Suy niệm mỗi ngày Tuần XXXIII Thường Niên
Lm. Ngọc Dũng, SDB
THỨ HAI TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
HÃY TIẾP TỤC KÊU XIN THIÊN CHÚA DÙ CÓ BỊ NGĂN CẢN
(1 Mcb 1:10-15.41-43.54-57.62-64; Lc 18:35-43)
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nghe về một thời gian lịch sử đầy khó khăn của dân Israel trong việc thờ phượng Đức Chúa. Nói theo lời của tác giả sách thứ nhất Macabê, dân Israel phải đối diện với “một cơn thịnh nộ lớn đe doạ” (1 Mcb 1:64). Khi vua Antiôkhô Êpiphanê, con vua Antiôkhô lên ngôi, vì là một “mầm mống tội lỗi” (1 Mcb 1:10), vua ra “chiếu chỉ trong toàn vương quốc truyền cho mọi người phải nhập thành một dân duy nhất và ai nấy phải bỏ tục lệ của mình. Mọi dân tộc đều chấp hành lệnh vua” (1 Mcb 1:41-42). Đứng trước lệnh vua, con cái Israel bị chia rẽ: “Một số người trong dân vội đi yết kiến nhà vua. Vua đã cho phép họ sống theo các tập tục của dân ngoại. Thế là họ đã xây một thao trường ở Giêrusalem theo thói các dân ngoại; họ huỷ bỏ dấu vết cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để mang chung một ách với dân ngoại và bán mình để làm điều dữ” (1 Mcb 1:13-15). Hơn thế nữa, “họ dâng lễ tế cho các ngẫu tượng, vi phạm luật sabát” (1 Mcb 1:43). Nhưng ngược lại, “nhiều người trong dân Israel vẫn kiên tâm vững chí, nhất định không ăn những thức ăn ô uế. Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn, vi phạm Giao Ước thánh. Cuối cùng họ đã chết” (1 Mcb 1:62-63). Chúng ta cũng chứng kiến điều này trong ngày hôm nay. Niềm tin Kitô giáo đang bị đe doạ bởi nhiều học thuyết khác nhau được khuyến khích bởi các nhà lãnh đạo quốc gia và những ý thức hệ. Đứng trước những đe doạ này [nhất là chủ nghĩa tục hoá], nhiều người đã chạy theo để loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Nhưng cũng rất nhiều người đứng vững trong đức tin, sống trọn vẹn cho Chúa và cho anh chị em mình. Chúng ta thuộc về thành phần nào trong hai thành phần trên?
Điểm đầu tiên đáng để chúng ta lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay là nhân vật “người mù.” Thánh Luca tuyên bố hai lần trong Tin Mừng mình rằng sứ vụ của Chúa Giêsu là mang ánh sáng cho những người đui mù. Đây là dấu hiệu sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa cho dân Ngài (x. Lc 4:18; 7:22). Cũng hai lần Thánh Luca dạy rằng chúng ta phải mời những người đui mù chia sẻ trong bàn tiệc của chúng ta (x. Lc 14:13,21). Chi tiết này mời gọi chúng ta, là những người môn đệ của Chúa Giêsu, trở nên những người mang ánh sáng đến cho anh chị em mình và trở nên những người đón nhận những anh chị em không may mắn như chúng ta. Có hai loại đui mù, đó là đui mù thể lý và đui mù thiêng liêng. Nhiệm vụ của những người môn đệ Chúa Giêsu là đem ánh sáng không chỉ cho những người đui mù thể lý, mà quan trọng nhất là những anh chị em đui mù về thiêng liêng. Chúng ta phải trở nên ánh sáng cho họ bằng một đời sống gương mẫu. Hãy dẫn anh chị em mình đến với ánh sáng [Thiên Chúa], chứ đừng đẩy họ vào trong bóng tối. Hãy mang ánh sáng, chứ đừng mang bóng tối đến trên cuộc đời của người khác.
Trong bài Tin Mừng này, Thánh Luca dùng hình ảnh người mù để nói về lòng thương xót của Chúa Giêsu cho những người kém may mắn để kết thúc trình thuật về hành trình của Ngài và tóm kết sứ vụ của Chúa Giêsu cho những người bị loại ra bên lề xã hội. Khi đọc câu chuyện này, chúng ta thấy có một đối nghịch giữa sự kiên trì cầu xin và đức tin của người mù so với các môn đệ (x. Lc 18:31-34). Sự đối nghịch này chỉ ra rằng qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ về tầm quan trọng của ánh sáng đức tin. Chính ánh sáng này mở mắt người mù để nhận ra Chúa Giêsu là ai và cuối cùng theo Ngài. Điều này được diễn tả trong chi tiết là anh gọi Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít” (Lc 18:38), thay vì gọi “Giêsu Nadarét” như người ta nói cho anh (x. Lc 18:37). Điều này đưa chúng ta về với câu trả lời cá biệt mà Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: Người ta bảo thầy là ai? Còn anh em, anh em bảo thầy là ai? Người mù nghe người ta bảo Ngài là Giêsu Nazarét, nhưng đối với anh [cách cá vị], Ngài là “Con Vua Đavít.” Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về bổn phận phải “cá vị hoá” đức tin của mình. Nói cách khác, chúng ta phải biến những gì chúng ta nghe về Chúa Giêsu thành xương thành thịt của mình. Để rồi, Ngài không còn trở nên xa lạ trong một mớ kiến thức, nhưng trở thành gần gũi với chúng ta trong từng nhịp sống.
Một chi tiết khác làm chúng ta suy gẫm là việc nhiều người quát nạt anh mù: “Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi.” Nhưng anh mù không để cho việc quát nạt của người khác dập tắt ánh sáng đức tin của mình vào Chúa Giêsu. Nên anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lc 18:39). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta để cho người khác dập tắt khao khát được gặp, được phục vụ Chúa của chúng ta. Một cách cụ thể, chúng ta để cho những lời nói “vô nghĩa” của người khác lấy đi niềm vui có Chúa của chúng ta. Đừng để người khác lấy đi khát vọng yêu thương Chúa và được Chúa yêu thương. Càng bị người đời ngăn cản đến với Chúa bao nhiêu, chúng ta phải càng hô to lên bấy nhiêu, để tiếng kêu của chúng ta vượt thắng “tiếng la” của người khác và vọng đến tai Chúa Giêsu.
Cuối cùng, hành vi của anh mù sau khi thấy Chúa Giêsu đáng để chúng ta học hỏi: “Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa.” Chính qua ba hành động này, anh đã làm “toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 18:43). Việc đầu tiên sau khi nhìn thấy được là “theo Người.” Đây là hành vi của người môn đệ. Chi tiết này mời gọi chúng ta trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều kỳ công Thiên Chúa làm trong ngày sống của chúng ta. Những kỳ công này phải dẫn chúng ta đến theo Chúa Giêsu. Qua hành động “theo Chúa Giêsu” [trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài] mà chúng ta làm người khác cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Thật vậy, hãy sống thế nào để đời sống của chúng ta trở nên lý do cho người khác ngợi khen Thiên Chúa chứ không tôn vinh chúng ta.
******************
THỨ BA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN – Đức Mẹ Dâng Mình Trong Đền Thờ
DÂNG HIẾN TRỌN VẸN CHO CHÚA
(Dcr 2:14-17; Mt 12:46-50)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội kính nhớ lễ Mẹ Maria dâng mình trong đền thờ. Thánh lễ này được cử hành ở Giêrusalem vào thế kỷ thứ 6. Một nhà thờ được xây dựng ở đây để tôn kính mầu nhiệm này. Giáo Hội Đông Phương dường như yêu thích thánh lễ này hơn. Thánh lễ này chỉ xuất hiện trong Giáo Hội Tây phương vào thế kỷ 11. Dù cho lễ này có lần biến mất khỏi lịch phụng vụ, vào thế kỷ 16, nó trở thành lễ cho toàn Giáo Hội. Giống như việc Đức Maria được sinh ra, việc Mẹ dâng mình trong đền thờ chỉ được đọc thấy trong văn chương nguỵ thư. Trong những gì được đón nhận như là trình thuật không mang tính lịch sử, Protoevangelium của Thánh Giacôbê nói cho chúng ta hay rằng Thánh Gioankim và Thánh Anna đã dâng hiến Mẹ Maria cho Thiên Chúa trong đền thánh khi Mẹ được 3 tuổi. Điều này được thực hiện để hoàn thành lời hứa với Thiên Chúa khi Anna trong thời gian không có con. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa hầu hoàn thành lời hứa với Thiên Chúa trong ngày rửa tội. Chúng ta để lời Chúa hướng dẫn chúng ta trong thái độ dâng hiến của mình.
Ngôn sứ Dacaria trong bài đọc 1 hôm nay nói về hình ảnh con gái Xion, hình ảnh thường được sử dụng để nói về Giáo Hội hoặc Mẹ Maria. Đây là lời sấm ngôn mời gọi con dân Israel “hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” Dcr 2:14). Những lời này cho thấy lý do của niềm vui là việc Thiên Chúa đang đến để ở lại giữa Xion. Thiên Chúa cũng đến với chúng ta mỗi ngày, chúng ta có vui sướng reo hò không? Hay lòng chúng ta để cho sự lo âu và phiền muộn của trần thế cướp mất niềm vui có Chúa trong tâm hồn chúng ta?
Những chi tiết diễn tả trọn vẹn việc Mẹ Maria dâng mình trong đền thờ được Ngôn sứ Dacaria trình bày là Mẹ trở thành “dân thánh” của Thiên Chúa và Thiên Chúa sẽ “cư ngụ” trong cung lòng Mẹ. Bên cạnh đó, Mẹ nhận biết sứ mệnh của mình là được sai đến với người khác hầu mang niềm vui có Chúa đến cho họ. Mẹ được Đức Chúa lấy làm cơ nghiệp, là sở hữu riêng của Ngài. Cuộc đời của Mẹ được đón nhận như của lễ đẹp lòng Thiên Chúa (x. Dcr 2:15-17). Chúng ta cũng đã được hiến dâng cho Chúa trong ngày rửa tội. Nhưng nhiều khi chúng ta lấy lại điều đã dâng. Chúng ta không để cho Thiên Chúa chiếm lấy và biến chúng ta thành cơ nghiệp của riêng Ngài. Chúng ta vẫn còn để cho mình làm nô lệ của những thói hư tật xấu, những đam mê trần thế. Hãy rộng mở cõi lòng để Thiên Chúa ngự vào. Hãy biến ngày sống và cuộc sống của mình thành của lễ đẹp lòng dâng lên Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta một trong những biến cố về sự xuất hiện của Mẹ Maria trong thời gian Chúa Giêsu đi rao giảng. Trong biến cố này, chúng ta thấy sự xuất hiện của Mẹ như là một “nhân vật bắc cầu.” Chúng ta cũng có thể tìm thấy đoạn trích này trong Tin Mừng Thánh Máccô (3:31-35) và Luca (8:19-21). Tuy nhiên, sự khác biệt là Thánh Mátthêu định hướng cuộc hội thoại trong câu chuyện để cao điểm [câu trả lời của Chúa Giêsu trong câu 48-50] trở nên chặt chẽ và những yếu tố khác nhau của nó làm sáng tỏ nhau một cách hỗ tương. Chúng ta có thể nói rằng, đây là một câu chuyện xảy ra cách “ngẫu nhiên” trong khi “Đức Giêsu còn đang nói với đám đông” (Mt 12:46). Chúa Giêsu sử dụng sự “ngẫu nhiên” để dạy cho thính giả về việc tìm thấy ý nghĩa trong cái “ngẫu nhiên.” Sự kiện ngẫu nhiên ở đây là việc “mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người” khi Chúa Giêsu đang nói với đám đông. Sự kiện này làm nhiều người thắc mắc và muốn Chúa Giêsu ngừng công việc giảng dạy của mình để đáp ứng nhu cầu của những người thân ruột thịt: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12:47). Thay vì làm theo cách tự nhiên như bao nhiêu người khác, Chúa Giêsu sử dụng đưa sự kiện đang xảy ra vào trong bài giảng của Ngài: “Người bảo kẻ ấy rằng: ‘Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?’ Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: ‘Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi’ (Mt 12:48-50). Trong những lời này, Thánh Mátthêu định nghĩa gia đình thật của Chúa Giêsu. Nói cách cụ thể hơn, những người môn đệ chân chính của Chúa Giêsu là những người vâng phục Thiên Chúa và thực hành thánh ý Ngài với niềm tin. Thật vậy, những người được dâng cho Thiên Chúa là những người thuộc về gia đình của Chúa Giêsu. Tiêu chuẩn duy nhất để khẳng định việc thuộc về gia đình của Chúa Giêsu là thi hành ý muốn của Thiên Chúa, là sống tinh thần “xin vâng” của Đức Mẹ. Hãy sống tinh thần vâng phục của những người con thảo với Thiên Chúa. Đó là của lễ đẹp nhất mà chúng ta có thể dâng lên Ngài.
******************
THỨ TƯ TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
SỐNG TRUNG THÀNH ĐỂ CÙNG THỐNG TRỊ VỚI CHÚA
(2 Mcb 7:1.20-31; Lc 19:11-28)
Hôm qua chúng ta nghe về tấm gương anh dũng và trung thành với luật Chúa của một “chức sắc, lớn tuổi,” đó là Elada. Bài đọc 1 hôm nay tường thuật cho chúng ta về mẫu gương bất khuất của bảy anh em trẻ cùng một bà mẹ đơn sơ chất phác. Nếu đọc kỹ bản văn và nối kết với bài đọc 1 hôm qua, chúng ta thấy nhân vật chính trong bài đọc 1 hôm nay là người mẹ. Chính tác giả đã cho chúng ta biết điều này: “Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: ‘Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình’” (2 Mcb 20-23). Chính tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa đã trở thành động lực để cho con cái của bà can đảm chấp nhận hình phạt và sự chết. Hãy sống tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa cách triệt để hầu những người khác tìm thấy động lực và gương sáng để trung thành với Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết việc các môn đệ phải chấp nhận những nguy hiểm trong việc theo Chúa Giêsu, Đấng là vua. Chúng ta phải đọc và giải thích bài Tin Mừng này trong bối cảnh của nó, đó là trả lời cho câu hỏi: Những sự đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là vua sẽ như thế nào? Chi tiết đầu tiên chúng ta cần lưu ý là từ “dân chúng.” Theo các học giả Kinh Thánh, từ này bao gồm các môn đệ của Chúa Giêsu, mọi người, và những người chống đối Ngài. Cũng giống với câu chuyện của Dakêul bài Tin Mừng hôm nay nói về việc sử dụng của cải được trao phó thế nào hầu đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu trong cuộc sống của mỗi người. Nói cách cụ thể hơn, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta sử dụng của cải mình được trao phó hầu sinh lợi cho Thiên Chúa và cho người khác hơn là cho chính mình.
Chi tiết thứ hai để hiểu bài Tin Mừng là việc những thính giả của Chúa Giêsu “tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi” (Lc 19:11). Trong chương 18 [18:17,24-25,29], Thánh Luca đã dạy về những điều kiện cần thiết để vào Triều Đại Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng này, Thánh Luca lại đặt nền tảng cho một khía cạnh mới của lời dạy của ngài về Triều Đại Thiên Chúa. Sẽ không có một biểu hiện đầy uy hùng nào của Nước Thiên Chúa ở Giêrusalem. Những gì hiện diện ở Giêrusalem là sự kiên định và trung thành của Chúa Giêsu, Đấng là vua (x. Lc 19:38, 22:29-30; 23:3,11,37-38), vâng phục thánh ý của Cha Ngài. Nếu nhìn từ khía cạnh này, vị vua trong bài Tin Mừng hôm nay chính là Chúa Giêsu. Vị vua này dường như rất đòi hỏi và rất chính xác bởi vì chính bản thân mình đã chấp nhận nguy hiểm với niềm tin, trải qua những đau khổ tột cùng, và mang trên mình dấu ấn của thập giá. Chi tiết này cho thấy, chỉ những người đã trải qua những đau khổ tột cùng, đã cho đi tất cả mới hiểu được giá trị của sự trao ban.
Dụ ngôn bắt đầu với việc trình bày cho chúng ta hai nhóm khác biệt trong tương quan với “người quý tộc,” đó là các tôi tớ và đồng bào ông. Hai nhóm này sẽ có những hành động tương xứng trước khi người quý tộc này làm vua và nhận thưởng phạt tương xứng sau khi ông làm vua. Trước khi làm vua, các tôi tớ được phát cho mười nén bạc và mệnh lệnh: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (Lc 19:13). Còn những người đồng bào thì ghét ông, “nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: ‘Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi’” (Lc 19:14). Chúng ta đang thuộc nhóm nào trong hai nhóm trên? Là các môn đệ [tôi tớ], chúng ta được trao cho những nén bạc để sinh lợi. Chúng ta đã làm điều này như thế nào? Nếu thành thật với chính mình, chúng ta nhận ra rằng nhiều lần chúng ta đóng vai “đồng bào,” là những người ghét Thiên Chúa [Chúa Giêsu] vì Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ nhiều thứ. Chúng ta không muốn Ngài làm vua để cai trị mình vì chúng ta muốn làm vua của cuộc đời mình. Hãy để Thiên Chúa làm vua cuộc đời bạn, và bạn sẽ hạnh phúc hơn.
Sau khi lãnh nhận vương quyền về, vị vua bắt đầu thưởng phạt công minh theo từng nhóm. Trong nhóm tôi tớ, việc thưởng phạt dựa trên việc “thực hiện mệnh lệnh” của Ngài. Những ai thực hành mệnh lệnh sinh lợi những gì ông trao thì được cai trị cùng với ông (x. Lc 19:15-19). Còn những ai không làm theo mệnh lệnh của ông, thì sẽ bị tước hết những gì được trao phó và bị liệt vào hàng những người thù địch. Đối với những người thù địch, họ sẽ bi giết chết trước mặt vị vua: “Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi” (Lc 19:27). Khi đọc câu này, chúng ta thấy dường như vị vua quá “độc ác.” Tuy nhiên, đây là hình ảnh được sử dụng để ám chỉ rằng việc đón nhận sự thống trị của Thiên Chúa trên cuộc sống của mình là một giây phút quan trọng để quyết định. Đáng buồn thay, nhiều người quyết định chống lại sự sống mà Vua Giêsu mang lại. Nói cách cụ thể hơn, hình ảnh này cho chúng ta biết Chúa Giêsu, Đấng là vua, có một vai trò quyết định trong định mệnh con người, bởi vì việc đáp lại lời mời gọi của Ngài quyết định sự sống chết. Áp dụng vào trong đời sống thường ngày của mình, chúng ta cũng thường được Chúa Giêsu mời gọi sống yêu thương, cảm thông và tha thứ từng phút giây. Việc chúng ta đáp trả lại lời mời gọi này quyết định sự sống chết của con tim và trọn vẹn con người chúng ta.
*****************
THỨ NĂM TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
NHẬN RA SỰ VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC KITÔ
(1 Mcb 2:15-29; Lc 19:41-44)
Khi gặp khó khăn, bắt bớ, chúng ta có chối đạo không? Bài đọc 1 thuật lại cho chúng ta cuộc bách hại trong thời vua Antiôkhô đối với người Do Thái: “Hồi ấy, các viên chức của vua Antiôkhô, những người có nhiệm vụ cưỡng bức người Do-thái chối đạo, đã tới thành Môđin để tế thần” (1 Mcb 2:15). Đối diện với bách hại, nhiều người Do Thái đã chối đạo. Nhưng ông Mát-tít-gia và con cái ông vẫn trung thành với Thiên Chúa. Ông mạnh mẽ tuyên bố rằng: “Cho dù tất cả các dân tộc trong vương quốc của vua có nghe lời vua và ai cũng chối bỏ việc thờ phượng của cha ông mình và tuân theo lệnh vua, thì tôi, các con tôi và anh em tôi, chúng tôi vẫn trung thành với Giao Ước của cha ông chúng tôi. Không đời nào chúng tôi bỏ Lề Luật và các tập tục! Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mcb 12:19-22). Những lời này nhắc nhở chúng ta về sự trung thành dành cho Thiên Chúa. Liệu chúng ta có trung thành và sống hoàn toàn cho Chúa khi người khác không trung thành không?
