Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày -Tuần Thánh

108

SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY TUẦN THÁNH

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN THÁNH

TRONG TÌNH YÊU: HÃY QUẢNG ĐẠI

(Is 42:1-7; Ga 12:1-11)

Ngôn sứ Isaia, trong bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về người tôi tớ của Thiên Chúa. Đầy là bài ca đầu tiên về người tôi tớ của Thiên Chúa. Bài ca đầu tiên này được chia ra làm hai phần: phần đầu (Is 42:1-4) nói về những đặc tính của người tôi tớ; phần hai (Is 42:5-9) nói về Thiên Chúa, Đấng chọn và sai người tôi tớ của Ngài. Chúng ta cùng nhau suy niệm trên hai phần này để xem Chúa muốn nói gì với chúng ta ngày hôm nay.

Phần 1 trình bày cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa gọi, với những đặc tính sau: (1) là người được Thiên Chúa tuyển chọn, hết lòng quý mến và được thần khi của Ngài hướng dẫn (Is 42:1); (2) là người với sứ mệnh làm sáng tỏ công lý trước muôn dân (Is 42:1); (3) là người hiền lành và khiêm nhường vì “người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:2-3); (4) là người can đảm bảo vệ và “trung thành làm sáng tỏ công lý. Người không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu” (Is 42:3-4); (5) là người khôn ngoan mà ai cũng mong được “người chỉ bảo” (Is 42:4). Là những người tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi để sở hữu năm đức tính trên.

Trong phần 2, người tôi tớ của Thiên Chúa tìm thấy sứ mệnh của mình, và những công việc mà mình được sai đi để thực hiện: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Đọc những lời này, chúng ta nhận ra người tôi tớ của Thiên Chúa có một sứ mệnh chính yếu, đó là trở thành ánh sáng chiếu soi cho muôn người. Một cách cụ thể hơn, ở đâu có bóng tối mây mù, người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ mang lại ánh sáng; ở đâu có người tôi tớ của Thiên Chúa hiện diện, ở đó những người ngồi trong bóng tối tử thần sẽ được chiếu sáng để tìm thấy đường dẫn đến sự sống muôn đời. Trong Mùa Chay, chúng ta được mời gọi nhớ lại ngọn nến [đức tin] được trao cho chúng ta trong ngày rửa tội. Hãy làm cho ngọn nến đó chiếu sáng và mang hơi ấm cho những tâm hồn nguội lạnh và xa rời Thiên Chúa.

Hình ảnh bàn tiệc hay bàn ăn là một hình ảnh quen thuộc trong Tin Mừng Thánh Gioan. Chúng ta thấy ngay sau khi gọi các môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu mang họ đi dự tiệc cưới ở Cana. Bàn tiệc có ý nghĩa quan trọng trong mọi nền văn hoá vì bàn tiệc là hình ảnh của tương quan, của niềm vui, của tình yêu và của chia sẻ cuộc sống cho nhau. Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu ý nghĩa của bàn tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay tại làng Bêtania, trong nhà của Lazarô, Maria và Mácta. Có thể nói, đây là bàn tiệc diễn tả lòng biết ơn Chúa Giêsu của ba anh em sau khi Chúa Giêsu làm cho Lazarô chỗi dậy từ cõi chết. Với lối viết kịch của Thánh Gioan, chúng ta thấy được bài Tin Mừng hôm nay là một “trích đoạn” thật hay trong vở kịch đầy yêu thương của Thiên Chúa với những vai diễn thật xuất sắc. Chúng ta cùng nhau phân tích các vai diễn để xem mình đang đóng vai nào trong vở kịch này của Thiên Chúa. Nhưng trước tiên, chúng ta viết lại bài Tin Mừng hôm nay theo một kịch bản như sau:

Người dẫn: Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bêtania, nơi anh Ladarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Mácta lo hầu bàn, còn anh Ladarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm” (Ga 12:1-3).

Giuđa:  “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?” (Ga 12:4-5).

Người dẫn: Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12:5-6).

Chúa Giêsu: “Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu” (Ga 12:7-8).

Người dẫn:    Một đám đông người Do thái biết Đức Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Ladarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Các thượng tế mới quyết định giết cả anh Ladarô nữa, vì tại anh mà nhiều người Do thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giêsu” (Ga 12:9-11).

Đọc qua bản kịch này, chúng ta nhận ra chỉ có hai vai diễn là Chúa Giêsu và Giuđa hoặc Chúa Giêsu và Maria. Nhưng khi đọc kỹ, chúng ta nhận ra những vai diễn sau:

Mácta: Lazarô chỉ được đề cập đến như một người đồng bàn với Chúa Giêsu, còn Mácta thì vẫn làm công việc của mình, đó là hầu bàn và lo việc bếp núc. Tuy nhiên, khác với lần trước được Thánh Luca tường thuật (Lc 10:38-42), Mácta bây giờ không còn vừa phục vụ vừa lẩm bẩm kêu ca với Chúa Giêsu về Maria, em của mình, nhưng hoàn toàn phục vụ với sự thinh lặng sâu thẳm của lòng biết ơn và tràn đầy yêu thương. Thật vậy, phép lạ xảy ra cho Lazarô cũng đã xảy ra cho Mácta: cô đã chỗi dậy khỏi ghen tỵ và phàn nàn để sống một đời sống mới trong niềm vui và phục vụ.

Maria: Cô bước vào không nói một lời và bắt đầu lấy “dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau.” Hành động của Maria có sự tương đồng với hành động của Chúa Giêsu trong sự kiện rửa chân cho các mộn đệ trong chương tiếp theo (chương 13 của Tin Mừng Thánh Gioan): Chúa Giêsu cũng bắt đầu việc rửa chân mà không nói lời nào. Hành động của Maria mang đầy tính chất “cảm xúc” của một người “đầy tớ” và của một người “môn đệ” thật quảng đại. Điều này được diễn tả trong hành động “xức dầu thơm vào chân” và “lấy tóc mình lau.” Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm ở đây chính là “bình dầu.” Đối với chúng ta ngày hôm nay, bình dầu thơm này không có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, trong thời gian đó, đây là “gia tài quý giá nhất” của Maria. Giuđa ước lượng mất khoảng 1 năm làm công để mua bình dầu thơm này vì loại dầu thơm này chỉ có ở vùng núi của phía bắc Ấn Độ. Maria đã “đổ hết” bình dầu thơm của mình, nghĩa là đã trao cho Chúa Giêsu tất cả gia tài của mình, không giữ lại cho mình cái gì. Chính sự trao ban cách quảng đại này mà “cả nhà sực mùi thơm.” Mùi này trái ngược với “mùi hôi xác chết của Lazarô được chôn trong mồ” (Ga 11:39). Hành động của Maria nói cho chúng ta điều gì? Khi mỗi người trong chúng ta trao ban mọi sự cách quảng đại cho Chúa và cho người khác, không giữ lại gì cho chính mình, thì gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, Giáo Hội và toàn thế giới sẽ sực mùi thơm của tình yêu. Còn khi chúng ta ích kỷ chỉ nghĩ đến chính mình, đóng kín lòng mình như nấm mồ của Lazarô, thì chúng ta và người khác sẽ phải cam chịu mùi hôi của những “xác chết” không được sinh động bởi những con tim quảng đại và biết yêu thương.

Giuđa: Giuđa là một người có đầu óc rất thực tế và tính toán hơn thiệt khi trao ban. Giuđa không có gì sai khi khuyên bán chai dầu thơm để lấy tiền cho người nghèo. Giuđa sai khi dành cho mình những gì thuộc về người khác, nhất là không đọc ra ý nghĩa đằng sau hành động xức dầu thơm của Maria, để rồi Chúa Giêsu phải giải thích cho ông và các môn đệ khác. Hình ảnh của Giuđa nhắc nhở chúng ta về những lúc chúng ta chỉ quy về chính mình và tìm lợi ích cho chính mình, ngay cả trong khi chúng ta thực hiện những công việc có bản chất phục vụ và yêu thương. Người chỉ tìm lợi ích cho chính mình sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa và niềm vui ẩn chứa trong hành động phục vụ, yêu thương và tha thứ.

Chúa Giêsu: Chúng ta nhận ra nơi Chúa Giêsu hai thái độ căn bản sau: (1) Ngài rất bình thản khi người khác diễn tả tình yêu với cảm xúc của họ dành cho Ngài. Ngài nhìn vào con tim của Maria để đọc ra ý nghĩa của hành động mà cô làm cho Ngài. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: một trong những yếu tố quan trọng trong tình yêu là luôn “bình thản” – không đi quá bên phải [quá cảm xúc], cũng không đi quá bên trái [không có cảm xúc gì để diễn tả]. Chỉ những người bình thản mới có khả năng đọc được sứ điệp tình yêu ẩn chứa trong hành động của người khác, dù hành động đó nhỏ đến đâu; (2) Ngài bảo vệ người bị “chỉ trích.” Thật vậy, Chúa Giêsu luôn đứng về phía những người yếu kém. Điều này làm chúng ta cảm thấy được an ủi, nhất là khi chúng ta bị chỉ trích và hiểu lầm. Thái độ này của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với tinh thần của xã hội hôm nay và của mỗi người chúng ta vì chúng ta thường đứng về phía kẻ mạnh để lên án những người “yếu thế cô thân.” Qua hành động bảo vệ Maria, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm bạn với những người không có bạn, yêu thương những người không có ai yêu thương, cảm thông cho những người không có ai cảm thông, và tha thứ cho người không được người khác tha thứ. Có câu nói trong đời rằng: “Hãy làm bạn với người không có bạn, để cho họ biết rằng trong cuộc sống này họ cũng có một người bạn, là bạn!”

******************

THỨ HAI TUẦN THÁNH

GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU: GIỜ TÔN VINH VÀ CỨU ĐỘ

(Is 49:1-6; Ga 13:21-33.36-38)

Hôm nay chúng ta tiếp tục nghe bài ca thứ hai về người tôi tớ của Thiên Chúa trong sách Ngôn sứ Isaia. Như chúng ta đã trình bày hôm qua, bài ca thứ nhất nói về những đặc tính và sứ mệnh của người tôi tớ của Thiên Chúa. Trong bài ca thứ hai hôm nay chúng ta nghe về ơn gọi của người tôi tớ của Thiên Chúa. Trong bài ca thứ hai này, Ngôn sứ Isaia cũng cho chúng ta biết người tôi trung của Thiên Chúa chính là Israel (x. Is 49:3). Người tôi trung Israel là người sẽ được Thiên Chúa sử dụng để biểu lộ vinh quang của Ngài. Đọc những lời này, chúng ta không khỏi không tự vấn lòng mình bởi vì chúng ta cũng xưng mình là những người tôi trung của Thiên Chúa, nhưng liệu đời sống của chúng ta biểu lộ vinh quang của Thiên Chúa cho mọi người không?

Điểm thứ hai chúng ta có thể rút ra từ bài đọc 1 là thái độ hoàn toàn tín thác vào Chúa và trân trọng chính nhân phẩm của mình [và của người khác], là người tôi tớ của Thiên Chúa. Isaia cho chúng ta hay rằng, nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cố gắng và vất vả làm nhiều việc, nhưng kết quả lại không được như lòng mong muốn và hệ quả là chúng ta nản lòng và thất vọng. Nhưng khi chúng ta biết có Thiên Chúa là Đấng minh xét và dành sẵn cho chúng ta phần thưởng, chúng ta sẽ không thất vọng, nhưng hy vọng và tín thác hơn (x. Is 49: 4). Từ đây, chúng ta có thể nói rằng, người không tin tưởng vào Chúa luôn dễ nản lòng trước khó khăn và thất vọng khi thất bại. Điều này đưa chúng ta đến thái độ cần phải có, đó là trân trọng chính nhân phẩm và ơn gọi của mình, vì chúng ta được chính Thiên Chúa “nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Giacóp về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi” (Is 49:5). Thật tuyệt vời khi chính Thiên Chúa trân trọng chúng ta. Tại sao chúng ta lại không trân trọng chính mình và người khác? Vì chúng ta được tạo dựng quá tuyệt vời, nên chúng ta không chỉ là tôi trung của Thiên Chúa để “tái lập” lại những gì đã rạn nứt, nhưng còn được đặt làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ của [Thiên Chúa] đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6).

Bài Tin Mừng hôm qua chúng ta đã nghe về một “bữa tiệc” và trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta lại nghe về một “ bữa tiệc khác.” Cũng giống như hôm qua, bầu khí vui tươi và yêu thương của bữa tiệc bị phá tan bởi sự hiện diện và nhận định của Giuđa, bầu khi vui tươi và đầy yêu thương của bữa tiệc hôm nay cũng bị phá vỡ bởi lời tiên báo Chúa Giêsu về người sẽ nộp Ngài. Chính điều này làm cho tâm thần của Chúa Giêsu xao xuyến (Ga 13:21). Trong bữa tiệc hôm nay, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ, một bầu khí hiểu lầm bao trùm lấy những người môn đệ thân tín đã theo Ngài ba năm, và đã chứng kiến tất cả những phép lạ Ngài đã thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay gồm ba phần: (1) tiên báo về việc Giuđa sẽ nộp Chúa Giêsu; (2) lời tiên báo của Chúa về “giờ” của Ngài; (3) tiên báo về việc Phêrô sẽ chối Chúa Giêsu. Nhìn vào cấu trúc này, chúng ta nhận ra lối viết quen thuộc của các Thánh sử, đó là lối viết “bánh mì kẹp.” Cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay, bắt đầu và kết thúc với lời tiên báo về người nộp và người chối Chúa Giêsu và kẹp giữa là lời tiên báo về “giờ” của Ngài. Như vậy, phần quan trọng nhất trong bài Tin Mừng hôm nay chính là phần giữa, tiên báo về “giờ” của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau tập trung vào những lời này hầu rút ra được sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta ngày hôm nay.

Trong lời tiên báo về giờ của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra “giờ” của Ngài liên quan đến Thiên Chúa và các môn đệ. Khi đối diện với “giờ” của mình, Chúa Giêsu “cảm thấy xao xuyến” (Ga 13:21): Ngài “xao xuyến” vì một trong các môn đệ nộp Ngài, một người khác sẽ chối Ngài và số còn lại sẽ bỏ Ngài. Có lẽ Chúa Giêsu cũng xao xuyến với chúng ta, vì nhiều lần trong cuộc sống chúng ta cũng đã nộp, chối và “bỏ rơi” Ngài trong “những anh chị em đau khổ” của chúng ta. Tuy nhiên, điều làm chúng ta kinh ngạc, đó là việc Chúa Giêsu vẫn cầm lấy chiếc bánh [chính Ngài], bẻ ra và đưa cho những môn đệ sẽ nộp, chối và bỏ Ngài. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng đối diện với những trường hợp tương tự: chúng ta cũng bị nộp, bị chối, bị bỏ rơi, bị làm tổn thương bởi những người mà chúng ta yêu mến hết lòng. Trong những giây phút như thế, liệu chúng ta có học được ở Chúa Giêsu thái độ “yêu cho đến cùng” không? Liệu chúng ta có tiếp tục “bẻ” chính mình ra và “trao ban” cho những người làm chúng ta đau khổ không? Đây chính là nét đặc biệt mà Chúa Giêsu đã thể hiện như là người “tôi tớ trung thành” của Thiên Chúa.

Hơn nữa, Chúa Giêsu “xao xuyến” vì đã đến giờ “Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13:31-32). “Giờ” của Chúa Giêsu không chỉ nói đến sự đau khổ của Ngài trên thập giá, nhưng nói đến sự tỏ hiện vinh quang của Thiên Chúa và của Ngài. Đây chính là giờ Ngài được Thiên Chúa tôn vinh. Điều này nhắc nhở cho chúng ta về thái độ sống của mình. Một cách cụ thể, nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta để cho mình bị “bóng đen của thập giá” che mờ đi “vinh quang của phục sinh.” Chúng ta chỉ nhìn thấy “mặt trái,” mặt tiêu cựu của sự kiện và con người, nhưng lại bỏ quên “mặt phải,” mặt tích cực. Chính điều này làm chúng ta khó chấp nhận mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của chúßng ta hay nếu có chập nhận thì chúng ta lại “hiểu lầm” thánh ý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù chúng ta hiểu lầm hay không chấp nhận mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của mình để đạt đến vinh quang, chúng ta vẫn luôn biết rằng, Chúa Giêsu vẫn luôn bẻ chính mình Ngài và trao ban cho chúng ta mỗi ngay. Ngài vẫn gọi chúng ta với một tình yêu và cảm xúc dâng trào: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái: ‘Nơi tôi đi, các người không thể đến được,’ bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy” (Ga 13: 33). Không có gì đẹp hơn khi chúng ta, những người “nộp,” “chối” và “bỏ” Chúa Giêsu vẫn được Ngài gọi với những lời thật thân thương như thế: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy.” Liệu chúng ta có thể nói những lời thật dịu hiền như thế cho những người làm chúng ta đau khổ không?

*************

THỨ TƯ TUẦN THÁNH

ĐỪNG “TRAO NỘP” CHÚA GIÊSU VÌ NHỮNG GIÁ TRỊ VẬT CHẤT

(Is 50:4-9a; Mt 26:14-25)

Các bài đọc lời Chúa trong thứ tư Tuần Thánh hôm nay trình bày cho chúng ta bối cảnh gần của cuộc thương khó Chúa Giêsu mà chúng ta sẽ bắt đầu cử hành vào ngày mai. Trong bài đọc 1, chúng ta nghe bài ca thứ ba về ngưới tôi tớ của Thiên Chúa và trong bài Tin Mừng, Thánh Mátthêu tường thuật cho chúng ta nghe về việc Giuđa trao nộp Chúa Giêsu cho các thượng tế. Hai bài đọc hôm nay liên quan chặt chẽ với nhau. Cách cụ thể, tâm tình của Chúa Giêsu khi bị Giuđa trao nộp được Isaia trình bày cách tuyệt hảo trong bài đọc 1 hôm nay.

