Lời Chúa Năm A Suy niệm mỗi ngày: Tuần 4 Phục Sinh

Suy niệm mỗi ngày: Tuần 4 Phục Sinh

SUY NIỆM TUẦN IV PHỤC SINH

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN IV PHỤC SINH

NHẬN RA TIẾNG CHÚA TRONG NGÀY SỐNG

(Cv 11:1-18; Ga 10:1-10)

Hôm qua, chúng ta hân hoan mừng Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành và chúng ta đã cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Tiếp tục tinh thần đó, Lời Chúa hôm nay tiếp tục mời gọi chúng ta tập trung vào Người Mục Tử Nhân Lành, được trình bày trong hình ảnh của Thánh Phêrô trong bài đọc 1 và hình ảnh của Chúa Giêsu trong chương 10 của Tin Mừng Thánh Gioan. Chúng ta hãy lắng đọng và để Lời Chúa hướng dẫn và chất vấn chúng ta.

Khi chúng ta thấy ai làm một điều gì đó hoặc nói một điều gì đó khác với những điều chúng ta đã quá quen thuộc hoặc tin “là sự thật,” chúng ta thường có thái độ chống đối và phản ứng cách tiêu cực. Điều này cũng xảy ra cho Thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay. Ngài bị “các người thuộc giới cắt bì chỉ trích” vì ngài “đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ” (Cv 11:2-3). Với tấm lòng của người mục tử, Thánh Phêrô kiên nhẫn giải thích cho họ về việc Ngài đến với những người dân ngoại. Qua việc này, Thánh Phêrô cũng nhắc nhở họ rằng ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho họ, mà cho mọi người, những người chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 11:15-17). Qua những chi tiết trên, chúng ta có thể rút ra những điều sau để suy gẫm:

Thứ nhất, những người thường phản ứng cách tiêu cực trước những điều mới mẻ có vẻ “thách thức” hệ thống niềm tin quen thuộc và thói quen của họ, sẽ khó để nhìn thấy và đón nhận sức mạnh canh tân của Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thuộc loại này không? Chúng ta có hay phản ứng tiêu cực khi thấy người khác nói hoặc làm những việc “không hợp với khẩu vị” của mình không?

Thứ hai, ngược lại những người để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ luôn biết sáng tạo, luôn giữ cho mình được bình thản và có cái nhìn cảm thông và bao dung khi có những điều xảy ra “ngoài ý muốn” của họ.

Thứ ba, để không phản ứng tiêu cực trước những điều mình không thích và sẵn sàng đón nhận mọi sự mới mẻ từ Chúa Thánh Thần, chúng ta cần học ở Thánh Phêrô thái độ lắng nghe và tìm ý Chúa trong cầu nguyện (x. Cv 11:5). Chỉ trong thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta mới có thể hiểu được ý của Thiên Chúa trong những điều không hợp với ý của chúng ta, và như thế không ngăn cản những điều Thiên Chúa muốn thực hiện cho những người Ngài muốn ban ơn cứu độ.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã khẳng định mình là Mục Tử nhân lành: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:11-13). Khi sử dụng từ “nhân lành” [“tốt lành”] (Gk. kalos, có nghĩa là “tốt” theo nghĩa “quý phái” hoặc “mẫu mực,” tốt trong chính bản chất chứ không phải là một đặc tính được thêm vào. Nó không có nghĩa là “tốt về” một cái gì đó). Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành tự bản chất, nên Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên, dù chiên có như thế nào cũng không làm cho sự tốt lành của Ngài thay đổi. Theo các học giả Kinh Thánh, hình ảnh Chúa Giêsu chết cho chiên của mình thuộc về truyền thống cuộc thương khó của các Kitô hữu tiên khởi. Khác với những mục tử xấu, những người làm thuê. Họ bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến để giết hại và phân tán đàn chiên. Họ chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân của mình chứ không màng gì đến sự sống còn của đàn chiên.

Sau khi khẳng định mình là Mục Tử Nhân Lành và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên, Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định thêm: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:14-15). Ngài thêm một đặc điểm khác của Người Mục Tử Nhân Lành là ngài ‘biết’ chiên của Ngài. Câu khẳng định trên là đặc trưng của Thánh Gioan vì nó nói về mối tương quan giữa người mục tử và chiên như là hình ảnh loại suy về mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Chính mối tương quan mật thiết với Chúa Cha là nền tảng cho hy tế của Chúa Giêsu vì đàn chiên. Hình ảnh này được sử dụng trong chương 15 (câu 12-17) để diễn tả cái chết của Chúa Giêsu trong bối cảnh của mối tương quan đó. Chính trong mối tương quan với Chúa Cha, Chúa Giêsu biết cái chết của mình cho đàn chiên là để tụ họp chúng lại trong một ràn chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Câu nói này làm chúng ta suy tư về mối tương quan giữa mục tử và chiên mà được ám chỉ đến ‘những chiên khác,’ là những người cũng nghe tiếng Chúa Giêsu. Một vài nơi khác trong Tin Mừng, điều này nói về thế hệ của những người tin trong tương lai (x. Ga 17:20; 20-29). Một khả thể khác là chúng ta có thể xem những lời trên ám chỉ những người dân ngoại, ‘những người Hy Lạp’ mà được nhắc đến hai lần trong Tin Mừng (x. Ga 7:35; 12:20-22). Vào thời gian Tin Mừng được hoàn thành, cộng đoàn của Thánh Gioan ý thức được sự hiện hữu của những cộng đoàn Kitô hữu khác, đặc biệt là những cộng đoàn bắt nguồn từ Thánh Phêrô (x. Ga 21:15-19), là người được Chúa Giêsu đặt cho danh xưng ‘mục tử.’

Chi tiết cuối cùng chúng ta có thể suy gẫm là việc Chúa Giêsu tự do hy sinh mạng sống của mình cho đàn chiên: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:17-18). Những lời này chỉ ra chìa khoá của tình yêu Chúa Cha dành cho Chúa Giêsu, đó chính là sự trao ban chính mình cho đàn chiên. Đây chính là tình yêu Chúa Cha đã dành cho Chúa Giêsu: đã trao ban mọi sự cho Chúa Giêsu. Một sự trao ban đầy tự do và yêu thương. Trong cuộc sống, chúng ta cũng trao ban cho người khác những thứ mình có và mình là: có người trao ban cho người khác những thứ ‘dư thừa’ của mình, có người trao ban cho người khác một tí gì đó của mình, nhưng cũng có người trao ban trọn vẹn chính mình cho người khác. Tình yêu cao đẹp nhất là tình yêu không chỉ trao ban mọi sự mình có, nhưng cả những gì mình là cho người khác với thái độ vui tươi và tự do.

*******************

THỨ BA TUẦN IV PHỤC SINH

CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU THÌ NGHE TIẾNG NGÀI

(Cv 11:19-26; Ga 10:22-30)

Bài đọc 1 hôm nay trình thuật cho chúng ta về việc rao giảng Tin Mừng của các Kitô hữu tiên khởi và sự thiết lập cộng đoàn Kitô hữu ở Antiôkhia. Sau cuộc bách hại Têphanô, các môn đệ tản mác đi khắp nơi và lời Chúa được rao giảng vượt ra khỏi giới hạn của người Do Thái và đến với người Hy Lạp. Điều làm chúng ta suy gẫm là công việc rao giảng Tin Mừng được đón nhận vì có bàn tay Chúa ở với những người đi rao giảng Tin Mừng: “Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa” (Cv 11:21). Những lời này trở thành những lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta, những người được mời gọi đem Tin Mừng đến cho những người chúng ta gặp gỡ mỗi ngày. Sự thành công trong đời sống rao giảng Tin Mừng không lệ thuộc vào khả năng hay công sức của con người, nhưng hệ tại ở bàn tay Thiên Chúa hoạt động nơi những người mang Tin Mừng. Điều này được thể hiện rõ nét trong hình ảnh của Banaba. Vì “ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa” (Cv 11:24). Chính đời sống thánh thiện hay đúng hơn để bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong mình, Banaba và Saolô đã thiết lập cộng đoàn ở Antiôkhia, nơi “mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu” (Cv 11:26).

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết những con chiên của Chúa Giêsu thì biết Ngài là ai. Chúng ta có biết Chúa Giêsu không? Câu mở đầu của trình thuật hôm nay đặt chúng ta vào bối cảnh lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đức Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Salômôn” (Ga 10:22-23). Bối cảnh không chỉ trình bày một lễ mừng khác của người Do Thái mà trong đó mạng sống của Chúa Giêsu bị đe doạ, nhưng còn đưa Ngài trở lại đền thờ nơi mà Ngài mới bỏ ra đi vì người Do Thái mới định ném đá Ngài (x. Ga 8:59). Chi tiết này cho thấy, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tuân giữ những ngày lễ của người Do Thái, dù Ngài biết nhiều người chống đối và muốn giết Ngài. Khi thấy Chúa Giêsu vẫn can đảm đến trong lễ Cung Hiến Đền Thờ, “người Do Thái vây quanh Đức Giêsu và nói: ‘Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết’” (Ga 10:24). Họ đòi hỏi nơi Ngài một câu trả lời nơi công cộng cho câu hỏi Ngài có phải là Đức Kitô hay không. Câu hỏi này đưa người đọc về với những cuộc tranh luận được thuật lại trong chương 7 và 8. Trong những cuộc tranh luận đó, Chúa Giêsu đã từ chối không thực hiện những dấu lạ ở Giêrusalem để tỏ ra thân phận của mình một cách công khai (x. Ga 7:4). Nhiều người cũng không nói về Chúa Giêsu “một cách công khai vì sợ người Do Thái” (Ga 7:13). Chúa Giêsu xuất hiện cách công khai ở Giêrusalem đã dẫn đến việc nhiều người nghĩ rằng Ngài là Đức Kitô (x. Ga 7:26). Chi tiết này gợi cho chúng ta những khoảnh khắc trong đời sống mà trong đó chúng ta cũng thắc mắc về căn tính của Chúa Giêsu, những khoảnh khắc mà trong đó chúng ta đi trong bóng tối của niềm tin và không thấy Ngài ở đâu, những khoảnh khắc mà chúng ta đối diện với đau khổ và thử thách nhưng vẫn không thấy Ngài làm gì để thay đổi hoàn cảnh. Rồi chúng ta cũng hỏi như người Do Thái: Ngài có phải là Đấng chúng tôi tin không? Sao Ngài im lặng và không làm gì để giúp chúng tôi.

Đáp lại sự đòi hỏi trả lời công khai của người Do Thái, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài đã nói với họ về căn tính của Ngài rồi, nhưng họ không tin: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi” (Ga 10:25). Câu nói này không chỉ đến một đám đông cụ thể. Một câu nói trực tiếp như thế này chỉ được nghe bởi một người tin. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samaria rằng Ngài chính là “Đức Kitô” [Messia] và với anh mù rằng Ngài là “Con Người.” Cả hai sự kiện đều nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu, “Đấng đang nói với chị/anh,” là Đấng mà câu nói trên ám chỉ về. Dĩ nhiên, Chúa Giêsu đã nói một cách công khai về căn tính của mình trong khu vực Đền Thờ trong lễ mừng trước đó, trong câu khẳng định thần tính của mình “Ta là” trong 8:24,58. Thánh sử muốn chúng ta nhớ lại sự kiện đó qua việc kết thúc phần này với việc tái khẳng định sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa con trong câu 30. Các công việc Chúa Giêsu thực hiện cũng làm chứng cho chân tính của Ngài. Chi tiết này làm chúng ta xét lại chính cuộc sống và hành động của mình. Là những người Kitô hữu, những môn đệ của Chúa Giêsu, những hành động của chúng ta có làm chứng cho người khác biết chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu không? Hay các hành động của chúng ta trở nên phản chứng? Có câu nói trong triết học rằng: hữu thể nào hành động đó – nếu là môn đệ của Chúa Giêsu thì hành động phải tương hợp là người môn đệ Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đưa ra lý do tại sao người Do Thái không tin, đó là “vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10:26-29). Trong những lời này, chúng ta thấy hình ảnh người mục tử trở lại trong trình thuật khi Chúa Giêsu giải thích về sự thất bại trong đức tin với một hình ảnh khác về việc phân rẽ giữa hai nhóm “con cái Ápraham” và “Con cái sự dữ.” Điều này là lý do đưa Chúa Giêsu đến cái chết. Đám đông nghe Chúa Giêsu ở đây không thuộc hai nhóm trên. Để hiểu những lời trên của Chúa Giêsu, chúng ta phải trở lại câu 6:44, trong đó Chúa Giêsu nói rằng không ai đến được với Ngài nếu không được Chúa Cha thúc đẩy và tiếp theo đó là sự kiện một số môn đệ đã không còn theo Chúa Giêsu (x. Ga 6:55). Kinh nghiệm về thất bại trong đức tin, về sự chia rẽ cũng đang xảy ra trong cộng đoàn, vì thế cộng đoàn Thánh Gioan đã sử dụng những kinh nghiệm trên để mời gọi người khác đến với đức tin hầu nhờ đức tin mà biết được sự loại trừ, sự thất bại của mình trong ơn gọi làm môn đệ, và trong những cơn bách hại luôn xảy ra trong đời sống thường ngày. Những kinh nghiệm này chính là điều ẩn chứa bên trong những lời Chúa Giêsu nói trên. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng trao ban những con chiên này cho Chúa Giêsu, không ai (ngay cả những người lãnh đạo tôn giáo hành động nhân danh Thiên Chúa như những người trong chương 9) có thể cướp họ khỏi Chúa Giêsu. Không ai có thể đánh bại mục đích của Chúa Giêsu, đó là trao ban món quà sự sống muôn đời cho những ai tin (x. Ga 17:2,6). Tấy cả những điều này xảy ra vì “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30). Chúng ta nhiều lần tự hào là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng cũng nhiều lần chúng ta sống như không thuộc về Ngài. Chúng ta đã không nghe theo tiếng Ngài hoặc có nghe thì cũng không đem ra thực hành. Là Mục Tử Nhân Lành, Chúa Giêsu luôn biết chúng ta. Còn chúng ta, chúng ta có biết Ngài và đi theo Ngài để được sự sống đời đời không?

*******************

THỨ TƯ TUẦN IV PHỤC SINH

SỐNG VỚI THẦY BẤY LÂU, ANH CHỊ EM CÓ BIẾT THẦY KHÔNG?

Thánh Philípphê Và Thánh Giacôbê, Tông Đồ

(1 Cr 15:1-8; Ga 14:6-14)

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính hai thánh Philípphê và Giacôbê Tông Đồ. Mỗi khi kính nhớ một vị thánh, chúng ta tự hỏi mình rằng: tôi có thể học ở ngài điều gì? Dựa vào Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm về hai thánh Tông Đồ mà chúng ta mừng kính hôm nay và quyết tâm học hỏi nơi các ngài những điều cần thiết cho đời sống yêu thương và phục vụ của chúng ta. Tuy nhiên, trước khi phân tích chi tiết hơn mẫu gương của từng vị, chúng ta cùng nhau tìm hiểu điều làm cho các ngài nên một trong việc rao giảng. Điều liên kết các tông đồ lại với nhau chính là Đức Giêsu Kitô, hay là Tin Mừng các ngài rao giảng. Thánh Phaolô trình bày điều này thật rõ ràng trong bài đọc 1 hôm nay. Ngài kêu gọi các tín hữu thành Côrintô nhớ lại Tin Mừng mà các tông đồ đã giảng dạy và sức mạnh cứu độ mà Tin Mừng mang lại cho họ. Nội dung chính yếu của Tin Mừng này chính là: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15:3-4). Đây chính là Kerygma, là yếu tố đã hiệp nhất các Tông Đồ lại với nhau khi rao giảng Tin Mừng.

Thánh Philípphê là một con người nhiệt tình. Ngài là người đưa Nathanael đến gặp Chúa Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là Người mà Môsê đã viết về. Cũng chính Philípphê là người, với sự trợ giúp của Anrê, đã mang nhóm người Hy Lạp đến gặp Chúa Chúa Giêsu. Chúng ta không nên nhầm lẫn thánh nhân với phó tế Philíp được trình thuật trong chương 8 của sách Công Vụ Các Tông Đồ, là người giảng dạy ở Samaria và làm phép rửa cho viên quan người Êthiôpia dù cho nhiều học giả cho rằng cả hai là một. Philípphê là người có đầu óc rất thực tế. Điều này được nhận ra qua nhận định của thánh nhân: “phải tốn một số tiền rất lớn để mua thức ăn cho hơn 5 ngàn người đang đói.” Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cho thấy thánh nhân là người muốn nhìn thấy Chúa Cha. [Chúng ta sẽ phân tích chi tiết này sau]. Chúng ta học được điều gì từ con người nhiệt tình và thực tế này? Như chúng ta đã trình bày, thánh nhân luôn là người mang người khác đến với Chúa Giêsu [giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.] Ngài làm điều này với một sự nhiệt tình và một đầu óc rất thực tế. Chính hai điều này giúp ngài thành công trong việc giới thiệu Chúa cho người khác. Học ở thánh nhân, nếu muốn thành công trong việc làm chứng cho Chúa Giêsu, chỉ lòng nhiệt tình thì không đủ, chúng ta cần có óc thực tế, biết biện phân những dấu chỉ của thời đại và những nhu cầu của người khác để tìm ra phương thế hữu hiệu nhất để nói về Chúa Giêsu cho họ.

Thánh Giacôbê là con của ông Alphê hay còn gọi là Giacôbê Hậu [Giacôbê Tiền là anh của Gioan]. Thánh nhân sinh ở Ceasarea. Ngài không được đề cập đến nhiều trong Tân Ước như thánh Philípphê. Thỉnh thoảng, thánh nhân được gọi là Giacôbê Nhỏ, điều này ngụ ý ngài là người  nhỏ con và thấp. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, theo truyền thống, thánh nhân tiếp tục rao giảng và được tin là đã trở thành Giám Mục đầu tiên của Giêrusalem. Nếu điều này là thật, thì thánh nhân chịu tử đạo vào khoảng năm 62 tại Giêrusalem. Theo truyền thống, thánh nhân được xem là tác giả của lá thư mang tên ngài. Nhìn lại cuộc sống của thánh nhân, ngài không có gì nổi bật như các Tông Đồ khác. Qua điều này, chúng ta có thể nói rằng, thánh nhân là một người thầm lặng đi theo Chúa Giêsu và trung thành cho đến cùng. Đây là điều chúng ta có thể học hỏi ở thánh nhân. Tất cả chúng ta đều theo Chúa Giêsu trong hoàn cảnh và điều kiện của mình: có người được vị trí hàng đầu, nhưng cũng có người thật âm thầm; có người luôn được nhắc đến, nhưng cũng có người chẳng được ai biết đến. Dù trong vị trí nào, chúng ta có cùng một mục đích, đó là theo Chúa Giêsu và trung thành với Ngài. Vì vậy, vấn đề không phải là đứng trước hay đứng sau, nhưng là trung thành với mục đích theo Chúa của mình.

Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly, trong khung cảnh rất thân tình giữa Chúa Giêsu và các “bạn hữu” của Ngài. Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu nói cho các mộn đệ biết là “giờ của Ngài” sắp đến, giờ mà Ngài lìa bỏ thế gian để trở với Chúa Cha (x. 14:6). Tuy nhiên, Ngài cũng khẳng định rằng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:6-7). Khẳng định này là tiền đề cho thắc mắc của Philípphê: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14:8). Chúng ta thấy Philípphê không xin gì ngoài việc được nhìn thấy Chúa Cha.

Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa chúng ta vào chiều sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa, của sự hợp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra với Philípphê làm chúng ta phải xét lại chính mình: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga 14:9). Có phải Chúa Giêsu trách Philípphê không? Đúng là Ngài trách Philípphê và Ngài cũng trách mỗi người trong chúng ta: “Thầy ở với anh chị em bấy lâu và làm nhiều việc cho anh chị em, vậy mà anh chị em không biết Thầy ư?” Chúng ta có thật sự biết Chúa Giêsu không? Chúng ta thấy trong cái biết này ngụ ý nói đến việc nên một với Ngài, như Ngài biết Chúa Cha và nên một với Chúa Cha. Để rồi, như Chúa Giêsu đã khẳng định, ai nhìn thấy Ngài là thấy Chúa Cha, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng: ai nhìn thấy tôi là thấy Chúa Giêsu, vì Ngài ở trong tôi và tôi ở trong Ngài.

Khi phân tích cấu trúc câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu đi từ việc giải thích cho một mình Philípphê (Ga 14:9-10) đến việc giải thích cho các môn đệ (Ga 14:10-14). Và trong phần giải thích với các môn đệ, chúng ta lại thấy Chúa Giêsu đi từ tương quan giữa Ngài với Chúa Cha (Ga 14:10-11) đến tương quan giữa Ngài với các môn đệ (Ga 14:12-14). Ở đây chúng ta thấy có một mối dây liên kết mà Chúa Giêsu là Đấng trung gian. Trong tương quan giữa Ngài với Chúa Cha, Chúa Giêsu khẳng định: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.” Chúng ta thấy, Chúa Giêsu luôn để Chúa Cha làm mọi sự trong Ngài. Và Ngài muốn các môn đệ học ở Ngài là để cho Ngài làm việc trong họ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” Sợi chỉ nối kết ở đây là “tin vào Chúa Giêsu,” là trao trọn vẹn cuộc sống của mình cho Ngài để Ngài thực hiện những gì làm tôn vinh Chúa Cha trong chúng ta.

***************

THỨ NĂM TUẦN IV PHỤC SINH

THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU: MỐI PHÚC CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

(Cv 13:13-25; Ga 13:16-20)

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta được nghe “bài giảng chính thức” đầu tiên của Thánh Phaolô. Trong bài giảng này, Thánh Phaolô đã gợi lại cho những người nghe về lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong dòng lịch sử của Dân Israel. Điều chúng ta lưu ý là Thánh Phaolô biết những thính giả của mình là ai nên ngài đã dùng những hình ảnh rất phù hợp và gần gũi với họ. Một cách cụ thể, thính giả là những người “Israel và những người kính sợ Thiên Chúa” (Cv 13:16), nên Thánh Phaolô nói đến những sự kiện và nhân vật mà người nghe của mình luôn tưởng niệm đến. Trong những biến cố lịch sử của Israel, Thánh Phaolô chọn ra những giây phút quan trọng nhất, đó là (1) biết cố vượt qua [ra khỏi đất Ai Cập], (2) kinh nghiệm 40 năm trong sa mạc và vào đất hứa, (3) ban cho họ vị thủ lãnh và vua như lòng họ mong ước, (4) sai Gioan như vị tiền hô của Chúa Giêsu (x. Cv 13:17-25). Tất cả những chi tiết này giúp chúng ta hiểu rằng: để rao giảng Lời Chúa cách hữu hiệu cho người khác, chúng ta phải biết người nghe của chúng ta là ai để chọn những sự kiện và hình ảnh quen thuộc với họ. Nói tóm lại, sứ điệp Tin Mừng sẽ không sinh hoa trái nếu không được “nhập thể” vào trong môi trường sống và đời sống của người rao giảng và người nghe.

Hai nhân vật trong bài đọc 1 được Thánh Phaolô nhắc lại mà chúng ta có thể tập trung vào để suy gẫm, đó là vua Đavít và Gioan Tẩy Giả. Vua Đavít được Thánh Phaolô xem là một người đẹp lòng Thiên Chúa và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ngài (x. Cv 13:22). Vì vậy, từ dòng dõi của Đavít, Thiên Chúa sẽ đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu Kitô. Còn Gioan Tẩy Giả được trình bày như đã được trình bày trong Tin Mừng. Ngài là một người khiêm nhường: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người” (Cv 13:25). Từ hai hình ảnh này chúng ta nhận ra sự thật về người sống đẹp lòng Thiên Chúa, đó là người sống khiêm nhường và mau mắn thi hành mọi ý muốn của Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng muốn sống đẹp lòng Chúa, nhưng chúng ta thường để cho cái tôi của mình chiến thắng để rồi chúng ta không tìm kiếm ý Chúa hoặc nếu có tìm ra ý Chúa thì cũng không thi hành. Chỉ những người khiêm nhường mới có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa vì họ trở nên giống Chúa Giêsu, Đấng mời gọi họ học nơi Ngài: “Hãy học ở Ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29).

Trình thuật Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta những lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ sau khi rửa chân cho họ. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!” (Ga 13:16-17). Những lời trên là lối nói khác của Thánh Gioan được viết trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (10:24) và Luca (6:40). Những lời này dùng đề tài người sai đi và người được sai đi nhìn từ khía cạnh Kitô học của Tin Mừng. Tiếp theo là những lời nói đến tầm quan trọng của việc được sai đi, việc nhận thức rằng mình chỉ là người được sai đi chứ không phải là người sai, người mang sứ điệp chứ không phải là sứ điệp.

Đề tài về người chăn chiên biết chiên của mình lại xuất hiện ở đây: Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu” (Ga 13:18-19). Những lời này được trích từ Thánh Vịnh (41:9) và được áp dụng cho việc tiên báo về kẻ phản bội Chúa Giêsu. Chúng thuộc về truyền thống của cuộc thương khó Chúa Giêsu (x. Mc 14:18). Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, câu 19 không được sử dụng để khẳng định rằng chính việc phản bội sẽ bày tỏ căn tính Chúa Giêsu là “Đấng Hằng Hữu.” Những lời này ám chỉ đến sự hoàn thành của những lời Chúa Giêsu nói đến trong sự kiện đóng đinh (x. Ga 8:18). Hình ảnh Chúa Giêsu biết trước người sẽ nộp Ngài nhưng Ngài vẫn yêu, vẫn chọn và xem người đó như một con chiên yêu quý của Ngài làm chúng ta phải suy nghĩ. Trong cuộc sống, thường chúng ta chỉ biết một người làm mình đau khổ chỉ khi sự việc đã xảy ra, nhưng chúng ta vẫn khó để yêu và tha thứ cho họ. Ở đây, Chúa Giêsu biết trước, nhưng vẫn yêu và vẫn chọn. Điều này chứng tỏ một tình yêu thật bao la Ngài dành cho những kẻ thuộc về Ngài, những kẻ mà Ngài yêu cho đến cùng. Liệu chúng ta có tiếp tục yêu và chọn những người làm chúng ta đau khổ làm bạn và những người đồng hành trên đường về thiên đàng với chúng ta không?

Trình thuật Tin Mừng kết thúc với mối tương quan giữa các môn đệ và Chúa Giêsu, giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha: “Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13:20). Câu này ám chỉ về câu 16 và dường như được đặt không đúng chỗ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, những lời này nói đến phần thưởng dành cho những người đón nhận các môn đệ là những người được sai đi nhân danh Chúa Giêsu (x. Mt 10:40). Nếu lưu ý cẩn thận, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu như đóng vai trò trung gian: Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến, và Chúa Giêsu là người sai các môn đệ. Như thế, Chúa Giêsu được sai đến nhân danh Chúa Cha, còn các môn đệ được sai đi nhân danh Chúa Giêsu. Nếu các môn đệ muốn đến với Chúa Cha, họ phải qua Chúa Giêsu. Tuy nhiên, điều chúng ta có thể rút ra từ những lời trên là việc “phản chiếu cách trung thực” Đấng sai mình. Chúa Giêsu đã phản chiếu cách trung thực Chúa Cha vì Ngài là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình.” Ai nhìn thấy Ngài là thấy Chúa Cha. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có phản chiếu cách trung thực hình ảnh của Chúa Giêsu trong cuộc sống của chúng ta không? Liệu người khác có nhìn thấy Chúa Giêsu hiện diện trong chúng ta không?

**************

THỨ SÁU TUẦN IV PHỤC SINH

ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG GIÊSU

(Cv 13:26-33; Ga 14:1-6)

Hành trình rao giảng của Thánh Phaolô đã đưa ngài đến thành Antiôkhia, nơi lần đầu tiên những người môn đệ của Chúa Giêsu được gọi là “Kitô hữu.” Khi đọc sách Công Vụ Các Tông Đồ, một chi tiết chúng ta thường nhận ra đó là các Tông Đồ không để qua cơ hội nào mà không rao giảng về Đức Giêsu Kitô. Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô luôn nắm bắt cơ hội để rao giảng Tin Mừng và chúng ta thường thấy ngài trong các hội đường. Chúng ta vẫn thường nghe thấy danh từ “hội đường.” Nhưng “hội đường là gì? Theo nguyên ngữ [tiếng Hy Lạp], “hội đường” có nghĩa là “tụ họp mọi người,” nhưng nó cũng ám chỉ nơi tụ họp. Theo sử gia cổ đại Josephus [trong Antiquities], hội đường được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, như nơi để cầu nguyện, nơi để Lời Chúa được công bố và giải thích, trường học [Kinh Thánh], nơi những bữa ăn chung diễn ra, toà án xét xử, nơi các cuộc họp chính trị được tổ chức, nơi nhận và phân phát quà từ thiện.

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Phaolô đã sử dụng hội đường như nơi để rao giảng Tin Mừng. Nội dung của lời rao giảng của thánh nhân xoay quanh mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu, hay chúng ta còn gọi là Kerygma. Ngài cố gắng chứng minh cho mọi người rằng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng đến hoàn thành lời hứa Thiên Chúa đã hứa với Abraham và con cháu của ông. Lời hứa này được hoàn thành trong sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Điều này giải thích lý do tại sao người Do Thái không nhận biết Đức Giêsu Kitô (Cv 13:27). Đó là vì họ mong chờ một Đấng Cứu Độ “không chịu đau khổ, không chết và không sống lại”; họ mong chờ một Đấng Cứu Độ đến để giải thoát họ khỏi quyền lực của ngoại xâm, chứ không phải khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta điều gì? Thường ngày trong cuộc sống, khi chúng ta mong chờ một cái gì đó, chúng ta thường mong muốn điều đó xảy ra theo cách thức chúng ta muốn. Hoặc khi ai hứa với chúng ta một điều gì, chúng ta thường “tưởng tượng” ra cách thức người đó thực hiện lời hứa của mình theo cách chúng ta vạch ra. Khi sự việc xảy ra không theo cách thức chúng ta mong muốn, chúng ta thường có những phản ứng tiêu cực.

Theo Thánh Phaolô, lời Thiên Chúa hứa với chúng ta sẽ không được thực hiện nếu Đức Giêsu Kitô không sống lại. Đây chính là Tin Mừng chúng ta loan báo: “Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Cv 13:32-33). Những lời này giúp chúng ta nhận ra nội dung của việc loan báo Tin Mừng, đó là Đức Giêsu là Đấng đã đến để hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa cho con người qua cuộc khổ nạn, phục sinh và lên trời của Ngài. Việc rao giảng của chúng ta phải được thực hiện qua chính cuộc sống “cũng được phục sinh với Chúa Giêsu.” Nói cách khác, sự sống mới đầy yêu thương, cảm thông và tha thứ trong Đức Kitô là cách thức rao giảng hiệu quả nhất mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện.

Ai trong chúng ta cũng đã có lần cảm thấy xao xuyến? Nếu có, chúng ta xao xuyến về chuyện gì? Chúng ta có xao xuyến khi sắp mất đi người thân của mình không? Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu “khuyên” các môn đệ của Ngài đừng xao xuyến. Ngài khuyên họ đừng xao xuyến về việc Ngài sẽ về với Chúa Cha và như vậy họ sẽ không còn được thấy Ngài. Điều Ngài mong muốn nơi họ là: trong giây phút xao xuyến “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1). Để hiểu rõ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đọc đoạn trích này trong bối cảnh gần của nó, đó là bối cảnh nói về việc Chúa Giêsu là đường dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:1-11). Đoạn văn này bắt đầu với lời mời gọi: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1) và kết thúc với lời mời gọi: “Hãy tin vì công việc Thầy làm” (Ga 14:11). Điều này cho chúng ta biết rằng: Chúa Giêsu muốn các tông đồ nếu không tin vào “lời của Ngài” thì những dấu lạ [việc] Ngài làm chính là nền tảng để cho họ tin rằng Chúa Cha và Ngài là một (x. Ga 10:37-38). Chúng ta rút ra được điều gì từ chi tiết này? Qua chi tiết này, Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta như đã từng nói với các tông đồ rằng: Nếu các con không tin vào lời Thầy công bố mỗi ngày [hoặc mỗi Chúa Nhật] khi chúng con tham dự thánh lễ [hoặc khi đọc Kinh Thánh], thì chúng con hãy xem những việc Thầy đã làm cho chúng con mỗi ngày để rồi tin rằng Chúa Cha và Thầy là một. Nói cách cụ thể, nếu chúng ta không nhận ra Chúa Giêsu khi “đọc kinh cầu nguyện hay tham dự thánh lễ,” thì cố gắng nhận ra Ngài trong những công việc bé nhỏ thường ngày của chúng ta.

Trở lại với bài Tin Mừng, chúng ta có thể nhận ra hai phần sau: phần 1 (Ga 14:1-4) nói đến “lời khuyên” của Chúa Giêsu, và phần 2 (Ga 14:5-6) trình bày cho chúng ta phần “hỏi đáp” của Chúa Giêsu với Tôma. Trong lời khuyên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài bảo đảm cho họ ba điều sau:

(1) Trong nhà Cha Ngài có nhiều chỗ ở và mỗi người có một chỗ trong nhà Cha Ngài (Ga 14:2). Theo truyền thống, “nhà Cha” được hiểu là Thiên Đàng. Theo thần học bây giờ, một số thần học gia hiểu “nhà Cha” chính là “con tim của Thiên Chúa.” Vì vậy, chúng ta có thể hiểu điều Chúa Giêsu nói như sau: trong con tim của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ, không ai bị loại trừ ra khỏi trái tim [tình yêu] của Ngài. Tuy nhiên, điều đáng để chúng ta suy gẫm là chúng ta có muốn ở trong tim, trong tình yêu của Ngài hay không?

(2) Chúa Giêsu đi để chuẩn bị chỗ và Ngài sẽ trở lại để đón họ (Ga 14:2-3). Trong câu này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng: họ sẽ trải qua những giây phút mà Ngài “không hiện diện” với họ vì Ngài đi về nhà Cha Ngài để dọn chỗ cho họ, và rồi Ngài sẽ trở lại để đón họ. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng cảm thấy “vắng bóng” Chúa Giêsu. Chúng ta đi tìm kiếm Người và đôi khi chúng ta kêu gào trong thất vọng. Trong những giây phút như vậy, chúng ta cần nhớ rằng: Chúa Giêsu luôn nghĩ đến chúng ta và đang chuẩn bị cho chúng ta một chỗ trong cung lòng của Chúa Cha. Tuy nhiên, liệu khi Chúa Giêsu đến đón chúng ta vào trong cung lòng của Chúa Cha, chúng ta có nhận ra Ngài và đi theo Ngài không?

(3) Chúa Giêsu muốn Ngài ở đâu thì các môn đệ sẽ ở đó với Ngài. Điều này hàm chứa một ý nghĩa sâu xa cho chúng ta ngày hôm nay [nhất là những người sống đời thánh hiến]. Chúng ta thường mong muốn có một chỗ ở thật tốt, thật đẹp, và thật tiện nghi. Nói cách đơn giản, chúng ta thường tìm cho mình những nơi hợp với “khẩu vị” của mình. Điều này càng ngày càng làm cho chúng ta khó chấp nhận sống những nơi mà không đáp ứng được nhu cầu và sự mong muốn của chúng ta. Chi tiết thứ ba này mời gọi chúng ta đặt lại tầm quan trọng của “nơi chốn” chúng ta cư ngụ. Chúa Giêsu chỉ có một nơi cư ngụ mà Ngài ưa thích, đó là cung lòng của Chúa Cha. Điều này ám chỉ rằng: ở đâu không quan trọng, điều cần thiết và quan trọng là dù ở đâu chúng ta cũng cảm nghiệm được mình đang ở với Chúa Giêsu trong cung lòng, trong tình yêu của Chúa Cha.

Chúa Giêsu kết thúc lời khuyên bằng việc khẳng định về sự hiểu biết của các môn đệ về con đường mà Ngài sẽ đi: “Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:4). Như chúng ta đã biết, theo Thánh Gioan, sự hiểu biết của các môn đệ Chúa Giêsu luôn có giới hạn. Điều này được diễn tả trong câu hỏi của Tôma: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” (Ga 14:5). Có một sự hiểu lầm ở đây: Chúa Giêsu nói về “đường đi” [phương tiện], còn Tôma thì nghĩ về “nơi chốn” [mục đích/điểm đến]. Vì không biết mục đích hay nơi đến nên sẽ không biết phương tiện để đạt mục đích hay đường đi để đến nơi cần đến. Chính sự giới hạn về hiểu biết của các môn đệ mà Chúa Giêsu, một lần nữa mạc khải cho họ về chân tính của Ngài: “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Trong câu này, Chúa Giêsu lại khẳng định vai trò trung gian duy nhất của Ngài: chỉ qua Ngài, chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha. Ngài là “con đường” dẫn đến “sự thật và sự sống.” Nhìn từ khía cạnh này, Chúa Giêsu khẳng định Ngài không chỉ là “người dẫn” đến ơn cứu độ, nhưng còn là suối nguồn của sự sống và sự thật. Ai sống trong Chúa Giêsu, người đó đạt được ơn cứu độ và luôn sống vui và sống thật.

********************

THỨ BẢY TUẦN IV PHỤC SINH

BIẾT, THẤY VÀ YÊU CHÚA GIÊSU [THIÊN CHÚA]

(Cv 13,44-52; Ga 14:7-14)

Khi đọc bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy có một cảm giác khó chịu với những người Do Thái. Họ được trình bày với một hình ảnh không mấy “dễ thương” ngay trong cách đối xử của họ với Chúa Giêsu và bây giờ với các Tông Đồ. Trong bài đọc 1, chúng ta có thể nhận ra ba nhóm sau: (1) các môn đệ [Phaolô và Banaba], (2) người Do Thái, (3) dân ngoại. Thái độ của ba nhóm phản ánh thái độ sống của chúng ta.

Các môn đệ: Các ngài bị người khác ghen tức, phản đối, ngược đãi, nhục mạ, và trục xuất, nhưng các ngài “được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13:51). Còn chúng ta thì sao: khi bị ngược đãi và nhục mạ, chúng ta phản ứng thế nào? Các môn đệ chịu đựng tất cả những ngược đãi với niềm vui vì các ngài biết rằng mình đang thực hành thánh ý Thiên Chúa. Chỉ những người tìm kiếm và thực hiện thánh ý Thiên Chúa mới có thể đón nhận mọi trái ý với niềm vui và hoan lạc trong Thánh Thần.

Người Do Thái: Họ là những người ghen tức khi các môn đệ thành công trong việc rao giảng và được nhiều người quý mến; họ phản đối, nhục mạ, xách động người khác, xúi giục, ngược đãi và trục xuất các môn đệ. Nói tóm lại, họ sống trong sự bất an vì ghen tỵ. Đây cũng thường là thái độ của chúng ta khi thấy người khác, nhất là những người chúng ta không thích, thành công hơn mình. Tuy nhiên, chúng ta cần tránh thái độ này, vì nó đánh mất niềm vui và sự bình an của chúng ta. Thật vậy, người sống trong sự ghen tỵ và ghen ghét luôn bất an và không có niềm vui. Tại sao bạn tự làm khổ chính mình khi sống với thái độ đó!

Dân ngoại: “dân ngoại vui mừng tôn vinh Lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo” (Cv 13:48). Khi biết được Thiên Chúa đoái thương sai các môn đệ đến với họ, dân ngoại vui mừng. Họ vui mừng không chỉ vì các môn đệ. Họ vui mừng vì họ được Thiên Chúa “định cho hưởng sự sống đời đời.” Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về một thực tế trong cuộc sống, đó là nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở niềm vui vì những người mang Tin Mừng đến cho chúng ta [các linh mục, tu sĩ, v.v. đến phục vụ giáo xứ]. Khi họ ra đi, chúng ta cũng mất niềm vui phục vụ. Chúng ta cần phải vượt qua thái độ này, để tìm thấy niềm vui trong Tin Mừng, trong Thiên Chúa để chúng ta luôn tôn vinh Chúa trong bất kỳ mọi hoàn cảnh.

Sau khi nói cho Tôma biết mình là đường, là sự thật và là sự sống, Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định với các môn đệ rằng: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:7). Những lời này làm chúng ta xét lại chính mình: Chúng ta có biết Chúa Giêsu không? Khi nói đến biết Chúa Giêsu, chúng ta không chỉ nói đến những kiến thức chúng ta thu thập được về Ngài qua việc học hỏi, nhưng còn về một mối tương quan sâu đậm với Ngài, một lối sống đồng hình đồng dạng với Ngài. Nói cách khác, người nói rằng tôi biết Chúa Giêsu là người biến cuộc đời của mình trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Trong Tin Mừng Thánh Gioan, mục đích của Chúa Giêsu là mặc khải Chúa Cha cho con người. Qua chính Ngài, con người nhìn thấy, biết và đụng chạm đến Thiên Chúa. Những điều này ít xảy ra trong cuộc sống thường ngày của chúng ta vì nhiều khi gặp khó khăn, nhất là khi đi trong bóng đêm của đức tin, chúng ta cũng hỏi như Philípphê: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14:8). Đứng trước câu hỏi này, Chúa Giêsu cũng ‘trách yêu’ chúng ta như đã trách Philípphê: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14:9-10). Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta, nhưng chúng ta có ở với Ngài không? Chúng ta đã không để Chúa Giêsu đến ở trong chúng ta vì tâm hồn và con tim chúng ta chứa đựng nhiều của cải vật chất hoặc để cho lo lắng sự đời chiếm lấy. Khi tâm hồn chúng ta để cho lời Chúa Giêsu chiếm lấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng Chúa Cha ở trong Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu luôn ở trong chúng ta. Chính Chúa Giêsu là “cầu nối” để qua đó Chúa Cha ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Chúa Cha.

Sau khi trách và khẳng định với Philipphê về việc Chúa Cha làm mọi sự ở trong Ngài, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tin vào Ngài. Đồng thời, Ngài cũng khẳng định rằng những ai tin vào Ngài sẽ làm được những điều Ngài làm, đó là làm cho người khác nhìn thấy Chúa Cha qua cuộc sống của họ: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14:11-14). Qua những lời này, Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ tầm quan trọng của đức tin: Đức tin là yếu tố làm cho người môn đệ nhận ra bàn tay Thiên Chúa đang hoạt động trong thế giới và trong cuộc đời của mỗi cá nhân. Chính đức tin đưa người môn đệ vào trong mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa và kín múc ở đó ‘năng lực sáng tạo,’ hầu thực hiện những việc vĩ đại nhân danh Chúa Giêsu. Tóm, lại, người môn đệ là người có niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa và qua đức tin đó họ phó thác trọn vẹn chính cuộc đời mình vào bàn tay yêu thương quan phòng của Chúa, hầu để Ngài thực hiện những điều kỳ diệu trong thế giới.

Exit mobile version