Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Tuần IV Thường Niên

121

SUY NIỆM MỖI NGÀY TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

Lm Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

NIỀM VUI KHI GẶP CHÚA VÀ ĐƯỢC CHỮA LÀNH

(2 Sm 15:13-14.30; 16,5-13a; Mc 5:1-20)

Không có nỗi đau nào lớn cho bằng nỗi đau khi thấy con cái phản nghịch lại mình. Trong bài đọc 1, chúng ta được thuật lại việc vua Đavít trốn chạy khỏi sự truy đuổi của chính đứa con mình là Ápsalôm: “Đứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được Ápsalôm. Đi cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành” (2 Sm 15:14). Đây là một trong những tình cảnh đáng thương của đời người mà ai gặp phải cũng rơi lệ: “Vua Đavít lên dốc Cây Ôliu, vừa lên vừa khóc, đầu trùm khăn, chân đi đất, và toàn dân đi với vua ai cũng đầu trùm khăn, vừa lên vừa khóc” (2 Sm 15:30). Không những bị con của mình phản loạn, vua Đavít còn bị người ngoài nguyền rủa: “Cút đi, cút đi, tên khát máu, thằng vô lại! Đức Chúa đã đổ xuống đầu mày tất cả máu của nhà Saun, người đã bị mày chiếm ngôi; và Đức Chúa đã trao vương quyền vào tay Ápsalôm, con mày. Và này, mày phải tai hoạ, vì mày là tên khát máu!” (2 Sm 16:7-8). Dù bị “tấn công” từ bên trong lẫn bên ngoài, vua Đavít vẫn đặt trọn niềm tin vào Đức Chúa, Đấng sẽ trả lại hạnh phúc cho mình: “Này con trai ta, do chính ta sinh ra, mà còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Ben-gia-min này ! Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. 12 May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta, và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của nó hôm nay” (2 Sm 16:11-12). Thái độ của vua Đavít mang lại cho chúng ta niềm an ủi khi đối diện với những chống đối và tổn thương trong cuộc sống. Nhưng đây cũng là thách đố vì liệu chúng ta có tiếp tục cậy dựa vào Thiên Chúa khi gặp gian truân, thử thách không?

Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đặt nó trong tương quan với đoạn Tin Mừng đi liền trước. Đoạn Tin Mừng đi trước kể về việc Chúa Giêsu làm biển yên lặng. Khi Chúa Giêsu ra lệnh cho biển lặng, Ngài tỏ ra là Ngài có quyền năng trên quyền lực của Xatan kiểm soát thiên nhiên, và khi trừ quỷ Chúa Giêsu tỏ ra Ngài có quyền năng trên quyền lực kiểm soát con người của Xatan.

Bài Tin Mừng hôm nay kể về “một hành động” trừ quỷ của Chúa Giêsu nhưng có ảnh hưởng trên ba thành phần: (1) người bị quỷ ám (Mc 5:1-10); (2) đàn heo (Mc 5:11-13); (3) dân chúng trong vùng (Mc 5:14-17). Tuy nhiên, trước khi phân tích chi tiết bài Tin Mừng để rút ra những ý lực sống, chúng ta cần lưu ý chi tiết sau: Bài Tin Mừng hôm nay được mở đầu và kết thúc với người bị quỷ ám trước và sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Đây là lối viết “bánh mì kẹp” mà Thánh Máccô thích sử dụng trong Tin Mừng của mình để nói lên rằng: Điều cần lưu ý và làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn nằm ở trong phần “được kẹp.” Bây giờ, chúng ta tập trung vào ba thành phần bị ảnh hưởng bởi hành động của Chúa Giêsu.

(1) Người bị quỷ ám: Những gì chúng ta biết về anh ta là: Anh sống ở vùng Ghêrasa; sống trong mồ mả và không ai có thể trói anh ta; anh tự huỷ hoại chính mình (x. Mc 5:1-6). Trong những chi tiết này, chúng ta cần lưu ý đến chi tiết “không có ai có thể kiềm chế anh.” Điều này nói lên sự bất lực của con người trước mãnh lực của Xatan. Nhưng quyền năng của Chúa Giêsu trên Xatan được khẳng định qua chi tiết: “Khi thấy Đức Giê-su tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: ‘Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!’” (Mc 5:6-7). Một chi tiết khác chúng ta cần lưu ý là việc Chúa Giêsu hỏi tên thần ô uế về tên của nó. Biết tên để gọi, để thiết lập quan hệ và cũng để “kiểm soát.” Tuy nhiên, thần ô uế không cho biết tên riêng của mình mà chỉ đơn giản nói, “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm” (Mc 5:9). Sau khi trừ quỷ, người bị quỷ ám “nài xin được ở với Người” (Mc 5:18), nhưng cuối cùng anh vâng lời Chúa Giêsu là “về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương xót anh như thế nào. Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc” (Mc 5:19-20). Từ một người không ai có thể chế ngự trở thành một người làm cho nhiều người kinh ngạc về sự biến đổi của mình; từ một người luôn hành hạ mình thành người “ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo” (Mc 5:15). Đây là chân lý mà chúng ta cần phải sống: Gặp gỡ Chúa Giêsu mang lại sự biến đổi đầy kinh ngạc: Từ người sống trong sự kiềm chế của Xatan thành người rao truyền những kỳ công của Thiên Chúa cho người khác, tức là người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.

(2) Đàn heo: Sự hiện diện của đàn heo chỉ ra rằng sự kiện trừ quỷ của Chúa Giêsu xảy ra ở khu vực không thuộc người Do Thái vì heo là động vật ô uế và không được sử dụng làm thực phẩm (x. Lv 11:7-8). Chúng ta đọc thấy trong bài Tin Mừng rằng: Chúa Giêsu cho phép thần ô uế nhập vào đàn heo và đàn heo lao xuống biển và chết ngộp dưới đó (x. Mc 5:13). Sự kiên này được các học giả Kinh Thánh giải thích theo nhiều chiều hướng khác nhau: (a) việc trừ quỷ của Chúa Giêsu là nguyên nhân của sự hoảng loạn nơi đàn heo; (b) câu chuyện này chứng minh về sự lừa dối của Xatan; (c) câu chuyện này là câu chuyện trừ quỷ của một người trừ quỷ Do Thái mà Thánh Máccô lấy và gán cho Chúa Giêsu. Dù được giải thích theo hướng nào đi nữa, thì vấn đề nghiêm trọng ở đây là gán việc huỷ hoại đàn heo cho Chúa Giêsu và đây là lý do tại sao dân chúng “lên tiếng nài xin Người đi khỏi vùng đất của họ” (Mc 5:17). Tuy nhiên, ý nghĩa đằng sau của việc phá huỷ đàn heo, là thứ ô uế, đồng nghĩa với việc phá huỷ quyền lực của Xatan. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể phá huỷ những gì không thanh sạch trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta có cho phép Ngài làm điều này trên cuộc sống của chúng ta như Ngài đã làm cho người bị quỷ ám trong bài Tin Mừng hôm nay không?

(3) Dân chúng trong vùng: Chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, những người chăn heo bỏ chạy, báo tin trong thành và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra. Họ phát sợ và lên tiếng nài xin Người đi khỏi vùng đất của họ (x. Mc 5:14-17). Chúng ta thấy phản ứng của họ rất tự nhiên: Từ tò mò đến sợ hãi, từ kinh ngạc đến loại trừ. Giống như dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay, thấy lợi ích vật chất từ đàn heo bị mất, họ sợ những lợi ích vật chất khác cũng sẽ bị mất như thế khi để Chúa Giêsu ở lại với họ, chúng ta cũng mời Chúa đi khỏi cuộc đời của chúng ta vì chúng ta sợ mất đi những lợi ích mà mình đã quá quen thuộc. Điều đáng buồn ở đây là dân chúng [chúng ta] không nhận ra giá trị của nhân vị con người trên giá trị của vật chất: Họ mất đàn heo! Nhưng họ quên mất là họ “tìm lại được người anh em của mình.” Nhiều khi trong đời sống thường ngày, chúng ta cũng đặt giá trị và lợi ích vật chất trên giá trị và nhân phẩm của người khác. Chúng ta thà mất người anh chị em của mình hơn là lợi ích cá nhân hoặc tiện nghi vật chất mà chúng ta đang hưởng dùng. Hãy đặt đúng mọi sự trên bậc thang giá trị của chúng!

******************

THỨ BA TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

CẦM TAY CHÚA VÀ TRỖI DẬY KHỎI BÓNG ĐÊM SỰ CHẾT

(2 Sm 18:9-10.14b.24-25a.30 – 19:3; Mc 5:21-43)

Tình cha tình mẹ luôn vượt xa những lỗi phạm của con cái. Một cách cụ thể, dẫu con cái có lỗi phạm đến mình bao nhiêu, cha mẹ luônn luôn tha thứ và muốn điều tốt đẹp nhất xảy ra cho con cái mình. Đây chính là tâm tình của vua Đavít trong bài đọc 1 hôm nay. Tác giả sách Samuen thuật lại việc Ápsalôm trỗi dậy chiếm ngôi vua của cha mình là Đavít. Nhưng cuộc nỗi loạn không thành và Ápsalôm bị giết chết. Khi nghe tin đứa con phản nghịch của mình chết, vua Đavít rất đau lòng và thốt lên những lời đầy yêu thương sau: “Ápsalôm con ơi, con ơi, Ápsalôm con ơi! Phải chi cha chết thay con! Ápsalôm con ơi, con ơi!” (2 Sm 19:1). Không có nỗi buồn nào sâu đậm bằng nỗi buồn mất con. Tâm tình của vua Đavít là điều đáng để chúng ta suy gẫm. Có câu nói trong đời rằng: người làm cho mình tổn thương nhất thường là những người mình yêu thương nhất. Thật vậy, trong đời sống thường ngày, chúng ta thường bị những thành viện trong gia đình (hay thành viên trong cộng đoàn đời tu) làm tổn thương. Nhưng liệu chúng ta có thái độ sống bao dung như vua Đavít không? Chúng ta có sẵn sàng tha thứ và mong ước chịu tất cả mọi sự vì người đó không? Tha thứ cho một người đã là khó. Ước muốn điều tốt nhất xảy ra cho người làm tổn thương mình càng khó hơn.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa lành con gái của viên trưởng hội đường tên là Giaia. Tuy nhiên, trong câu chuyện chữa lành này được lồng vào một câu chuyện chữa lành khác, đó là việc chữa lành người đàn bà bị bệnh băng huyết. Một cách cụ thể, trong bài Tin Mừng, một phép lạ chữa lành khác [chữa lành người đàn bà bị băng huyết] được đặt vào giữa hai phần của câu chuyện chữa người con gái vị thủ lãnh. Hai người phụ nữ được chữa lành. Điểm đáng lưu ý ở đây về hai người phụ nữ này là một người “chủ động” trong việc tìm kiếm sự chữa lành từ Chúa Giêsu, còn người kia thì “bị động,” nên người cha là người đến xin chữa lành; một người đã trưởng thành, còn một người trong tuổi vị thành niên. Chúng ta phân tích hai câu chuyện chữa lành này để khám phá ra sứ điệp Chúa Giêsu nói với chúng ta ngày hôm nay.

Trong câu chuyện chữa lành người con gái vị thủ lãnh, chi tiết quan trọng đầu tiên là lời thỉnh cầu của người cha: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống” (Mc 5:23).  Trong câu này, Thánh Máccô  đề cao đức tin của viên trưởng hội đường bằng việc đặt vào miệng ông lời chân nhận sau: “con bé nhà tôi gần chết rồi.” Chi tiết này khác với các Tin Mừng Nhất Lãm khác [“con gái tôi đã chết”]. Khi nghe ông nài xin, Chúa Giêsu “liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người” (Mc 5:24). Tại sao Chúa Giêsu lại đi khi đã biết con ông thủ lãnh đã gần chết? Tại sao các môn đệ không ngăn cản Ngài vì đây không đơn giản chỉ là chữa bệnh mà làm cho người sắp chết sống lại? Điều này được lý giải qua câu chuyện được thêm vào ở giữa, đó là việc chữa lành người đàn bà bị băng huyết.

Theo luật Do Thái, người bị băng huyết là người luôn sống trong tình trạng ô uế. Giống như người phong cùi, người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay thuộc thành phần bị loại ra bên lề xã hội. Trong Acts of Pilate (“Công vụ của Philatô”), người đàn bà này có tên là Bernice. Sử gia Eusebius thuật lại câu chuyện này. Ông cho rằng bà là một người ngoại giáo từ Caesarea Philippi. Trong bài Tin Mừng, hành vi của bà nói đến một niềm tin lớn lao hơn cả niềm tin của vị thủ lãnh. Niềm tin của bà không diễn tả ra bên ngoài, nhưng âm thầm mãnh liệt bên trong. Bà không muốn Chúa Giêsu bị “ô uế” vì nếu bà xin Chúa Giêsu, mà Ngài chạm đến bà thì Ngài sẽ bị ô uế. Thay vì để Chúa Giêsu chạm đến mình, bà “chạm” vào Chúa Giêsu: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa!” (Mc 5:28). Đây là một hành vi hoàn toàn khác với các lần Chúa Giêsu chữa lành. Thường Chúa Giêsu chạm đến người muốn được chữa lành, còn trong trường hợp này, bà là người chạm. Ngay khi bà chạm vào Chúa Giêsu, bà được “thanh sạch”: “Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh” (Mc 5:29). Chạm đến Chúa Giêsu làm cho bà được thanh sạch! Chúng ta có chạm đến Chúa không? Mỗi khi rước lễ [mỗi khi cầu nguyện], chúng ta chạm đến Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta có trở nên thanh sạch không? Tuy nhiên, điều chúng ta lưu ý ở đây là hình ảnh máu. Theo người Do Thái, máu là hình ảnh của sự sống. Như vậy, mất máu [băng huyết] đồng nghĩa với chết, chứ không chỉ mang nghĩa ô uế. Nói cách khác, người phụ nữ “sống như đã chết.” Thật vậy, bà đã chết với người khác vì bà “muôn đời” bị xem là người ô uế, người bị loại ra khỏi đời sống cộng đoàn. Khi Chúa Giêsu chữa lành bà, Ngài mang lại sự sống cho bà. Chúa Giêsu đã làm cho bà sống lại, hội nhập bà vào đời sống cộng đoàn [là yếu tố “sống còn” của con người được hiểu trong thời gian đó]. Nhìn từ khía cạnh này, khi chữa lành người đàn bà bị băng huyết, Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài có quyền năng làm cho người chết sống lại [ngài có thể ban sự sống].

Thật vậy, câu chuyện chữa người đàn bà băng huyết nói đến quyền năng của Chúa Giêsu có thể mang lại sự sống. Chi tiết này chuẩn bị thính giả đón nhận mà không nghi ngờ việc Chúa Giêsu cho người con gái của vị thủ lãnh trỗi dậy. Trong câu nói: “Sao lại ồn ào và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5:39). Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một định nghĩa về sự chết. Đối với Ngài, sự chết được xem như “tình trạng ngủ.” Tuy nhiên, chi tiết đáng lưu ý là “Người cầm lấy tay nó và nói: ‘Talitha kum,’ có nghĩa là: ‘Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!’ Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta sửng sốt kinh ngạc” (Mc 5:41-42). Chi tiết này hoàn toàn trái ngược với việc chữa lành người đàn bà bị băng huyết: Ngài chạm đến con bé và nó được chữa lành [sống lại] – người đàn bà băng huyết chạm vào Chúa Giêsu và bà được chữa lành [sống lại]. Hai chi tiết này nói với chúng ta một điều: Chạm đến Chúa Giêsu hay được Chúa Giêsu chạm đến đều mang lại một hiệu quả, đó là ơn chữa lành, sự sống của Ngài. Nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta mệt mỏi không đủ sức để chạm đến Chúa, hãy để Chúa chạm đến chúng ta. Hãy “cho phép” Chúa Giêsu yêu chúng ta trong những khi chúng ta thất vọng, không còn “yêu Ngài đủ”!

******************

THỨ TƯ TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

TÌM THẤY CÁI PHI THƯỜNG TRONG CÁI BÌNH THƯỜNG

(2 Sam 24:2.9-17; Mc 6:1-6)

Mỗi ngày trôi qua, ai trong chúng ta cũng trải qua kinh nghiệm chiến đầu với tội lỗi. Có khi chúng ta chiến thắng, nhưng cũng nhiều lần chúng ta đã thất bại. Thánh Máccô trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê quán mình. Mỗi khi đi xa, chúng ta thường mong ước trở về quê quán mình vì ở đó chúng ta sẽ gặp được những người thân của mình. Chúa Giêsu cũng thế. Sau một thời gian xa nhà, Ngài về thăm Mẹ Maria và những người thân. Nhưng lần này, Ngài về với các môn đệ của Ngài: “Khi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo” (Mc 6:1). Điều chúng ta lưu ý ở đây là Chúa Giêsu đã “nổi tiếng.” Đây chính là lăng kính để chúng ta hiểu phản ứng của dân chúng ở quê quán của Ngài. Nhìn trong bối cảnh chung của Tin Mừng, trình thuật Tin Mừng hôm nay kết thúc phần gồm ba hành động ngoại thường của Chúa Giêsu (làm biển lặng, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân). Phần kết thúc này nói về việc Chúa Giêsu bị loại trừ bởi những người thân, những người nơi quê quán mình. Chi tiết này rất quan trọng vì nó đưa những đề tài đang được thánh sử phát triển như ơn gọi người môn đệ và đức tin đến cùng đích. Nói cách khác, trình thuật này ám chỉ đến vận mệnh của những người môn đệ Chúa Giêsu, những người đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Họ sẽ bị loại trừ vì lối sống khác biệt, lối sống theo ân sủng chứ không theo tính xác thịt của mình.

Câu chuyện được đặt trong bối cảnh ngày sabát: “Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (Mc 6:2). Những lời này tiếp tục trình bày Chúa Giêsu như là thầy dạy và người chữa lành, điều đã được đề cập đến trong chương 1 (21-28). Chính những lời dạy và việc chữa lành của Chúa Giêsu trong ngày sabát là nguyên nhân những người Do Thái loại trừ và kết án Ngài. Tuy nhiên, điều chúng ta suy gẫm ở đây là thái độ của thính giả của Ngài. Khi nghe Ngài giảng “nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên” (Mc 6:2). Nhưng sau đó, họ đổi thái độ qua nghi ngờ, chất vấn, rồi vấp ngã: “Họ nói: ‘Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?’ Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:2-3). Những câu hỏi trên liên quan đến nguồn gốc của sự khôn ngoan, nguồn gốc của quyền năng làm phép lạ và cuối cùng là nguồn gốc của chính Ngài. Chính những vấn nạn về nguồn gốc này đã làm họ thay đổi thái độ với Chúa Giêsu vì họ không thể vượt qua nguồn gốc con người của Chúa Giêsu. Sự thay đổi trong thái độ này cũng đươc phản chiếu trong đời sống mỗi người chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng thay đổi thái độ trong tương quan với Thiên Chúa và anh chị em mình từ ngạc nhiên, vui mừng đến chối bỏ, buồn sầu vì chúng ta không có cái nhìn vượt lên “nguồn gốc con người” của mọi sự. Để sống mãi trong thái độ kinh ngạc, thán phục, yêu thương và tôn vinh, chúng ta cần nhìn mọi sự với ánh mắt của Thiên Chúa; chúng ta cần đọc mọi sự dưới lăng kính của ân sủng hơn là dưới lăng kính của bản tính tự nhiên con người. Mọi sự xảy ra trong cuộc đời chúng ta đều có mục đích mang tính thiêng liêng. Chỉ những ai hiểu được ý nghĩa của ngày sabát, đó là nghỉ ngơi trong Chúa và với Chúa, mới có thể nhận ra mục đích thiêng liêng đó.

Trước thái độ loại bỏ của những người thân, những người ở quê quán mình, Chúa Giêsu sử dụng câu ngạn ngữ sau để trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Những lời này ám chỉ thái độ “quen thuộc thường là nguồn gốc của sự xem thường.” Nhưng điều giải thích cho những lời này là hành động đi kèm theo của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6:5-6). Những lời này cho thấy, Chúa Giêsu “không thể” làm phép lạ nào, không phải là vì Ngài bị loại trừ hoặc xem thường, nhưng vì họ “không tin.” Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, đức tin luôn là điều kiện cần thiết cho phép lạ được thực hiện. Đức tin ở đây chính là “biết nhìn qua những gì mang tính con người để nhận ra nguồn gốc thần thiêng của mọi sự và mọi người.” Ở đây, chi tiết chúng ta lưu ý để suy gẫm là: không phải Chúa Giêsu “không thể” làm phép nào vì Ngài có đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân [“trong ngày sabát”]. Ngài vẫn làm việc tốt dù có bị khinh khi hoặc xem thường. Chúng ta thế nào: Khi bị anh chị em mình loại trừ hoặc xem thường, chúng ta có ngưng làm việc tốt hoặc tìm cách loại trừ và xem thường lại anh chị em mình không?

******************

THỨ NĂM TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

RAO GIẢNG TIN MỪNG VỚI NIỀM VUI

(1 V 2:1-4.10-12; Mc 6:7-13)

Người ta thường nói lời trăn trối của một người sắp ra đi về cõi thiên thu luôn là những lời vàng ngọc hay là những tâm tình sâu đậm của con tim. Trong bài đọc 1, chúng ta nghe những lời tâm tình cuối cùng của một người cha (vua Đavít) dành cho một người con (Salômôn), người sẽ kế vị mình: “Cha sắp bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời phải đi qua; con hãy can đảm lên, và sống cho xứng bậc nam nhi. Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Môsê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, và Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: ‘Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo, là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Israel’” (1 V 2:2-4). Điều đáng lưu ý trong những lời trên là việc vua Đavít chỉ ra cho Salômôn chìa khoá để thành công trong mọi việc là “tuân giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp và chỉ thị của Thiên Chúa.” Sống trong xã hội, Giáo Hội, gia đình hoặc dòng tu, chúng ta cũng có luật hướng dẫn. Nhưng nhiều khi, chúng ta có thái độ rất tiêu cực đối với luật. Chúng ta xem luật như là điều giới hạn tự do của mình chứ không phải giúp mình sử dụng tự do cách đúng hơn. Trong tương quan với Chúa, chúng ta cần bước đi trong đường lối mệnh lệnh của Ngài nếu chúng ta muốn thành công trong mọi tương quan khác với anh chị em mình.

Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu phần mới trong Tin Mừng Thánh Maccô, đó là phần nói về Chúa Giêsu bị hiểu lầm bởi các môn đệ ở Galilê và những nơi khác (Mc 6:6b-8:21). Phần này bắt đầu với sứ mệnh của các môn đệ (Mc 6:6b-13) và cái chết của Gioan Tẩy Giả (Mc 6:14-29). Trình thuật Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta sứ mệnh của các môn đệ.  Chúng ta cùng nhau suy gẫm dựa trên những điểm sau:

Công việc của Chúa Giêsu liên quan đến sứ mệnh của các môn đệ: Công việc của Chúa Giêsu được vén mở qua hai bước: (1) Chúa Giêsu “gọi” các môn đệ [đến với Ngài], sai họ đi từng hai người một, ban cho các ông quyền năng [của mình] trên các thần ô uế (x. Mc 6b-7). Bước này chỉ cho thấy người môn đệ hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Giêsu trong những gì mình là và những gì mình có. Nói cách cụ thể hơn, trước khi được sai đi, họ phải được gọi để “ở” với Ngài, được Ngài ban cho quyền năng của Ngài. Những gì người môn đệ có là của Chúa Giêsu. Vì vậy, họ không có gì để tự hào. Họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Giêsu và tuân theo các chỉ thị của Ngài. Đây chính là điều Chúa Giêsu chỉ thị các môn đệ: “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Người bảo các ông: ‘Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và không nghe anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ’” (Mc 6:8-11). Những lời chỉ thị này liên quan đến những gì các ông cần cho hành trình của mình. Họ chỉ cần “cây gậy,” còn những thứ khác không cần thiết cho hành trình. Như chúng ta biết, trong văn hoá và bối cảnh Kinh Thánh, “cây gậy” thường biểu tượng cho quyền lực thống trị và cũng là biểu tượng của người mục tử. Nhìn từ khía cạnh này, điều Chúa Giêsu muốn các môn đệ mang theo cho hành trình của mình là tâm tình, thái độ và con tim của người mục tử. Chỉ có những người có con tim mục tử như Chúa Giêsu mới có thể sống đời sống hoàn toàn siêu thoát khỏi những lo lắng trần thế trên con đường rao giảng. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn chỉ cho các môn đệ biết thái độ họ cần phải có khi đối diện với những nơi đón tiếp và những nơi không đón tiếp Ngài. Những nơi đón tiếp, họ phải đón nhận những gì người ta có thể mang lại cho họ [ở lại nhà đó cho đến lúc ra đi] chứ  không tìm kiếm tiện nghi. Còn những ai không đón tiếp, thì họ phải trở nên dấu chỉ của sự cảnh báo và sám hối. Tóm lại, dù được đón tiếp hay không đón tiếp, người môn đệ vẫn trung thành với sứ mệnh của mình, đó là kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và chữa lành những ai đau ốm bệnh tật (x. Mc 6:12-13).

******************

THỨ SÁU TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh

NIỀM VUI ĐƯỢC ẴM CHÚA GIÊSU TRONG TAY

(Ml 3:1-4; Lc 2:22-40)

Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. Nhiều nơi, hôm nay là ngày mà những người thánh hiến cho Thiên Chúa trong đời tu trì canh tân lại ý hướng dâng mình cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, ý nghĩa của phụng vụ hôm nay chỉ được tỏ lộ cách trọn vẹn khi chúng ta hiểu ý nghĩa của hành vi dâng Chúa Giêsu trong đền thờ chính là việc Chúa Giêsu “ngự vào trong cung điện của Ngài.” Đây là nội dung của bài đọc 1 mà ngôn sứ Malakhi nói đến: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến – Đức Chúa các đạo binh phán” (Ml 3:1). Điều quan trọng không phải là chúng ta “chủ động dâng mình” cho Thiên Chúa, nhưng là việc Chúa Giêsu “chủ động ngự vào” trong cuộc đời chúng ta. Theo nghĩa này, chúng ta sẽ biết mình phải làm gì để sống ngày lễ hôm nay thật ý nghĩa: Tôi phải chuẩn bị cung điện – tâm hồn – của tôi thế nào để Chúa Giêsu ngự vào? Đây là điều mà bài Tin Mừng hôm nay sẽ trình bày cho chúng ta.

Cấu trúc của Tin Mừng hôm nay gồm ba phần: Lc 2:22-24 nêu lên lý do cho việc dâng Chúa Giêsu trong đền thánh; Lc 2:25-38 nói về hai nhân chứng là Simêon và Anna; Lc 4:39-40 là kết luận. Theo các học giả Kinh Thánh, câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay chính là câu chuyện của bà Hannah và Elkanah, cha và mẹ của Samuen (x. 1 Sam 1-2). Hai ông bà đem dâng con vào trong đền thánh và dâng cho Thiên Chúa. Trong câu chuyện đó, chúng ta thấy có vị tư tế già là Êli đón nhận việc dâng con vào trong đền thánh của bà Hannah và ông Elkanah và chúc lành cho hai ông bà. Hình ảnh này được “lặp lại” trong hình ảnh của ông già Simêon. Thánh Luca sử dụng câu chuyện của Hannah và Elkanah để đưa thần học của mình về lời hứa, đền thờ, tính phổ quát của ơn cứu độ, sự chối bỏ ơn cứu độ, việc làm chứng, và phụ nữ vào trong câu chuyện của Cựu Ước, một câu chuyện kể cho “một dân nhỏ nhất,” và làm cho câu chuyện này trở thành câu chuyện của muôn dân. Chính vì vậy, điểm trọng tâm mang tính thần học của đoạn Tin Mừng được tìm thấy trong Lc 2:29-32: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đến từ dòng dõi Davít. Ngài không chỉ là Đấng Cứu Độ của một số người được tuyển chọn, nhưng cho tất cả mọi người. Ngài chiến thắng kẻ thù của mình không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng thái độ hoà bình. Điều chúng ta có thể rút ra ở đây là: Hãy làm cho con tim của chúng ta mở rộng để có thể yêu thương mọi người chứ không giới hạn trong một “nhóm nhỏ được chúng ta tuyển chọn.”

Chúng ta phân tích chi tiết hơn bài Tin Mừng để nghe Chúa nói thêm gì với chúng ta hôm nay ngoài những điểm chúng ta đã nêu trên:

Trong phần 1, việc dâng Chúa Giêsu trong đền thờ là để giữ những luật đã được ghi chép lại:  “Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: ‘Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa’” (Lc 2:22-23). Hành vi dâng Chúa Giêsu trong đền ‘Giêrusalem’ là hành vi thờ phượng để tôn kính Thiên Chúa. Giêrusalem có một ý nghĩa rất quan trọng trong Tin Mừng của Thánh Luca. Thánh sử dùng hình thức Hierosolyma là từ được sử dụng thêm 3 lần trong Tin Mừng và 25 lần trong Công Vụ Các Tông Đồ. Từ này có nghĩa là “thánh đô Salem” hoặc “nơi thánh.” Đối với Thánh Luca, Giêrusalem là hình ảnh rất quan trọng nói về những ơn lành và sự tiếp tục giữa lời hứa và hoàn thành, giữa Do Thái Giáo và Israel được tái thiết đang hành trình từ Giêrusalem đến tận cùng trái đất, chính là Israel mới. Ở đây ẩn chứa một lời khuyến dụ thật hữu ích cho mỗi người chúng ta, nhất là cho những người thánh hiến: Những ơn lành Chúa ban không làm “biến dạng” bản chất của những gì chúng ta đã lãnh nhận, nhưng tiếp tục làm tăng trưởng và hoàn thành những gì đã được ban – ân sủng được xây dựng trên bản chất. Chính vì vậy, chúng ta hãy sống thật là người trước khi muốn trở thành “con người hoàn hảo” như Đức Kitô. Nói cách khác, hãy sống thật “nhân bản” trước khi muốn sống thật “thiêng liêng,” bởi vì thiêng liêng chỉ được xây dựng trên nhân bản.

Phần 2 trình bày hai nhân chứng về Đức Giêsu là ông Simêon và bà Anna. Điểm đáng được lưu ý ở đây là việc bà Anna làm chứng về Chúa Giêsu. Theo truyền thống của người Do Thái, phụ nữ không thể làm chứng. Tuy nhiên, trong thần học của mình và ngay trong chương đầu tiên của Tin Mừng, Thánh Luca đã có một thay đổi đáng kinh ngạc: Ngài thêm vào “yếu tố phụ nữ” trong việc làm chứng song song với người nam. Điều này cũng dễ hiểu vì Tin Mừng của Thánh Luca nhắm đến việc trình bày Chúa Giêsu là Đấng cứu độ cho muôn dân chứ không chỉ cho dân Israel, nên ai cũng có thể trở thành chứng nhân cho Ngài.

Tên Simêon có nghĩa là “Thiên Chúa đã nghe.” Ông là người trông đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa và “Chúa đã nghe” lời cầu xin của ông. Ông không phải là tư tế, nhưng ông hiện diện trong đền thánh. Ngay cả bà Anna cũng thế. Qua chi tiết này, Thánh Luca cho biết mục đích của đền thờ là cho hết mọi người và để phục vụ và tôn thờ Thiên Chúa. Bài Nunc Dimittis của Simêon là trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay và nói lên ý nghĩa của phụng vụ hôm nay. Đây là bản tổng hợp của Luật, tinh thần của các ngôn sứ, và nghi lễ của đền thờ để nói lên sự vĩ đại của Chúa Giêsu, Đấng thoả mãn mọi khát mong của con người và hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa không chỉ cho Israel mà cho muôn dân. Hơn nữa, chúng ta tìm thấy trong lời tiên tri của Simêon đề tài từ chối, chống đối và nhất là hình bóng của lưỡi gươm và thập giá. Đây là những gì mà Chúa Giêsu sẽ phải đối diện trong cuộc đời dương thế của Ngài. Hình ảnh lưỡi gươm đâm thâu trái tim Mẹ Maria có ý nói lên rằng: Như là một người tin gương mẫu, Mẹ Maria cũng sẽ phải quyết định đứng về phía Chúa Giêsu hoặc chống lại mạc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu vì tương quan gia đình máu mủ không tạo ra đức tin. Mỗi ngày, chúng ta cũng bị những đau khổ và khó khăn như những lưỡi gươm đâm thấu trái tim chúng ta và chúng ta cũng được mời gọi để chọn lựa: Tin Chúa hay chống lại Ngài. Tôi sẽ chọn gì?

Anna có nghĩa là ân sủng hay ơn phúc. Giống như Simêon, bà cũng mong đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà làm chứng về Chúa Giêsu cho những người mong đợi ơn cứu độ không phải bằng lời như Simêon, nhưng bằng “ngôn ngữ thinh lặng.” Dù trong Tin Mừng có đề cập đến việc bà “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem” (Lc 2:38). Nhưng thánh Luca không viết lại lời của bà như của Simêon. Hình ảnh của Simêon và Anna trong đền thờ tương xứng với hình ảnh của Zechariah và Elizabeth trong chương 1 của Tin Mừng Thánh Luca. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Thánh Luca. Ngài luôn đặt người nam và người nữ đứng “cùng nhau” và “bên nhau” trước dung nhan Thiên Chúa. Họ bình đẳng trong sự kính trọng và ân sủng. Cả hai được ban cho những món quà giống nhau và có cùng trách nhiệm. Hãy tôn trọng nhau như Chúa muốn chúng ta!

Phần 3 tóm kết việc xảy ra cho các thành viên trong gia đình Na-da-rét: “Khi hai ông bà đã hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành của mình là Na-da-rét, miền Ga-li-lê” (Lc 2:39). Hai ông bà đến đền thờ để hoàn tất mọi việc như lời Chúa truyền và đưa con trở về Na-da-rét. Còn về phía Chúa Giêsu thì “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Cả gia đình “đi khỏi đền thánh” và họ “sẽ trở lại đó” (Lc 2:41-52). Khi đặt hai câu chuyện của Gia Đình Thánh Gia (Lc 2:21-40 và Lc 2:41-52) song song với nhau, chúng ta thấy cả hai có chung một cấu trúc: Cả ba lên đền thờ ở Giêrusalem – thực hiện nghi thức được đòi hỏi bởi Luật – trở về – Chúa Giêsu sống ẩn dật và lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và người ta. Điều này nói cho chúng ta về hiệu quả của việc tôn thờ Thiên Chúa, đó là, nối kết chúng ta lại với nhau vì mỗi người được lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và với người khác. Như vậy, khi một người đến tôn thờ Thiên Chúa mà vẫn chưa nối kết được với người khác như những thành viên trong gia đình, thì việc tôn thờ của họ chưa phải là việc tôn thờ trong Thần Khí và sự thật, nhưng chỉ là việc tôn thờ bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Thiên Chúa.

******************

THỨ BẢY TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ Ở VỚI CHÚA

(1 V 3:4-13; Mc 6:30-34)

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thấy mình có rất nhiều nhu cầu cần thoả mãn: vật chất cũng như tinh thần. Nhiều người trong chúng ta đến với Chúa với một danh sách thật dài của những điều cần xin. Khi Chúa ban cho điều này, chúng ta lại xin điều khác, và cứ như thế chúng ta xin từ điều này đến điều khác. Nhiều khi chúng ta không biết điều gì quan trọng trong cuộc sống để xin. Nếu Chúa ban cho chúng ta một điều, chúng ta sẽ xin gì? Điều đầu tiên khi đến với Chúa để xin Ngài điều gì, chúng ta cần tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho” (1 V 3:5). Cầu nguyện, nhất là lời cầu nguyện cầu xin, cần sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Trong bài đọc 1 hôm nay, tin tưởng vào Thiên Chúa, Salômôn đã cầu xin Chúa điều mình mong ước: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu con còn trẻ người non dạ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, đông không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” (1 V 3:7-9). Trong lời cầu xin của mình, Salômôn nói đến tình yêu của Thiên Chúa trong việc chọn dân Israel làm dân riêng và đặt mình lên để cai trị dân. Salômôn biết việc cai trị dân không được theo ý mình, vì dân không phải là dân của ông mà là dân riêng của Đức Chúa, nên đã xin được “một tâm hồn lắng nghe,” điều mà Đức Chúa đòi hỏi ở mỗi người Do Thái: “Nghe dây hỡi Israel!” Lắng nghe là một nghệ thuật quan trọng nhất trong mọi mối tương quan: Lắng nghe Chúa và lắng nghe anh chị em mình là chìa khoá giúp chúng ta tìm thấy kho tàng của sự khôn ngoan. Trước khi nói hoặc hành động, hãy luôn lắng nghe Chúa và lắng nghe anh chị em mình, nhất là những người khôn ngoan.