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem. Thánh Luca trình bày cho chúng ta lý do tại sao Chúa Giêsu khóc thương thành Giêsusalem: “Phải chi ngày hôm nay ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19:42). Như chúng ta biết, trước khi tiến vào đền thờ, Chúa Giêsu đã dừng lại. Tương phản với Lc 4:16-30 nơi mà đề tài về sự phổ quát của ơn cứu độ lấn lướt đề tài loại trừ, và tương phản với Lc 9:51-55, nơi mà đề tài về việc không trả thù che khuất đề tài loại trừ, thì Lc 19:41-44 dừng lại ở đề tài Chúa Giêsu bị loại trừ bởi những người lãnh đạo tôn giáo (Lc 19:39). Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta hiểu được sâu hơn lý do Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem, đó là việc thành đã loại trừ Ngài như đã từng loại trừ các ngôn sứ. Tên thành Giêrusalem có nghĩa là “bình an.” Nhưng lại không nhận ra sự thăm viếng của Chúa Giêsu, Đấng mang bình an của Thiên Chúa đến cho thành. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về thái độ sống của mình. Ai trong chúng ta cũng muốn được một cuộc sống bình an, nhưng nhiều người trong chúng ta lại không nhận ra sự viếng thăm của Chúa Giêsu, Đấng mang cho chúng ta sự bình an đích thật. Nhiều lần, chúng ta để mắt mình bị che khuất bởi của cải vật chất, bởi giận hờn ghen ghét, bởi những lắng cho cuộc sống trần thế đến nỗi không còn thấy được Chúa Giêsu đang hiện diện bên trong, bên cạnh chúng ta và nơi những người anh chị em.
Vì không nhận ra Đức Kitô Đấng đem bình an đến, thành Giêrusalem sẽ bị phát huỷ: “Sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19:43-44). Theo các học giả Kinh Thánh, những lời này tiên báo về sự phá huỷ Giêrusalem của người Roma vào năm 70. Tuy nhiên, ý nghĩa của lời tiên báo nằm ở một cấp độ sâu hơn, đó là số phận đáng thương của những người [những thành] không đón nhận sứ điệp Tin Mừng của Chúa Giêsu. Mỗi ngày [mỗi tuần] chúng ta cũng được nghe Tin Mừng công bố cho chúng ta. Nhưng chúng ta có đón nhận và đem ra thực hành không? Nếu chúng ta không đón nhận và đem ra thực hành, thì chúng ta cũng sẽ chung số phận với những người chống lại Thiên Chúa, đó là bị huỷ diệt đời đời trong nơi “khóc lóc và nghiến răng.”
*****************
THỨ SÁU TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
THEO CHÚA KITÔ TRÊN CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ
(2 Mcb 7:1.20-23.27b-29; Rm 8:31b-39; Lc 9:23-26)
Kinh nghiệm cuộc sống dạy rằng khi yêu ai một cách chân thật, chúng ta sẵn sàng trao ban mọi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Một tình yêu chân thật luôn biến những người yêu nhau trao ban cho nhau những gì mình có và mình là. Tình yêu chân thật có thể biến những con người “nhút nhát” trở nên can đảm để bảo vệ người mình yêu. Đây chính là điều đã xảy ra với người mẹ và bảy người con trong bài đọc 1 hôm nay. Tác giả sách Maccabê quyển thứ hai trình bày cho chúng ta về sự can đảm của người mẹ và bảy người con cùng bị bắt trong thời vua Antiôkhô. Họ bị đánh bằng roi gân bò, “để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm” (2 Mcb 7:1). Tuy nhiên, vì tình yêu dành cho Thiên Chúa và luật của Ngài, họ đã chấp nhận chịu đánh đòn và chịu chết, chứ không vi phạm luật Thiên Chúa. Họ trở nên những tấm gương cho chúng ta noi theo. Nhiều người trong chúng ta ngày hôm nay xem luật Thiên Chúa như một gánh nặng. Chúng ta không muốn tuân theo vì chúng ta nghĩ rằng luật Thiên Chúa không làm cho chúng ta được tự do. Vì vậy, nhiều khi có những luật của nhà nước đưa ra trái ngược với luật của Thiên Chúa, chúng ta cũng tuân theo. Chỉ có những người yêu mến Thiên Chúa thật lòng mới có thể hiểu và tuân giữ luật Thiên Chúa.
Trong bài đọc 1, chúng ta có thể rút ra hai bài học quý giá từ người mẹ. Bài học thứ nhất là chính gương sáng của người mẹ: “Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi” (2 Mcb 20-21). Đây là hình ảnh của một người cha người mẹ gương mẫu mà các bậc làm cha làm mẹ và những người lãnh đạo cần phải học hỏi. Đáng khen nơi bà mẹ là sự can đảm và tình yêu bà dành cho Thiên Chúa. Chính tình yêu này đã làm cho bà can đảm và đầy nghị lực để động viên các con sống trung thành với luật Thiên Chúa. Gương sáng của bà được biểu hiện không chỉ bằng lời nói mà bằng chính sự kiên cường chịu đau khổ của bà.
Bài học thứ hai chúng ta được rút ra từ lời khuyên của người mẹ cho các con của bà, nhất là với người con út. Trong lời khuyên của mình, người mẹ cho thấy rằng, dù bà là người cưu mang con trong dạ, nhưng sự sống của những người con thuộc về Thiên Chúa: “Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mcb 7:23). Chính vì sự sống thuộc về Thiên Chúa, nên không ai có thể cướp mất được dù là tên đao phủ (x. 2 Mcb 7:29). Chi tiết này giúp chúng ta hiểu rằng chúng ta không phải là “chúa” của sự sống mình. Chúng ta chỉ là những người được trao cho sự sống để sống cho Chúa và cho anh chị em mình. Vì vậy, hãy sống cho trọn một kiếp người để làm chứng cho Chúa và trung thành với Chúa. Cuộc sống ở trên trần thế này sẽ qua đi. Chỉ có trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự sống vĩnh cửu. Đừng sợ mất mát hoặc thua kém trong cuộc đời này. Điều quan trọng là trung thành tuân giữ luật Thiên Chúa.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô trình bày lý do tại sao chúng ta không sợ hãi để làm chứng cho Chúa dù phải hy sinh chính mạng sống mình. Lý do là: vì chúng ta có Thiên Chúa bênh đỡ (x. Rm 8:31b). Vì yêu thương mà Thiên Chúa ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài để chết cho chúng ta để chúng ta được tha tội và sống lại để mở lối vào sự sống vĩnh hằng. Theo Thánh Phaolô, vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu vô điều kiện, nên không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài, “dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo” (Rm 8:35). Chính niềm tin này đã làm cho các thánh tử đạo sẵn sàng đổ máu mình ra để sống trọn vẹn cho Chúa. Họ không để bất kỳ điều gì tách họ khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có để cho mình bị của cải vật chất và thú vui trần thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa không?
Bài Tin Mừng đưa ra cho chúng ta những điều kiện cần thiết để trở nên những người môn đệ chân chính của Chúa Giêsu, đó là: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Sống trong thế giới tôn vinh chủ nghĩa cá nhân hôm nay, con người thường giữ chặt cái tôi của chính mình, đặt chính mình làm trung tâm của mọi sự. Con người luôn muốn người khác phải cung phụng mình. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa hưởng thụ làm cho con người không còn sẵn sàng chấp nhận những khó khăn đến trong cuộc đời mình. Con đường hy sinh từ bỏ của thập giá không còn giá trị gì với con người. Lời Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ vào trong thế giới của tình yêu thập giá. Chỉ những môn đệ nào đặt Chúa Giêsu làm trung tâm điểm đời mình và học từ mầu nhiệm thập giá vẻ đẹp của tình yêu tự hiến thì mới có thể hiểu được những hệ quả mà Chúa Giêsu trình bày tiếp theo trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là (1) người muốn cứu mạng sống dương thế để rồi chối bỏ Thiên Chúa thì sẽ mất trong đời sống vĩnh cửu; (2) ai liều mất mạng sống trên dương thế để tuân giữ tình yêu dành cho Thiên Chúa và luật của Ngài thì sẽ được sống lại trong ngày sau hết; (3) đừng để được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân; (4) ai xấu hổ vì Chúa Giêsu và lời của Ngài, thì trong ngày sau hết Chúa Giêsu sẽ xấu hổ vì người ấy (x. Lc 9:24-26). Chúng ta là những người môn đệ như thế nào của Chúa Giêsu: là những người tìm cách cứu mạng sống dương thế của mình qua việc tìm kiếm lời lãi cả thế gian đến độ xấu hổ vì Chúa Giêsu và lời Ngài hay là những người liều mất mạng sống dương thế để sống trung thành với lời Chúa?
*****************
THỨ BẢY TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
THIÊN CHÚA LÀ CHÚA CỦA KẺ SỐNG
(1 Mcb 6:1-13; Lc 20:27-40)
Trình thuật về vua Antiôkhô trong bài đọc 1 hôm nay giúp chúng ta suy gẫm về việc phải sống thế nào cho ý nghĩa. Một cách cụ thể hơn, vua Antiôkhô chỉ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống sau khi đã phải chứng kiến nhiều thất bại trong các cuộc chinh phạt của mình (x. 1 Mcb 6:1-7). Chi tiết này cho thấy, thất bại hay đau khổ trong cuộc sống là “thầy dạy” về sự khôn ngoan và giá trị đích thật trong cuộc sống. Thật vậy, sau nhiều thất bại, vua Antiôkhô “lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước. Vua nằm liệt như thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt” (1 Mcb 6:8-9). Cũng chính khi đối diện với cái chết, vua Antiôkhô mới hiểu được điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống. Điều này được diễn tả trong những lời dường như sau cùng của ông: “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giêrusalem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giuđa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (1 Mcb 6:10-13). Những lời này cho thấy hạnh phúc đích thật của con người không hệ tại ở những chiến công hiển hách, nhưng hệ tại việc sống một đời sống “không tham lam” và “không tàn bạo.” Nói cách khác, hạnh phúc hệ tại việc không để cho của cải vật chất làm lu mờ con tim rồi giết chết tình yêu mình dành cho người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta vừa được nghe trong Chúa Nhật tuần trước [Chúa Nhật XXXII TN]. Nội dung chính của bài Tin Mừng là cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với nhóm Xađốc về việc người chết sống lại [hay sự phục sinh]. Chúng ta cần lưu ý rằng, bài Tin Mừng này nằm trong bối cảnh của những lời giảng trong Đền Thờ của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể nói, Đền Thờ là nơi những người Xađốc có vị trí quan trọng trong việc giảng dạy. Một trong những điều họ giảng dạy, được đưa ra tranh luận với Chúa Giêsu, là việc không có sự sống lại. Như chúng ta biết, nhóm Xađốc chỉ tin vào Torah được viết ra, chúng ta gọi là Ngũ Kinh. Họ dựa trên Luật được tìm thấy trong Ngũ Kinh để chứng minh rằng sự sống lại là một điều không thể xảy ra như câu chuyện họ dùng để minh hoạ: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” (Lc 20:28-33). Họ dựa vào Levirate Luật được tìm thấy trong sách Đệ Nhị Luật (25:5) để áp dụng vào một câu chuyện mang tính hư cấu nhằm đặt Chúa Giêsu vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan để cuối cùng phải chấp nhận giáo huấn của họ là không có sự sống lại.
Để trả lời cho vấn nạn trên, Chúa Giêsu đi theo hai bước: Bước thứ nhất, Ngài đưa ra sự khác biệt giữa sự sống đời này và đời sau. Theo Ngài, “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20:34-36). Trong những lời này, Chúa Giêsu cho biết, chỉ có những người sống sự sống đời này mới cần đến việc sinh con đẻ cái hầu tiếp tục miêu duệ của mình khi họ chết. Điều này nói lên ước mơ trường tồn hay khát vọng sống vĩnh cửu của con người. Họ muốn sống mãi trong con cháu khi họ đã từ giã cõi đời. Còn những người sống lại từ cõi chết, vì không chết nữa nên họ không cần phải có con cháu để được nhớ đến và sống mãi. Bước thứ hai, Chúa Giêsu sử dụng biến cố Thiên Chúa hiện ra với Môsê trong bụi gai [dựa trên Ngũ Kinh], để chứng minh cho vấn đề kẻ chết trỗi dậy: “Thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20:37-38). Những lời này cho chúng ta thấy trong Thiên Chúa, mọi khoảnh khắc đều là hiện tại. Ngài là Thiên Chúa của những gì hiện hữu, những gì đang sống. Trong Ngài không có sự chết, vì Ngài là Đấng ban sự sống. Ngài chính là sự sống. Khi chúng ta sống trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ không phải chết. Điều chúng ta đang nói ở đây ám chỉ đến đời sống thiêng liêng. Có nhiều người trong chúng ta “sống mà như đã chết.” Họ là những người sống không yêu thương, không cảm thông và không tha thứ. Trái tim và thái độ sống của họ chỉ có sự chua chát, ghen tương và giận hờn. Còn những người sống trong Chúa, họ luôn hạnh phúc và có được niềm vui sâu kín trong tâm hồn dù phải đối diện với nhiều khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Sống vui hay sống buốn, sống trong Chúa hay trong sự chết, đó là sự chọn lựa của chúng ta.