Thánh Thể trong Thần Học và Linh Đạo của Thánh Phaolô
Nguyên Lý Hiệp Thông – Bữa Tiệc của Chúa – Tưởng Niệm ơn Cứu Độ
Nhập Đề
Tất cả ý nghĩa về bản thân, cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu được tỏ lộ như nguồn sáng trên đỉnh non cao, rồi hội tụ trong một tấm bánh, một chén rượu cùng với lời chúc tụng dâng lên Thiên Chúa, kết thành Hy Tế Tạ Ơn của Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu. Không có gì nơi Người, trong lời nói cũng như hành động, mà không có giá trị sáng tạo, mạc khải và cứu độ, vì chính Người là Ngôi Lời Nhập Thể, là “Đấng hằng ở nơi cung lòng” Thiên Chúa và đến trần gian để “ở cùng” nhân loại, thu hợp muôn loài trong trời đất vào sự hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Và đó chẳng phải là biểu thức và nội dung của một Tình Yêu cao vời, của Nguồn Sống thần linh bất tận mà toàn bộ Kinh Thánh muốn tỏ lộ cho con người qua muôn thời đại, thực sự đã tuôn trào từ chóp đỉnh viên mãn của lịch sử cứu độ sao?
Truyền thống Kitô giáo thường nhấn mạnh tâm điểm của mạc khải chính là Lời Thiên Chúa, nhập thể trong thế giới lịch sử, vào một Ngôi Vị, “đã thành xác phàm” (Ga 1:14) để có thể gặp gỡ trọn vẹn và tự hiến làm của ăn “bởi trời” cho nhân loại trong biến cố Thánh Thể. Ngay từ thuở ban đầu, ở nhiều nơi, vào những thời điểm khác nhau, Lời Chúa được công bố và giải thích trong các cuộc cử hành phụng vụ (Cv 2:42). Chính vì thế, Thánh Thể là một cuộc “tưởng niệm”, một ký ức tổng hợp, một hiện trường tin kính cho quá trình biên soạn các bản văn Sách Thánh. Lời Chúa và Phụng vụ, Thánh Kinh và Thánh Thể liên kết nội tại, chặt chẽ với nhau, do đó, nhờ Thánh Thể chúng ta hiểu biết được ý nghĩa sâu xa của Kinh Thánh, và cũng nhờ Kinh Thánh chúng ta khám phá được ý nghĩa nguyên tuyền của Thánh Thể.
Theo thứ tự thời gian, Thư Thứ Nhất của Phaolô gửi cho các tín hữu Côrintô (1Cor 11:23-25) nhằm trả lời cho những chất vấn thời sự, những thách đố xã hội liên quan đến Bữa Tiệc Thánh Thể mà Giáo Hội tiên khởi phải đối diện, là chứng từ cổ xưa, được hình thành sớm nhất (53-54 AD). Suốt một phần tư thế kỷ sau khi Đức Giêsu tử nạn, các Kitô hữu vẫn tiếp tục hội họp mỗi tuần để cùng nhau chia sẻ bữa ăn huynh đệ mà tưởng nhớ đến Người. Chính Phaolô đã từng xác nhận nhu cầu phải “truyền lại” điều đó, và đó cũng là điều người đã “chịu lấy” từ nơi Chúa, nghĩa là từ truyền thống đức tin của Cộng đoàn Kitô hữu đương thời, biểu hiện trong những sinh hoạt phụng tự (1Cor 15:3-5). Như thế, dựa vào nguồn cội Thánh Truyền, cùng với những thao thức nhiệt tình của người Tông Đồ trước tình huống sống đạo của Cộng đoàn Côrintô, Phaolô đã triển khai một giáo thuyết súc tích về bí tích Thánh Thể. Với mục đích khuyên bảo các tín hữu sám hối, canh tân đời sống, duy trì chân tính của niềm tin và ý nghĩa đích thực của mầu nhiệm thánh thiêng được cử hành trong Thánh Thể. Tất cả những khuyên bảo đó cũng là những lời mời gọi yêu thương, những tiếng nói chất vấn cho một Cộng đoàn thăng tiến trong tình hiệp nhất giữa một thế giới phân hoá, tiêm nhiễm trào lưu thế tục.
Vì thế, khi nhận thấy có sự chia rẽ lan dần giữa các thành viên trong Cộng đoàn Côrintô, những quan điểm sai lầm về tự do, những tranh chấp, lạm dụng, tranh giành và phân biệt giai cấp xảy ra trong các bữa ăn huynh đệ, Phaolô vừa lên tiếng cảnh tỉnh, giải thích, vừa biện giáo để chính thức minh định Thánh Thể là Nguyên Lý Hiệp Thông, là Bữa Tiệc của Chúa, là Nghi Lễ Tưởng Niệm Ơn Cứu Độ. Và tất cả cuộc cử hành Thánh Thể, tuy mang nhiều chiều kích và tầm mức quan trọng khác nhau, đều là một biến cố cánh chung “loan truyền” sự chết của Đức Kitô cho đến ngày Người vinh quang “ngự đến” (1Cor 11:26). Trong ngữ cảnh đó, chúng ta có thể khảo sát những nội dung chính yếu của bí tích Thánh Thể chất chứa trong Thư Thứ Nhất và phần kết luận Thư Thứ Hai của Phaolô gửi cho Cộng đoàn tín hữu Côrintô (1Cor 10:14-22; 11:17-34; 13:4-8; 2Cor 14-15).
1. Thánh Thể – Nguyên Lý Hiệp Thông (1Cor 10:14-22)
Như chúng ta đọc thấy, những nguy cơ có thể làm băng rã Cộng đoàn Côrintô ngày xưa là sự kiện lạm dụng tự do, bất đồng quan điểm về tiêu chuẩn đạo đức, giá trị luân lý và những ân ban của Thần Khí, cũng như tình trạng sống buông xả tự tiện vô luân của một số tín hữu (1Cor 1:11; 5:1-6:20; 7:1-9, 10-16; 10:1-11:1). Dù ý thức hay vô thức, vô tình hay hữu ý, họ viện cớ rằng vì đã được thanh tẩy trong Máu Đức Kitô, được giải thoát khỏi quyền lực tội lỗi, được ăn một lương thực linh thiêng, cuộc sống được bảo đảm an toàn, nên bây giờ tự cho mình là những người tự do, nghĩa là tiến bộ, “trưởng thành” về tâm linh đến độ tự xưng là “được phép làm mọi sự” (1Cor 10:23). Thí dụ điển hình cho thái độ tự mãn hay tự tin quá đáng này là việc ăn thịt cúng tế và tham dự các nghi lễ tôn vương tà thần, mà không quan tâm, không ý thức rằng hành vi đó đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực, làm cớ vấp phạm cho nhiều thành viên “đơn thành” khác trong Cộng đoàn. Vì thế Phaolô đã viết thư phản bác, nhắc nhở cho Cộng đoàn nhớ lại nguồn gốc, ý nghĩa, mục đích của việc tụ họp nhau để ăn uống Bữa Tối của Chúa (1 Cor 10 -11) và nhấn mạnh nhu cầu phải cảnh giác: “Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng … Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cor 10:7 -12). Đồng thời, nhân cơ hội ấy, Phaolô triển khai những vấn đề liên quan đến đời sống Thánh Thể, phân định đâu là những đường hướng đạo đức chân chính của niềm tin Kitô giáo, một niềm tin có thể giải thoát và đem tất cả đến với sự thật của tình yêu Thiên Chúa.
Tự bản chất, đối với Phaolô, của dâng cúng cũng chỉ là thức ăn bình thường, và người rất thoáng về chuyện này. Thế nhưng việc cố tình ăn uống tế phẩm đã trở thành vấn đề nổi cộm gây ra nhiều ngộ nhận, vì người ăn mang thái độ tự tôn, trịch thượng, thách thức, miệt thị, chế diễu kẻ không dám ăn, và ngược lại, kẻ không ăn tự ti, hoang mang theo những mặc cảm bị loại trừ hay nghi ngờ đối với người ăn. Ý thức được vấn nạn đó, và do bối cảnh tranh luận, nhất là sự hiệp nhất trong đức tin của Cộng đoàn là đòi hỏi bức thiết, nên Phaolô đã phải lưu ý, khẳng định sự bất khả tương hợp giữa việc tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể với chuyện ăn của cúng tế (1Cor 10:14-19). Hơn nữa, Người còn xác định lại ý nghĩa trọng tâm của các Hy Tế trong Cựu Ước qua những lễ vật hiến dâng cũng như việc ăn uống trong các nghi thức phụng thờ như là biến cố hiệp thông thân mật, đích thân với Thiên Chúa. Vì thế Phaolô bày tỏ lập trường dứt khoát: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được” (1 Cor 10: 21).
Đây là một đòi hỏi nội tại của niềm tin Kitô giáo, nghĩa là chỉ tôn thờ và kết hiệp với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng tự truyền đạt chính mình và mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Người mà Thiên Chúa đến với con người và trong Người mà con người đến được với Thiên Chúa (2 Cor 5:19). Đó là Tin Mừng, là sứ điệp Kitô giáo, tuyên xưng tính độc đáo tuyệt đối của Đức Kitô. Bởi vậy, việc ăn tế phẩm diễn ra tại Côrintô đã gây ra bao nhiêu chuyện rắc rối, cho nên dù thế nào đi nữa cũng là một hình thức phối hợp với tà thần, tôn thờ ngẫu tượng, xa lìa Đức Kitô và Thân Mình của Người. Như Phaolô nhận định, có nhiều người trong Cộng đoàn rơi vào tình trạng đam mê, buông thả, phóng đãng, mất đi sự tự do đích thực của con cái Thiên Chúa. “Vì thế anh em thân mến, hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng. Tôi nói với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy suy xét điều tôi nói” (1 Cor 10:14). Với những lời khuyến cáo chân tình ấy, Phaolô gợi lại một sự kiện tiêu biểu trong Kinh Thánh xẩy ra vào thời Xuất Hành, đó là trường hợp nhiều người đã phải chết nơi sa mac, và hiển nhiên là tội tôn thờ ngẫu thần, quay mặt lại với Thiên Chúa (1Cor 10:6-11; cf. Xh 32:6). Tuy như là một bài học quá khứ với những “tai hoạ” đích đáng do tội bất trung, nhưng đặc trưng của sự kiện này không phải là để dọa nạt, mà là nhấn mạnh đến tính cách triệt để của sứ điệp Thánh Thể.
* Một Cộng đoàn – Một Tấm Bánh
Đối với Phaolô, Đức Kitô chính là Tế Phẩm của Giao Ước Mới, và khi các tín hữu ăn uống Mình Máu Thánh Người, họ thực sự bước vào tương quan “tình yêu-sự sống” với Người, trở nên một vơi Người, đồng thời được đưa vào tình hiệp thông tương tại, tương thuộc và liên đới với nhau, một Cộng đoàn, một Thân Mình. Do đó, việc công khai ăn uống lễ vật cúng tế, mà không quan tâm đến tính duy nhất trong niềm tin vào Đức Kitô và chỗ đứng độc nhất của Người, là thái độ ngạo mạn cố tình đoạn giao với Người, chủ ý phá vỡ sự hiệp nhất trong Cộng đoàn Giáo Hội. Tất cả đời sống Thánh Thể đều qui về mối liên hệ “bất khả phân ly” này với Đức Kitô và các chi thể của Người.
Tuy nhiên, không phải Phaolô chỉ khuyên nhủ hay cảnh báo các tín hữu Côrintô, nhưng còn đề cập đến vô vàn ân huệ phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Chủ đích sâu xa của Người là để giúp các tín hữu hiểu biết quá trình hoạt động của ơn Chúa, ngõ hầu có thể cảm ngộ được mối liên hệ với truyền thống tế tự và tạ ơn trong Kinh Thánh cũng như chiều kích phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Kitô. Do đó, Bữa Tiệc Thánh Thể chính là Hy Lễ Tạ Ơn, vừa mang ý nghĩa một lời đáp tri ân với mạc khải của Thiên Chúa từ trong Cựu Ước, vừa chứa đựng lời loan báo về Đức Kitô, Đấng mà trong Người, mọi sự được dựng nên, và nhất la từ nơi Người mà tuôn trào mọi thứ ân sủng rạng ngời. Trong ngữ cảnh này, có thể nói, tất cả niềm thao thức của Phaolô là trở về với cội nguồn Kinh Thánh, để diễn giải qua các ngôn từ biểu tượng những hồng ân của Thiên Chúa đã ban xuống cho Israel, là Dân được tuyển chọn, cũng như tuôn trào cho Cộng đoàn Kitô hữu, là Dân được thánh hiến trong Giao Ước Mới, được giải thoát ra khỏi lối sống cá nhân ích kỷ mà bước vào “đời sống trong Đức Kitô” (1Cor 2:3), trong tự do của một tình yêu hiệp nhất, theo dòng lịch sử cứu độ. Tất cả điều đó thuộc về kế hoạch nhiệm mầu, được thiết kế trong công trình kỳ diệu nguyên thuỷ của Thiên Chúa.
Bởi vậy, khi nói đến ơn “thanh tẩy”, Phaolô nhớ về biến cố “vươt qua Biển Đỏ,” nghĩa là ơn được Thiên Chúa giải thoát “dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môisê” đi vào đời sống mới (1Cor 10:2; Xh 14:22). Và hơn thế nữa, nếu ngày xưa trong cuộc lữ hành sa mạc, Dân Chúa được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng “một thức ăn linh thiêng” (1Cor 10:4; Xh 16:4), được cùng uống một dòng “nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ” (1Cor 10:4; Xh 17:6), thì ngày nay, Thân Mình và Máu trao hiến của Đức Kitô chính là lương thực thần linh cho tất cả Cộng đoàn Kitô hữu trên đường dương thế. Trong ý đó, Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến một truyền thống Kinh Thánh đã hình dung “Tảng Đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cor 10:4; Ds 20:8), và xác tín rằng Người là Đấng có trước muôn loài, vẫn luôn hoạt động trong lịch sử cứu độ, đồng hành và đồng bàn với Dân Thiên Chúa.
Đối với Phaolô, chỉ có Thiên Chúa là Đấng thi ân giáng phúc cho con người trong Đức Kitô, và bởi vì tất cả ơn cứu độ đã được hoàn tất nơi Người, nên mọi vinh quang, danh dự và muôn lời chúc tụng từ ngàn xưa cho đến muôn đời đều quy về Người. Thế nên, mặc dù nhờ vào ân sủng chan hòa trong Đức Kitô, các tín hữu đã được tự do, theo nghĩa là từ thân phận làm người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được giải thoát khỏi quyền lực của tội lỗi trong quá khứ để “được phép làm mọi sự; nhưng không phải mọi sự đều có ích”, cũng như không phải “mọi sự đều có tính cách xây dựng” (1Cor 10:23). Tự do Kitô giáo, theo quan điểm của Phaolô, là tự do nội tâm gắn liền với tinh thần trách nhiệm, vượt thoát ra khỏi thái độ kiêu mạn của “cái tôi tự-thân” để phát huy sự sống trong “cái tôi tương-thân” liên quan đến lợi ích của mọi thành phần trong Cộng đoàn. Nói cách khác, tự do đích thực trong Đức Kitô là một ơn gọi, một quà tặng quý giá, không chỉ dừng lại nơi khả năng hay trách nhiệm của mỗi cá nhân về lợi ích đời mình, nhưng mang chiều kích Giáo Hội, công ích, và chỉ có ý nghĩa chân chính khi được thể hiện trong hiệp thông nối kết tình người. Như Phaolô tổng lược nhận thức này: “Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác” (1Cor 10:24).
Như vậy, liên kết với Đức Kitô là vượt qua cái tôi ích kỷ đã “chết đối với tội lỗi” để tái sinh, sống tự do của tình yêu hiệp nhất với Người và mọi người trong Cộng đoàn. Tuy mỗi người nhận được những ân sủng của Thiên Chúa theo nhiều mức độ khác biệt, nhưng không phải để “sở hữu” cho riêng mình, mà thực sự là để “hiện hữu” sung mãn hơn trong tình yêu và chân lý, trong các mối tương giao nghĩa thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau như các chi thể của một Thân Mình (1 Cor 10:17). Theo lối nhìn của Phaolô, thì các tín hữu không thể nào sống bất cẩn bất cần, hay chỉ sống theo “lương tâm của mình” là đủ, mà còn phải lưu ý đến “lương tâm của người khác” và mang trách nhiệm về đời nhau nữa (1 Cor 10:29). Nguyên lý hiệp thông trong Cộng đoàn đòi hỏi các Kitô hữu:“dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cor 10: 31). Ở đây, Phaolô đưa chính mình ra làm thí dụ cụ thể: “Cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm lợi ích cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người để họ được cứu độ. Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cor 11:1). Thánh Thể cho thấy rõ việc xây dựng tình hiệp nhất của Cộng đoàn bằng chính ân sủng độc sáng được ban tặng cho mỗi thành viên là cách “sống trong Đức Kitô” theo cấu trúc của Giao Ước Mới (1 Cor 11:25; x. Eph 4:7); đó là sống trong vương quyền của một tình yêu tự hiến, cũng là sống tự do đích thực, như được giải thoát để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và mọi người.
