Thiện căn

51

Kinh Thánh cho biết: “Con người do Thiên Chúa làm nên, vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co.” (Gv 7:29) Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài không làm ra cái gì xấu xa. Chỉ vì kiêu ngạo mà phạm tội, con người thoái hóa, biến chất, không còn “tính bổn thiện” nguyên thủy được Thiên Chúa “cài đặt” lúc đầu nữa. Con người tự biến thiện căn thành ác căn, hóa thành bản chất vốn dĩ xấu xa. (Mt 7:11; Lc 11:13)

Một trải nghiệm các lĩnh vực khiến người ta “chảnh” là tài năng – dù chỉ là tài vặt. Thật vậy, thi hào Nguyễn Du đã xác định và so sánh: “Thiện căn ở tại lòng ta – Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.” Tâm không cần Tài, nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa). Kiêu ngạo là đầu mối mọi thứ tội lỗi, là “chìa khóa vạn năng” mở những cửa tối tăm đáng sợ nhất.

Xét về chữ Tâm, chúng ta thấy có nhiều nghĩa – đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng, ruột), tâm cảm (cõi lòng, tình cảm), tâm phục (kính trọng và vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm, tâm hồn, tâm linh,…

Đầu Kinh Pháp Cú của Phật giáo đề cập ngay chữ Tâm: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả.” Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm.” Có nghĩa là “nếu tâm trí không để vào đó thì dẫu nhìn mà chẳng thấy, để tai mà chẳng nghe, ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm cho tâm hồn mình ngay thẳng. Cái Tâm rất quan trọng, người nóng giận dễ sinh bệnh và tổn thọ, người hiền hòa sẽ than thản, bình an.

Tâm lý và thể lý có ảnh hưởng lẫn nhau. Trình thuật 1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Saun lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Israel, để tìm bắt ông Đavít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông Đavít và ông Avisai đến chỗ quân binh. Vua Saun đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Ápne và quân binh thì nằm chung quanh.

Lúc đó, ông Avisai nói với ông Đavít: “Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai.” Nhưng ông Đavít nói với ông Avisai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?” Dù sống thời Cựu Ước, với luật “răng đền răng, mắt đền mắt,” nhưng ông Đavít vẫn nhân từ và tha thứ. Những người có tâm luôn dễ tha thứ cho người khác.

Dễ dàng thương người phe mình, nhưng rất khó thương người khác phe – hầu như là không thể. Trong chiến tranh rất rõ: Quân đội chính nghĩa vẫn giúp quân địch khi họ bị thương, nhưng phe bất chính thì không làm như vậy. Điều đó thấy rõ trong chiến tranh Việt Nam trước đây.

Chính ông Đavít đã lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Saun, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Đức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ. Ông Đavít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông Đavít nói: “Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.” (1 Sm 26:22-23) Ông Đavít đã giữ được thiện căn ngay khi bất trắc.

Triết lý sống của Martin Luther King (1929-1968) rất tuyệt vời: “Yêu thương là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù thành bạn hữu.” Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau.” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17) Đó là dấu hiệu cho thấy ai thực sự là môn đệ của Ngài. (Ga 13:35) Thánh Gioan nói: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.” (1 Ga 3:23) Hai cái “phải” đó là mệnh lệnh, nghĩa là không thể không thi hành. Thập Giá có hai nhánh, một nhánh vươn tới Thiên Chúa và một nhánh vươn tới tha nhân – dù họ là bạn hay thù.

Thi hành mệnh lệnh yêu thương không là miễn cưỡng, mà là nhận thức và ý thức, rồi tự nguyện làm. Với tâm tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:1-4) Lời tự nhủ đó là tâm nguyện, và cũng là cách thuyết phục lẫn nhau.

Tín nhân chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ hoài, không oán hờn mãi, không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm.” (Tv 103:8-10) Đó là kinh nghiệm tâm linh tuyệt vời. Quả thật, Thiên Chúa nhân từ đến nỗi có lúc chúng ta cảm thấy phân vân, nhưng Ngài thực sự là vậy, vì đó là bản chất của Ngài, như Thánh Gioan xác định: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Đặc biệt là chính Ngài xác nhận: “Ta vốn nhân từ.” (Xh 22:26)

Mãi mãi chẳng ai có thể nên thánh hoặc được vào Thiên Đàng nếu Thiên Chúa chấp tội phàm nhân. Thế nhưng chúng ta thật diễm phúc, vì mọi thứ tội và tội của thế gian này cũng không thể sánh với tình Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103:12-13) Thế đấy, tội gì cũng được tha – dù là khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ có một tội không được tha: tội phạm tới Chúa Thánh Thần. (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10) Ai hữu tâm thì được tha, vô tâm thì rán chịu vậy thôi!

Thiện căn có thể bị chúng ta làm lệch lạc, nhưng quan trọng là biết chấn chỉnh. Nhiều người đã làm mất thiện căn, thậm chí là sống trác táng, nhưng rồi họ quyết tâm sửa mình và đã nên thánh. Đừng bao giờ mất niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa và đừng tuyệt vọng về chính mình!

Thánh Phaolô cho biết: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là Ađam được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó.” (1 Cr 15:45-46) Hai con người với hai dạng “sức sống” hoàn toàn khác nhau. Ađam đầu tiên là nhân loại, Ađam cuối cùng là Thánh Tử Giêsu Kitô – Ngôi Hai Thiên Chúa.

Để giải thích rõ ràng hơn, Thánh Phaolô nói: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.” (1 Cr 15:47-49) Chúng ta là phàm nhân, mang thân phận bụi tro, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14) Cát bụi hóa thành ngọc bích, tội nhân trở nên thánh nhân. Quá đỗi kỳ diệu, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

Có hai vấn đề được đề cập trong trình thuật Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2), và đó cũng là hai mệnh lệnh: sống yêu thương và nhân từ với bất kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và nhân từ không thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia. Vả lại, đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại.” Nghe chừng đơn giản lắm, nhưng rất nhiêu khê khi thực hành.

Đạo Chúa mệnh danh là Đạo Yêu Thương. Lòng yêu thương là thước đo lòng mến Chúa, và là món nợ mà mọi người phải thanh toán cho đến đồng xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5:23-24) Thánh Gioan lý giải: “Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Chí lý vô cùng!

Đây là khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.” Điều đó rất cụ thể đời thường, không hề viển vông. Người đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” – Mình không muốn điều gì thì đừng làm cho người khác.

Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN và QUÂN ĐỘC ÁC.” Lúa và cỏ vẫn sống chung một nguồn nước và cùng hấp thụ dưỡng chất như nhau. Nắng mưa cho mọi người – dù tốt hay xấu, biết điều hay ngang ngược, chứ chẳng cho riêng ai.

Thiên Chúa tuyệt đối nhân lành nhưng cũng công bình, và thời gian cũng có giới hạn. Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh xác định và phủ định: “Anh em HÃY có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em ĐỪNG lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em HÃY cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” Thiên Chúa không bắt ai phải chịu thiệt đâu.

Có mọi thứ mà không có đức ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3) Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể: “Dẫu xây chín bậc phù đồ – Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.” Phù đồ là gì mà so sánh như vậy? Phù đồ là cái Tháp, Tháp-Bà (tiếng Hoa, chữ âm kép, chứ không có nghĩa là tháp thờ bà chúa), tiếng Phạn là Stupa – nghĩa đen là “búi tóc,” hoặc tiếng Lào là Thạt – gốc tiếng Phạn là Dhatu. Theo truyền thống Phật giáo, phù đồ là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Phật), cũng được gọi là Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp.

Thiện căn là cái mà người ta gọi là “đạo làm người” – loại “đạo” không phân biệt bất kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó. Là con người phải biết yêu thương, không yêu thương thì không xứng danh là con người.

Thánh Faustina Maria Kowalska cho biết: “Tình yêu cao cả có thể biến đổi những điều nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng ta có giá trị.” Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận thập giá của mình, nếu bạn can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên Đàng.” Muốn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Thiên Chúa hứa ban thì phải hàn thiện, muốn hàn thiện thì phải giữ được Thiện Căn.

Lạy Thiên Chúa chí thiện, xin hoán cải chúng con theo lộ trình nhân từ của Ngài đề chúng con đủ hoàn thiện như Ngài muốn. Xin thêm sức mạnh của Ngài để chúng con chịu đựng lẫn nhau và đền tội mình ngay trên thế gian này, để cứu các linh hồn và cầu nguyện cho nhau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU