Xem ra những vấn đề của ‘quý tu sĩ nam nữ’ thường không có liên can cho lắm với những linh mục ‘triều’, đặc biệt những vấn đề liên quan đến linh đạo, đời sống, sứ mạng, có chăng chỉ là những liên hệ trong công việc mục vụ và truyền giáo…, hay đúng hơn, ‘quý cha triều’ không muốn và không thích quan tâm đến lãnh vực xem ra quá phức tạp và đa dạng mà không ai có thể nắm bắt một cách tương đối thỏa đáng. Cứ nhìn con số các dòng tu, màu sắc của các tu phục, hay đọc lịch sử và linh đạo cũng như đời sống của các dòng tu trong lịch sử giáo hội thì đúng đây là – nói theo một câu chuyện vui được nhiều người biết – một trong những điều mà cả Đức Chúa Trời cũng không biết! Và thường các linh mục triều chọn thái độ ‘đứng xa xa’, ít quan tâm, dững dưng như thể chuyện của ‘nhà hàng xóm’ trong gia đình giáo hội. Nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô xác quyết “Năm Của Đời Sống Thánh Hiến không chỉ nhắm vào các người thánh hiến mà thôi, nhưng nhắm tới toàn thể Giáo hội. Như thế Cha ngỏ lời với tất cả dân Kitô để họ luôn ý thức hơn về ơn như là sự hiện diện của biết bao nhiêu người thánh hiến Nam Nữ, kẻ thừa kế các vị Thánh vĩ đại là những vị đã làm ra lịch sử của Kitô Giáo…. Chân phước Phaolô VI đã nói: “Nếu không có dấu chỉ cụ thể này, đức mến hun nóng toàn Giáo hội có nguy cơ sẽ nguội đi, sự nghịch lý cứu độ của Tin mừng sẽ cùn đi, “muối” đức tin sẽ hoà tan trong một thế giới trên đường tục hóa” (Evangelica testificatio, 3)”[1].
Giáo phận chúng ta chọn chủ đề ‘Đời Sống Thánh Hiến trong nhãn quan Mục Vụ và Truyền Giáo” cho chương trình thường huấn năm 2015 của các linh mục trong giáo phận cũng trong ý hướng cùng đồng hành và cử hành với toàn thể giáo hội Năm Thánh Đời Sống Thánh Hiến trong hoàn cảnh và môi trường cụ thể, đặc thù của giáo phận nhà. Xin được góp phần với những đề tài nghiên cứu học hỏi, được quý Đức Cha, quý cha trình bày, bằng một ít suy tư mang tính cách cảm nghiệm hơn là học thuật.
GIÁO HUẤN ĐỂ QUY CHIẾU
Đời sống thánh hiến trong nhãn quan mục vụ và truyền giáo của giáo hội, hay cụ thể hơn trong công cuộc tân phúc âm hoá của giáo hội, đã được nhấn mạnh và đào sâu trong những văn kiện và giáo huấn của giáo hội về đời sống thánh hiến trong suốt thời gian từ Công Đồng Chung Vatican II cho đến những năm cuối của thế kỷ trước và những năm bắt đầu vào thiên niên kỷ mới.
Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata) về đời sống thánh hiến (25.3.1996), được trình bày trong ba chương: Confessio Trinitatis (Tuyên xưng Chúa Ba Ngôi): Đời sống Thánh Hiến trong nguồn mạch mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Signum Fraternitas(Dấu chỉ huynh đệ): Đời Thánh Hiến, dấu chỉ hiệp thông trong Giáo hội, và Servitium Caritatis (Phục vụ của Đức Ái): Đời Thánh Hiến bày tỏ tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, đã trình bày những yếu tố và một giai đoạn mang tính quyết định trong lịch sử của đời sống thánh hiến, được hình thành để đào sâu và hiện thực những giáo huấn của Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Ðời Sống Dòng Tu (Perfectae Caritatis) của Công Đồng Chung Vatican II. Chương 3, Servitium Caritatis (Phục vụ của Đức Ái): Đời Thánh Hiến bày tỏ tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, từ số 72 đến 103, đưa ra những ý nghĩa, đòi hỏi, cũng như những thách thức cho đời thánh hiến trong công cuộc Phúc Âm hoá. Đồng thời, đưa ra những viễn tựợng rộng lớn và nhấn mạnh về tầm quan trọng của sứ vụ ngôn sứ của những người sống đời thánh hiến trong công cuộc tân Phúc Âm hoá, đặc biệt Phúc Âm hoá các nền văn hoá. Các số 84-95 đã được dành để nói về đặc tính ngôn sứ của đời tận hiến, với những yêu sách của nó. “Các nghị phụ tại Thượng hội đồng đã nhấn mạnh nhiều đến tính ngôn sứ của đời thánh hiến, được trình bày như một cách tham gia đặc biệt vào chức vụ ngôn sứ của Đức Ki-tô mà Thánh Thần đã ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Tính ngôn sứ đó gắn liền với đời thánh hiến, bởi lẽ nó thúc bách bước theo Chúa Ki-tô đến cùng, và được kêu mời dấn thân thi hành sứ mạng đặc thù của người tận hiến. Công Đồng Va-ti-ca-nô II công nhận đời tận hiến có phận sự làm dấu chỉ (217), chứng tá có tính ngôn sứ về vị thế tối thượng của Thiên Chúa và của những giá trị Tin Mừng trong đời sống Ki-tô hữu. Chính do vị thế trổi vượt đó, không có gì đáng kể hơn là mối tình dành riêng cho Đức Ki-tô và cho những người nghèo mà Đức Ki-tô đang sống trong họ (218)”[2]. Những giáo huấn này của tông huấn vẫn còn tiếp tục là giáo huấn được phổ biến và đào sâu nhất về chủ đề này.
Năm năm sau, ngay sau khi kết thúc Đại Năm Thánh 2000, ngày 19 tháng 5 năm 2002, thánh bộ Đời Sống Thánh Hiến và Hiệp Hội Tông Đồ ra Huấn Thị: Xuất phát lại từ Đức Kitô: Canh tân cam kết sống đời Thánh Hiến trong ngàn năm thứ ba, đúc kết của hội nghị của thánh bộ để duyệt lại chương trình sống và làm chứng của đời sống thánh hiến theo tông huấn Đời Sống Thánh Hiến, đồng thời đề ra viễn tượng cho đời thánh hiến trong ngàn năm mới, với những điểm nhấn đặc biệt về hoàn cảnh và điều kiện hiện tại của xã hội và giáo hội. Huấn thị được tóm tắt như sau: “Khi nhìn nhận các kinh nghiệm phong phú mà đời sống thánh hiến trải qua trong Giáo hội hiện nay, Hội nghị muốn bày tỏ lòng biết ơn và quý mến sâu xa đối với căn tính và hoạt động của đời sống thánh hiến (phần I). Hội Nghị không làm ngơ trước những khó khăn, thử thách và thách đố mà những người tận hiến hôm nay đang trải qua, nhưng xem đó như một thời cơ mới để khám phá lại một cách sâu xa hơn ý nghĩa và phẩm chất của đời sống thánh hiến (phần II). Thách đố lớn nhất là một sự dấn thân mới trong đời sống thiêng liêng, bằng cách xuất phát lại từ đức Ki-tô qua việc gắn bó với Tin Mừng và sống linh đạo hiệp thông theo một cách thức duy nhất (phần III). Cuối cùng, Hội nghị muốn đồng hành với các người thánh hiến trên các nẻo đường của thế giới, nơi Đức Ki-tô đã đi qua và hôm nay vẫn còn hiện diện, nơi Giáo hội công bố Ngài như là Đấng Cứu Tinh của thế giới, nơi sự sống Ba Ngôi toả lan sự hiệp thông trong một sứ mạng mới (phần IV)”[3]. Và lời mời gọi đầu tiên huấn thị là lời mời gọi hoán cải và canh tân chiều kích ngôn sứ của đời thánh hiến: ‘Những biến cố bi thảm xảy ra trên thế giới trong những năm gần đây chắc chắn đã làm bùng lên những vấn nạn mới và trầm trọng hơn thêm vào những vấn nạn hiện có, phát sinh từ một xã hội toàn cầu hoá. Một xã hội với những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực trong đó “không chỉ toàn cầu hoá kỹ thuật và kinh tế, mà cả nỗi bất an và lo sợ, tội ác và bạo lực, bất công và chiến tranh”. Trong bối cảnh đó, các người thánh hiến được Thánh Thần mời gọi hoán cải không ngừng để chiều kích ngôn sứ của ơn gọi mang lấy một sinh lực mới. Thật vậy, khi họ “được mời gọi dâng hiến cuộc đời để phụng sự Nước Thiên Chúa, bằng cách từ bỏ mọi sự và noi gương nếp sống của Chúa Giê-su Ki-tô sát hơn, họ đảm nhận vai trò giáo huấn quan trọng nhất cho toàn thể Dân Thiên Chúa”[4].
Với những phát khởi từ Công Đồng Chung Vaticanô II, các Đức Thánh Cha gần đây đã đưa Tân Phúc Âm Hoá làm đường hướng và nổ lực trọng yếu của đời sống giáo hội với hai định hướng rõ rệt: Tân Phúc Âm Hoá chính đời sống, và trong công cuộc mục vụ và truyền giáo của giáo hội. Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, vào ngày lễ thánh Mátthêô 21 tháng 9 năm 2010, với tự sắc Ubicumque et Semper, đã thành lập Hội đồng Giáo Hoàng lo thúc đẩy việc Tân Phúc Âm Hóa. Và vào năm 2012, Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa thường niên XIII được triệu tập với đề tài “Tân Phúc Âm Hóa nhắm đến việc truyền đạt đức tin”. Trong sứ điệp gửi dân Chúa sau khi kết thúc Thượng Hội Đồng, các nghị phụ viết về đời sống thánh hiến trong số 7: “Có những chứng nhân đặc biệt trong Giáo hội và trong thế giới về chân trời đời sau của cuộc sống con người, họ là những người Chúa kêu gọi sống thời thánh hiến, một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Chúa trong việc thực thi đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, họ là dấu chỉ một thế giới mai hậu tương đối hóa mọi thiện hảo đời này. Thượng HĐGM này cám ơn các anh chị em vì lòng trung thành với ơn gọi của Chúa và vì sự đóng góp đã và đang dành cho sứ mạng của Giáo hội; Thượng HĐGM cũng nhắn nhủ các anh chị em ấy hãy hy vọngtrong những hoàn cảnh không dễ dàng đối với họ trong thời đại biến chuyển ngày nay; chúng tôi cũng mời gọi anh chị em trở thành những chứng nhân và là những người cổ võ công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng trong các môi trường khác nhau của cuộc sống mà đoàn sủng của mỗi hội dòng đặt họ vào”[5]. Sứ vụ chứng nhân và ngôn sứ của đời sống thánh hiến một lần nữa được nhấn mạnh và kêu gọi canh tân, đào sâu để đáp ứng những nhu cầu của công cuộc tân Phúc Âm hoá của giáo hội.