Quả thật, khi Bánh và Rượu, hiến dâng trong nghi thức Phụng Vụ để trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô, các tín hữu cũng được thánh hiến và tháp nhập vào Thân Mình của Người. Trong ý nghĩa đó, Giáo Hội không phải là một thực thể trừu tượng phi ngã, nhưng là những ngôi vị sống động, những người con đích thực trong gia đình của Thiên Chúa theo hình ảnh và kiểu mẫu của Đức Kitô. Như vậy, Thánh Thể là môi trường thiết yếu cho tình yêu và sự sống của toàn thể Cộng đoàn Giáo Hội. Thánh Thể là trung tâm gặp gỡ nối kết tình thân và bao hàm mối tương quan liên vị cộng đồng, để mọi người nên một với Chúa và làm một với nhau. Có thể nói theo kiểu Phaolô, sống đời sống Thánh Thể là sống “trong Đức Kitô, sống cùng Đức Kitô và cho Đức Kitô” là Đầu của một Thân Mình (cf. Gl 2:19; Rm 14:17; Pl 1:2; 1Cor 12:12). Chính từ nơi Người mà toàn thân mình nhận được sự sống, tăng trưởng và có trách nhiệm xây dựng lẫn nhau. Yêu mến Người cũng là mến yêu các chi thể của Thân Mình Người. Với ý thức đó, “nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1Cor 12:26).
Thế nên, theo ý Phaolô, cho dù mọi tín hữu đã được tự do, được phép làm mọi sự, và việc ăn thịt cúng có hợp pháp đi nữa, thì cũng nên hy sinh từ bỏ, vì tự do trong Đức Kitô được thiết lập và phát huy trên nền tảng hiệp nhất, vượt lên trên quan điểm tự tiện sống thoải mái cho riêng mình. Tự do đó chỉ có ý nghĩa trong tình liên đới, hoà điệu cảm thương, phục vụ lẫn nhau, thoát khỏi sự ràng buộc vào những thành kiến của một xã hội hưởng thụ. Đối với hiện hữu Kitô, tự do và ý thức trách nhiệm luôn phối hợp với nhau để sinh lợi ích chung nhằm xây dựng một Cộng đoàn thuận hoà gắn bó, và hướng tới nguồn sáng của tình yêu đích thực, tình yêu biết tự do đón nhận và trao ban sự sống.
* Một Thân Mình – Một Hy Lễ
Mối quan tâm chính yếu của Phaolô là làm sao cho các tín hữu ở Côrintô thấy được ý nghĩa chân thực của Thánh Thể như là Bữa Tiệc Yêu Thương hàm chứa lời cam kết dấn thân sống với nhau, cho nhau và vì nhau trong một Cộng đoàn. Cảm thức hiệp nhất này không phải do máu huyết, nhưng xuất phát từ một niềm tin đáp trả lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa, vì nhờ bí tích Thanh Tẩy mà tất cả các tín hữu đã được sát nhập vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, để trở thành chi thể của một Thân Mình, một Lễ Dâng trong Thánh Thể. Như Phaolô nhấn mạnh:
Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một Tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể (1 Cor 10:16-17).
Thế nhưng tại Côrintô, mối dây liên kết và nghệ thuật chia sẻ cho nhau đã bị đánh mất. Căng thẳng xung đột nảy sinh do một số người giầu có trong Cộng đoàn tụ tập thành một nhóm tách biệt, đoạn giao và từ chối phân chia thức ăn cho các thành phần nghèo đói. Đúng ra thì Bữa Tiệc Thánh Thể phải là cơ hội kiến tạo và dưỡng nuôi hiệp thông như thuở ban đầu, khi mỗi thành viên đem theo phần ăn của mình, rồi góp chung lại và cùng nhau ăn uống, nhưng lại thoái hoá thành cơ chế phân chia giai cấp xã hội. Một Cộng đoàn không “đồng tâm nhất trí”, nghĩa là thiếu tình hiệp nhất và không còn quan tâm đến nhau nữa thì không thể nào đồng bàn với nhau. Và do đó, theo nghĩa tương quan liên vị, cốt lõi của Thánh Thể là tạo điều kiện thuận lợi, làm sao cho tất cả các thành viên tham dự có thể thuận tình gặp gỡ và vượt qua được những biên giới ngăn cách để thực thi yêu thương theo khuôn mẫu Bữa Tiệc Ly. Sự phân biệt đối xử căn cứ vào thế lực, địa phương, chủng tộc, phái tính, giai cấp xã hội hay địa vị sang hèn là hoàn toàn mâu thuẫn với tình yêu tự hiến và tinh thần phục vụ khiêm hạ của Đức Kitô trong biến cố Thánh Thể, Đấng đã hoà giải mọi người trong chính cái chết đau thương để mở rộng con đường nối kết.
Thật vậy, hiệp thông là “biến cố” của Thánh Thể diễn ra ở tầm mức tương giao ngôi vị. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao Phaolô đề cập đến việc ăn Bánh và uống Chén một cách bất xứng như là hành vi tự xét xử chính mình, nghĩa là “khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có tài sản” (1 Cor 11: 22). Vì khi “dự phần vào Máu Chúa Kitô” là tham gia vào Giao Ước Mới mà chính Đức Kitô đã thiết lập nhờ Máu Người đổ ra. Sự thông phần này có thể nói là nét đặc thù của Kitô giáo; đó là sự cô đọng kinh nghiệm đức tin vào điều cốt yếu nhất, ngắn gọn nhất, để tất cả cuộc sống của người Kitô hữu trở nên lời đáp sống động đối với Giao Ước Mới. Chính vì thế, vấn đề “phạm đến Mình và Máu của Chúa” mà Phaolô chủ ý đưa ra (1Cor 11:27), cũng như “không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cor 11: 29) chắc chắn có liên hệ đến sự thật và tầm quan trọng của “Một Tấm Bánh – Một Thân Mình” theo nghĩa thâm sâu và trọn vẹn nhất. Như vậy, ở đây, ý tưởng truyền thống về “tội phạm sự thánh” có thể hội đủ cả hai ý nghĩa.
Trước hết, đó có thể là vấn đề của người ăn uống cách không xứng đáng, không hiểu rõ ý nghĩa, không có lòng tôn kính, không lãnh hội thấu đáo tính cách thánh thiêng của Mình Thánh Chúa, hay không ý thức được mức độ “hiện diện thực” của Đức Kitô trong tương quan với Bánh và Rượu, cũng như thái độ bàng quang, đáp ứng ơ hờ, dửng dưng trong cuộc cử hành phụng vụ. Nhưng hơn thế nữa, vì mệnh đề “Thân Mình Đức Kitô” trong tư tưởng Phaolô đã nhiều lần tiêu biểu cho Cộng đoàn Giáo Hội (1Cor 12:27;cf. Eph 4:12; 5:30; Col 1:24). Quan tâm của Phaolô rộng và sâu hơn nhiều. Người phê phán và quở trách các tín hữu ở Côrintô đã gây bè kết đảng, kỳ thị, nhìn nhau bằng những con mắt đố kỵ, vì thế mà họ phá đổ tình hiệp nhất và không nhìn ra được toàn thể “Thân Mình Giáo Hội” chính là Thân Mình Đức Kitô. Ở đây, dù thế nào đi nữa, chúng ta có thể thấy sự hiện diện đích thật, đích thân của Đức Kitô là một sự hiện diện bao trùm, toả khắp trong cuộc cử hành Thánh Thể, trong việc cầu nguyện và chia sẻ lương thực giữa các thành viên của Cộng đoàn, chứ không đơn thuần là sự hiện diện “cố định” trong của ăn thức uống. Đây có thể nói là chủ đề nổi bật trong toàn bộ thần học Thánh Thể của Phaolô, một định nghĩa độc đáo mà chúng ta không gặp thấy nơi các tác giả Kitô giáo cùng thời với người. Trong lối nhìn đó, Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến mối tương liên nội tại thâm sâu giữa “Thân Mình Tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô” với “Thân Mình Thánh Thể” và “Thân Mình Giáo Hội” (1Cor 12:27).
Từ những suy tư trên, và theo kinh nghiệm bình thường của cuộc sống, nếu chúng ta đến tham dự một bữa tiệc mà chỉ có mặt để khích bác, chứ không phải hiện diện để “bẻ bánh” chia cho nhau trong ý thức tình thân, thì cả buổi gặp gỡ đó trở thành vô nghĩa tầm phào. Có lẽ chẳng có lý do nào khác hơn khi Phaolô nhận định về những điều bất hạnh đã xảy đến cho Cộng đoàn Côrintô là hệ luỵ của những bất hoà từ việc không ai chịu chia sẻ cho người khác những gì mình đã lãnh nhận, và vì vậy mà không thể đồng bàn với nhau trong tình hiệp nhất. “Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án” (1Cor 11:33-34). Như thế, những ai đến tham dự Bữa Tiệc Thánh Thế đều phải phân biện suy xét về những hành vi của mình, để khi ăn một bánh, uống chung một chén, họ nhận ra chính họ là chi thể của một Thân Mình. Nếu như một Cộng đoàn Kitô hữu không còn tình thân thương để mở rộng trái tim đón nhận nhau thì cuộc tưởng nhớ Đức Kitô và loan báo sự chết của Người, không những mất hết ý nghĩa mà còn là một xúc phạm trầm trọng. Ở đây, có thể nói, Thánh Thể vừa là lời “tạ ơn” khuôn đúc nên cách sống của người Kitô hữu, vừa là lời “tra vấn” thẩm xét những ai không nhận biết và thực hành mầu nhiệm của tình yêu thương liên kết.
Như thế, Thánh Thể, theo ý phân tích của Phaolô, liên hệ sâu xa đến từng người và mọi người trong Cộng đoàn. Một chi tiết chú giải cho biết, trong khi các Phúc Âm khác tường thuật việc “phản bội” Đấng Cứu Thế trước và sau biến cố Tiệc Ly (Mc 14:18-21; Mt 26:21-25; Lk 22:21-23), Phaolô lại mô tả một sự “phản bội” tình yêu tự hiến của Đức Kitô xảy ra ngay trong Bữa Tiệc ấy. Đối với Phaolô, sự phản bội được hiểu như là thái độ ích kỷ, là hành vi gây thương tổn, xáo trộn và chia rẽ; đó là những hố sâu ngăn cách dẫn đến khủng hoảng chết chóc, làm cho nhiều người trong Cộng đoàn ốm đau suy nhược tinh thần, không thể tiêu hóa được của ăn linh thiêng đưa đến sự sống đích thực. Những ai tham dự Thánh Thể với những động lực bất chính như vậy, thay vì “loan truyền Chúa đã chịu chết, cho tới ngày Chúa đến” (1 Cor 11:26), thì coi chừng, có thể là “loan báo cái chết của chính mình” khi Chúa chưa ngự đến. Bởi vì trọng tậm của Thánh Thể là gì, nếu không phải là hồng ân cứu độ con người từ một đời sống cô lập đơn lẻ để bước vào một Cộng đoàn huynh đệ, vào sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô trong một Thân Mình, với nhận thức tương thuộc, luôn cần đến nhau, tôn trọng lẫn nhau và thông cảm cho nhau? Thánh Thể cử hành và thể hiện lòng trung tín gắn bó của các tín hữu với Đức Kitô và Giáo Hội, và cũng như chính lòng gắn bó trung tín đó tạo cho cuộc cử hành Thánh Thể một ý nghĩa trọn vẹn tròn đầy.
Trong viễn tượng này, kinh nghiệm về Thánh Thể là kinh nghiệm hiệp thông, và chỉ trong thông hiệp mới có sự sống Thánh Thể. Không thể có Thánh Thể trong một Cộng đoàn thiếu vắng yêu thương. Nếu cử hành Thánh Thể mà không cần bận tâm đến những người còn thiếu thốn khổ đau trong Cong Đoàn hoặc không can đảm mặc lấy tâm tình hiến dâng của Đức Kitô, thì cuộc cử hành đó sẽ chỉ là việc tưởng nhớ lý thuyết về Chúa trong những nghi thức hào nhoáng trống rỗng, không thể nào phát huy hiệu quả của ơn cứu độ. Do đó, điều mà Cộng đoàn thưc hiện để tưởng nhớ Đức Kitô chính là cảm thức sâu đậm về tình yêu tự hiến của Người như lời Người truyền dạy, ngõ hầu có thể tự do đáp trả bằng quyết định từ bỏ lối sống cũ, lối sống của những thái độ ngạo mạn, bạo động, ích kỉ, ghen ghét, phân chia bè phái hay toan tính lợi nhuận. Hơn nữa, qua việc tham dự vào cùng một Tấm Bánh, cùng một Chén, Thánh Thể biểu lộ bản chất thực sự và lý do hiện hữu cũng như căn tính của Cộng đoàn Kitô hữu là tất cả thành viên được liên kết thành một Thân Mình. Lãnh nhận Thân Mình Thánh Thể là lãnh nhận Thân Mình duy nhất của Đức Kitô, là thông phần cùng một sự sống, cùng một tình yêu với Cộng đoàn Giáo Hội.
Như vậy, Thánh Thể vừa dưỡng nuôi đời sống người Kitô hữu, vừa làm cho đời sống đó tăng trưởng trong ý hướng phục vụ của lòng mến. Nhờ quyền năng của Thần Khí, Thánh Thể làm nên một Giáo Hội “tương thân tương ái”, hiện diện đích thực và đích thân với nhau, sống trong tình liên đới, trong mối quan tâm yêu thương đến cuộc đời và vận mạng của nhau. Có thể nói, tinh thần cộng đoàn được thể hiện qua lối sống hiệp thông chính là nền tảng cơ bản, là điều kiện thiết yếu, “sine qua non”, cho một cuộc cử hành Thánh Thể được “thành sự” đúng với ý nghĩa nguyên tuyền. Ở đâu có Cộng đoàn thể hiện yêu thương thông hiệp, ở đó mới có sự thông phần xứng hợp vào nguồn ơn Thánh Thể hoà chan. Thánh Thể là một Bàn Tiệc trong đó mọi người tham dự được “hiến dâng” và “thánh hoá” để trở thành một Tấm Bánh, một Chén Thánh, một Cộng đoàn liên kết trong một Thân Mình Đức Kitô.
2. Thánh Thể – Bữa Ăn của Chúa (1Cor 11: 17-22)
Thánh Thể, theo Phaolô, chính là “Bữa ăn của Chúa” (1Cor 11: 17-34) vào mỗi chiều Chúa Nhật; đó là bữa tiệc yêu thương trong phục vụ hiệp thông. Ở đây, cũng nên gợi lại một bữa ăn đặc biệt gọi là “Agape” của các Kitô hữu thời sơ khai. Khi đến tham dự, mỗi người thường mang theo thức ăn đồ uống, dù ít hay nhiều, để cùng chia sẻ với nhau. Ý nghĩa thực sự của việc dự phần vào các bữa ăn ấy là kiến tạo, nuôi dưỡng tình liên đới hiệp nhất trong Cộng đoàn. Mọi người, dù giầu sang hay nghèo khó, có thể ngồi bên nhau một cách thân tình thoải mái. Thế nhưng, thực tế tại Côrintô, vì còn hố sâu phân cách và phô trương thế lực giữa người tự do, kẻ nô lệ, người có của, kẻ cùng đinh, nên việc cử hành Bữa Tiệc của Chúa đã biến nghĩa, biến chất và làm chao đảo tất cả. Phaolô đã không ngần ngại trách cứ:
Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây tai hại. Thật thế trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều ấy có phần đúng. Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn (1 Cor 11:17-19).
Theo một số nghiên cứu sử học Thánh Kinh, vì trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ, Cộng đoàn Kitô hữu lớn mạnh dần về số lượng, cho nên nhu cầu hội họp bắt đầu khó khăn, và phải tìm nơi chốn thích hợp để cử hành Bữa tiệc của Chúa. Chính vì thế, những người khá giả trong thành phố, thường có nhà cao cửa rộng, sẵn sàng đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của Cộng đoàn. Mỗi nhà có thể tiếp đón khoảng 50 tín hữu thường xuyên tụ họp. Tuy nhiên, vì lòng người phức tạp với tính ích kỷ còn đó, nên nhiều sự việc xảy ra. Nghệ thuật chia sẻ cho nhau biến chất thành xảo thuật phân biệt vô cảm. Mọi người được mời đến dự tiệc Thánh Thể, nhưng không phải ai cũng được tiếp đón nồng hậu trân quý. Bởi vì theo sự quy định của gia chủ, một phòng ăn nhỏ “hạng nhất” (triclinium) được dành cho nhóm khách đặc biệt, sang trọng, giầu có hay quyền thế; đó có thể là những bạn bè thân thích, đồng nghiệp, doanh nhân cung trình độ đẳng cấp với nhau, và họ có thể nằm thưởng thức các món ăn thịnh soạn. Trái lại, tại sân vườn (atrium), “hạng phổ thông,” là tụ điểm của dân nghèo căn cứ theo chủng tộc và giai cấp. Được tiếp đãi một cách miễn cưỡng, nên nhóm người yếu thế này phải ngồi phía bên ngoài, chung quanh một hồ nước ở giữa, ăn uống những phần dư thừa từ bàn trên bưng xuống, hoặc có thể phải nhịn đói mà về. Hiện thực đối xử như thế đã làm mất đi tất cả ý nghĩa Thánh Thể. Do đó, Phaolô chất vấn để bênh vực người nghèo yếu thế và đặt lại vấn đề tiệc thánh trong ngày lễ hội của Cộng đoàn
Khi anh em họp nhau, thi không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, thi kẻ đói, người lại say. Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? (1Cor 11: 20 -22)
Điều này ít nhất cho thấy, nếu không có sự bình đẳng và sẻ chia đồng đều, thì Cộng đoàn Kitô hữu không thể gọi là một Cộng đoàn Thánh Thể, dù đã bao lần tụ họp nhau cầu nguyện và cử hành nhân danh Đức Kitô. Nói cách khác, nếu không thực sự hiểu biết ý nghĩa về “Bữa ăn của Chúa”, và nếu không định hướng cuộc sống cho phù hợp với nội dung cơ bản của những điều được cử hành, thì Bữa tiệc Thánh Thể có nguy cơ trở thành bữa tiệc phàm tục, một biến cố thuần túy giao lưu bè phái. Tất cả đến rồi đi, chẳng còn mang ý nghĩa thánh thiêng nào có liên quan đến Hy Tế cứu độ và sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, cũng như thiết lập tương giao thân tình với mọi người trong Cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Phaolô cố gắng bàn luận về những tình huống phức tạp từ một nhận thức chắc chắn đối với sứ điệp Tin Mừng:
Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem, khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người (1 Cor 1:26-29).
Trong viễn tượng của Bữa Tiệc tưởng nhớ này, Thánh Thể là lễ tế thiêng liêng, là lương thực dưỡng nuôi, là ánh sáng soi đường cho cuộc sống Kitô giáo, một cuộc sống nhân ái bao dung, không phân biệt địa phương, không kỳ thị loại trừ. Theo Phaolô, những ai tự cho mình là khôn ngoan quyền thế, giầu sang, theo kiểu sống “thế tục” mặc kệ ai, thì cần lưu ý, chú tâm đến trách nhiệm với đồng loại, với những kẻ khốn cùng trong Cộng đoàn cũng như trong xã hội. Ngay từ đầu khi được “mời gọi” làm Tông Đồ rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô (1Cor 9:1-14), Phaolô đã không hề đòi hỏi một “đặc quyền” hay phần thưởng nào khác hơn ngoài việc trở nên người tôi tớ khiêm nhường. Vai trò của người là bảo vệ và đùm bọc những kẻ bé mọn yếu kém mà chính Đức Kitô đã chịu chết thay cho. Vì quan niệm về chức vụ như thế, nên phương pháp thi hành của Phaolô cũng rất khác biệt:“Tôi đã trở nên yếu với người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số nguời. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1Cor 9:22-23).
Trong ý hướng đó, đối với đức tin Kitô giáo, cũng như hiện hữu Kitô, tham dự vào Thánh Thể vừa là lời cam kết gắn bó với Đức Kitô, vừa là cuộc hạnh ngộ với các chi thể, nhất là các chi thể nghèo nàn khốn khó của Người trong Giáo Hội, là những con người cụ thể hiện diện ở đây trong cùng một Bàn Tiệc. Nói cách khác, Bàn Tiệc Thánh Thể là tụ điểm kết giao, đón tiếp mọi người, không phân biệt từ đâu đến với những đặc sủng, tài năng hay điều kiện kinh tế, văn hoá khác nhau, vì tất cả đều chia sẻ một sự sống, một tình yêu, miễn là có niềm tin vào Đức Kitô và đã được giao hòa với Người. Đó là cơ hội để ra khỏi chính mình, để gặp gỡ đối thoại, và để chứng thực cho một niềm tin được ký kết trong Giao Ước Mới. Với những lời lẽ vừa xúc tích, khúc chiết vừa đậm nét biện giáo, Phaolô tìm về ý nghĩa nguyên thuỷ và mục đích của biến cố Thánh Thể mà Đức Giêsu đã thiết lập:
Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bi trao nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cor 11:22-25).
Trong các bản văn Tân Ước trình thuật về Bữa Tiệc Ly, có thể nói, đây là một đoạn đáng chú ý hơn cả. Với trình thuật ngắn gọn, Phaolô dựa vào truyền thống các Tông Đồ mà minh giải giáo lý chính thống về Thánh Thể như là “Bữa ăn của Chúa”. Đó cũng là nghi lễ phụng thờ thiêng liêng nhất, là trung tâm và cao điểm của phụng tự Kitô giáo, đặc biệt vào những thế kỷ đầu, để tưởng nhớ việc Đức Kitô trao hiến thân mình cho Cộng đoàn Giáo Hội. Chính từ Bữa Tiệc này như một “môi trường sinh thái” mà Giáo Hội được thành hình, được thánh hoá và nhận ra mình chính là Thân Mình của Đức Kitô. Vì thế, Thánh Thể là nơi độc nhất có thể triệt hạ được các hàng rào ngăn cách kỳ thị giữa người với người trong mọi tình cảnh xã hội. Tụ họp Thánh Thể là để tưởng nhớ Đức Kitô, và ở đây tưởng nhớ không phải chỉ là “cử hành” các nghi thức theo qui định cho bằng cảm nhận và biểu hiệu được sự hiện diện chủ vị của Đức Kitô trong Cộng đoàn Giáo Hội, ngõ hầu các tín hữu, dù bé nhỏ hay tầm thường đều có thể tiếp nối sự hiện diện đích thân của Người qua tình hiệp nhất, và chìm ngập trong nhịp điệu yêu thương của một đời sống mới.
Đối với Phaolô, Thánh Thể thực sự là Bữa Ăn chung mà các tín hữu trong Cộng đoàn Giáo Hội họp nhau cử hành, đón nhận và diễn tả căn tính của mình dựa trên một nền tảng duy nhất chính là Đức Kitô. “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em”(1Cor 11:22). Ý nghĩa đó, theo Phaolô, vừa là kinh nghiệm được thần cảm, vừa là chân trời sống khi người tín hữu thông phần vào Mình và Máu Đức Kitô, vào cái chết cứu độ của Người. Trước những đau khổ cùng cực của sự phản bội, trước giơ tử nạn bi thương, Người đã hiến dâng cho các môn đệ tất cả bản thân của Người qua hành vi bẻ Bánh và trao ban Chén rượu của Giao Ước Mới. Nói cách khác, “Bữa ăn của Chúa” là Bữa ăn “tạ ơn” trong đó các Kitô hữu cử hành sự hiệp nhất đối với Thiên Chúa và giữa họ với nhau. Đây là công việc thờ phượng của tất cả Cộng đoàn, một nghi lễ có tính cứu độ nguyên thuỷ, không những hiện tại hoá Hy Lễ của Đức Kitô, nhưng còn thể hiện và thực hiện hiệp thông, nghĩa là sống lại những cử chỉ và lựa chọn cơ bản của Đức Kitô trong Bữa Ăn cuối cùng đó. Bởi vậy, làm sao các tín hữu có thể thực sự tưởng niệm cái chết cứu độ của Đức Kitô và chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể giữa một nhóm người chỉ “có mặt” họp lại như những kẻ xa lạ?
