VĂN HÓA VÀ ĐỨC TIN Âm nhạc Tâm sự hoa Phượng

Tâm sự hoa Phượng

Bốn mùa luân phiên, Thu qua rồi Đông tới, Xuân đi rồi Hạ về, cứ đến hẹn lại lên theo quy luật tự nhiên của Tạo Hóa.

Không ai lại không có một thời ngồi ghế nhà trường – dù chỉ là cấp I. Mỗi cấp có những kỷ niệm khác nhau, đặc biệt là cấp III, lứa tuổi biết lưu luyến tình cảm lứa đôi.

Với tình cảm tuổi mới lớn, NS Thanh Sơn (*) đã sáng tác ca khúc “Nỗi Buồn Hoa Phượng” năm 1963, khi ông 25 tuổi, để ghi lại lời hứa với một cô bạn hồi ông học lớp Đệ Tứ (lớp 9 ngày nay). Cô bạn đó tên là Nguyễn Thị Hoa Phượng, một sự trùng hợp kỳ lạ có liên quan loài hoa đặc trưng của mùa Hè.

Một chút ưu tư với những bạn bắt đầu có “tình cảm đặc biệt” với một bạn khác phái, gọi là tình cảm học trò, rất trong sáng. Có những tình cảm hóa thành mối tình đầu in đậm dấu ấn suốt cả cuộc đời. Mà tình đầu thì mấy khi thành hiện thực, để rồi nỗi nhớ thương cứ hằn sâu trong tâm khảm mãi không phai nhòa. Những mối tình đẹp như thế đã được hóa thân vào rất nhiều ca khúc, bài thơ, bức họa,…

Ca khúc “Nỗi Buồn Hoa Phượng” được ông viết ở âm thể Thứ, thể hiện nỗi buồn man mác chứ không ủy mị, được lồng trong nhịp 4/4 và theo luật cân phương của một ca khúc thường có bố cục A–A’–B–A’ hoặc A–A’–B–A’’ rất phổ biến thời đó.

Với âm thể thứ, ông lồng vào giai điệu bâng khuâng, man mác buồn lúc chia tay đầy bịn rịn: “Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chan tình thương. Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gũi nhau hết rồi, tạ từ là hết người ơi!”. Bịn rịn lắm mà chẳng nói nên lời, tình cảm lắm mà không thể trao lời ước hẹn. Tuổi mới lớn là vậy, tình cảm còn trong sáng nên nhút nhát lắm.

Ngoài sắc hoa phượng đỏ tươi như màu máu, mùa Hè còn có một loại nhạc râm ran suốt ngày của những nhạc sĩ Ve, loại nhạc như tiếng khóc: “Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng, biết ai còn nhớ đến ân tình không. Đường xưa in bóng hai đứa nay đâu, những chiều hẹn nhau lúc đầu, giờ như nước trôi qua cầu”. Kỷ niệm thật đẹp, thật thơ mộng, và cũng đầy chất lãng mạn của những người mang “tâm sự riêng”. Kỷ niệm ngồn ngộn, nhưng cũng chỉ “như nước trôi qua cầu” mà thôi. Mẫu số chung của đa số những mối tình đầu là vậy!

Hè đến cũng là lúc phải giã từ nhau, dù chẳng ai muốn, mỗi người thầm nguyện với lòng mình những điều chất đầy ký ức học trò: “Giã biệt bạn lòng ơi, thôi nay xa cách rồi, kỷ niệm mình xin nhớ mãi”. Dù tình bạn hay tình yêu, người ta cũng tự ghi tạc đáy lòng và thầm hỏi: “Buồn riêng một mình ai, chờ mong từng đêm gối chiếc, mối u hoài này ai có hay?”. Hỏi để mà hỏi thôi, có trời mới biết!

