Có một số người được thị kiến về những điều khác nhau. Thánh Teresa Avila (1515-1582) được thị kiến Hỏa ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque (1647-1690) được thị kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Anne Catherine Emmerich (1774-1824) được thị kiến Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) cũng được thị kiến Hỏa ngục và có nhiệm vụ loan báo Sứ điệp Lòng Thương Xót của Thiên Chúa,…
Cựu Ước cũng đã có một số người được thị kiến. Ngôn sứ Đanien kể lại giấc mộng: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra” (Ðn 7:9-10). Đó là quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân biệt chiên với dê, tách cỏ lùng khỏi lúa. Đó là Giờ Công Lý, vì Giờ Thương Xót đã hết – tức là lúc Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm xét xử mọi người để thưởng công hoặc tuyên án phạt đời đời.
Ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7:13-14). Những lời mô tả rất rõ ràng, cho thấy những hình ảnh chính xác và kỳ lạ. Nhưng đó là sự thật chứ không là chuyện vui đùa, cũng chẳng là huyền thoại hoặc cổ tích.
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã động viên và tiên báo từ rất xa xưa: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-2, 5-6).
Mọi loài mọi vật đều phải tâm phục khẩu phục. Tại sao? Đây là lý do đơn giản mà chính xác: “Chính bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy” (Tv 97:9).
Đã “thực mục sở thị” chính Thầy Giêsu và kinh nghiệm đầy mình với những tháng năm theo Thầy Giêsu rong ruổi khắp hang cùng ngõ ngách, Thánh Phêrô làm chứng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người” (2 Pr 1:16). Giáo hoàng tiên khởi cho biết thêm: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến” (2 Pr 1:17-18).
Và rồi Thánh Phêrô kết luận: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em” (2 Pr 1:19). Bảy mươi còn phải học bảy mốt, chúng ta chỉ là hậu duệ xa lắc xa lơ, không thể dám dại đột mà làm ngơ những lời chứng đó.
Tin không là điều dễ thực hiện trong một sớm một chiều, và khó lắm nên Chúa Giêsu mới khuyến khích: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Tin và ảo tưởng rất dễ lầm lẫn, thế nên phải có được khả năng minh định rạch ròi. Có những thứ được tận mắt thấy tỏ tường mà đôi khi chúng ta vẫn không tin, hoặc cứ bán tín bán nghi. Thật là khó lắm! Đức tin vẫn cần có lý trí, nếu không sẽ dễ bị cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Sách “Gương Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên thường có thể làm sai, duy chỉ có đức tin chân chính mới hoàn toàn không sai lầm”. Đức tin quan trọng, nhưng phải là Đức Tin Chân Chính.
Chúng ta không có diễm phúc được thị kiến như các thánh, nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách thị kiến khác – như nhìn vào thiên nhiên hoặc các biến cố của cuộc đời. Rất nhiều thánh cũng chỉ “thị kiến” với đức tin giữa đời thường như vậy mà thôi.
Mới trước đó một tuần lễ, Chúa Giêsu nói rằng Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Nghe Thầy nói vậy, các môn đệ chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Bao năm gắn bó với Thầy, đồng lao cộng khổ với Sư Phụ, chấp nhận “nằm gai” với hy vọng được “nếm mật”, một lòng một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ ngủ để lang thang khắp nơi với Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng được hưởng chút công lao là chức tước và bổng lộc. Chính Giacôbê và Gioan đã hí hửng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ xin dùm]. Thế mà ngờ đâu Thầy lại sắp đi chịu chết! Lâu đài kỳ vọng chợt sụp đổ như bị động đất mạnh, mộng vàng tương lai chợt tan thành mây khói. Công dã tràng rồi. Trắng tay. Thế là hết!
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “ấm ức” và hầu như tuyệt vọng, nên sau đó, Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi, cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Ngài biết sức chịu đựng của con người có giới hạn. Các môn đệ cũng là những con người. Nếu không mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên Chúa thật, có thể các ông sẽ rút lui không lời từ biệt, bỏ của chạy lấy người.
Trong trình thuật Mt 17:1-9, Thánh sử Mátthêu cho biết: Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Cảnh Thiên Đàng sao mà kỳ lạ và độc đáo quá đi, nhưng cũng thú vị lắm!
Là phàm nhân được thấy tiên cảnh thì còn gì sướng cho bằng, y như Lưu Nguyễn lạc vào Thiên Thai vậy, nên lúc đó ông Phêrô thưa ngay với Đức Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17:4). Cho ba vị thôi, còn ba đệ tử đang sướng rơn, hồn lâng lâng, nhéo chả đau tí nào, thế nên họ chẳng cần chi cho mình nữa. Thế là “đã” lắm rồi.
Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5). Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Nghe tiếng nói mà không như tiếng nói, thấy người mà không như người, lạ vô cùng, phàm ngôn không thể diễn tả được. Hoảng sợ và té cái “đùng” vậy đó, thế nhưng lại thấy sung sướng vô cùng. Chỉ một thoáng thôi mà sao sướng thế không biết!
Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7). Mọi sự trở lại đời thường như trước đó. Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Giá mà được lâu lâu một chút nhỉ? Nhưng thôi, “nếm thử” vinh quang Thiên Chúa chút chút vậy cũng đủ tăng lực đức tin rồi. Lại phải vào đời và làm những việc cần thiết thôi… Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17:9).
Chỉ trong chốc lát mà kỳ diệu thế đấy, chắc chắn phúc trường sinh thì hạnh phúc vô cùng. Đời đời cơ mà! Với kinh nghiệm bản thân, Thánh Phêrô cho biết: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” (2 Pr 3:8).
Lạy Thiên Chúa, xin tăng lực Đức Tin cho chúng con để chúng con vững bước lữ hành. Xin giúp chúng con cũng biết chia sẻ với tha nhân những gì chúng con cảm nhận được về Đức Tin để cùng nhau tiến về Thiên Quốc, nơi có Đại Huynh Giêsu đang chờ chúng con về đoàn tụ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU