Đây là cảm nghiệm rất riêng tư của tôi. Tôi là hạt bụi. Tôi không có tên. Tôi hoàn toàn trơ trọi một mình trong bộ máy vận hành của vũ trụ. Nhưng từ cảm giác trơ trọi ấy, tôi nghe có tiếng thì thầm của ai đó: “Con là người, là hình ảnh của Ta. Con không trơ trọi một mình. Hãy nhớ: Dù cha mẹ có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên con bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi khắc con trong lòng bàn tay Ta” (x.Is 49,15-16). Rồi tôi được sinh ra, được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Từ nay, tôi chính thức có tên trong Hội Thánh Công Giáo.
Thế giới quanh tôi có biết bao điều kỳ diệu. Điều kỳ diệu nhất là tôi có gia đình, bạn hữu và được học hỏi về Đấng mà tôi cũng như cha mẹ tôi gọi Người là Cha. Nhưng sao, tôi chẳng nhớ gì về Người, không có gì nơi Người ấn tượng trong tôi. Tôi đâu nhìn thấy Người bao giờ, cũng chẳng nghe thấy Người lên tiếng. Có nghe chăng, chỉ là tiếng nói nhỏ bé vọng lại từ chốn xa xăm nào đó. Tôi bỏ qua, không chú ý lắm, vì tôi đã có đối tượng khác để nghe theo. Đối tượng ấy ban đầu chỉ là một tư tưởng đơn sơ, rồi một ấn tượng rõ rệt khiến lòng tôi vui thích và xúc động. Cuối cùng là ưng thuận để buông mình dễ dãi trong những thú vui ích kỷ của xác thịt, của danh vọng, địa vị, tiền bạc. Thật sự, khi đã chiều theo tiếng nói trong bóng đêm một lần thì khó mà từ chối tiếng nói đó trong những lần khác.
Lại một Mùa Chay nữa đã đến. Không biết tôi đã bỏ lỡ bao nhiêu Mùa Chay. Mùa trở về trong cuộc đời mình. Tôi muốn về, nhưng một nỗi thất vọng như bị bỏ rơi ập xuống tâm hồn. Tôi thấy mình không còn sức để bước đi. Tôi cười mình vì quá tệ bạc với bản thân: để đổi lấy một phút huy hoàng đắm đuối trong những đam mê thấp hèn, mà phải chịu đựng cả một nỗi trống trải đến rợn người trong cõi nội tâm. Tôi trách đời, trách người rồi lại trách mình, trách cả Đấng là Cha giàu lòng thương xót. Tôi không còn thấy thế giới này tươi đẹp nữa, bởi lẽ… không phải tôi đang sống mà chỉ là đang tồn tại mà thôi.
Chính lúc này, khi đã lún sâu dưới lớp bùn tanh tưởi, tôi lại nghe tiếng thì thầm ấy: “Ta không kết án con đâu! Thôi con cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11). Tôi chỉ có thể gào lên trong đau đớn:
“Sao Người lại ban ánh sáng cho kẻ khốn cùng,
ban sự sống cho ai nuốt cay ngậm đắng?
Sao lại ban ánh sáng và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu? (G 3,20.23)
rồi nức nở: “Không ai cần một tội nhân, chẳng ai nhớ đến một kẻ hư hỏng”.
“Cho dù cha mẹ có quên con, thì Ta, Ta chẳng quên con bao giờ. Ta đã ghi khắc con trong lòng bàn tay Ta” (x. Is 49, 15-16). Một nỗi xúc động sâu xa xâm chiếm tâm hồn tôi: Tôi nhận ra Người. Người là Cha đã ru tôi trong chiếc nôi êm đềm bằng những lời thì thầm yêu thương ấy trước khi cho tôi hiện diện trên cõi đời này. Thời gian như dừng lại ở thời điểm tôi nghe tiếng Người nói. Những ký ức của tình yêu thuở ban đầu chợt ùa về, dâng cao, cuồn cuộn và mạnh mẽ như hàng triệu đợt sóng dồn lại, rồi bất ngờ đánh ập vào thành trì kiên cố của trái tim vốn đã bị nén chặt lại bao năm tháng bởi sức ép của tội lỗi. Quá khứ như một cuộn phim được tua lại cho đến giây phút hiện tại, rồi cả quá khứ lẫn hiện tại ấy tan biến hoàn toàn trong đại dương thương xót của Người.
Như đứa con thơ vẫn mù lòa, không nhìn thấy ánh sáng của Cha nó, nhưng không ngừng gọi Người: “Abba! Cha ơi!”. Dù chưa thấy, nhưng nó cảm nhận được bàn tay to lớn, cứng cáp, đầy những vết chai nhưng vô cùng ấm áp là kỷ niệm một thời ẩn dật của “Con Bác thợ mộc” làng Nazareth đang nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó.
Là một tội nhân được ơn trở lại mà không hiểu Chúa làm thế nào để tôi được biến đổi như thế. Tôi chỉ biết để yên cho Người cầm tay dẫn đi cho đến khi nhìn thấy: một ngọn bách tùng cao vút, nhọn như một mũi tên đang cố vươn lên cao khỏi những thứ thấp hèn dưới mặt đất. Nhưng càng lên cao, càng sợ hãi. Vì bầu trời trên cao không hề sáng trong rạng rỡ, mà được giăng kín bởi bức màn mây đen kịt. Những đám mây vần vũ, tung hoành, dữ tợn như chỉ muốn nuốt chửng ngọn tùng lẻ loi kia. Tiếng Người lại vang lên trong lòng: “ Tầng mây ấy là thứ con đang chạy trốn phải không? Đừng sợ! Cứ vươn lên cao. Hãy mạnh mẽ như cung tên lắp sẵn vào nỏ. Nào, Ta cho con sức mạnh để lao thẳng lên bầu trời, đối diện với nó, xuyên thủng nó. Rồi con sẽ thấy rằng một khi bức màn đen đã bị đâm thủng thì nó không còn là nước mắt đau đớn, nhưng là cả cơn mưa hồng ân tưới mát tâm hồn con, trả lại cho con cả một bầu trời trong sáng tràn trề hy vọng”.
Vâng! Thiên Chúa đã làm cho tôi như thế đó. Người đã dựng nên tôi từ bụi tro. Người nhìn tôi lớn lên. Tôi quên Người, Người chẳng bao giờ quên tôi. Tôi bất tín, Người vẫn một lòng tín trung. Tôi đi lạc, Người mải miết đi tìm. Tôi trách Người, Người cứ thì thầm yêu thương. Chính Lời Người làm tôi thức tỉnh, Tình Yêu Người nhắc cho tôi nhớ: Tôi không phải là hạt bụi nhạt nhòa theo năm tháng mà là “muối và ánh sáng” cho thế gian thêm mặn mà. Giờ đây, tôi biết rằng từ muôn đời Chúa vẫn dành cho tôi một niềm xót thương, và Mùa Chay Thánh này mãi là Mùa Hồng ân Chúa ghi dấu trong đời tôi. Dẫu lá trên rừng có biến thành giấy, nước dưới biển có hóa thành mực, thì giấy và mực đó không bao giờ viết cạn dòng nhừng Lời Người ấp ủ bên tai. Giây phút này, bao điều muốn nói, tôi chỉ biết gói trọn trong lời ông Gióp để bộc bạch tâm tư với Đấng thấu suốt những gì bí ẩn:
“Trước kia, con chỉ được biết Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình xuống thống hối ăn năn”. (G 42, 5-6)
Tê-rê-sa Kim Phụng
Tập sinh MTG. Thủ Đức