Năm tháng nối tiếp, thời gian vô tình cứ trôi qua, người ta cũng có lúc chợt hoài niệm khi nhìn hoa phượng rơi đỏ mặt đất, nhất là khi đi ngang qua một ngôi trường nào đó: “Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn, cảm thông được nỗi vắng xa người thương”. Kỷ niệm nào cũng hóa kỷ niệm buồn, dù đó là kỷ niệm vui: “Màu hoa phượng thắm như máu con tim, mỗi lần hè thêm kỷ niệm, người xưa biết đâu mà tìm!”.

Và tất nhiên, NS Thanh Sơn không gặp lại cô Hoa Phượng ngày xưa nữa, tất cả chỉ còn trong ký ức tuổi học trò, kỷ niệm cứ mênh mang…

Năm 1960, NS Thanh Sơn kết hôn với bà Lê Thị Hương. Thấy cô dâu có nét giống cô gái Nhật nên ông hứa sẽ viết một ca khúc để tặng vợ. Và rồi ông đã cho ra đời ca khúc “Mùa Hoa Anh Đào” với âm hưởng Nhật Bản. Hai ông bà đã sống hạnh phúc bên nhau suốt 47 năm.

Cũng nên biết thêm rằng, các ca khúc “Hoa Tím Ngày Xưa”, “Trả Lại Thời Gian”, và “Nhật Ký Đời Tôi” là ba ca khúc ông viết về một mối tình với một cô ca sĩ (nay vẫn còn hát ở hải ngoại). Khi nằm trên giường bệnh vì chứng tai biến trước khi qua đời, ông nói: “Dù sao cũng cảm ơn Đà-lạt, và cảm ơn em đã cho tôi uống giọt tình đắng”. Mối tình đẹp và sâu đậm, có lẽ vậy nên một số ca khúc của ông có nhắc tới “sắc tím”. Tâm hồn nhạc sĩ luôn có chất lãng mạn nên mới có thể sáng tác những nhạc phẩm, thậm chí là “kiếp lãng tử”. Tuy nhiên, cần phân biệt lãng mạn với lãng nhách hoặc lãng xẹt!

Đời ai cũng có những tâm sự riêng, NS Thanh Sơn có “tâm sự của loài hoa phượng”. Cuối đời, ông bộc bạch: “Khi tôi mất rồi, chỉ mong thế hệ sau nhớ tới tôi một bài thôi, đó là bài Nỗi Buồn Hoa Phượng”. Đời nhạc sĩ thế là đủ rồi! Nhưng với ông không chỉ một bài mà nhiều bài, nhất là những bài mang đậm chất dân ca Nam bộ…

KHA ĐÔNG ANH

_____________________________

(*) NS Thanh Sơn tên thật là Lê Văn Thiện, sinh ngày 1-5-1938 tại Sóc Trăng, là con thứ mười trong một gia đình có 12 anh chị em. Ông được biết đến từ thập niên 1960 với những ca khúc trữ tình nói về tuổi học trò, khoảng thời gian sau, ông nổi tiếng là “nhạc sĩ của miền Tây” với những bài nhạc mang âm hưởng dân ca Nam bộ và với dòng nhạc Boléro.

Ông lớn lên ở Sóc Trăng, với một lòng ưa thích ca hát. Ông học nhạc từ hồi tiểu học với thầy NS Võ Đức Phấn (em ruột NS Võ Đức Thu). Năm 1955, thầy Phấn mất, ông lên Saigon học nhạc với thầy NS Lê Thương và nuôi ước mơ trở thành ca sĩ. Tại Saigon, ông đã phải làm nhiều công việc như làm thuê, ở mướn,…

Năm 1959, ông đăng ký tham dự cuộc tuyển lựa ca sĩ của Đài Phát Thanh Saigon và đoạt giải nhất. Ban giám khảo cuộc thi đó có những tên tuổi như Dương Thiệu Tước, Võ Đức Thu, Thẩm Oánh, Nghiêm Phú Phi. Sau khi đoạt giải, ông được mời đi hát trong ban Tiếng Tơ Đồng của NS Hoàng Trọng.

Sau khi đã là ca sĩ, ông mày mò học sáng tác nhạc với cuốn “Để Sáng Tác Một Ca Khúc” của NS Hoàng Thi Thơ. Những người giúp đỡ ông trong giai đoạn này có các NS Hoàng Trọng, Nguyễn Hiền, Văn Phụng,…

Ca khúc đầu tiên của ông là “Tình Học Sinh”, viết năm 1962, tuy nhiên chẳng được lưu ý. Đến năm sau, “Nỗi Buồn Hoa Phượng” ra đời và trở thành một trong những ca khúc nổi tiếng nhất viết về mùa hè thời đó. Tiếp theo là những ca khúc viết về đề tài học sinh: Ba Tháng Tạ Từ, Gởi Cố Nhân Đôi Lời, Gợi Nhớ Quê Hương, Hình Bóng Quê Nhà, Hương Tóc Mạ Non, Màu Áo Hoa Phượng, Lưu Bút Ngày Xanh, Hạ Buồn, Phượng buồn, Ve Sầu Mùa Phượng,… Ngoài ra còn có các nhạc phẩm khác: Bạc Liêu Hoài Cổ, Mười Năm Tái Ngộ, Mùa Hoa Anh Đào, Nhật Ký Đời Tôi, Thị Trấn Mù Sương, Thương Ca Mùa Hạ, Thương Về Cố Đô, Trả Lại Thời Gian, Vầng Trán Suy Tư,… Các ca khúc này được nhiều tầng lớp khán giả đón nhận.

Năm 1963, ông bỏ hẳn nghề ca sĩ để chuyên tâm sáng tác. Từ năm 1973, nhạc của ông bắt đầu chuyển hướng sang đề tài quê hương. Từ thập niên 1990, những ca khúc mang âm hưởng dân ca của ông được đón nhận, gợi mở cho ông một hướng sáng tác mới đó là tiếp tục khai thác chất liệu dân ca Nam bộ. Nhạc của ông lúc này chú trọng về ca từ, trong bài có nhiều âm sắc, phương ngữ đặc trưng Nam bộ. Nhiều bài hát trong giai đoạn này trở nên rất nổi tiếng như Hình Bóng Quê Nhà, Hành Trình Trên Đất Phù Sa, Bạc Liêu Hoài Cổ, Áo Trắng Gò Công, Gợi Nhớ Quê Hương, Hương Tóc Mạ Non, Non Nước Hữu Tình,…

Từ năm 2000, ông biên tập chương trình cho Trung tâm Băng nhạc Rạng Đông. Năm 2007, kỷ niệm sinh nhật 69 của NS Thanh Sơn, Nhà hát TPHCM đã tổ chức đêm nhạc mang tên ông. Năm 2009, ông có sang Hoa Kỳ để thực hiện cuộc phỏng vấn với Thúy Nga Paris By Night. Qua nhiều giai đoạn, ông đã viết trên 500 bài hát với nhiều bài trở nên quen thuộc trong công chúng.

Năm 2011 ông bị tai biến mạch máu não khi đang tham gia cùng trung tâm Thúy Nga thực hiện cuốn Paris By Night với chủ đề “Tình Sử Trong Âm Nhạc Việt Nam”. Sau một thời gian điều trị, ông qua đời lúc 14 giờ 30 ngày 4-4-2012 tại Saigon. Theo ý nguyện của NS Thanh Sơn lúc sinh thời, gia đình cùng thân bằng quyến thuộc đã đưa tiễn linh cữu ông về an táng tại đường nghệ sĩ của Hoa Viên Nghĩa Trang Bình Dương, thuộc xã Chánh Phú Hoà, huyện Bến Cát, Bình Dương, vào sáng ngày 9-4-2012.

Exit mobile version