Khác với bài ca thứ nhất và thứ hai, trong bài ca thứ ba, chúng ta nghe tâm tình của người tôi tớ Thiên Chúa. Trong bài tâm tình này, người tôi tớ của Thiên Chúa đã nhận ra những điều Đức Chúa đã làm trên cuộc đời của mình như một người môn đệ của Ngài. Những việc đó là: (1) làm cho người tôi tớ nói năng như một người môn đệ, đó là dùng lời của mình để nâng đỡ ai rã rời kiệt sức (x. Is 50:4); (2) đánh thức và mở tai người tôi tớ để lắng nghe Ngài như một người môn đệ và người môn đệ đã không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Không những thế, lời Đức Chúa làm cho người môn đệ trở nên hiền lành và khiêm nhường để có thể đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu [và] đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:4-6); (3) phù trợ và ở kề bên người tôi tớ trong mọi cơn nguy khốn, để người tôi tớ không hổ thẹn và can đảm “trơ mặt ra như đá” (Is 50:7) trước những chống đối và cáo buộc của người khác. Thiên Chúa cũng thực hiện những điều này trên cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nhưng nhiều khi chúng ta vô tình không để ý đến và như thế không biết nói lên lời cảm mến ân tình. Hãy biến tâm tình của người tôi tớ của Thiên Chúa trong bài đọc 1 hôm nay thành của mình, để chúng ta biết cất lời tạ ơn Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc, nhất là khi cuộc sống có nhiều gian nan và thử thách, vì chúng ta không đối diện với những đau khổ và thách đố một mình, nhưng Thiên Chúa luôn ở kề bên nâng đỡ và đồng hành với chúng ta. Chúng ta không bao giờ cô đơn một mình trong những đêm đen của cuộc đời!

Nhìn chung, bài Tin Mừng hôm nay nói đến việc Chúa Giêsu tiên báo Giuđa là kẻ sẽ trao nộp Ngài cho các thượng tế. Hành vi này được xem là “khởi đầu” của cuộc thương khó Chúa Giêsu. Tuy nhiên, khi chúng ta đặt bài Tin Mừng này vào bối cảnh của nó, [nằm giữa việc xức dầu của Maria ở Bêthany và thiết lập Bí Tích Thánh Thể] chúng ta nhận ra rằng hành vi nộp Chúa Giêsu của Giuđa ám chỉ việc Chúa Giêsu sẽ phải chết như thế nào: Ngài sẽ chết cái chết của Người “bị trao nộp,” nhưng qua cái chết đó, Ngài trở thành Người “trao ban” chính mình cho người đã “nộp” Ngài. Đây là một biến chuyển thật tuyệt vời: từ “bị trao nộp” [bị động] thành “trao ban” [chủ động]. Chính điều này giúp chúng ta hiểu mầu nhiệm chúng ta sẽ cử hành trong những ngày tới, đó là qua cái chết, Chúa Giêsu đã biến “mặt trời lặn” [sự chết: đau khổ và nỗi buồn] thành “mặt trời mọc” [phục sinh: vinh quang và niềm vui].

Bài Tin Mừng hôm nay gồm ba phần: (1) Giuđa phản bội Chúa Giêsu (Mt 26:14-16); (2) chuẩn bị cho Bữa Tiệc Ly [bữa tiệc Vượt Qua] (Mt 26:17-19); và (3) Chúa Giêsu tiên báo Giuđa sẽ nộp Ngài (Mt 26:20-25). Từ ba phần này, chúng ta có thể rút ra ba điểm để suy gẫm trong ngày hôm nay.

Thứ nhất, hãy ngừng đặt giá trị vật chất lên trên Thiên Chúa và các giá trị thiêng liêng: “‘Tôi nộp ông Giêsu cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.’ Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su” (Mt 26:15-16). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng như Giuđa Iscariot, chúng ta cũng “nộp” Chúa Giêsu để đổi lấy một vài lợi ích vật chất nào đó. Nói cách khác, chúng ta sẵn sàng trao đổi những giá trị thiêng liêng cao quý như tình yêu, tình bạn, lòng nhân từ, sự tha thứ cho một vài lợi ích vật chất hay những giá trị tạm thời như sĩ diện, lòng tự ái, ghen tỵ và thù hận. Chúng ta phải luôn ý thức rằng, không có gì cao quý cho bằng có Chúa Giêsu trong cuộc đời của chúng ta: Hãy mở rộng tâm hồn cho Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không mất thứ gì, nhưng chúng ta sẽ có một người đồng hành với chúng ta trong từng giây phút sống, một người không bỏ rơi chúng ta ngay cả khi chúng ta thất bại trong cuộc sống hay khi chúng ta phạm tội.

Thứ hai, hãy chuẩn bị cho Chúa Giêsu một nơi để cùng “mừng lễ” với chúng ta. Trái ngược với Giuđa, các môn đệ khác muốn cùng thầy mình mừng đại lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, điểm quan trọng là không phải các ông quyết định nơi để ăn mừng, mà Chúa Giêsu là người quyết định: “Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu: ‘Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?’ Người bảo: ‘Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy : ‘Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy.’ Các môn đệ làm y như Đức Giêsu đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua” (Mt 26:17-19). Việc chuẩn bị cho Chúa Giêsu một nơi để Ngài cùng mừng lễ với chúng ta là điều tốt, nhưng chúng ta cần phải ý thức rằng chính Chúa Giêsu là Người quyết định nơi chốn chứ không phải chúng ta. Điều này nhắc nhở chúng ta về thái độ cần có khi chúng ta muốn Chúa Giêsu ở lại với mình: Nơi chốn và thời gian là do Ngài quyết định, chúng ta chỉ là những người “làm y như Đức Giêsu đã truyền.”

Thứ ba, hãy sống một cuộc sống có ý nghĩa. Bầu khi vui tươi và ấm cúng của việc mừng lễ Vượt Qua bị phá tan vì lời tiên báo của Chúa Giêsu về người sẽ nộp Ngài, người mà đã từng theo Chúa Giêsu “thà đừng sinh ra thì hơn.” Đây là một trong những câu nói khó giải thích nhất của Chúa Giêsu vì dường như nó nói lên sự thất vọng và lời kết án của Chúa Giêsu dành cho kẻ nộp Ngài. Tuy nhiên, chúng ta chỉ hiểu ý nghĩa của câu nói này trong bối cánh của nó. Câu 22 cho chúng ta hay rằng, kẻ nộp Chúa Giêsu là “người chấm chung một đĩa” với Ngài. Điều này có nghĩa là gì? Trong tư tưởng của người Do Thái, chia sẻ chung một bàn ăn [đĩa ăn] không đơn giản là chia sẻ thức ăn, nhưng là chia sẻ chính “sự sống” của mình với người khác. Như vậy, khi trao nộp người “chấm chung một đĩa” với mình là “trao nộp chính mình,” tức là trao nộp chính sự sống mà trong đó mình chia sẻ. Nói cách khác, khi trao nộp người chấm chung một đĩa với mình là tự huỷ diệt chính sự sống của mình. Chính trong bối cảnh này, chúng ta mới có thể hiểu câu nói của Chúa Giêsu về kẻ nộp Ngài: “thà nó đừng sinh ra thì hơn!’ Đây chỉ là lối nói tượng hình để ám chỉ đến một cuộc sống không có ý nghĩa trong khi đang “chấm chung một đĩa” với Đấng mang ý nghĩa cho cuộc sống. Một cuộc sống không có ý nghĩa đồng nghĩa với một cuộc sống “không hiện hữu.” Đây là lời mời gọi cho mỗi người chúng ta, những người luôn tuyên bố mình có Chúa Giêsu. Chúng ta phải sống một cuộc sống thật ý nghĩa, để rồi chúng ta có thể mang “ý nghĩa của cuộc sống” cho những người đang sống một cuộc sống không có ý nghĩa hoặc đang đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống của họ.

*************

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

TÌNH YÊU HIỆN DIỆN MÃI VỚI NGƯỜI MÌNH YÊU

(Xh 12:1-8.11-14; 1 Cr 11:23-26; Ga 13:1-15)

Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh. Trong ba ngày này, chúng ta sẽ tưởng niệm những biến cố quan trọng nhất trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô. Phụng vụ hôm nay tưởng nhớ hai biến cố quan trọng sau đây: Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ và Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Đây là hai hành động không thể tách rời của một tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu Kitô: đây là một tình yêu phục vụ và trung thành, một tình yêu tự hạ và luôn hiện diện với người mình yêu. Với ước nguyện đạt được tình yêu như thế, chúng ta cùng nhau để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta trong ngày đầu tiên của Tam Nhật Thánh.

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta những chỉ thị của Thiên Chúa mà dân Do Thái phải thực hiện để chuẩn bị cho bữa ăn Vượt Qua. Những chỉ thị này liên quan đến những điều sau:

Thứ nhất, ngày giờ cử hành bữa ăn: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Israel: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên” (Xh 12:1-4). Hành động chọn thời gian để cử hành bữa ăn Vượt Qua ám chỉ đến việc Thiên Chúa là chủ thời gian và Ngài là Đấng điều khiển mọi sự xảy ra trong thời gian, nhất là những gì liên quan đến việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Nói cụ thể hơn, qua việc chỉ thị cho dân Israel về thời gian cử hành bữa ăn Vượt Qua, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Ngài chắc chắn sẽ giải thoát chúng ta khỏi đau khổ, nhưng điều đó xảy ra khi nào là ý của Ngài chứ không phải ý của chúng ta.

Thứ hai, điều kiện của lễ vật: “Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Israel đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng” (Xh 12:5-8). Hình ảnh con chiên không tì ố được chọn làm lễ vật cho bữa ăn Vượt Qua, tượng trưng cho hình ảnh Chúa Giêsu, Con Chiên bị sát tế để máu của Ngài giải thoát chúng ta khỏi quyền lực thần chết.

Thứ ba, cách thức ăn: “Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa” (Xh 12:11). Hành động ăn vội vàng này nhắc nhở chúng ta về việc phải nhanh chóng quay trở về với Chúa để xin người giải thoát chúng ta khỏi nô lệ của tội lỗi.

Thứ tư, hiệu quả của máu chiên và việc thiết lập lễ Vượt Qua: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập. Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12:12-14). Chúng ta thấy rõ ở đây, chính máu chiên bôi trên cửa cứu dân Israel khỏi “tai ương tiêu diệt.” Máu chiên trong bữa ăn Vượt Qua là hình ảnh của Máu Thánh Chúa Giêsu đổ ra để tẩy rửa chúng ta sạch hết tội lỗi. Đây là Máu Thánh của Giao Ước mới mà Thánh Phaolô nói đến trong bài đọc 2 hôm nay.

Bài đọc 2 được các học giả Kinh Thánh xem là bản văn “cổ nhất” trình bày cho chúng ta về việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Những lời được ghi lại bởi Thánh Phaolô trở thành lời truyền phép mà chúng ta thường nghe trong mỗi thánh lễ. Điểm quan trọng nhất trong bài đọc 2 mà chúng ta thường không để ý đến là câu mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “‘mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.’ Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cor 11: 25-26). Khi đọc những lời này, chúng ta thường nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn chúng ta lập lại nghi thức bẻ bánh, tức là nghi thức trong phụng vụ Thánh Thể. Điều này không sai. Nhưng khi Chúa Giêsu nói những lời này, Ngài muốn chúng ta “làm việc này,” tức là phải đổ máu mình ra cho anh chị em mình: chồng hy sinh cho vợ, vợ hy sinh cho chồng, cha mẹ hy sinh cho con cái, con cái hy sinh cho cha mẹ và cho nhau, v.v. Chính qua những hy sinh nhỏ bé hằng ngày mà chúng ta “loan truyền Chúa đã chịu chết” cho chúng ta để rồi đến phiên mình, chúng ta cũng chết cho anh chị em của mình.

Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào hành động rửa chân của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Ngài. Chúng ta nhận ra lối viết quen thuộc của Thánh Gioan, đó là lối viết theo nghệ thuật “sân khấu Hy Lạp.” Trong vở kịch “Rửa Chân,” Chúa Giêsu là trung tâm và nhân vật chính. Vở kịch này gồm 4 “màn chính” sau:

Màn 1: Người dẫn nói về “giờ” của Chúa Giêsu: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13:1). Thánh Gioan cho chúng ta hay “giờ” của Chúa Giêsu là gì. Tuy nhiên, điểm quan trọng nhất trong “giờ” của Chúa Giêsu là Ngài tỏ cho chúng ta biết rằng Ngài yêu chúng ta với một tình yêu không thay đổi, Ngài yêu chúng ta “đến cùng.” Tình yêu trung thành được Chúa Giêsu diễn tả trong “giờ” của Ngài là tình yêu mà ai trong chúng ta cũng khao khát và tìm kiếm trong một thế giới đang khuyến khích một lối “yêu thương mang tính ăn liền và thực dụng.” Trong “màn” thứ nhất này, chúng ta được mời gọi nhìn lại đời sống yêu thương của chúng ta: chúng ta đã thực sự “yêu thương những ai thuộc về chúng ta, và yêu thương họ đến cùng” như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta không?

Màn 2: Người dẫn kể về hành động rửa chân cho các môn đệ của Chúa Giêsu: Chúng ta thấy trong màn này, Giuđa được giới thiệu là người bị ma quỷ gieo vào lòng ý định nộp Chúa Giêsu. Điều này nói lên ý nghĩa rửa chân của Chúa Giêsu, đó là rửa chúng ta khỏi những điều mà ma quỷ đã gieo vào trong cuộc sống của chúng ta để chống lại Thiên Chúa qua việc nộp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bắt đầu việc rửa chân trong thinh lặng. Hành vi rửa chân là hành vi của một người tôi tớ. Tuy nhiên, điểm chúng ta cần lưu ý trong hành động rửa chân của Chúa Giêsu là: “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng” (Ga 13:4). Hành vi “cởi áo ngoài ra” nói lên sự tự hạ của Chúa Giêsu: Ngài cởi bỏ vinh quang và danh dự của Ngài; Ngài cởi bỏ những danh hiệu của Ngài để trở nên người tôi tớ của Thiên Chúa. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về lời dạy của Ngài về quyền bính: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành người phục vụ mọi người. Nói cách khác, qua hành vi “cởi áo ngoài ra,” Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cởi bỏ con người cũ của mình, cởi bỏ con người chạy theo “danh dự và vinh quang” của con người, cởi bỏ con người luôn muốn người khác phục vụ mình, để mặc lấy con người mới trong Chúa Giêsu, hầu trở nên tôi tớ phục vụ mọi người.

Màn 3: Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Phêrô: Đây là một điều khác thường, vì trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu là Người luôn đi bước trước để bắt đầu câu chuyện với người khác, nhưng trong trường hợp này, Phêrô lại là người bắt đầu câu chuyện bằng một câu hỏi. Thực ra, câu hỏi của Phêrô không phải là câu hỏi, nhưng là một diễn tả của thái độ kinh ngạc và “không hiểu” về hành động rửa chân các môn đệ của Chúa Giêsu. Điều này nói cho chúng ta rằng: Nhiều lần trong cuộc sống, cũng như Phêrô, chúng ta cũng ngạc nhiên về những điều Thiên Chúa đã làm cho chúng ta vì chúng vượt quá trí hiểu của chúng ta. Trong cuộc đối thoại với Phêrô, chúng ta thấy Phêrô rơi vào hai thái cực: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8) và “vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Đứng trước thái độ “quá khích” của Phêrô, Chúa Giêsu đưa ông về “vị trí trung dung”: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch” (Ga 13:10). Chỉ trong thái độ trung dung này mà Phêrô mới “được chung phần” với Chúa Giêsu (Ga 13:8). Chúng ta tự hỏi: “phần” mà Chúa Giêsu nói đến ở đây là gì? Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều này trong những lời sau: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3); và “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24). Như vậy, “phần” mà Chúa Giêsu nói đến chính là vinh quang Nước Trời.

Màn 4: Chúa Giêsu giải thích hành động rửa chân của Ngài: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy,’ là ‘Chúa,’ điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15). Thật rõ ràng, hành động rửa chân các môn đệ của Chúa Giêsu là để nêu gương cho họ [và cho chúng ta], để họ cũng rửa chân cho nhau. Chúng ta lặp lại điều này trong mỗi thánh lễ Rửa Chân vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh và chúng ta vui thích trong việc chứng kiến nghi thức này. Chúng ta quên mất điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: Hãy rửa chân cho người khác như Thầy rửa chân cho anh em. Rửa chân cho người khác thôi sao? Quá dễ! Thật vậy, nếu chúng ta không hiểu hết bối cảnh của việc rửa chân thì chúng ta thấy lời mời gọi của Chúa Giêsu quá dễ để thực hiện. Tuy nhiên, chúng ta phải biết rằng việc rửa chân của Chúa Giêsu cho các môn đệ không phải là chuyện dễ. Chúng ta thấy có hai tên được nêu lên trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là Giuđa Iscariốt và Phêrô. Đây không phải là điều ngẫu nhiên, nhưng là có chủ đích vì đây là tên của một người sẽ nộp Chúa Giêsu và người kia sẽ chối Chúa Giêsu [10 người còn lại sẽ bỏ Chúa Giêsu]. Trong bối cảnh này, chúng ta mới hiểu được chiều sâu của lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh chị em thấy, Thầy đã cúi xuống rửa chân cho ‘kẻ nộp thầy,’ cho kẻ ‘chối thầy,’ và cho những kẻ ‘bỏ thầy mà chạy,’ vậy anh chị em cũng học nơi Thầy mà rửa chân cho những người đã “nộp,” đã “chối,” và đã “bỏ” anh chị em.” Đây chính là ý nghĩa của phụng vụ hôm nay. Chúng ta được mời gọi để phục vụ, yêu thương, tha thứ và hiện diện với những người đã làm cho chúng ta đau khổ.

*************

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

MẦU NHIỆM THINH LẶNG CỦA TÌNH YÊU

(Is 52:13 – 53:12; Hr 4:14-16; 5:7-9; Ga 18:1 – 19:42)

Phụng vụ hôm nay tập trung vào thập giá của Chúa Giêsu. Nghi thức hôm nay được gọi là “Suy Tôn Thánh Giá.” Như chúng ta biết, bị đóng đinh trên thập giá là một trong những hình phạt tàn bạo nhất mà người Rôma dùng để trừng trị phạm nhân. Hình phạt này chỉ được sử dụng cho các nô lệ và không bao giờ được áp dụng cho các công dân La Mã. Trong thời đó, thập giá chính là “ác mộng” của các phạm nhân, nhất là những phạm nhân chống lại La Mã. Nếu thập giá là một “ác mộng” khủng khiếp cho mọi người thời đó, nhất là cho các phạm nhân, tại sao chúng ta lại suy tôn thập giá? Thánh giá có gì đặc biệt để chúng ta suy tôn? Chúng ta để lời Chúa trả lời cho chúng ta lý do tại sao chúng lại suy tôn thánh giá Chúa Giêsu hôm nay.

Ngôn sứ Isaia, qua bài ca thứ tư người tôi tớ của Thiên Chúa trong bài đọc 1 hôm nay, cho chúng ta hay rằng chính người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ “được suy tôn đến tột cùng” (Is 52:13). “Hình ảnh biến dạng” của người tôi trung của Thiên Chúa được Isaia mô tả trong bài đọc 1 chính là hình ảnh của Đức Giêsu được Thánh Gioan trình bày trong Tin Mừng hôm nay: “Người tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người nữa, cũng vậy, người sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ” (Is 52:14-15). Hơn thế nữa, “người tôi tớ của Thiên Chúa [Đức Giêsu Kitô] chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như một kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Một Đức Kitô, không còn dáng vẻ con người, bị treo trên thập giá, có đáng để suy tôn không? Nếu thập giá là “ác mộng” và Đấng bị treo trên thập giá “không còn dáng vẻ con người,” thì chúng ta có lý do gì để suy tôn hôm nay?

Ngôn sứ Isaia đưa ra cho chúng ta những lý do mà qua đó người tôi trung của Thiên Chúa được suy tôn và những lý do đó được hoàn thành nơi Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta suy tôn thánh giá với những lý do sau:

Thứ nhất, trên thập giá, “chính Người [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Is 53:4): Trong suốt cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài luôn “mang lấy những bệnh tật” của dân chúng và chữa lành họ. Những đau khổ chúng ta Ngài cũng gánh chịu và chia sẻ với chúng ta. Ngài không chỉ đau khổ với chúng ta, nhưng còn đau khổ vì và cho chúng ta. Đây chính là lý do thứ nhất Chúa Giêsu được Chúa Cha tôn vinh và được chúng ta suy tôn. Lý do đầu tiên mời gọi chúng ta, trong khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu hôm nay, là hãy biết dâng lời tạ ơn Ngài vì đã mang lấy bệnh tật và gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi để mang lấy bệnh tật và gánh chịu những đau khổ của anh chị em chúng ta.

 Thứ hai, trên thập giá “chính Người [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của chúng ta” (Is 53:5-6). Chúa Giêsu bị đâm thâu vì chúng ta đã phạm tội. Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của chúng ta hầu đem lại cho chúng ta ơn tha thứ và bình an. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta được mời gọi nhìn lại cuộc sống của mình để dốc lòng tránh những lỗi lầm đã đâm thâu vào con tim của Chúa Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi trở nên khí cụ hoà giải hầu mang bình an đến cho anh chị em của chúng ta.

Thứ ba, trong mầu nhiệm thập giá “bị ngược đãi, [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu]  cam chịu nhục nhã, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.” (Is 53:7-8). Khi nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ở đó một Con Người rất “hiền lành và khiêm nhường,” một Con Người với những lời thì thầm thật ngọt ngào: “hãy đến với ta hỡi những ai mang gánh nặng nề. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.”

Thứ tư, trong mầu nhiệm thập giá “Người [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:8-9). Chúa Giêsu bị đánh phạt vì tội lỗi của chúng ta. Ngài đón nhận hình phạt dù Ngài không phạm tội. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta để cho tính tự ái chiến thắng chúng ta. Chúng ta có thể chịu thiệt một tí, hoặc đơn giản nói lời “xin lỗi,” để có thể cứu được các tương quan mà chúng ta đã gầy dựng và vun đắp từ lâu. Nhưng chúng ta đã không làm điều đó. Hôm nay khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi chấp nhận hình phạt cho người khác, dù chúng ta không lỗi phạm.

Thứ năm, trên thập giá “nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Chính qua đau khổ của mình, Chúa Giêsu làm cho tất cả chúng ta được nên công chính. Như vậy, thập giá chính là “công cụ” mà qua đó Chúa Giêsu sử dụng để đánh bại thần chết và làm cho chúng ta nên công chính. Khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi đón nhận những nỗi thống khổ của mình và của người khác để sinh ích cho người khác.

Thứ sáu, “Ta [Thiên Chúa] sẽ ban cho Người muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, Người sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì Người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:11-12). Qua cái chết của mình, Chúa Giêsu đã được ban cho mọi vinh quang, danh dự trên trời và dưới đất. Và chúng ta được mời gọi để được chia sẻ vinh quang và danh dự với Ngài. Khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta được mời gọi từ bỏ những của cải chóng qua thuộc về mình, để chia sẻ với Chúa Giêsu trong gia sản không bao giờ tàn phai của Ngài.

Để hiểu thêm về ý nghĩa của phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau để Lời Chúa trong bài Tin Mừng hướng dẫn chúng ta. Thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết ý nghĩa của phụng vụ hôm nay: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19:37). Thật rõ ràng là chúng ta không suy tôn thập giá hay thánh giá, nhưng chúng ta suy tôn “Đấng bị treo trên thập giá.” Như chúng ta đã trình bày, chính thập giá là một nỗi kinh hoàng cho mọi người, nên không có gì để suy tôn. Tuy nhiên, Đấng bị đóng đinh trên đó thì đáng được suy tôn vì Ngài là Vua các vua và Chúa các chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta câu chuyện “đáng buồn,” nhưng “đáng yêu” nhất trong lịch sử nhân loại. “Đáng buồn” vì con người đã kết án và đóng đinh cách tàn ác Đức Chúa của họ vào thập giá; nhưng “đáng yêu” vì Đấng bị kết án và đóng đinh đã biến thập giá trở nên phương tiện cứu độ con người qua mọi nơi và mọi thời. Tất cả chúng ta thường tập trung vào những điểm “đáng buồn” mà quên đi những điểm “đáng yêu” của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Vì vậy, chúng ta tập trung vào một vài điểm “đáng yêu” trong Tin Mừng hôm nay để sống cho “đáng yêu” khi suy tôn thập giá Chúa Giêsu hôm nay.

Điểm “đáng yêu” đầu tiên là sự “đi bước trước” của Chúa Giêsu trong các cuộc đối thoại của Ngài với mọi người, cả với những người bạn cũng như kẻ chống đối. Khi những kẻ chống đối đến bắt Ngài, Chúa Giêsu bình thản tiến ra và hỏi họ chính câu hỏi mà Ngài đã hỏi các môn đệ đầu tiên. Tuy nhiên, sự khác biệt là khi hỏi các môn đệ đầu tiên Chúa Giêsu hỏi họ, “các anh tìm gì?” còn khi hỏi những người đến bắt Ngài, Chúa Giêsu hỏi, “các anh đi tìm ai?” Qua hai câu hỏi này, một câu bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai của Ngài và một câu kết thúc cuộc đời rao giảng công khai, chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta cái gì quan trọng nhất trong cuộc sống: không phải “cái gì” mình đang tìm kiếm là quan trọng nhưng là “người” chúng ta đang tìm kiếm mới quan trọng. Đây chính là điểm “đáng yêu” thứ nhất mà chúng ta cần tập trung vào trong phụng vụ hôm nay. Chúa Giêsu chết vì “những gì chúng ta là” chứ không phải vì “những gì chúng ta có.” Vì vậy, chúng ta được mời gọi đặt giá trị và nhân phẩm của chúng ta và của người khác lên trên những giá trị vật chất mà chúng ta có. Điều này sẽ làm cho chúng ta trở nên đáng yêu hơn khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh này.