Thật thế, Bữa Tiệc Thánh Thể là “Bữa ăn của Chúa”, là nguồn mạch của sự hiệp nhất Kitô gíao, và có sức mạnh cuốn hút các Kitô hữu ra khỏi những tháp ngà ích kỷ của tư lợi. Thánh Thể không bao giờ cho phép phân biệt con người hay giai cấp xã hội, kinh tế, chủng tộc, đầu óc địa phương, phái tính, tuổi tác, sức khoẻ và địa vị. Vì nhờ tình yêu tự hiến của Đức Kitô mà Giao Ước Mới được mở rộng cho muôn người, không phải là mối liên hệ có tính cách pháp lý như thuở xa xưa, nhưng tất cả là ân sủng, là do sáng kiến của tình yêu thương phổ quát mà Thiên Chúa tuôn đổ vào lòng đời. Như vậy, theo Phaolô, cử hành Thánh Thể trong bối cảnh của bữa tiệc hiệp thông, như một hình thức phượng tự của Giáo Hội thuở ban đầu, vừa giúp các tín hữu nhận ra sự hiện diện đích thân của Đức Kitô, vừa làm cho họ hội ra nội dung và ý nghĩa chủ yếu của Hy Tế Kitô giáo. Khi dâng Bánh và Rượu Thánh Thể, thì chính các tín hữu dự phần vào việc tự hiến của Đức Kitô cho Thiên Chúa, và ngay trong các kinh nguyện chúc tụng tạ ơn, họ được đồng hoá với Người và cùng với Người cử hành Hy Tế cứu độ đó.
3. Thánh Thể – Tưởng Niệm Ơn Cứu Độ (1Cor 11:23-34)
Như một Hy Lễ của Cộng đoàn tín hữu, Thánh Thể tưởng niệm công trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất cách viên mãn trong Đức Giêsu Kitô, và hàm chứa tất cả mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời của Người. Và không có gì trong đời Người mà không mang dấu ấn hy tế, vì Người là “Đấng đã sống vâng phục cho đến chết” (Pl 2:8). Nhờ Máu Người đổ ra để thiết lập Giao Ước Mới, Thiên Chúa “đã đưa thời gian tới hồi viên mãn” (cf. Eph 1:7-10; Col 1:15-20), và trong hiến tế của Người trên Thánh Giá, mọi sự đã được giao hoà để ơn cứu độ tràn dâng. Tuy nhiên, khi cử hành Thánh Thể, Cộng đoàn tín hữu không chỉ nhớ lại những lời Người tuyên bố, lập lại những hành động Người đã thực hiện, nhưng tưởng nhớ thực sự là cử hành “Bữa ăn của Chúa” như một biến cố cứu độ “bây giờ và ở đây” trong cấu trúc vừa “làm việc này mà nhớ đến” Người, vừa “loan truyền” cái chết của Người cho tới ngay Người ngự đến trong vinh quang (1Cor 11:22-26). Điều đáng chú ý là trình thuật của Phaolô cũng ngắn gọn như các Phúc Am Nhất Lãm, nhưng gần nhất với bản văn của Luca, và đặc biệt chỉ có người là tác giả duy nhất ghi lại hai lần “mà tưởng nhớ đến Thầy” khi Đức Giêsu trao bánh cũng như khi nâng chén (1Cor 11: 24, 25).
* “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
Như thế, dưới cái nhìn của Phaolô, đặc tính cốt yếu của cuộc cử hành Thánh Thể chính là thi hành mệnh lệnh cuối cùng và ý hướng quan trọng nhất của Đức Kitô trong Bữa Tiệc Ly với Cộng đoàn các môn đệ. Thuật ngữ “hãy làm mà nhớ” hay “hãy nhớ mà làm”, cũng như kiểu nói “càng làm càng nhớ” và “càng nhớ càng làm” ít nhất cũng gợi lên cho chúng ta thấy chiều kích sống động của việc tưởng niệm trong Kinh Thánh. Những từ ngữ Hip-ri “zikkaron, azkarah”, được chuyển dịch sang tiếng Hy-lạp như là “anamnesis, mnemosunon”, cũng diễn tả sự tưởng niệm, nhưng không đơn thuần là một chuyển động của hiện tại hướng về dĩ vãng, mà ngược lại, chính là “hiện tại hoá” và làm sáng tỏ một biến cố đã qua. Theo kinh nghiệm đó, tưởng niệm chủ yếu không phải là “nhớ suông” như một thực tại chủ quan chỉ xảy ra trong suy luận hay trong trí óc của con người, để rồi nhớ, để rồi quên. Dù khá nghịch lý, nhưng như thế, tưởng niệm cũng không chỉ là nhớ lại, nhớ về hay hồi tưởng, mà còn là nhớ đến, với tất cả lý lẽ và tâm tình của trái tim, qui hướng và quyện chặt với nhau. Như vậy, vừa nhớ vừa thương hợp lại thành một hành vi thương nhớ mang ý nghĩa biện chứng giữa “nhớ mà làm,” và giữa “làm mà nhớ” (1Cor 11: 24, 25).
Trong bối cảnh của Kinh Thánh, một nghi lễ tưởng niệm chính thức, điển hình như Lễ Vượt Qua, vừa là dịp để Cộng đoàn Phụng Vụ “nhớ về” những kỳ công mà Thien Chúa đã thực hiện trong Lịch Sử Cứu Độ, nhưng đồng thời cũng là nghi thức để “nhớ đến” tình thương của Người vẫn luôn tồn tại. Nói cách khác, tưởng nhớ là làm cho biến cố trung tâm này của ơn cứu độ thực sự trở nên hiện tại, và sinh hoa kết trái trong hiện tại. Bởi vì kinh nghiệm về tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ dừng lại trong quá khứ mà toả sáng trong hiện tại, như một “ký ức hôm nay” vượt ra ngoài mọi hệ thống suy lý và tâm lý phân chia thời gian. Với cách hiểu như vậy, khi khẩn cầu Thiên Chúa nhớ đến Dân Người thì cũng có nghĩa là xin Người thực hiện và thông ban tình thương ấy “ở đây” và “lúc này” cho Cộng đoàn đang tưởng nhớ. Như lời Môsê: “Đức Chúa đã lập Giao Ước này không phải với Cha ông chúng ta, mà là với chúng ta, những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống” (Đnl 5:3). Chính vì thế việc tưởng nhớ Đức Kitô trong Thánh Thể diễn ra như một “biến cố” mang cùng một ý nghĩa tích cực, sống động với “thời khắc” (kairos) của ơn cứu độ, khởi xướng sự hội ngộ đích thực giữa Thiên Chúa và con người ngay trong hiện tại. Nói cách khác, tưởng nhớ trong Thánh Thể là hiện tại hóa ý nghĩa, giá trị và hiệu qủa vĩnh cửu của Giao Ước Mới, trọn vẹn và chung cuộc. Quá khứ trở nên đồng thời với Cộng đoàn cử hành việc tưởng nhớ.
Đó là lý do Phaolô thâm tín về điều mình đã lãnh nhận và đặc biệt nhấn mạnh đến chiều kích tưởng niệm khi cử hành Bữa ăn của Chúa. Phụng vụ Thánh Thể chính là “cảnh vực” thích hợp nhất mà sự hiện diện đích thân của Đức Kitô, và quyền năng của Người, cũng như hiệu lực của ơn cứu độ có thể hiển thị một cách mới mẻ. Dù cuộc tưởng niệm có thể chỉ là một “khoảnh khắc” vắn vỏi trong thời gian “giờ đây”, nhưng là một biến cố nói lên tất cả ý nghĩa của nguồn sống thần linh tuôn đổ giữa lòng đời, vì lúc nào Đức Kitô cũng đứng vững trên đỉnh viên mãn của thời gian. Với Phaolô, lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” bao gồm hành vi “làm việc này” gắn liền với mục đích mà “nhớ đến Thầy”. Như thế, “làm việc này” chính là cử hành nghi lễ Thánh Thể, là cầm lấy Bánh và Chén, đọc lời chúc tụng tạ ơn, chia sẻ và thông phần vào Mình và Máu Đức Kitô, để tưởng nhớ tình yêu tự hiến của Người, một tình yêu theo nghĩa thâm sâu, trọn vẹn nhất được biểu lộ qua cái chết trên Thánh Giá. Đồng thời việc “nhớ đến Thầy” còn là lời mời gọi hết sức sinh động giữa kinh nghiệm đón tiếp Người là “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến” hiện diện với Cộng đoàn tín hữu trong cuộc cử hành Thánh Thể, và kinh nghiệm trông chờ Người là Đấng sẽ đến trong tương lai vĩnh phúc.
