánh cũng có những chuyện liên quan Mắt, Tai và Miệng.

MẮT. Chúa Giêsu chữa lành người mù, nhưng Ngài nói về sáng mắt là Nhóm Phe-ri-sêu: “Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Mt 15:14). Những người tưởng mình sáng mà lại mù. Họ sáng mắt thể lý như mù mắt tâm linh! Thế nhưng tác giả Thánh Vịnh đã khôn khéo cầu xin: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (tv 119:18).

 

TAI. Kinh Thánh nhiều lần cảnh báo: “Ai có tai thì nghe!” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9). Khi khốn cùng, tác giả Thánh Vịnh than thở: “Phần con, như kẻ điếc chẳng nghe gì, tựa người câm, không hề mở miệng” (Tv 38:14). Còn Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 4:11). Có tai thì phải biết nghe, nghe rồi thì phải giữ chứ đừng nghe tai này lọt qua tai kia. Chúa Giêsu xác định: “Ai giữ lời tôi thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8:51).

 

MIỆNG. Thánh Giacôbê phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26). Thần khẩu hại xác phàm – cái miệng hại thân xác. Không kiềm chế lời nói là đạo đức hão – tức là giả hình. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Môi miệng chúng chẳng có gì thành thật, lòng dạ đầy chước độc mưu thâm. Cửa họng chúng như nấm mồ mở rộng, khéo đẩy đưa ba tấc lưỡi phỉnh phờ” (Tv 5:10). Và tác giả Thánh Vịnh than vãn: “Kẻ thù con lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạn khinh đời” (Tv 17:10).

Người ta phải học triết lý sống từ những gì cơ bản nhất: học ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ. Và rồi còn nhiều thứ khác phải học – học suốt đời, học đến chết vẫn chưa hết, thậm chí có những điều vẫn không thông: yêu thương và tha thứ. Khó thật! Khi nhỏ, chúng ta học cách nói; càng lớn chúng ta càng phải học cách giữ im lặng. Khó lắm!

Có lẽ khó nhất là “giữ miệng”, thế nên tác giả Thánh Vịnh đã cầu xin: “Xin canh giữ miệng con, lạy Chúa, và trông chừng lưỡi con” (Tv 141:3).

TRẦM THIÊN THU