Vào ngày 24 tháng 11 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố tông huấn đầu tiên của mình, tông huấn được mang tên “Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng)”, khai triển chương trình loan truyền Tin Mừng của triều đại ngài trong thế giới hiện nay. Về nền tảng, nội dung của tông huấn không mới mẻ, vì những nguyên tắc và những điểm chính yếu được đề ra trong tông huấn chúng ta có thể tìm gặp trong những tài liệu giáo huấn khác của giáo hội về loan báo, về Phúc Âm hoá, hay về truyền giáo; cái mới là môi trường và trạng huống mới (hậu tân thời), những thách thức mới và những vấn nạn mới về ý nghĩa mà con người ngày nay đặt ra về đức tin, và điểm mới mẻ của tông huấn là phương thức loan báo cụ thể và hiệu quả mà Đức Thánh Cha khuyến khích, “niềm vui”, loan báo với niềm vui để làm cho nội dung của lời loan báo đáng tin hơn, nội dung muôn đời bất biến là chính Đức Kitô và ơn cứu rỗi của ngài. Điều mới mẽ của tông huấn là những ưu tiên và khẩn thiết mà Đức Thánh Cha muốn nêu lên với giáo hội hiện nay, dựa trên những gì đang xảy ra trong giáo hội những năm vừa qua. Rõ ràng là tông huấn Niềm Vui Tin Mừng được liên kết chặt chẽ với kết quả của Thượng hội đồng Giám Mục về “Tân Phúc Âm hoá để loan truyền đức tin Kitô giáo” kết thúc vào 28 tháng Mười, năm 2012, với 58 đề nghị lên Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, mà tông huấn đã trích dẫn 30 lần. Trong những đề nghị này các nghị phụ nói lên bản chất của công cuộc tân Phúc Âm hoá, nội dung, và những giải pháp mục vụ cho hoàn cảnh hiện nay và cho những tác nhân của sứ vụ này. Đức Thánh Cha dùng những nội dung này để trình bày và lồng vào một cái nhìn mới. Thêm vào đó, chúng ta cũng có thể nhận ra trong tông huấn này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Đức Thánh Cha Phaolô VI với hai tông huấn Gaudete in Domino, Evangelii nuntiandi, và của Đức Thánh Cha Bênêđíctô, trong tông thư công bố năm Đức Tin Porta fidei ngài đã dùng chữ “niềm vui’ 10 lần, và lời mời gọi bước vào công cuộc tân Phúc Âm Hoá để khám phá lại niềm vui của việc tin và sự nhiệt thành trong việc thông truyền đức tin. Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng không đề cập trực tiếp và minh thị về đời sống thánh hiến, nhưng tinh thần nền tảng của tông huấn cũng bao gồm những khía cạnh cốt lõi của đời sống thánh hiến giúp để những người sống đời thánh hiến cải cách phương thế Phúc Âm Hóa chính đời sống và công cuộc truyền giáo của Giáo hội.
Qua Tông thư gửi tất cả các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến, vào ngày lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ (22.11.2014), Đức Thánh Cha Phanxicô đã phát thảo ý nghĩa, chương trình và mục tiêu của Năm Đời Sống Thánh Hiến (30.11.2015 đến 2.2.2016). Phần đầu của tông thư như một ‘examen’ của cuộc linh thao, Đức Thánh Cha mời gọi các người sống đời thánh hiến nhìn về quá khứ với lòng tạ ơn, về hiện tại với nhiệt tâm và say mê, và về tương lai với niềm hi vọng. Với những mục tiêu đó, trong phần tiếp theo ngài đề ra 5 thao thức cho đời thánh hiến: sống niềm vui, sống ngôn sứ, sống hiệp thông, ra khỏi chính mình và lắng nghe tiếng của Chúa Thánh Thần và những nhu cầu của thời đại. Và trong phần cuối ngài ngỏ lời với toàn thể giáo hội, với giáo dân, những tu sĩ thuôc các tôn giáo lớn, các giám mục và những người thánh hiến thuộc các giáo hội ngoài Công Giáo. Như Đức Thánh Cha đã loan báo trước trong đại hội Liên hiệp các Bề Trên Tổng Quyền lần thứ 82 nhóm họp tại Roma vào ngày 29.11.2013, là năm 2015 sẽ là Năm Đời Sống Thánh Hiến, và chủ tâm của ngài cho năm này là để đời sống thánh hiến ‘đánh thức thế giới’. Ngài muốn Năm Đời Sống Thánh Hiến là một cơ hội để tái khám phá, làm chứng và trình bày cho thế giới và cho giáo hội, đặc biệt cho những người trẻ, niềm vui, vẻ đẹp của đời thánh hiến, được phát sinh như là ân huệ quý giá của Chúa Thánh Thần cho giáo hội. Nếu giáo hội hôm nay đang tìm cách phục hồi sự tươi mát của Phúc Âm và sức mạnh cũng như đời sống đức tin của giáo hội tiên khởi, nói cách khác, là tất cả mọi tín hữu người được mời gọi tìm về nguồn cội của chính giáo hội, thì đối với các tu sĩ, “những người nam và nữ có thể đánh thức thế giới và soi sáng tương lai”, vì họ đã chọn theo sát Chúa Kitô, lời mời gọi này càng khẩn thiết hơn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thúc đẩy mạnh mẽ trong phần mở đầu của tông thư, khi ngài trích tông huấn Đời Sống Thánh Hiến: “Các con không chỉ có một lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết lên! Hãy nhìn về tương lai, nơi mà Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với các con những điều trọng đại hơn nữa” (số 110). Và ngài thao thức: “tôi ước mong rằng anh chị em sẽ “đánh thức thế giới”, bởi vì đặc trưng của đời sống thánh hiến là tính ngôn sứ. Như tôi đã nói với các bề trên tổng quyền: “tính cách triệt để không chỉ dành riêng cho các tu sĩ, nhưng là điều đòi hỏi hết mọi người. Nhưng các tu sĩ đi theo Chúa một cách đặc biệt, đó là cách thức ngôn sứ”. Ðây là điều đòi hỏi ưu tiên: “những ngôn sứ chứng tá cho Ðức Giêsu đã sống ở thế giới này … Một tu sĩ không bao giờ được khước từ tính ngôn sứ” (29-11-2013)[6].
TÍNH NGÔN SỨ HIỆN NAY CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Đức Thánh Cha Phanxicô trong khi mở ra Năm Đời Sống Thánh Hiến đã mời gọi những người tận hiến “đánh thức thế giới” bằng chính đặc tính ngôn sứ trong đời sống chứng tá và lời rao giảng của mình trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng của giáo hội.
Từ công đồng Vatican II, từ ngữ ‘ngôn sứ’ (tiên tri) đã trở thành từ ngữ được dùng thường ngày cả bên trong lẫn bên ngoài giáo hội. Nó thường đươc áp dụng cho tất cả những gì chối từ một hệ thống quyền lực hay thống trị, hay để chỉ về những ai đang dấy lên những cuộc đấu tranh cho công lý, đang đứng về phía người nghèo; và sau cùng chỉ về những người đang sống cảm nghiệm về Thiên Chúa một cách sâu xa để loan báo sứ điệp giải phóng của Đức Kitô dưới nhiều hình thức khác nhau. Tất cả những lối hiểu này chỉ phản ánh một phần ý nghĩa của một ngôn sứ theo Thánh Kinh, vì nó gồm tóm trong chính nó tất cả những khía cạnh khác biệt trên. Do đó, ngôn sứ là người xuất phát từ những khó khăn trăn trở của hiện tại, khám phá ra Thiên Chúa như một Hữu Thể sống động, và nhờ cảm nghiệm này soi sáng, biết chiêm niệm về những biến cố trong lịch sử, phân định nó, và lớn tiếng nói lên ý nghĩa của nó, những yêu cầu và thúc bách của Thiên Chúa, và những lời kết án con người.
Công đồng Vatican cũng nhắc nhở rằng tất cả mọi Kitô hữu, nam cũng như nữ, khi đã lãnh bí tích ra tội, cùng thông chia chức vụ tư tế, vương đế và ngôn sứ của Chúa Kitô: “Chúa Kitô, vị Tiên Tri cao cả, Ðấng đã dùng chứng tá đời sống và sức mạnh của lời nói để công bố Nước Chúa Cha; Người chu toàn chức vụ tiên tri, cho đến lúc sự vinh hiển của Người tỏ ra trọn vẹn; Người chu toàn chức vụ đó không những nhờ hàng giáo phẩm, là những người nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy nhưng cũng nhờ các giáo dân; sở dĩ Người đã đặt họ làm chứng nhân, đồng thời ban cho họ cảm thức đức tin và ơn dùng ngôn từ nữa (x. CvTđ 2,17-18; Kh 19,10) là để sức mạnh Phúc Âm sáng ngời trong đời sống thường ngày, trong gia đình và ngoài xã hội.[7] Chiều kích ngôn sứ được diễn tả cả cá nhân và tập thể trong giáo hội. Lịch sử giáo hội in dấu những ngôn sứ loan báo kế hoạch, chương trình của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng chính cuộc sống, và từ khước mọi điều chống lại kế hoạch đó. Những người tận hiến nói chung là những người sống đời theo Chúa Giêsu với đặc tính ngôn sứ. Tự nguồn gốc, các tu sĩ đặt trọng tâm vào sự tuyệt đối của Thiên Chúa và Nước Ngài, và với chính đời sống của mình, họ biến đổi những dấu chỉ của sự hiện diện của Ngài trong dòng lịch sử.Lumen Gentium đã xác quyết tính cách ngôn sứ của đời tận hiến biểu trưng, tiên báo, bày tỏ, trình bày, và loan báo về thực tại Nước Trời, và “việc khấn giữ các lời khuyên của Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô hữu”[8].
Cũng cần nhớ lại rằng trong giáo hội, trong quá khứ cũng như hiện tại, luôn có khuynh hướng định chế hóa hay giáo sĩ trị một cách quá đáng trong đời sống tu trì, và thiếu vắng sức mạnh ngôn sứ. Nhưng đồng thời cũng cẩn trọng và lưu ý rằng không thể đánh giá mọi thái độ phản kháng là mang tính ngôn sứ.
Khi suy tư về chiều kích ngôn sứ của đời thánh hiến, điều quan trọng chúng ta đừng quên là mọi tín hữu đều thông chia chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô. Cũng cần phải tránh không quá cứng nhắc trong quan niệm hay quá dể dãi trong giải thích về ơn gọi ngôn sứ của tu sĩ. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata) đã dành các số 84-95 để nói về đặc tính ngôn sứ của đời tận hiến, với những yêu sách của nó, đứng đầu là sự kết hiệp thân tình với Chúa (số 74 ; 84). Từ đó nảy sinh nhu cầu phải củng cố đời sống tâm linh, đặc biệt là khổ chế và cầu nguyện (số 38), và các phương thế tu đức cổ điển : đọc Lời Chúa trong tinh thần cầu nguyện (lectio divina), lãnh các bí tích đứng đầu là Thánh Thể, cử hành các giờ kinh phụng vụ, sám hối (số 94-95 ; 103). Tài liệu này cũng xác quyết là tính ngôn sứ chân thực phát xuất từ Thiên Chúa và tình thân hữu với Ngài, từ việc lắng nghe Lời Ngài trong những trạng huống khác nhau của lịch sử. Mặc khác, nó bao gồm việc tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa, sự hiệp thông trong giáo hội, việc phân định thiêng liêng và tình yêu sự thật. Nó còn được thể hiện qua việc chối từ tất cả những gì đối nghịch với chương trình của Thiên Chúa, và trong tính cách sáng tạo trong việc hội nhập Phúc Âm vào các nền văn hóa và vào lịch sử.
1. Chứng từ ngôn sứ của việc đi theo Chúa Giêsu
Nhờ bí tích rửa tội, mọi tín hữu đều cộng tác để xây dựng Nước Trời. Mọi người được mời gọi như đoàn dân ngôn sứ để loan báo Phúc Âm hay phân định tiếng Chúa trong dòng lịch sử. Loan báo ở đâu có sự hiện diện của Thần Khí của Ngài. Tố cáo đâu là hoạt động của sự dữ qua những sự kiện hay cấu trúc làm cản trở việc tham gia huynh đệ hơn trong việc xây dựng xã hội và tận hưởng những gì thiện hảo mà Thiên Chúa tạo dựng cho mọi người.
Người tu sĩ, cũng là tín hữu đã được rửa tội, đã được thánh hiến cho Chúa và được Ngài trao phó sứ vụ ngôn sứ. Dầu vậy, qua việc khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm họ muốn tận hiến mình mật thiết hơn để phục vụ Chúa và anh chị em. Việc khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm này không gì khác hơn là một cách thế đặc biệt để đi theo Chúa Giêsu.
Theo Phúc Âm, có ba yêu cầu căn bản cho việc đi theo Chúa Giêsu: tương đối hoá sự ràng buộc gia đình (Lc 14,26), tương đối hoá sự giàu sang (Lc 14,33), và vác thánh giá (Lc 14,27; 9,23). Những hình thức khác nhau của đời sống tu trì trong suốt lịch sử giáo hội đều là những phương thức chú giải và thực hành những nhu cầu đó của việc theo Chúa, để cho phép những tu sĩ bắt chước gần hơn và thể hiện rõ hơn cách mà Chúa Kitô đã sống khi đến trong thế gian. Như thế, yêu cầu tương đối hoá sự ràng buộc gia đình được diễn tả qua lời khấn khiết tịnh và trong đời sống cộng đoàn, việc tương đối hoá sự giàu có hay của cải cụ thể hoá trong lời khấn khó nghèo và việc vác thập giá qua việc cam kết sống đức vâng lời của đời thánh hiến.
2. Chứng từ ngôn sứ của cảm nghiệm về Thiên Chúa
Ngôn sứ trước tiên là ‘người của Thiên Chúa’; là người cảm nghiệm được Ngài hiện diện trong và với lịch sử. Nếu thử đi tìm cội rễ sâu xa nhất và nguồn mạch của đời sống tận hiến, chúng ta sẽ thấy không gì khác hơn đó chính là một cảm nghiệm sâu xa về chính Thiên Chúa. Không có điều này không thể hiểu được vai trò đoàn sủng và ngôn sứ trong Giáo Hội. Ơn gọi ngôn sứ của người sống đời thánh hiến đòi hỏi việc làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử. Cả tích cực lẫn tiêu cực. “Bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết bao; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội”[9].
3. Chứng từ ngôn sứ của một lời chất vấn
Ngôn sứ là người của Lời Chúa. Lời Chúa mạc khải và loan báo chương trình, kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa có một kế hoạch được thực hiện theo dòng lịch sử. Kế hoạch đó cho toàn thể nhân loại và cụ thể hóa trong cách liên hệ mới với Thiên Chúa, với người khác và với thế giới. Là một con người của Lời Chúa có nghĩa là đối với tu sĩ việc loan báo liên tục Nước Thiên Chúa là kế hoạch của họ và họ làm việc cho đến khi Nước Chúa được thể hiện trong dòng lịch sử. Ơn gọi ngôn sứ của đời thánh hiến đòi hỏi người tận hiến phải là dấu chứng hay công cụ của chương trình, kế hoạch của Thiên Chúa trong giáo hội và trên thế giới. Để là dấu chứng, đời sống của họ phải tỏ cho thấy những nét chính của chương trình Thiên Chúa. Để là công cụ, họ phải luôn tìm kiếm cách thế để Nước Trời được thể hiện trên mặt đất này, dĩ nhiên là cùng với việc toàn hiến của họ để phục vụ Nước Trời.
4. Chứng từ ngôn sứ của loan báo và tố cáo
Ngôn sứ là người gây ra khủng hoảng khi tố cáo tất cả những gì chống lại chương trình của Thiên Chúa. Việc tận hiến trong đời sống tu trì cho phép người tu sĩ sẵn sàng để đáp ứng với những khủng hoảng mang tính ngôn sứ, trong việc loan báo và tố cáo, và một sự tự do theo Phúc Âm để thực hiện điều đó: “Nhờ việc tận hiến, họ tự nguyện và tự do từ bỏ mọi sự và ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. … Người ta thường thấy họ ở những tiền đồn truyền giáo, họ dám hy sinh sức khỏe và cả đến chính mạng sống nữa”[10].
Tận căn của chính việc thánh hiến trong đời sống tu trì là một lời loan báo và khước từ mang tính cách ngôn sứ. Lời khấn khó nghèo đưa đến việc cùng chia sẻ những của cải trong cộng đoàn chỉ cho thấy giá trị con người không tùy thuộc vào nhũng gì họ có nhưng vào những gì họ là. Điều đó cũng còn cho thấy là chức năng của vật chất chỉ để đưa đến việc gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Cùng lúc, một cộng đoàn tu sĩ, đặt những gì mình là và những gì mình có để phục vụ những người nghèo khó, khốn khổ nhất, làm việc để thăng tiến họ, khước từ việc dùng những của cải để mưu tìm uy thế và quyền lực trong xã hội. Đây là điều nghịch lại với chương trình của Thiên Chúa, vì ngài ban phát của cải cho hết mọi người, qua sự phân chia huynh đệ.
Đức khiết tịnh trong đời sống thánh hiến phục vụ cho Nước Trời qua việc loan báo một giao ước cứu rỗi của Thiên Chúa cho con người và lời mời gọi sống tình huynh đệ và khước từ những gì chia cách với Ngài hay chống lại sự liên đới phổ quát khi bóp méo ý nghĩa và những đòi hỏi của tình yêu đích thực. Đức Khiết tịnh của đời sống tu trì cũng phục vụ cho Nước Trời khi tạo nên cộng đoàn như là gia đình hiệp nhất với nhau nhân danh Chúa. Sự hiệp nhất này biểu lộ sự hiện diện của Ngài. Qua việc sống cộng đoàn của đức khiết tịnh, các cá nhân phổ quát hoá chiều kích xã hội và tình cảm của họ. Khi đức khiết tịnh của đời thánh hiến bày tỏ sự hiệp thông với Thiên Chúa, điều này không thể tách biệt với việc hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn. Đời sống cộng đoàn mở ra những mối liên hệ rộng hơn, mở ra những biên cương mới của tình huynh đệ, được xây trên tình yêu quảng đại, khước từ loại tình yêu ích kỷ chỉ mưu tìm khoái lạc và lợi dụng con người. Nhờ đức khiết tịnh của đời thánh hiến phát sinh, cộng đoàn tu sĩ được kêu gọi để trở nên một chứng từ về giao ước của Thiên Chúa với dân người. Giao ước giải thoát nhờ việc phục vụ và tình huynh đệ và việc phổ quát hoá tình yêu với người chung quanh. Một tình yêu vượt qua cả mối liên hệ máu mủ.
Đức Vâng lời trong đời sống thánh hiến, được thể hiện qua chiều kích cộng đoàn cùng tìm hiểu ý Chúa với bề trên, là người phục vụ trong quyền bính, có thể và phải là một lời loan báo về cách giải quyết theo tinh thần Phúc Âm những vấn nạn xảy ra giữa sự tự do theo cá nhân chủ nghĩa và một quyền bính chuyên chế trong mối liên hệ nhân bản. Dấn thân vào việc tìm kiếm huynh đệ con đường và ý muốn của Thiên Chúa, người tu sĩ phải khước từ và tố cáo các kiểu tự do và quyền bính đó.
Sự tự do đích thực phải lưu tâm đến lợi ích của người khác và ý nghĩa của quyền bính là phục vụ để tất cả có thể lớn lên trong phẩm giá của con cái Chúa của họ.
5. Chứng từ ngôn sứ của cộng đoàn những người tận hiến
Thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong Tông Huấn Đời sống Thánh Hiến: “Giáo Hội ký thác cho các cộng đoàn sống đời thánh hiến bổn phận đặc biệt : đó là phát triển linh đạo hiệp thông trước tiên trong chính cộng đoàn của họ…Các cộng đoàn sống đời thánh hiến được sai đi để qua chứng tá đời sống, loan báo giá trị của tình huynh đệ Ki-tô giáo và sức mạnh biến đổi của Tin Mừng (117), nhìn nhận mỗi người là con cái Thiên Chúa, và thúc đẩy đi tới tình yêu dâng hiến đối với hết mọi người, cách riêng với những người thấp kém nhất. Các cộng đoàn này là những nơi sống niềm hy vọng và khám phá ra các mối phúc, những nơi mà tình yêu được bồi dưỡng nhờ kinh nguyện, nguồn hiệp thông, được kêu gọi trở thành khuôn mẫu của cuộc sống và nguồn mạch niềm vui”[11]. Và “Giáo Hội ước muốn giới thiệu cho thế giới gương sáng của những cộng đoàn, trong đó việc quan tâm giúp đỡ nhau giúp vượt thắng cảnh cô đơn. Sự thông hảo thúc đẩy mỗi người cảm thấy đồng trách nhiệm, sự tha thứ giúp hàn gắn những vết thương, và quyết tâm sống hiệp thông của mỗi người được kiện toàn. Trong các cộng đoàn như vậy, bản chất các đoàn sủng đang điều động các năng lực, nâng đỡ lòng trung thành và hướng dẫn công việc tông đồ của mọi người nhắm tới một sứ mạng duy nhất. Để giới thiệu cho nhân loại hôm nay gương mặt đích thực của mình, Giáo Hội thực sự cần có những cộng đoàn huynh đệ như thế; bằng chính cuộc sống của mình, họ đang góp phần vào công cuộc tái tuyền giảng Tin Mừng, bởi vì họ đang cho thấy cách cụ thể những hoa trái của “điều răn mới”[12].
Dấu hiệu hiển nhiên nhất của đời sống mới trong Đức Kitô là tình huynh đệ. Nó làm cho sức mạnh hoà giải của Đức Kitô hiệp nhất mọi thành phần lại với nhau như một gia đình nhân danh Ngài. Từ cộng đoàn, khía cạnh huynh đệ của đời thánh hiến được nhấn mạnh đặc biệt. Từ việc sống tình huynh đệ phát xuất những chứng từ chính yếu của đời tận hiến: nó biểu lộ chính Nước Trời mà Chúa Giêsu rao giảng, và làm nổi bật quyền năng hoà giải của Thần Khí Chúa Giêsu đang hiệp nhất tất cả trong một gia đình mới. Cũng vậy, chiều kích ngôn sứ của đời sống thánh hiến đòi hỏi cộng đoàn mang ý nghĩa Phúc Âm hơn, như là một cách biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa, và sự hiện diện đó tạo nên sự hiệp thông giữa các tín hữu. Sư hiệp thông huynh đệ của những tu sĩ là dấu chứng ngôn sứ và là một chất men hiệp thông giữa con người và việc cùng chung phần những điều thiện hảo Chúa ban. Chính trong cộng đoàn là nơi có thể thoả mãn theo tinh thần Kitô ba chiều kích tâm lý nền tảng của hữu thể con người: yêu và được yêu: trong đức ái (agape) với tất cà những đòi hỏi của nó; sản sinh, là hữu ích, trong niềm hi vọng Kitô giáo đấu tranh để biến đổi xã hội và thế giới; hiểu ý nghĩa của hiện sinh: trong đức tin làm cho thấy và phán đoán về thực tại đang sống.
Chứng tá ngôn sứ trong đời sống cộng đoàn đòi hỏi cộng đoàn phải có cách sống đơn sơ hơn, để cùng lúc họ gần gũi với dân chúng và chứng tá của họ đươc tinh luyện cho dễ nhận ra hơn. Cùng với sự đơn sơ và gần gũi với dân chúng, cộng đoàn tu sĩ phải sống những mối tiếp thông sâu xa hơn giữa nhau và một đức ái thực tế và cụ thể để giữa thế giới ích kỷ, bất công và ghen ghét, họ loan báo sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa đang hoà giải và huynh đệ hoá, cũng như đang lên án bất công và áp bức. Trong khi canh tân từng ngày, giữa những khó khăn của đời sống huynh dệ, là lý tưởng của việc hiệp thông trong tình yêu, cộng đoàn tu sĩ đã thể hiện một chứng từ ngôn sứ và đưa ra lý do để hi vọng, làm cho người khác thấy được mục đích Thiên Chúa mời gọi trong Đức Kitô.
Trong huấn thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô đã xác định “Linh đạo hiệp thông, xuất hiện như là phản ảnh của bầu khí thiêng liêng của Giáo hội vào lúc khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, là một nhiệm vụ tích cực và có tính cách nêu gương sáng của đời sống thánh hiến ở mọi cấp bậc. Đó là con đường vương giả cho tương lai của cuộc sống và chứng tá. Sự thánh thiện và sứ mệnh đi qua cộng đoàn, bởi vì Đức Kitô làm cho Người hiện diện trong và qua cộng đoàn. Anh em và chị em trở nên những Bí tích của Đức Kitô và của việc gặp gỡ với Thiên Chúa, triển vọng cụ thể, và hơn thế nữa, sự cần thiết không thể bỏ qua của việc thực thi giới luật yêu thương lẫn nhau và thể hiện hiệp thông của Ba Ngôi”[13].
6. Chứng từ ngôn sứ trong khó nghèo
Như chúng ta đã thấy, các ngôn sứ trong Kinh Thánh đã hoàn thành sứ vụ của họ, giữa những yếu đuối và giới hạn của mình. Cái lý luận không thể hiểu được của thập giá nói lên công việc của ngôn sứ. Người ngôn sứ cảm nghiệm được sự giới hạn và bất lực trước những nhiệm vụ luôn thách thức những ai muốn dấn thân trong công cuộc loan báo về kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử. Trong cảm nghiệm về sự nghèo khó của mình, người tu sĩ khám phá ra rằng ơn gọi ngôn sứ của mình được thể hiện trong vai trò là dấu chứng và khí cụ khó nghèo và yếu đuối để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa cho nhân loại. Những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu, là ngôn sứ và người loan truyền Phúc Âm, để áp đặt Nước Trời theo cách thế quyền lực của con người vẫn tiếp tục dụ dỗ những người đi theo Ngài. Như Chúa Giêsu đã mở ra những con đường vô phương hiểu thấu của Thiên Chúa Cha và các ngôn sứ trước Ngài, dầu trong hình thức bất toàn và giới hạn, nên người tu sĩ phải tiếp tục học cách cảm nghiệm Nước Thiên Chúa từ những điều bé nhỏ phát sinh những điều vĩ đại, và sức mạnh không do con người mà xuất phát từ Thiên Chúa là Đấng biểu lộ quyền năng của Ngài trong sự yếu đuối và giới hạn (x. 2 Co 12,7-10). Chứa đựng kho tàng của ơn gọi ngôn sứ trong những chiếc bình sành, người tu sĩ tự biến đổi thành dấu chứng và khí cụ để Thiên Chúa biểu lộ quyền năng của Ngài, và tận hiến đến chết để qua đó sự sống của Chúa Giêsu được thể hiện (2 Co 4,8-11).
Việc canh tân những dấn thân mang tính ngôn sứ của các tu sĩ đòi hỏi họ một sự thay đổi và cái nhìn mới về đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, cởi mở hơn để đón nhận hơn và liên đới hơn, và cùng lúc tiếp tục thực hành việc phân định cộng đoàn trong cầu nguyện để bảo tồn căn tính của tính ngôn sứ phát xuất từ một cảm nghiệm về Thiên Chúa trong lịch sử và trong cái nhìn của đức tin về thực tại. Chỉ như thế, đời thánh hiến mới có thể đón nhận và sống ơn gọi ngôn sứ của mình trong sứ mạng Phúc Âm hoá chính mình và người khác. Bằng cách đó, mọi người tận hiến có thể trở nên như những ngôn sứ trong Thánh Kinh, là ‘người của Thiên Chúa’, ‘người của Lời Chúa’, ‘người gợi lên những khủng hoảng’, ‘người hoàn thành sứ vụ trong những yếu đuối của mình’, và biến đổi mình thành “chứng nhân của sự phục sinh và của sự sống của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và là dấu chứng của Thiên Chúa thật”[14], trong việc trung thành với Phúc Âm của Chúa Giêsu, là ngôn sứ và là người rao truyền Phúc Âm.
GỢI Ý
Đặc tính ngôn sứ của đời sống thánh hiến, đặc biệt trong nhãn quan mục vụ và truyền giáo, mang vai trò căn bản và trọng yếu. Sau những suy tư vừa trình bày, như lời kết, xin được đề nghị một vài gợi ý xây dựng để góp phần trong nổ lực ‘đánh thức thế giới’ của những người tận hiến trong Năm Đời Sống Thánh Hiến và trong công cuộc Tân Phúc Âm Hoá của giáo hội.
Trung thành một cách sáng tạo là điều kiện để có thể sống chiều kích ngôn sứ của đời thánh hiến trong công cuộc phúc âm hoá. Điều này có nghĩa là quay trở về nguồn cội, về đoàn sủng của đấng sáng lập, “để khi cần thiết, thích nghi những hình thức của mình theo những hoàn cảnh mới và nhu cầu khác nhau”[15]. Cần đổ rượu mới vào bầu da mới cho những người mới, nam hay nữ. Việc nhìn lại và nghiền ngẫm lại đoàn sủng giúp chất vấn và đối diện thực tế, giúp kích thích, củng cố và định hướng. Việc trung thành một cách sáng tạo giúp cho những tu sĩ nam hay nữ sống một có ý nghĩa và hiệu quả hơn.
Nghiên cứu lại đoàn sủng là cần thiết. Nhưng điều đó không dễ dàng, một số người vẫn thích sống an vị và an bình bằng cách bám víu vào quá khứ, tìm sự an toàn, không biết đến thực tế và không chấp nhận sự hiệp nhất trong khác biệt. Những hội dòng nào lập đi lập lại quá khứ một cách thụ động thì có nguy cơ tự hủy hay sống còn lây lất mà không còn bất cứ ành hưởng hay tác động tích cực nào trong giáo hội và xã hội. Các tu sĩ khi trung thành sáng tạo với đoàn sủng, họ sẽ gặp được sức mạnh của sự sáng tạo tông đồ hướng dẫn họ trong việc rao giảng, và hội nhập Phúc Âm.
Đối diện và đối thoại với thực tại: chứng từ ngôn sứ của người tận hiến đòi buộc họ lưu ý đến những dấu chỉ thời đại, những gì khẩn cấp, hội nhập văn hoá, sự đồng tâm nhất trí trong giáo hội. Họ cần quan tâm đến những dấu chỉ trong giáo hội như: những lối biểu lộ hiệp thông mới, sự tăng trưởng vai trò của giáo dân, những khó khăn trong việc tân Phúc Âm hoá, đối thoại với văn hoá tục hoá, dấn thân vì công lý… Và ngoài xã hội như: phẩm giá con người, sự liên đới, quyền con người, tự do tôn giáo…. Như những ngôn sứ của thời đại, người tận hiến không thể để mình bị giam cầm mãi trong quá khứ, vì thời gian cứ tiếp diễn, và thật là vô ích khi cứ nói “hồi trước như thế, hồi đó nó vậy, hồi đó không ai làm vậy…”. Linh hồn của những ‘hồi đó’ đã về với Chúa, và chúng ta phải cứu những linh hồn hiện nay, phải nói với những người bây giờ, phải đối đầu với những thực tế trước mắt, và phải đối thoại với những thực tại và bằng ngôn ngữ đương đại.
Các người tận hiến là những người thừa hưởng một quá khứ, người có trách nhiệm về hiện tại, và là người xây dựng tương lai từ những giới hạn và yếu đuối. Cùng liên đới với mọi người và với nhau, họ cùng nhau tìm cách đi theo bước chân của Chúa trong thực tại lúc này và bây giờ. Họ cần cảm thấy nhu cầu có những tu sĩ hoàn toàn sẵn lòng đáp trả với sự uyển chuyển, không bám víu vào những công trình hay truyền thống không còn ý nghĩa và với một lòng bác ái và nhiệt tâm để hoàn thành sứ vụ cho dù biết mình giới hạn và yếu đuối. Và họ mãi là một lời ngôn sứ nói với cuộc sống con người rằng – dầu với những mâu thuẫn và giới hạn – luôn có một ý nghĩa hiện thực và siêu việt rằng Chúa Giêsu Kitô là cùng đích của lịch sử[16].