* “Loan truyền Chúa đã chịu chết”
Thế nên, Thánh Thể cử hành biến cố Vượt Qua của Đức Kitô, và nhờ biến cố đó mà công trình cứu độ được hoàn tất. Tuy nhiên, ơn cứu độ vẫn tiếp tục toả rộng hiệu quả trong chiều dài của lịch sử, vì vậy mỗi lần tưởng niệm Hy Tế Thánh Giá, Cộng đoàn tín hữu thực sự “loan báo cái chết” của Đức Kitô cho đến khi Người lại đến. Ở đây, không phải Phaolô chỉ đề cập đến việc “loan báo cái chết” mà cố tình bỏ qua lời công bố phục sinh của Thánh Thể. Trong toàn bộ cấu trúc ý nghĩa, Bữa Tiệc của Chúa tự bản chất là Bữa Tiệc với Đức Kitô Phục Sinh. Ngay trong câu nói:“Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cor 11:26) đã hàm chứa ý nghĩa và lời tuyên tín “Chúa đã sống lại”.
Dù vậy chúng ta cũng muốn tìm hiểu lý do tại sao Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến việc “Chúa đã chịu chết” như thế. Phải chăng đây là một ngụ ý thần học sâu xa để đối chất với những tư tưởng cực đoan, những trào lưu văn hoá của xã hội đương thời đang ảnh hưởng sâu nặng trên sinh hoạt tôn giáo ở Côrintô, khiến nhiều tín hữu hoang mang lo ngại cho niềm tin Kitô giáo và dẫn tới nhiều phản ứng khác nhau? Thật ra, có một số tín hữu trong Cộng đoàn đã khởi xướng phong trào tôn thờ “Đức Kitô Phục Sinh” tách biệt khỏi “Đấng đã chịu đóng đinh.” Chủ ý của họ là muốn công khai biện minh cho cả Cộng đoàn thấy rằng điều mà đức tin Kitô giáo đòi hỏi không phải là “qua đau khổ để đến với vinh quang,” nhưng ngược lại, chính là “sống vinh quang mà không cần qua đau khổ.” Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi họ quan niệm rất sai lầm về đời sống mới trong Đức Kitô như là một lối sống “tự do hưởng thụ”, tất nhiên không còn chỗ cho những hy sinh, những khổ chế của mình và của người khác nữa. “Chúa đã sống lại rồi”, họ nghĩ vậy, nên “ăn chay hãm mình” mà làm gì, đau khổ bây giờ có ích chi? Và để khẳng định điều đó đến mức tối đa, họ tuyên xưng một “Đức Kitô không Thánh Giá,” nghĩa là từ chối bước theo Người vào con đường “tự huỷ” khiêm nhu của tình yêu tự hiến. Quan điểm và luận điệu của những tín hữu này về ơn cứu độ, về vinh quang và vương quyền của Đức Kitô Phục Sinh hoàn toàn xa lạ với suy nghĩ của Phaolô; và đó chính là nguyên cớ gây ra những xáo trộn, làm đổ vỡ tình hiệp nhất trong Cộng đoàn. Những ai không dám sống theo cái gọi là “tinh thần thời đại” ấy, thì bị liệt kê vào hàng ngũ những kẻ “yếu đuối”, “lỗi thời” và thiếu sự khôn ngoan.
Chính ở điểm này mà “Lời rao giảng về Thập Gía” ngay trong phần đầu thư của Phaolô gửi cho Cộng đoàn Côrintô (1Cor 1:18) mang tất cả ý nghĩa khôn ngoan của Kitô giáo:
Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Cor: 22-24)
Chúng ta có thể nhận ra niềm xác tín của Phaolô về Đức Kitô bị đóng đinh chính là Đấng chuyển đạt ơn cứu độ từ tình yêu tự hiến của Người, làm thành một Hy Lễ vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Ai đón nhận Đức Kitô là đón nhận con đường Thánh Giá, bước đi trong tình yêu, chiến thắng trong mọi thử thách, tìm được sự sống mới trong cái chết của Người, nghĩa là được tham dự vào sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, khi cử hành việc tưởng niệm ơn cứu độ, Cộng đoàn các tín hữu thực sự bước vào sự hiệp nhất giao ước mới với Đức Kitô, đồng thời chia sẻ số phận và vận mạng của Người trong sự hiệp thông với Bánh và Rượu được hiến thánh. Như Phaolô tuyên bố: “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết về chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập Gía” (1Cor 2:2). Thật vậy, có thể nói, bỏ qua chiều kích đau khổ và tử nạn của Đức Kitô là huỷ bỏ ý nghĩa cốt lõi của Thánh Thể, làm mất đi hiệu quả của ơn cứu độ, cũng như bản chất, căn tính của đời sống Kitô hữu, bởi vì “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cor 5:15). Do đó, việc loan truyền sự chết của Đức Kitô không phải là tình cờ, nhưng cô đọng trong chính ý nghĩa giải thoát của Bữa Tiệc Thánh Thể. Khi nhận lãnh Mình và Máu Thánh Đức Kitô, và được đầy tràn sức mạnh tình yêu tự hiến của Người, Cộng đoàn Kitô hữu trở thành một Thân Mình Giáo Hội, một Thân Mình trao hiến để phục vụ hay một Tấm Bánh “bẻ ra” vì sự sống gian trần. Và đó, có thể nói, là chuẩn mẫu của cuộc sống Kitô giáo mà Thánh Thể công bố, như Phaolô đã trải nghiệm:“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cor 4:10).
Mang nơi thân mình cuộc “thương khó” hay “sự chết” của Đức Kitô là mặc lấy tình yêu tự hiến của Người, trở nên một với lễ vật hy sinh trên bàn thờ. Việc bẻ bánh cũng như uống chung một chén trong cuộc tưởng niệm Thánh Thể là một dấu chỉ liên đới sâu sắc với thái độ sống và sự lựa chọn căn bản của Đức Kitô trong bối cảnh mầu nhiệm Vượt Qua. Đó là điều kiện thiết yếu để lãnh nhận Giao Ước Mơi đã được đóng ấn bằng Máu Đức Kitô. Chính vì Thánh Giá đã khởi đầu từ Bữa Tiệc Ly (1 Cor 11:26), nên không thể tách rời cái chết với sự Phục Sinh của Người. Nếu như Đức Kitô đã dâng mình làm Hy Tế như một Đấng chịu đóng đinh vì yêu thương nhân loại, thì theo Phaolô, mỗi lần cử hành cuộc tưởng niệm Thánh Thể là các tín hữu dự phần vào mầu nhiệm Thánh Giá, sống và bước vào con đường tận hiến như tình yêu đi đến tận cái chết, và nhờ đó, trong đó mà nhận lãnh được ơn tái sinh. Sứ điệp của Thánh Thể, như thế, loan báo chiến thắng quyết định và trọn vẹn của Sự Sống trên Sự Chết, vì “sự chết không còn làm gì được” nữa. Chính Đức Kitô bị đóng đinh đã tiêu dệt sự chết và biểu dương sự sống mới, khai lối mở đường đưa mọi người đến tương lai hồng phúc.
Và như thế, mỗi lần cử hành Thánh Thể, Cộng đoàn Kitô hữu vừa chia sẻ Bữa Tiệc của Chúa vừa loan truyền việc Chúa chịu chết cho “tới ngày Chúa đến” (1 Cor 11:26). Ở đây, sự liên đới với vận mạng của Đức Kitô trong Thánh Thể còn biểu lộ và làm sáng tỏ chiều kích cánh chung của niềm hy vọng Kitô giáo. Công trình cưu độ đã được hoàn tất qua việc Đức Kitô tự hiến mạng sống mình trên Thánh Gía, nhưng hiệu quả của ơn cứu độ vẫn tiếp tục tuôn chảy và lan rộng trên trần gian cho đến ngày viên mãn của lịch sử. Bữa Tiệc của Chúa “hôm nay” mới phản ánh một Bữa Tiệc khác, đó là Bữa Tiệc Thiên Quốc của Nước Thiên Chúa. Có thể nói, Thánh Thể cho thấy trước và hứa hẹn một Bữa Tiệc Vĩnh Cửu, đồng thời thúc đẩy lịch sử thế giới hướng tới “tương lai” khải hoàn của Ngày Chúa đến, ngày tất cả tạo thành được hoàn toàn thông phần vào sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô. Bởi vậy, cử hành việc tưởng niệm ơn cứu độ trong Thánh Thể là một hành vi đón nhận, xác nhận và khẳng định tình yêu tự hiến đã hoàn tất nơi Đức Kitô, cũng như để cho tình yêu đó tác động trong đời sống các tín hữu, làm cho họ không ngừng vươn tới ngày viên mãn, ngày Thiên Chúa sẽ là “tất cả mọi sự trong mọi người” (1 Cor 15:28).