Thiên Chúa hài lòng với điều Salômôn xin nên Ngài không chỉ ban cho Salômôn điều ông xin mà còn ban cho ông nhiều hơn nữa: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp” (1 V 3:11-12). Những lời này cho chúng ta lời bảo đảm rằng Thiên Chúa không chỉ ban điều đẹp lòng Ngài mà chúng ta xin, Ngài còn ban cho chúng ta hơn thế nữa. Điều đáng để cúng ta suy gẫm chính là điều chúng ta xin là gì? Salômôn đã xin “một tâm hồn lắng nghe,” để cai trị dân theo đường lối của Đức Chúa. Nói cách khác, Salômôn xin là cho cuộc sống và lối hành xử của ông phản chiếu tình yêu bao la của Đức Chúa. Về phần mình, chúng ta xin điều gì?

Bài Tin Mừng hôm nay có liên kết rất chặt chẽ với bài Tin Mừng ngày hôm qua. Chính vì vậy, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay chỉ được hiểu khi chúng ta đặt nó vào trong cấu trúc: Sai đi – làm chứng – trở về kể lại với Chúa Giêsu những gì họ đã làm và dạy. Có bốn điểm chúng ta cần tập trung suy gẫm trong bài Tin Mừng hôm nay vì đây là điều chúng ta dễ dàng quên trong cuộc sống hằng ngày của mình.

Thứ nhất là “các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy” (Mc 6:31). Sau một ngày làm việc vất vả, chúng ta thường làm gì? Các môn đệ tụ họp chung quanh Chúa Giêsu để kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và đã dạy. Điều này không có gì sai. Tuy nhiên, khi làm như vậy, các môn đệ quên mất một khía cạnh quan trọng của người môn đệ, đó là, khía cạnh “ở với Chúa Giêsu”: “Ở với Chúa Giêsu là khía cạnh nền tảng và quyết định căn tính và sứ mạng của người môn đệ của Chúa Giêsu. Những môn đệ không ở với Chúa Giêsu sẽ không biết mình được sai đi làm gì. Họ chỉ làm những việc họ thích hơn là làm những việc họ được sai đi để làm. Thật vậy, chúng ta thường đánh giá người môn đệ dựa trên việc làm hơn là trên việc ở lại với Chúa. Thánh Máccô nói cho chúng ta điều này khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3:14-15). Hãy “là môn đệ” của Chúa Giêsu” trước khi “làm tông đồ” của Ngài!

Thứ hai là việc Chúa Giêsu bảo các ông “hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (Mc 6:32). Trong điểm thứ nhất chúng ta thấy rằng, các môn đệ trở về và kể với Chúa Giêsu những “chiến tích của mình.” Nhưng họ quên một điều là khi họ được sai đi, Chúa Giêsu “ban cho họ quyền trên các thần ô uế” (Mc 6:7). Như vậy, những gì họ đã làm và dạy không phải do quyền lực hay khả năng của các ông, mà là của Chúa Giêsu. Chính vì vậy, “chiến tích” không thuộc về họ, mà thuộc về Chúa Giêsu. Khi mời gọi các ông tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, Chúa Giêsu muốn các ông trở về lại với con người thật của mình để khám phá ra sự thật là: “Không có Thầy, anh em sẽ không làm được gì” (Ga 15:5).

Thứ ba là thái độ của Chúa Giêsu như vị Mục Tử cao cả. Tình yêu của vị mục tử không bao giờ yên nghỉ khi còn có “tội nhân” cuối cùng chưa ăn năn trở lại. Dù bận rộn với công việc; dù cho “kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa” (Mc 6:31). Dù muốn nghỉ ngơi, nhưng khi “ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34). Chúng ta thường phàn nàn rằng chúng ta làm quá nhiều việc đến độ không còn giờ cho chính mình, thì làm sao có giờ dành cho người khác. Nhiều khi chúng ta nỗi giận hoặc không muốn làm gì khi mệt mỏi. Khi nhìn vào gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải tự vấn chính mình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ mệt mỏi khi làm điều tốt cho người khác, ngay cả khi “chẳng có giờ để ăn uống.” Khi làm việc với niềm vui và con tim của Chúa, chúng ta sẽ không còn để ý đến gánh nặng của công việc mà chỉ còn để ý đến niềm vui và hạnh phúc của những người khác. Đây chính là điều giúp chúng ta không thấy mệt mỏi khi làm việc tốt cho người khác.

Điểm cuối cùng làm chúng ta lưu ý là câu mở đầu và câu kết của Tin Mừng hôm nay. Câu mở đầu nói về việc các môn đệ trở về và tường thuật lại việc họ đã làm và đã dạy và câu kết nói đến việc Chúa Giêsu dạy dỗ họ [bao gồm nhóm 12]. Như chúng ta đã biết, đây là lối viết “bánh mì kẹp” của Máccô: Mở đầu và kết thúc cùng một đề tài là “dạy dỗ,” chỉ khác nhau về “người dạy.” Trong câu mở đầu, các môn đệ dạy; còn trong câu kết, Chúa Giêsu dạy. Tuy nhiên, như chúng ta đã trình bày, các môn đệ “dạy với quyền năng của Chúa Giêsu.” Chính vì lý do này, cuối cùng chỉ có một thầy dạy, đó là Chúa Giêsu. Điều này nhắc nhở chúng ta về việc phải luôn có “thái độ của một người học trò” trong mọi công việc của chúng ta, vì qua công việc của chúng ta, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta về thánh ý của Ngài.