SUY NIỆM Lời Chúa Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – Tuần VII Phục Sinh

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – Tuần VII Phục Sinh

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – Tuần VII Phục Sinh

Lm Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN VII PHỤC SINH

HÃY YÊU ĐỂ TIN

(Cv 19:1-8; Ga 16:29-33)

Lời Chúa hôm nay xoay quanh vấn đề “tin.” Trong bài đọc 1, Thánh Phaolô nói về việc “tin mà không nhận được Thánh Thần,” và “tin mà nhận được Thánh Thần.” Sự phân biệt này đến từ hai loại phép rửa: phép rửa của ông Gioan và phép rửa nhân danh Chúa Giêsu (x. Cv 19:3-6). Phép rửa của ông Gioan là để “tỏ lòng sám hối,” còn qua phép rửa nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên người nhận và họ có thể nói tiếng lạ và nói tiên tri. Họ sẽ “chết với Đức Giêsu,” và sống một đời sống mới trong Ngài. Trong đời sống mới, các môn đệ sẽ nhận ra rằng Chúa Giêsu biết hết mọi sự và như vậy, chỉ trong Ngài họ mới tìm được bình an. Đây là nội dung của bài Tin Mừng hôm nay.

Thời gian Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh đang đến gần, tất cả những “câu đố” khó hiểu của Chúa Giêsu cho các môn đệ từ từ được làm sáng tỏ. Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha, giờ đây Ngài trở về với Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta biết về việc Chúa Giêsu không còn dùng dụ ngôn để nói với các môn đệ. Đây là cuộc đối thoại thân tình cuối cùng Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Ngài bắt đầu lời “Cầu Nguyện Tư Tế” của Ngài (chương 17) và bước vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài (chương 18-21). Cuộc đối thoại cuối cùng trong phòng Tiệc Ly này nói với chúng ta điều gì?

Cuộc đối thoại này bao gồm câu khẳng định từ các môn đệ và câu “bình luận” từ Chúa Giêsu. Chúng ta sắp xếp lại như sau:

Các môn đệ: “Bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16:29-30).

Chúa Giêsu: “Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ – và giờ ấy đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:31-33).

Trong câu khẳng định của mình, các môn đệ hãnh diện là Chúa Giêsu không còn dùng dụ ngôn để nói với họ, nhưng đã nói rõ mọi sự. Như vậy, họ nhận ra rằng Chúa Giêsu biết hết mọi sự và họ không cần phải đi đâu để hỏi về bất cứ chuyện gì như họ đã từng làm (x. 13:33-14:31). Vì họ nhận ra Chúa Giêsu biết hết mọi sự, nên họ tin Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Những lời này nói lên khát vọng của mỗi người chúng ta, đó là được biết Thiên Chúa cách rõ ràng, không còn phải băn khoăn tìm kiếm câu trả lời. Nhưng các môn đệ chỉ ra cho chúng ta biết, chỉ nơi Chúa Giêsu, Đấng biết hết mọi sự, chúng ta mới có thể tìm thấy câu trả lời thích đáng cho mình. Nhiều người trong chúng ta mong được biết rõ về Thiên Chúa để niềm tin của mình được vững mạnh không bị lung lay. Khi đọc những lời trong đối thoại của các môn đệ, chúng ta cần lưu ý đến công thức “biết để tin.” Các môn đệ hãnh diện là đã được Chúa Giêsu nói rõ mọi sự và họ đã nhận ra Ngài biết hết mọi sự, hệ quả là họ cũng sẽ được biết hết mọi sự. Và từ cái biết này họ tin vào Chúa Giêsu. Niềm tin của họ được đặt nền trên sự hiểu biết. Đây là điều mà nhiều người trong chúng ta đang làm. Chúng ta cũng muốn biết và hiểu hết mọi sự để rồi tin. Sống trong một thế giới chỉ lưu ý đến “sự hào nhoáng” bên ngoài và đặt nặng vấn đề trí thức và muốn mọi sự phải được chứng minh bằng các công thức khoa học, cấp độ tin của chúng ta lệ thuộc vào cấp độ chứng minh của chúng ta về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đứng trước công thức này, Chúa Giêsu đã nói lên “nhận định” của mình.

Chúa Giêsu bắt đầu “nhận định” của mình với câu hỏi: “Bây giờ anh em tin à?” Tiếp theo Ngài nói cho các môn đệ biết về sự thật của niềm tin mong manh, niềm tin được đặt trên sự hiểu biết giới hạn của họ. Sự thật đó là: Họ sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Chúa Giêsu cô độc một mình. Chúng ta cần lưu ý rằng, cuộc thương khó trong Tin Mừng Thánh Gioan không nói đến lời tiên báo này, vì người môn đệ Chúa Giêsu yêu không bỏ chạy, nhưng hiện diện dưới chân thập giá (x. Ga 19:26-27), và các môn đệ vẫn tụ họp với nhau ở Giêrusalem (x. Ga 20:19). Truyền thống thì nói việc họ trở về Galilê được thêm vào trong phần trình thuật về những câu chuyện phục sinh của Chúa Giêsu (x. Ga 21:1-14). Từ chi tiết này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin của chúng ta luôn mong manh và mỏng giòn. Khi đặt niềm tin trên sự hiểu biết, niềm tin đó luôn có giới hạn vì trí hiểu của chúng ta luôn có giới hạn, nhưng khi đặt niềm tin trên tình yêu [như người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến], chúng ta sẽ đứng vững trong thử thách, đứng vững dưới chân thập giá Chúa Giêsu dù chúng ta không hiểu [hay đúng hơn chưa hiểu] những gì Thiên Chúa muốn thực hiện trên cuộc đời của chúng ta. Chúng ta đang đặt niềm tin của mình trên sự hiểu biết hay tình yêu?