Chính tình yêu tự hiến đó, có sức mạnh vượt qua mọi đau khổ, đã làm thành biến cố trọng tâm của ơn cứu độ, đem lại sự sống mới cho mọi con người, và nối kết ý nghĩa Bữa Tiệc của Chúa với Hy Tế Thánh Gía. Quả vậy, theo quan điểm của Thánh Phaolô, Bữa Tiệc của Chúa không phải là buổi họp giao lưu thoải mái, nhưng là một Bữa Tiệc hiến tế. Đó là lý do tại sao người phải nhắc nhở các tín hữu Côrintô nhớ lại nguồn gốc cũng như mục đích chính yếu của việc cử hành Thánh Thể (1 Cor 11: 20 -22). Những ai tham dự phải cảm ngộ và phân biệt tiệc cúng của Dân ngoại hoàn toàn khác với Tiệc Thánh của Cộng đoàn Giáo Hội, để khi chia sẻ Một Tấm Bánh và uống chung Một Chén Thánh, họ nhận ra mình là những chi thể của Một Thân Mình duy nhất, và có thể vượt lên khỏi những phân biệt đối xử trong Cộng đoàn. Như thế, bằng một cách thức cô đọng và sống động, Phaolô đã trình bày Thánh Thể như là việc tưởng nhớ một “Người” là Đức Kitô đích thân hiện diện trong ý nghĩa hiệp thông sự sống và tình yêu, ngay “lúc này, ở đây” trong hành vi hiến dâng cho Thiên Chúa. Cuộc tưởng niệm đó, theo đúng nghĩa, thực sự mở ra nguồn mạch hiệp nhất và hồng ân cứu độ cho mọi người tín hữu đang thành tâm cử hành. Do đó, nơi Thánh Thể, Cộng đoàn Kitô hữu có thể tìm thấy bảo chứng của niềm hy vọng, vì Lời Hứa của Thiên Chúa vẫn tiếp tục vang lên, tiếp tục biến đổi toàn thể lịch sử và ảnh hưởng đến tất cả những khía cạnh hiện sinh của mỗi chi thể trong tương quan thân tình với Đức Kitô. Kết quả của Thánh Thể chính là mức độ tăng trưởng về tình yêu tự hiến trong ý nghĩa của một đời sống biết chia sẻ hiệp thông, biết dấn thân xây dựng Cộng đoàn hiệp nhất, để có thể hoá giải đau khổ cũng như sự chết thành hy lễ giao hoà.
Lời Kết
Sống Thánh Thể – Sống trong Tình Yêu tự hiến
Tất cả tư tưởng thần học của Phaolô về Thánh Thể, qua sự kiện Côrintô, có thể nói, đạt đến đỉnh cao và được tóm kết trong Bài Ca Đức Ai. Một tình yêu hiến dâng, một tình yêu không phân biệt loại trừ, nhưng nối kết trong sự hiệp thông với Đức Kitô và với nhau trong một Cộng đoàn, nói lên tất cả mầu nhiệm, linh đạo và cốt lõi của Kitô giáo. Có yêu thương hiệp nhất thì Thánh Thể mới trổ sinh hoa trái, và hoa trái của Thánh Thể chính là hiệp nhất yêu thương, để không một người tín hữu nào bị quên lãng trong Cộng đoàn, nhưng để tất cả được lớn lên, được chan hoà trong một Tình Yêu, Một Tấm Bánh, Một Thân Mình. Như Phaolô viết:
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1Cor 13: 4-8).
Với kiểu nói có phần cường điệu như thế, như một chủ đề được lập đi lập lại, Phaolô muốn nhấn mạnh đến hiệp thông như là yếu tính và hiện sinh của Thánh Thể. Đó là một đặc sủng vượt trên mọi đặc sủng, và làm nền tảng cho mọi thứ ân huệ khác trong Cộng đoàn Kitô hữu. Chia rẽ oán, cạnh tranh bè phái là những thất bại trong việc cử hành và chia sẻ Thánh Thể. Đối với Phaolô, vì Thánh Thể là bí tích Tình Yêu Tự Hiến của Đức Kitô, Đấng đã bị đóng đinh cho con người được sống, nên chỉ có tình yêu mới làm nên một Cộng đoàn hiệp nhất, và chỉ có một Cộng đoàn hiệp nhất trong tình yêu mới thực sự cử hành thực tại Thánh Thể như một Tấm Bánh, một Chén Thánh, một Thân Mình, một Hy Lễ. Nếu không có hiệp thông, cử hành Thánh Thể trở thành một “lạm dụng”. Đây là lý do khiến Phaolô xác nhận ngay từ đầu về Thánh Thể như là “điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em”(1Cor 11:22). Như vậy, mục đích chính yếu của Thánh Thể, không phải chỉ để biểu lộ lòng tôn sùng cá nhân hay chu toàn bổn phận nghi thức tôn giáo, mà tiên vàn là để phát triển tình yêu Cộng đoàn; và nếu được tình yêu đó thúc đẩy, các Kitô hữu mới biết quí trọng công ích hơn lợi ích riêng tư, biết thiết tha xây dựng Cộng đoàn, nới rộng tình bác ái, và hình thành nên Thân Mình Đức Kitô.
Thánh Thể là “Bữa Ăn của Chúa”(Cena Domini), nhưng đó là một bữa ăn có tính cách nghi lễ, không phải chỉ để trao đổi đàm luận qua hình thức ăn uống, mà là Hy Tế, là dấu ấn tình yêu tự hiến của Đức Kitô, để tất cả các tín hữu trong Cộng đoàn có thể gặp gỡ mở lòng, cùng nhau cử hành, vượt qua mọi khoảng cách, và diễn tả đức tin trong tình hiệp thông. Thật vậy, Thánh Thể chỉ có ý nghĩa thánh thiêng khi phục vụ cho sự hiệp nhất mà Đức Kitô đã khai mở trong bữa ăn cuối cùng của Người với các môn đệ, vì chính khi thiết lập Thánh Thể là lúc Người thiết lập Cộng đoàn Kitô hữu. Do đó, lệnh truyền, “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” đặt Cộng đoàn tín hữu vào việc cử hành và thực tập lối sống Thánh Thể, theo khuôn mẫu của một Tình Yêu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, đã gánh lấy và xóa bỏ tất cả tội lỗi của nhân loại, của muôn thời đại.
Và chính ở đây mà Cộng đoàn Kitô hữu được biến đổi, để trở thành điều mà Thánh Thể cử hành nhờ Thần Khí Tình Yêu và Sự Sống của Đức Kitô. Tình yêu và sự sống đó đã hoàn tất ơn cứu độ, nhưng vẫn không ngừng thánh hoá và toả chiếu nhân gian cho đến ngày toàn mãn của lịch sử. Trong viễn cảnh đó, Thân Mình và Máu của Đức Kitô chính là Lương Thực Thần Linh, là Của Ăn Đàng, dưỡng nuôi và thuc đẩy Cộng đoàn Kitô hữu tiếp tục hiệp thông với nhau để cử hành Thánh Thể, tiếp tục sứ mạng hiến ban thân mình cho trần gian được sống. Và như thế là loan báo ơn cứu độ, là chuẩn bị cho vinh quang của Nước Thiên Chúa đã khởi đầu trong cuộc lữ hành trần thế. Có thể nói, đối với Phaolô, có hiệp thông đích thực với Thân Mình Đức Kitô mới có Thân Mình Giáo Hội, và có hiệp nhất nên một trong Thân Mình Giáo Hội mới có Thân Mình Thánh Thể. Như thế, có Thân Mình Thánh Thể mới có hồng ân cứu độ tuôn tràn vào thời gian, để tất cả tạo thành họp lại trong tình yêu muôn đời của Đức Kitô “hôm qua, hôm nay và ngày mai” với một Lễ Vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa.