Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi không biết gì về những nhà thờ lớn dâng kính Đức Mẹ. Tôi chưa bao giờ nghe nói về Nhà thờ Đức Bà Chartres hay Nhà thờ Đức Bà nổi tiếng trên đảo Île de la Cité của Paris. Tôi không hề biết bản nhạc thánh thót của Mozart và Schubert, hoặc nhạc Bình Ca biện thân tình yêu của Đức Trinh Nữ Maria thành những hình thức cao quý, hợp lý. Tôi chưa bao giờ nghe nói về thánh ca “Alma Redemptoris Mater,” “Salve Regina” hoặc “Tota Pulchra Est, Maria.”
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bức tượng lộng lẫy trong Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan cụ thể hóa tình yêu Công giáo đối với Đức Mẹ Maria. Tôi chưa bao giờ nghe nói về bức tượng Pietà của danh họa Michelangelo mô tả vẻ tuyệt mỹ của Mẹ Thiên Chúa.
Bất cứ điều gì tôi học được về lòng sùng kính Đức Mẹ, tôi đã nhận được từ bà ngoại Ireland của tôi, dù bà chỉ học lớp Ba. Chẳng hạn, bà đã dạy tôi rằng khi tôi chết, người ta không cho tôi vào cổng trước của Thiên Đàng, tôi nên đi vòng ra phía sau, và Đức Mẹ sẽ đưa tôi vào. Đó là vì Đức Mẹ dành tình yêu lớn lao cho tôi và sẽ luôn giúp đỡ tôi.
Bà ngoại nói với tôi rằng Chúa Giêsu đã sắp đặt điều này khi Ngài hấp hối đau đớn khủng khiếp trên Thánh Giá. Bà ngoại nói rằng ngay trước khi chết, Chúa Giêsu đã làm cho tôi và mọi người khác trở thành con của Đức Mẹ, và Đức Mẹ sẽ luôn ở đó vì tôi. Đức Mẹ sẽ luôn yêu tôi, không có vấn đề gì, và tôi nên yêu mến Đức Mẹ!
Sự sùng kính ngây thơ như vậy đã giúp ích rất nhiều cho tôi trong cuộc sống – đặc biệt là trong những lúc khó khăn. Tôi đã không phát triển quan điểm này vì nhiều trở ngại chính thức mà tôi gặp phải, chẳng hạn như các giáo sư khó tính, rất nghiêm khắc, khăng khăng cho rằng tôi phải loại bỏ ngay những thứ nhàm chán và vô vị của các học giả sống trong tháp ngà ẩn dụ và thực tế đó.
Tôi rất ngạc nhiên khi có thể loại bỏ những ý nghĩ nhảm nhí và cồng kềnh của những giáo sư kia rất mau chóng. Tôi trở lại với niềm vui tuổi trẻ mau chóng và biết ơn biết bao khi tôi tiếp tục với lời cầu nguyện đầu tiên mà tôi học được: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.”
Ví dụ, tôi nhớ lại mình ở trên một chuyến tàu đêm chạy bằng than, chậm chạp đi qua Great Karoo ở Nam Phi. Các cửa sổ không đóng. Đèn không hoạt động. Bồ hóng (muội) bay vào qua các cửa sổ. Tôi cảm thấy cô đơn, bẩn thỉu và lo sợ.
Vì vậy, tôi lần hạt Mân Côi, và cầu nguyện khi nghĩ về các mầu nhiệm về cuộc đời Đức Kitô, những sự kiện chính về cái chết và sự hy sinh cứu chuộc của Ngài. Tôi thấy Đức Mẹ ở đó, Chúa Giêsu và Đức Mẹ, chia sẻ đau khổ và ý nghĩa của Ngài. Khi những hạt đi qua các ngón tay, tôi cảm thấy được giải thoát, cả về cảm xúc lẫn thể lý, và tìm thấy sự bình tĩnh và bình an đang thấm vào người tôi, mặc dù lúc đó nước mắt đang chảy dài trên gò má.
Đó không phải là lớp bảo mật của truyện tranh Peanuts (Những Hạt Đậu). Đó là sự hiện diện của Mẹ trên trời của tôi, luôn ở bên tôi trong những thời điểm quan trọng. Không có sự chế giễu hiện đại hoặc phá bỏ của thế tục nào có thể vượt qua được điều đó.
Có bao nhiêu triệu người Công giáo trong những năm qua đã có cùng kinh nghiệm đó? Tuy nhiên, đã có đủ loại nỗ lực thông minh hoặc sắc sảo để lan tỏa lòng sùng kính Đức Mẹ. Có những người cho rằng người Công giáo đã nhảm nhí nên nghĩ ra những câu chuyện và thiết bị kỳ cục, và bằng cách nào đó, lòng sùng kính Đức Mẹ làm giảm lòng sùng kính đối với Chúa Giêsu, Đấng là tất cả và trên hết. Họ càng nói càng sai, rõ ràng chẳng biết gì!
Tôi nhớ lại câu chuyện về một cậu học sinh phản bác một giáo sư đại học chế giễu cậu, ông nói rằng không có sự khác biệt giữa Mẹ Chúa Giêsu và mẹ mình. Cậu học sinh vui vẻ đáp: “Đúng vậy, nhưng có sự khác biệt lớn giữa các cậu con trai.” Tuyệt!
Sau đó có một đứa nhỏ cầu xin một chiếc xe đạp mà không được đáp lại, nó hét vào tượng Chúa Giêsu: “Con sẽ nói với Mẹ Ngài!” Ngụ ý rõ ràng là Đức Mẹ có ảnh hưởng rất lớn với Đấng thiêng liêng và sẽ xử lý đúng mức vì Chúa Giêsu không phản ứng. Tuyệt!
Có những phép ẩn dụ thiên văn như Chúa Giêsu là Mặt Trời, và Đức Mẹ là Mặt Trăng. Đức Mẹ chỉ tỏa sáng khi phản chiếu Ánh Sáng Chúa Giêsu – rất chân thật và rất trí tuệ. Nhưng không có điều nào trong đó đủ cho tình cảm đối với tôi dành cho Đức Mẹ.
Giống như David chiến đấu với Goliath chỉ bằng một chiếc ná và một số viên đá chứ không bằng áo giáp đẹp mắt của Saun, mỗi người chúng ta phải chọn vũ khí cho riêng mình trong cuộc chiến được gọi là sự sống này. Tôi chọn khái niệm về một người mẹ trên trời yêu thương tôi bằng tình yêu sâu sắc và lan tỏa. Và tôi tìm thấy tình yêu đó trong lời cầu của mình: “Xin cầu cho chúng con, bây giờ và trong giờ lâm tử.”
Thời điểm “bây giờ” (khi nay) của lời cầu này vô cùng quan trọng đối với tôi. Cá nhân tôi đang tập trung đời sống tâm linh vào điều tuyệt vời đó. Tâm linh đối với tôi phải thực dụng và hữu ích.
Đối với tôi, học thuật có xu hướng gây khó chịu hơn là truyền cảm hứng. Suốt đời tôi có thể trực cảm phụ thuộc vào Đức Mẹ vì sự trợ giúp ngay lập tức và mãi mãi của Mẹ, nhưng tôi không thể giải thích tại sao như vậy. Tương tự, vì tôi đang ở sâu trong sự ngự trị hiện hữu của Chúa Thánh Thần và sự hiện diện của Chúa Giêsu, nên lòng sùng kính Đức Mẹ nhân từ là cách tiếp cận vô cùng ý nghĩa đối với tôi.
Chắc chắn hôm qua và ngày mai có một số ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi, nhưng chiều kích nổi bật là “bây giờ.” Đó là điều mà tôi cảm nhận mỗi khi tôi cầu xin Đức Mẹ: “Xin cầu cho chúng con, bây giờ và mãi mãi.”
LM. JAMES B. LLOYD
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ TheCatholicThing.org)