Một điểm khác đáng chúng ta suy gẫm trong câu khẳng định của Chúa Giêsu về việc Ngài “không cô đơn” dù các môn đệ “phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình,” vì “Chúa Cha luôn ở với Thầy.” Chi tiết này là chân lý giúp chúng ta cảm thấy được an ủi khi mọi người bỏ rơi chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đã có lần phải đối diện với tình trạng bị bỏ rơi, phản bội hoặc lãng quên. Trong những trường hợp như thế, chúng ta cảm thấy cô đơn. Nhưng Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng, dù mọi người bỏ rơi và để chúng ta cô độc một mình, thì Thiên Chúa cũng không để chúng ta cô độc một mình, vì Ngài luôn ở với chúng ta. Câu hỏi chúng ta cần trả lời ở đây là: Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, còn chúng ta có luôn ở với Ngài không? Những người không luôn kết hiệp với Thiên Chúa [hoặc không cảm nghiệm được việc Chúa luôn ở với mình], thường cảm thấy cô đơn!

Điểm cuối cùng đáng chúng ta quan tâm, đó là việc Chúa Giêsu khẳng định rằng chỉ ở trong Ngài, các môn đệ mới được bình an. Điểm này bao gồm lời hứa bình an và lời khẳng định “Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian.” Nói cách khác, các môn đệ tìm được bình an trong Chúa Giêsu vì sự bình an là hoa trái của thập giá mà qua đó Ngài đã chiến thắng thế gian. Thập giá không phải là vinh quang cho những ai chống đối Chúa Giêsu; cũng không phải là vinh quang cho cộng đoàn Thánh Gioan đang phải chịu sự bách hại. Khi các môn đệ hiểu được những gì đã xảy ra trong “giờ” mà qua đó Chúa Giêsu được tôn vinh, các môn đệ mới nhận ra rằng thập giá và sự đau khổ trong bách hại là vinh quang của Chúa Giêsu. Như vậy, sự bình an mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ không có nghĩa là không có đau khổ và thập giá, nhưng là hoa trái của tình yêu, của việc cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi chúng ta khi chúng ta đau khổ. Hãy can đảm trong đau khổ vì Chúa Giêsu đã chiến thắng thế gian, chiến thắng sự chết!

*****************

THỨ BA TUẦN VII PHỤC SINH

ĐƯỢC CHỌN ĐỂ LÀM NHÂN CHỨNG CỦA TÌNH YÊU

Thánh Mátthia, Tông Đồ

(Cv 1:15-17.20-26; Ga 15:9-17)

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Mathias, Tông Đồ. Thánh nhân là ai? Tên của thánh nhân có nghĩa là “món quà của Thiên Chúa.” Bài đọc 1 hôm nay trình bày chúng ta biết một số chi tiết về ngài: Ngài là một trong hai người được đề cử để thay thế vị trí của Giuđa, và ngài là người trúng thăm và “được kể thêm vào số mười một tông đồ” (Cv 1:26). Một trong những điều kiện để được chọn là “đã cùng với mười một Tông Đồ đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời” (Cv 1:21-22). Mátthia được chọn để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh (x. Cv 1:22). Từ những lời này, chúng ta thấy thánh nhân dường như chứng kiến tất cả những sự kiện quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là phép rửa, rao giảng, các phép lạ, chịu khổ nạn, sống lại và lên trời. Nói cách khác, thánh nhân là người luôn “ở với Chúa Giêsu” trong mọi giây phút. Đây chính là điều kiện cần thiết cho một vị tông đồ: phải luôn ở với Chúa. Thật vậy, nếu không ở lại trong Chúa, như cành nho trong thân nho, thì tất cả những hoa trái chúng ta sinh ra không phải đến từ Ngài.

Một vài chi tiết khác về thánh nhân mà chúng ta tìm thấy từ truyền thống và truyền thuyết như sau: Theo Thánh Clêmentê [thánh Alexandria], Thánh Mátthias là một trong 72 môn đệ của Chúa Giêsu. Điều này được Eusebius và Thánh Giêrônimô tán thành. Theo nhiều truyền thống khác nhau, thánh nhân rao giảng ở Cappadocia, Giêrusalem, vùng biển Caspian (ngày hôm nay là nước Georgia) và Êthiôpia. Người ta kể rằng, ngài có thể bị đóng đinh ở Colchis hoặc bị ném đá ở Giêrusalem. Theo các Giáo Phụ, có một cuốn Tin Mừng theo Thánh Mátthias được lưu hành giữa các cộng đoàn tín hữu, nhưng đã bị mất, và được công bố là “nguỵ thư” bởi Đức Giáo Hoàng Gelaius. Ngài là thánh cầu bầu cho những người nghiện ngập rượu chè.

Bài Tin Mừng hôm nay được trích trong Lời Từ Biệt của Chúa Giêsu và diễn tả cách tuyệt vời tâm tình của Ngài với các tông đồ nói chung và đối với Mátthias nói riêng. Họ là những người Ngài đã chọn lựa để yêu thương nhau và để làm chứng về tình yêu của Ngài cho người khác. Bài Tin Mừng hôm nay có cấu trúc như sau:

Nền tảng của tình yêu (Ga 15:9-11): trong phần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu trình bày tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài chính là nền tảng của tình yêu mà Ngài dành cho các môn đệ. Nói cách cụ thể hơn, Chúa Giêsu cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha thế nào thì Ngài cũng yêu các môn đệ và chúng ta với tình yêu như thế. Điều này đưa chúng ta đến một thực tế trong cuộc sống là: mức độ chúng ta yêu thương người khác lệ thuộc vào mức độ chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa. Một trong những lời đẹp nhất trong phần này là lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Ngài không muốn chúng ta làm nhiều việc. Ngài chỉ mong ước chúng ta làm một việc, đó là ở lại trong tình yêu của Ngài. Dấu hiệu cho biết chúng ta ở lại trong tình yêu của Ngài là chúng ta sống đời sống yêu thương [giữ các điều răn của Ngài], và được tận hưởng niềm vui trọn vẹn mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta. Điều cụ thể chúng ta có thể rút ra từ những chi tiết này là: người ở lại trong Chúa Giêsu luôn sống yêu thương; người sống yêu thương luôn được tận hưởng niềm vui của Chúa Giêsu. Chúng ta có thuộc nhóm người này không?

Giới răn yêu thương (Ga 15:12-15): Ai trong chúng ta cũng rất quen thuộc với giới răn yêu thương này. Chúng ta đã thuộc lòng câu: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Nhưng chúng ta có sống không? Thành thật mà nói, chúng ta có nỗ lực để sống giới răn yêu thương; nhưng chúng ta không thực hiện vế thứ hai của giới răn, đó là “yêu như Thầy yêu thương anh em.” Thường chúng ta yêu thương người khác theo cảm tính và cảm xúc của mình. Yêu như Chúa Giêsu yêu là biến người môn đệ thành bạn, biến kẻ bán mình (Giuđa), chối mình (Phêrô) và bỏ mình mà chạy (các môn đệ khác) thành bạn. Yêu như Chúa Giêsu là yêu với một tình yêu cho đến cùng (x. Ga 13:1).

Được chọn để sai đi làm chứng cho tình yêu (Ga 15:16-17): Trong việc chọn lựa các môn đệ trước khi họ chọn Ngài, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết mầu nhiệm ơn gọi của mỗi người chúng ta: Thiên Chúa luôn đi bước trước, còn chúng ta là những người đáp trả lại tiếng gọi đầy yêu thương của Ngài. Chúng ta được gọi để ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu. Sau khi ở lại, cảm nếm được tình yêu dịu ngọt và chung thuỷ của Ngài, chúng ta được sai đi để sinh hoa trái của tình yêu. Chúng ta cần phải nhớ rằng: Chúng ta được sai đi để chỉ làm một việc, đó là sống yêu thương.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, câu mở đầu và câu kết thúc đáng chúng ta phải quan tâm và suy niệm. Câu mở đầu nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Chúa Con, còn câu kết nói đến tình yêu của những người môn đệ của Chúa Giêsu. Tình yêu đó là tình yêu như thế nào? Câu trả lời được tìm thấy trong câu giữa của bài Tin Mừng. Một cách cụ thể, bài Tin Mừng có 9 câu, nếu chia đôi thì câu giữa sẽ rơi vào câu 13, đó là: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” Như vậy, tình yêu Chúa Cha yêu Chúa con là tình yêu hoàn toàn tự hiến, tình yêu cho đi tất cả, ngay cả chính bản thể của mình. Đây cũng chính là tình yêu mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải dành cho nhau: một tình yêu không ích kỷ và không tính toán, một tình yêu vô vị lợi và vô điều kiện, một tình yêu tuyệt đối và là một tình yêu sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người mình yêu.

*****************

THỨ TƯ TUẦN VII PHỤC SINH

ĐƯỢC THIÊN CHÚA THÁNH HOÁ VÀ SAI ĐI VÀO TRONG THẾ GIAN

(Cv 20:28-38; Ga 17:11b-19)

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về những lời khuyên của Thánh Phaolô dành cho các kỳ mục trong Hội Thánh Êphêsô. Các kỳ mục là những người được các tông đồ đặt lên để coi sóc các cộng đoàn mà các ngài thiết lập. Đây cũng có thể được xem là những lời “chia tay” của Thánh Phaolô: “Nói thế rồi, ông Phaolô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu” (Cv 20:36-38). Từ những lời của Thánh Nhân, chúng ta [nhất là những ai đang trong vị trí hướng dẫn và coi sóc người khác] có thể rút ra những điều sau:

Thứ nhất, hết lòng chăm sóc cho chính mình và những người Chúa gởi đến. Mỗi người trong chúng ta đều có giá trị tuyệt đối trước mặt Thiên Chúa, chúng ta được cứu chuộc bởi giá máu của Chúa Giêsu: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình” (Cv 20:28). Nếu Chúa Giêsu đã đổ máu mình ra để chuộc lại chúng ta, làm sao chúng ta có thể nhìn người khác với một cái nhìn không thiện cảm hoặc không thương mến được. Những ai không nhận ra nhân phẩm cao quý của người khác, sẽ khó để chấp nhận và tôn trọng nhân phẩm của mình. Hãy luôn nhớ rằng: Chúa đã đổ máu cho chúng ta, đừng làm cho máu Chúa Giêsu ra vô ích khi sống một đời sống không đúng với ơn gọi và nhân phẩm của mình.

Thứ hai, phải luôn tỉnh thức vì nhiều nguy hiểm đang rình rập, nhất là những nguy hiểm đến từ bên trong cộng đoàn, lôi kéo chúng ta vào con đường sai lạc: “Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng” (Cv 20:29-30). Trong những lời này, Thánh Phaolô chỉ ra rằng: những sói dữ không phải là những người xa lạ, nhưng là những người “giữa hàng ngũ anh em.” Nếu kẻ thù là những người bên ngoài, chúng ta có thể dễ dàng đối phó; nhưng khi kẻ thù đến từ bên trong, chúng ta sẽ dễ dàng bị đánh bại. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh thức [nhất là những người phục vụ quyền bính], để nhận ra những điều gây chia rẽ giữa chúng ta và tìm cách chống cự.

Thứ ba, làm gương sáng cho người khác qua đời sống thường ngày của mình: “Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:33-35). Người ta thường nói, “hành động nói lớn hơn lời,” hay “gương sáng dạy tốt hơn là lời nói.” Thánh Phaolô đã nêu gương sáng cho các tín hữu Êphêsô bằng sự quảng đại chia sẻ những gì ngài làm ra từ công việc thường ngày của mình. Ngài chỉ cho chúng ta một định luật sống: “Cho thì có phúc hơn là nhận.” Người cho là người “giàu và dư thừa” còn người nhận là người “nghèo và thiếu thốn.” Tuy nhiên, ở đây chúng ta không chỉ nói đến của cải vật chất, chúng ta còn nói đến những món quà thiêng liêng và nhất là con tim biết yêu mà Chúa đã ban cho chúng ta. Có câu nói trong đời rằng: không ai nghèo đến độ không có gì để cho, và cũng không ai giàu đến nỗi không cần đón nhận gì. Dù có nghèo đến đâu, chúng ta cũng có tình yêu, sự cảm thông, sự tha thứ, sự tế nhị, sự tốt lành, sự hiền dịu và nhiều phẩm chất [không mất tiền để mua] khác để trao ban cho người khác. Hãy trao ban và bạn sẽ nhận lại điều bạn đã trao ban!

Điểm đầu tiên làm chúng ta lưu ý trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu hôm nay là việc Ngài thưa với Chúa Cha là “Lạy Cha chí thánh.” Theo các học giả Kinh Thánh, từ này là từ “bất thường” được dùng ở đây trong bối cảnh phụng vụ. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được bắt đầu với lời cầu nguyện cho các môn đệ được nên một: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17:11b). Điều này ám chỉ rằng trong bối cảnh phụng vụ chúng ta được mời gọi để trở nên một với nhau để tôn vinh Thiên Chúa. Trong phụng vụ, chúng ta cũng nhận ra rằng chúng ta được Chúa Giêsu khẩn cầu để Chúa Cha gìn giữ chúng ta trong danh của Ngài. Ngài xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ vì “khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Ga 17:12). Trong câu này, chúng ta nhận ra một hình ảnh quen thuộc, đó là “con đã gìn giữ họ trong danh Cha” khi Ngài còn ở với các môn đệ. Lối diễn tả này nói về hình ảnh của Chúa Giêsu như mục tử nhân lành trong Ga 10:28). Cũng trong câu này, hình ảnh Giuđa được nói đến như “đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.” “Lời Kinh Thánh” mà Chúa Giêsu nói đến có thể là câu 13:18 – “Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.” Qua hình ảnh Giuđa, Chúa Giêsu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài là điều đau buồn nhất, vì chính những người Ngài yêu mến lại là những người phản bội Ngài. Điều này nhằm nói lên tình yêu tuyệt đối của Chúa Giêsu. Dầu biết người khác sẽ trao nộp mình, nhưng vẫn gọi, chọn, yêu thương người đó cho đến cùng. Về phần mình, tình yêu của chúng ta đã đủ lớn để yêu người làm chúng ta đau khổ chưa?

Sau khi nói về niềm vui mà các môn đệ sẽ được hưởng khi Chúa Giêsu về cùng Chúa Cha (x. Ga 17:13), Chúa Giêsu trở lại vấn đề chống đối mà các môn đệ sẽ đối diện trong đời sống hằng ngày để làm chứng cho Ngài và để tôn vinh Thiên Chúa. Các môn đệ bị thế gian chống đối và ghét bỏ là vì “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17:14). Vì các môn đệ có “Lời của Chúa Cha” nên họ không còn thuộc về thế gian (x. 15:18-25). “Lời Chúa Cha” ở đây mang hai ý nghĩa: (1) sứ điệp yêu thương mà Chúa Giêsu mang đến; và (2) chính Chúa Giêsu, vì Ngài là Lời. Thế gian sẽ ghét bỏ và chống đối các môn đệ, nên Chúa Giêsu cầu nguyện cho các ông được gìn giữ “khỏi ác thần” (x. Ga 17:15). Không giống như Chúa Giêsu, Người không bị đụng đến bởi “thủ lãnh thế gian” (x. Ga 12:31; 14:30; 15:33), các môn đệ có thể bị các thủ lãnh đụng đến và các ông có thể sẽ sa ngã. Như thế họ phải được gìn giữ khỏi ác thần. Dù các môn đệ không thuộc về thế gian vì đã đón nhận Chúa Giêsu (x. Ga 17:16), nhưng họ vẫn ở lại trong thế gian và như thế một cách khả thể vẫn sống trong sự ảnh hưởng của ác thần. Đây là điều Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cho chúng ta mỗi ngày. Chúng ta có cùng với Chúa Giêsu để cầu nguyện cho chính mình không bị sa ngã không?

Bài Tin Mừng kết với một đề tài mới, đó là đề tài “thánh hiến” các môn đệ trong sự thật: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17:17-19). Đây chính là đỉnh cao của phần cầu nguyện trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu thánh hiến các môn đệ với mục đích sai các ông vào trong thế gian để các ông thay thế chỗ của Ngài trong thế gian. Hình ảnh “thánh hiến” [thánh hoá] mang cung điệu rất mạnh trong truyền thống của nghi lễ (x. Xh 28:41; 40:12; Lv 8:30) và hy lễ (Xh 13:2; Đnl 15:19). Trong bối cảnh nghi lễ, cái chết của Chúa Giêsu có năng lực thánh hoá (x. Dt 2:11; 10:10; 1:29). Mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta được Chúa Giêsu thánh hiến và sai vào thế gian để thế chỗ của Ngài trong việc phục vụ và yêu thương anh chị em mình. Hãy luôn là Chúa Giêsu cho người khác!

*****************

THỨ NĂM TUẦN VII PHỤC SINH

CHÚA GIÊSU LUÔN YÊU CHÚNG TA

(Cv 22:30; 23:6-11; Ga 17:20-26)

Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15:20-21). Điều này áp dụng cho cuộc đời rao giảng của Thánh Phaolô, được tường thuật trong bài đọc 1 hôm nay. Tuy nhiên, chính trong sự bắt bớ và chống đối mà Thánh Phaolô phải đối diện, thánh ý của Thiên Chúa trên cuộc đời của ngài được tỏ hiện, đó là: “Hãy vững lòng! Con đã long trọng làm chứng cho Thầy ở Giêrusalem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rôma nữa” (Cv 23:11). Chi tiết này giúp chúng ta có thái độ tin tưởng và an vui trong đau khổ và chống đối khi chúng ta làm chứng cho Chúa Giêsu. Khi nhận ra rằng, thánh ý Thiên Chúa được thể hiện qua những biến cố mà chúng ta “không thích” hoặc “không ước muốn,” chúng ta sẽ bình thản trước những trái ý của cuộc sống. Nhưng khi gặp đau khổ và đối diện với trái ý phật lòng mà chúng ta không cố gắng tìm thánh ý Thiên Chúa trong những biến cố như thế, chúng ta sẽ làm cho cuộc sống của mình và của người khác trở nên nặng nề và nhiều nước mắt.

Một điểm khác trong bài đọc 1 hôm nay được xem như tiền đề nói lên sự cần thiết của việc cầu nguyện cho sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu thực hiện trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là sự chia rẽ giữa những người thuộc phái Xađốc và những người thuộc phái Pharisêu (x. Cv 23:6-10). Họ bị chia rẽ vì “hy vọng rằng kẻ chết sẽ sống lại” (Cv 23:6). Cùng một sự kiện, nhưng “người Xađốc chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ hay quỷ thần; còn người Pharisêu thì lại tin là có” (Cv 23:8). Kết quả là “người ta la lối om sòm” (Cv 23:9). Điều này cũng hay xảy ra trong cuộc sống đời thường. Nhiều khi chúng ta cũng “la lối om sòm” và thoá mạ người khác vì họ không nhìn vấn đề như mình đã nhìn, vì quan điểm của họ khác với quan điểm của mình. Nhiều khi chúng ta không đón nhận sự khác biệt trong suy nghĩ và lập trường của người khác vì chúng ta không có thái độ cởi mở. Chúng ta đóng kín con tim của chúng ta trong cái nhìn giới hạn và quen thuộc của mình. Sự không cởi mở này là nguyên nhân dẫn đến chia rẽ. Đây chính là điều làm cho việc loan báo Tin Mừng của chúng ta không sinh hoa trái. Vì vậy, Chúa Giêsu đã cầu nguyện để chúng ta được nên một, vì chỉ khi chúng ta nên một trong Ngài, thế gian mới biết được Chúa Cha đã sai Ngài [và sai chúng ta].

Lời cầu nguyện “nên một” (Ga 17,11) của Chúa được giới thiệu trong bài Tin Mừng hôm nay được mở rộng ra với những người nhờ các môn đệ mà tin vào Ngài. Những người đó chính là chúng ta. Thật vậy, trong câu 20, Chúa Giêsu bất ngờ nhìn rộng ra nhóm môn đệ thân tín của mình [nhóm Mười Hai]. Ngài nhìn đến những người được xem là hoa trái việc làm chứng của các mộc đệ. Trong những lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được trích trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận ra hai bình diện diễn tả sự hiệp nhất. Bình diện chiều dọc đặt sự hiệp nhất trong tương quan giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa [Chúa Cha]. Bình diện chiều ngang được tìm thấy trong giới răn yêu thương giữa các môn đệ; cũng là lối diễn tả sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha (x. Ga 13:34-35; 15:12,17). Chúng ta không được xem hai nguồn hiệp nhất này [(1) tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha và (2) giới răn yêu thương] là một diễn tả về sự liên đới giữa con người với nhau hoặc là sự ra đời của cơ cấu một tổ chức, bởi vì đối với Thánh Gioan, cả hai nguồn này được cắm rễ trong sự mạc khải về Chúa Cha, trong Đức Kitô. Hơn nữa, sự “nên một” mà Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha không phải là một kinh nghiệm cá nhân của cộng đoàn những người tin, bởi vì nó đặt ra những vấn nạn cho thế gian cùng cách thức mà sự nên một giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha đã đặt ra liên quan đến ơn cứu độ hoặc xét xử (câu 21 và 23). Sự “nên một” không nhằm mục đích thách đố thế gian về một vài thay đổi mang tính cộng đoàn, nhưng về sự diễn tả mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha.”

Chúng ta có thể chia lời cầu nguyện của Chúa Giêsu hôm nay làm hai phần: phần 1 (Ga 17:20-23) trình bày cho chúng ta về sự “nên một” không chỉ của các môn đệ, “nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin”; và phần 2 (Ga 17:24-26) sự khẳng định rằng chỉ một mình Chúa Giêsu là Đấng đưa các môn đệ và những người nhờ họ mà tin vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Chúng ta cùng nhau phân tích chi tiết hơn hai phần này.

Chúng ta thật hạnh phúc khi được Chúa Giêsu “nghĩ đến” và cầu nguyện cho chúng ta. Ngài cầu nguyện gì cho chúng ta? Ngài cầu nguyện cho chúng ta “nên một”: “Lạy Cha, Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:20-21) Kết quả sự nên một của chúng ta không nhằm mục đích là để làm nhiều việc, nhưng là để “thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17:20) Như vậy, sự nên một của chúng ta có mục đích tối hậu là mạc khải về Chúa Cha, mạc khải về sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Hơn nữa, sự nên một của chúng ta không phải chỉ là nỗ lực của mình, nhưng là một ân ban của Chúa Giêsu: “Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17:22-23). Sự nên một của chúng ta đến từ việc mỗi người chúng ta đón nhận vinh quang mà Chúa Giêsu ban. Vinh quang đó chính là tình yêu mà Chúa Cha đã yêu mến Ngài. Chính trong tình yêu đó chúng ta “hoàn toàn” nên một, và cũng trong tình yêu đó mà thế gian nhận ra Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu và Chúa Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Chúa Giêsu.

Trong phần 2 của lời cầu nguyện, Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta thấy chỉ mình Ngài là Đấng làm cho các môn đệ cảm nghiệm được tình yêu và sự hiệp nhất giữa Ngài với Chúa Cha. Một điều thật cảm động đó là Ngài xin Chúa Cha để Ngài ở đâu thì các môn đệ và chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nơi Ngài ở chính là cung lòng của Chúa Cha. Như vậy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện và mong ước chúng ta luôn ở trong cung lòng và tình yêu của Chúa Cha, vì chỉ có như thế chúng ta mới chiêm ngưỡng được vinh quang của Chúa Giêsu, cảm nếm được tình yêu của Chúa Cha dành cho Chúa Giêsu và cho chúng ta (x. Ga 17:24), biết được Chúa Cha là Đấng đã sai Chúa Giêsu (Ga 17:25). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được trích trong Tin Mừng hôm nay kết với một tâm tình thật thương mến: “Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17:26). Chúa Giêsu ao ước tình yêu tuyệt đối của Chúa Cha ở trong chúng ta, đồng thời Ngài cũng ở trong chúng ta nữa. Chúng ta có làm cho ước muốn của Chúa Giêsu thành hiện thực trong cuộc đời của chúng ta không? Hãy mở lòng để tình yêu của Chúa Cha chiếm lấy chúng ta. Chỉ khi được tình yêu của Chúa Cha chiếm lấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta đã trở nên một với Chúa Giêsu.

*****************

THỨ SÁU TUẦN VII PHỤC SINH

ĐÓN NHẬN NGƯỜI KHÁC VỚI TÌNH YÊU DÀNH CHO CHÚA GIÊSU

(Cv 25:13b-21; Ga 21:15-19)

Trong bài đọc 1 hôm nay, ông Phéttô trình bày với vua Ácrippa về “vụ án” Thánh Phaolô. Nếu đọc “vụ án” này cách cẩn thận, chúng ta sẽ thấy nó giống với “vụ án” của Chúa Giêsu được xử bởi Philatô. Cả hai vụ án có những yếu tố tương đồng như sau: (1) bị bắt; (2) bị điệu ra toà; (3) bị tố cáo; (4) không tìm ra lý do để buộc tội. Điểm khác biệt giữa hai vụ án là Chúa Giêsu bị Philatô kết án tử, còn Thánh Phaolô thì không bị kết án, nhưng “được xử lại” ở Giêrusalem. Như chúng ta biết, Thánh Phaolô là công dân Rôma, nên luật pháp của người Do Thái không thể kết án ngài. Nhờ chi tiết này, hành trình của Thánh Phaolô chuyển sang một trang mới, đó là hành trình rao giảng ở Rôma. Từ câu chuyện này, chúng ta rút ra được điểm sau: Nhìn từ khía cạnh con người, việc Thánh Phaolô bị bắt bớ, tố cáo và xét xử là một điều không may mắn. Đây là một điều không ai muốn xảy ra cho mình. Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh Thiên Chúa, đây lại là một “sự kiện” trong kế hoạch của Chúa dành cho Thánh Phaolô để mang Tin Mừng đến “trung tâm của thế giới,” đến với những bậc vua chúa. Điều này giúp chúng ta an lòng và can đảm để đón nhận những điều trái ý và đau khổ với niềm xác tín rằng: Đấng biến thập giá thành phương tiện cứu độ sẽ biến những đau khổ của chúng ta thành niềm vui.

Chúng ta đã nghe đoạn Tin Mừng hôm nay trong Chúa Nhật III vừa qua. Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu nói những lời cuối cùng với Thánh Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến (Ga 21:15-23). Đây là hai hình ảnh có nhiều điểm đôi khi cạnh tranh với nhau, nhưng đôi khi làm việc hài hoà với nhau. Điều này nói lên sự căng thẳng trong cộng đoàn của Gioan. Sự căng thẳng này xảy ra trên hai bình diện: (1) vị trí của Thánh Phêrô và người môn đệ trong cộng đoàn, và (2) tương quan giữa cơ cấu và đặc sủng. Bài Tin Mừng được đặt trong bối cảnh “bữa ăn.” Điều này gợi lại cho chúng ta Bữa Tiệc Ly, trong đó, câu hỏi của Thánh Phêrô về người phản bội được đặt ra qua người môn đệ được Chúa thương mến (x. Ga 13:23-25); trong khi Thánh Phêrô chối Chúa Giêsu, người môn đệ được Chúa thương mến hiện diện dưới chân thập giá để nhận Mẹ của Chúa Giêsu và được nhận làm con (x. Ga 19:26-27); người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến chạy đến mồ trước và tin vào sự phục sinh của Chúa mà không cần nhìn thấy Ngài (x. Ga 20:4-8); người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nhận ra Chúa Giêsu trên bờ biển và như vậy mang lại cho Thánh Phêrô cơ hội để đến với Ngài (Ga 21:7). Tất cả những chi tiết về vai trò lãnh đạo hoặc đi trước này của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến bị thay đổi trong đoạn trích của Tin Mừng hôm nay. Trong phần này, vai trò của Phêrô—người mục tử và tử đạo, được thiết lập bởi Đức Giêsu Phục Sinh. Vị trí đặc biệt của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến được xác nhận, nhưng rõ ràng là kết thúc với cái chết của mình.

Bài Tin Mừng hôm nay nói về Thánh Phêrô đảm nhận vai trò mục tử và là người tử đạo. Điều này đưa chúng ta về với chương 10 của Tin Mừng Thánh Gioan, chương nói về người mục tử nhân lành sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên. Theo các Giáo Phụ và các học giả Kinh Thánh, qua ba lần tuyên xưng tình yêu của mình cho Chúa Giêsu, Thánh Phêrô lật ngược lại ba lần chối Ngài (x. Ga 18:17,25-26). Tin Mừng Thánh Luca (Lc 22:31-34) liên kết lời tiên báo Thánh Phêrô sẽ “trở lại và củng cố niềm tin của anh em” với lời tiên báo của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly về việc Phêrô chối Chúa. Sự trở lại này của Thánh Phêrô thường liên kết với việc ngài là người nhìn thấy Chúa Giêsu đầu tiên (x. 1 Cr 15:4; Lc 24-34). Tuy nhiên, truyền thống này không được thuật lại trong Tin Mừng Gioan, ngoại trừ câu chuyện trong Ga 21:1-14.

Bài Tin Mừng hôm nay liên kết việc yêu mến Chúa Giêsu với việc tuân giữ lệnh truyền của Ngài (Ga 14:15; 15:10). Lệnh truyền ở đây là việc thiết lập vai trò Thánh Phêrô là người “chăn dắt” và “chăm sóc” chiên của Chúa Giêsu. Để hiểu điều này, chúng ta viết lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô như sau:

Đức Giêsu Phục Sinh: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?”

Thánh Phêrô: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.”

Đức Giêsu Phục Sinh: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.”

Đức Giêsu Phục Sinh: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có thương mến Thầy không?”

Thánh Phêrô: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.”

Đức Giêsu Phục Sinh: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”

Đức Giêsu Phục Sinh: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có thương mến Thầy không?”

Thánh Phêrô: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con thương mến Thầy.”

Đức Giêsu Phục Sinh: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”

Một trong những điểm đáng để chúng ta suy gẫm trong đối thoại này là mệnh lệnh của Chúa Giêsu: Hãy chăm sóc/chăn dắt chiên của Thầy. “Chiên của Thầy” chứ không phải “chiên của con.” Để chăn dắt “chiên của thầy” đòi hỏi Phêrô phải có tình yêu dành cho Chúa Giêsu hơn tất cả những người khác. Kinh nghiêm cuộc sống dạy chúng ta rằng thật khó để chúng ta chăm sóc những gì không thuộc về chúng ta. Người ta thường nói: cha chung không ai khóc. Nếu không có tình yêu, chúng ta sẽ không thể chăm sóc những gì không thuộc về mình. Khi có tình yêu dành cho Chúa, chúng ta sẽ biết chăm sóc những người thuộc về Ngài, ngay cả khi chúng ta không thích những người đó. Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa càng nhiều, thì việc đón nhận những người thuộc về Chúa càng dễ dàng. Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa thế nào? Điều này được thể hiện qua thái độ đón nhận người khác của chúng ta? Chúng ta có loại trừ ai ra khỏi trái tim của chúng ta không? Nếu có, hãy xét lại tình yêu của chúng ta dành cho Chúa.

*****************

THỨ BẢY TUẦN VII PHỤC SINH

SỐNG THẬT! KHÔNG GHEN TỴ!

(Cv 28:16-20.30-31; Ga 21:20-25)

Ai trong chúng ta cũng muốn được thấy Chúa và  “xin cho được thấy Chúa.” Vậy làm sao để thấy Chúa? Đọc Tám Mối Phúc Thật, chúng ta thấy rằng những người có lòng trong sạch là những người sẽ được nhìn thấy Chúa. Lời đáp ca hôm nay cũng cho chúng ta biết rằng những kẻ sống ngay lành (x. Tv 10:7b) sẽ được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa. Những người sống “ngay lành” là những người sống như thế nào? Họ là những người sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy học nơi Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29). Chúng ta đã sống hiền lành và khiêm nhường chưa? Nếu chưa, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền lành và khiêm nhường, để được chiêm ngưỡng thánh nhan Ngài.

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta lại được chứng kiến việc Thiên Chúa làm nên điều kỳ diệu từ những gì con người cho là “điều bất hạnh.” Như chúng ta đã biết trong bài đọc 1 hôm qua, Thánh Phaolô bị bắt, điều tra và buộc tội. Nhưng qua quá trình bị xét xử, Thánh Nhân nhận ra rằng: “Nhưng vì người Do Thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên hoàng đế Xêda; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. Đó là lý do khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này” (Cv 28:19-20). Thánh Phaolô đã nhận ra rằng chính việc chống đối và bắt bớ của người Do Thái đã đưa Ngài đến với các tín hữu ở Rôma. Cũng chính vì niềm hy vọng được cứu độ của Israel mà thánh nhân đã phải chịu nhiều đau khổ. Nhìn vào gương Thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi: (1) nhận ra bàn tay của Chúa hướng dẫn lịch sử cuộc đời chúng ta, nhất là những khi gặp sóng gió và bóng đêm; (2) sẵn sàng và vui vẻ đón nhận khó khăn, vất vả và trái ý vì niềm hy vọng được cứu độ của anh chị em chúng ta.

Trong bài Tin Mừng hôm qua, chúng ta đã nghe những lời nói về “vận mệnh” của Thánh Phêrô, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sẽ nói về “số phận” của người môn đệ được Ngài thương mến. Nhưng “số phận” này không được nói trực tiếp với người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, nhưng được nói qua cuộc đối thoại với Thánh Phêrô. Theo các học giả Kinh Thánh, phần này được xây dựng dựa trên một lời nói cũ hơn của Chúa Giêsu được áp dụng cho người môn đệ được Ngài yêu mến, một truyền thống giống với những lời của Ngài về Con Người xảy ra trước khi tất cả thế hệ của Ngài nhìn thấy cái chết (x. câu 22; Mc 9:1). Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta thấy người kể tạo ra một giới thiệu thật dài trong câu 20 để nhắc cho người đọc mối tương quan đặc biệt giữa Chúa Giêsu và người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến: “Khi ấy, ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” Như chúng ta đọc thấy trong bài Tin Mừng hôm qua, sứ mệnh của Thánh Phaolô là tôn vinh Thiên Chúa qua cái chết tử đạo của mình (x. câu 19 và 22b). Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói cho Phêrô rằng người môn đệ được Ngài thương mến không phải chết với cái chết tử đạo để tôn vinh Ngài. Chi tiết này nhắc nhở cho chúng ta về việc tôn vinh Thiên Chúa trong vai trò và môi trường sống của chúng ta. Chúng ta không cần so sánh mình với người khác. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau, và Thiên Chúa muốn chúng ta tôn vinh Ngài với những gì mình là và mình có. Hãy tránh thái độ so sánh và ganh tỵ, vì đó là nguyên nhân làm chia rẽ và mất bình an trong đời sống chung!

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô xảy ra đơn giản như sau:

Thánh Phêrô: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao ?”

Chúa Giêsu: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy.”

Trong câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta nhận ra hai điểm quan trọng sau: (1) Chúa Giêsu nhắc lại cho Phêrô biết mục đích chính của mình là gì, đó là “hãy theo thầy,” điều mà Ngài đã nói với Thánh Phêrô trong cuộc đối thoại về vai trò của thánh nhân được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm qua (x. 21:19). Chúa Giêsu muốn khuyến cáo Phêrô rằng: đừng có so sánh mình với người khác, nếu không mình sẽ quên mất mục đích chính của mình là gì, đó là “theo Chúa.” Trên hành trình đi theo một người, chúng ta lại tập trung vào một người khác, chúng ta sẽ dễ dàng đánh mất hình bóng của người dẫn đường cho chúng ta. Vì vậy, hãy luôn “gián chặt mắt” vào người dẫn đường, đừng nhìn ngang liếc dọc. Nếu không chúng ta sẽ lạc mất người dẫn đường và sẽ đi lạc hướng. (2) Câu trả lời của Chúa Giêsu chứa đựng một đề tài rất quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan, đó là đề tài “ở lại.” Cộng đoàn của Thánh Gioan sử dụng từ “ở lại” với nhiều nghĩa khác nhau. Nó có thể ám chỉ mối tương quan mới giữa các môn đệ và Chúa Cha/Chúa Con. Và đây chính là điều dẫn đến hiểu lầm. Sự hiểu lầm này là kết quả của tiếng đồn về người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến: “Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu đã không nói với ông Phêrô là: ‘Anh ấy sẽ không chết,’ mà chỉ nói: ‘Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?’” (Ga 21:23). Câu nói của Chúa Giêsu là câu nói giả thiết. Nhưng một số các môn đệ xem nó như là thật. Điều này dẫn đến hiểu sai ý câu nói của Chúa Giêsu. Kinh nghiệm thường ngày dạy chúng ta rằng: chúng ta hiểu sai [hiểu lầm hay hiểu không hết] ý người khác khi chúng ta không ở trong bối cảnh của họ. Vì vậy, để hiểu đúng ý của người khác, chúng ta cần phải đi vào trong thế giới của họ, trong bối cảnh mà họ nói hoặc làm một điều gì. Khi chúng ta không biết rõ và không ở trong bối cảnh của người khác, tốt nhất chúng ta không nên xét đoán và “đồn đại” những điều chúng ta “giả định.”

Những câu cuối cùng của Tin Mừng Thánh Gioan được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta biết rằng Tin Mừng Thánh Gioan “mắc nợ” lời chứng về Chúa Giêsu của người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:24-25). Trong những lời trên, chúng ta lưu ý đến hai từ sau: “những điều đó” và “nhiều điều khác.” Theo các học giả Kinh Thánh, từ “những điều đó” không nhất thiết ám chỉ toàn bộ Tin Mừng, nhưng ám chỉ rằng truyền thống truyền miệng được bắt đầu từ người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến và có lẽ một phần của phần viết lại của truyền thống truyền miệng đó làm cơ sở cho Tin Mừng. Tác giả của những lời này khẳng định rằng lời chứng của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến là thật. Điều này đưa chúng ta về với sự thật của lời chứng của Chúa Giêsu được nói đến trong Tin Mừng (x. 5:31-32). Câu “nhiều điều khác” được thêm vào nhằm mục đích biện minh cho chương 21, được thêm vào Tin Mừng. Những chi tiết này có ý nghĩa gì với chúng ta? Những chi tiết này muốn nói với chúng ta rằng: trong hành trình theo Chúa, chúng ta chứng kiến rất nhiều điều Chúa làm cho chúng ta, cho người khác và cho thế giới. Nhưng có những kinh nghiệm cần chúng ta ghi chép lại [trong lòng], vì qua những kinh nghiệm này đưa chúng ta cảm nhận được tình yêu vô điều kiện và tuyệt đối của Thiên Chúa, để rồi chúng ta đặt trọn niềm tin của chúng ta vào Ngài. Liệu chúng ta có được những kinh nghiệm đó không? Chúng như thế nào?

Exit mobile version