Điểm “đáng yêu” thứ hai là thái độ bình thản của Chúa Giêsu khi đối diện với “chén Chúa Cha trao cho Ngài.” Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đối diện với chén đắng cuộc đời với thái độ khó chịu, giận dữ, hận thù và thất vọng. Khi suy gẫm cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm này, chúng ta được mời gọi đối diện với những chén đắng với sự bình thản và tràn đầy tin yêu.

Điểm “đáng yêu” thứ ba là “cái nhìn” không kết án của Chúa Giêsu dành cho Phêrô. Chính cái nhìn đầy yêu thương và tha thứ này đã cải hoá Phêrô và biến ông trở nên người sẵn sàng chết để làm chứng cho tình yêu tuyệt đối vô điều kiện đó. Học ở điểm “đáng yêu” này, chúng ta được mời gọi để nhìn người khác với ánh mắt cảm thông và tha thứ khi họ lầm lỗi trong cuộc  sống. Ánh mắt hận thù và ánh mắt yêu thương, bạn thích ánh mắt nào?

Điểm “đáng yêu” thứ tư là thái độ “can đảm” của Chúa Giêsu để bảo vệ sự thật: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta để cho sự sợ hãi hay tính cả nể chiến thắng chúng ta để rồi chúng ta không can đảm làm chứng cho sự thật. Điểm “đáng yêu” thứ tư mời gọi chúng ta bỏ đi lối sống giả tạo của mình để đứng về phía sự thật. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi tránh thái độ “bóp méo sự thật” đã làm cho người khác đau khổ.

Điểm “đáng yêu” thứ năm là việc Chúa Giêsu khẳng định với Philatô về vương quốc của mình: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Qua lời khẳng định này, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở cho chúng ta về quê hương thật của mình. Quê hương thật của chúng ta không thuộc về thế gian này, nhưng là quê trời, nơi không còn tiếng than khóc và đau khổ. Qua cái chết, Chúa Giêsu đã mở rộng cánh cửa Nước Trời cho chúng ta.

Điểm “đáng yêu” thứ sáu là thái độ quan tâm và yêu thương cho đến cùng của Chúa Giêsu: “‘Thưa Bà, đây là con của Bà.’ Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh.’ Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19:26-27). Chúa Giêsu biết từ nay Mẹ Maria sẽ không còn người thân để nương tựa, nên Ngài đã lo liệu cho Mẹ. Ngài đã trao phó Mẹ cho người môn đệ yêu quý chăm sóc. Đây là điểm đáng yêu xảy ra dưới chân thập giá, nơi mọi người sẽ được đưa vào trong “gia đình mới” của Chúa Giêsu. Hình ảnh này mời gọi chúng ta quan tâm và yêu thương người khác, lo lắng cho những nhu cầu của họ hơn của chúng ta. Nói cách khác, điểm “đáng yêu” thứ sáu mời gọi chúng ta mở rộng cõi lòng để “rước anh chị em” của mình vào trong “nhà mình” để yêu thương, chăm sóc và chia sẻ cuộc sống với họ.

Điểm “đáng yêu” thứ bảy và cũng là cuối cùng chính là sự “khát” của Chúa Giêsu, sự khát cho linh hồn chúng ta, những tội nhân. Trước khi phó thác thần khí vào tay Chúa Cha, Chúa Giêsu đã thốt lên, “Ta khát.” Câu này gợi cho chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu đang nói chuyện với người phụ nữ Samaria: “Này chị, xin cho tôi ít nước. Tôi khát.” Trong câu chuyện đó, chúng ta nhận ra rằng, Chúa Giêsu không khát nước cho bằng khát tình yêu của chị. Đây chính là cái khát của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài khát tình yêu của chúng ta, hay nói đúng hơn, Ngài khát sự “đáp trả” của chúng ta trước tình yêu tha thứ và dịu hiền của Ngài. Hãy làm dịu cơn khát của Chúa Giêsu bằng một quyết định thay đổi, bằng một quyết định từ bỏ tật xấu như một lời đáp trả lại tình yêu tuyệt đối của Ngài!

*************

THỨ BẢY – VỌNG PHỤC SINH

SỰ SỐNG MỚI ƯƠM MẦM TRONG NẤM MỒ

(St 1:1 – 2:2; Xh 14:15 – 15:1a; Ed 36:16-17a.18-28; Rm 6:3-11; Mc 16:1-8)

Trọng tâm Phụng Vụ của đêm Vọng Phục Sinh hôm nay là Nến Phục Sinh. Phụng vụ được bắt đầu với việc làm phép lửa và thắp nến phục sinh, tượng trưng cho Đức Giêsu Kitô là ánh sáng thế gian. Ngài đến để chết và trỗi dậy hầu mang lại cho chúng ta, những người đang đi trong thung lũng tối tăm và bóng của sự chết, ánh sáng và sự sống mới bất diệt. Chúng ta cảm nghiệm được điều này qua phụng vụ đêm nay: nhà thờ chìm trong bóng tối, ánh sáng của cây nến phục sinh sẽ làm bừng lên và chiếu sáng cho mọi người, vị chủ tế sẽ xướng lên: “Ánh sáng Chúa Kitô,” và mọi người thưa lại: “Tạ ơn Chúa.” Từ cây nên phục sinh, ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh được chuyền đi thắp sáng những cây nến chúng ta cầm trên tay và làm cho ánh sáng đó chiếu sáng cho mọi người đang hiện diện trong nhà thờ. Điều này có ý nghĩa gì? Cây nến chúng ta cầm trên tay gợi cho chúng ta nhớ lại cây nến mà chúng ta đón nhận trong ngày Rửa Tội. Khi cây nến trong tay chúng ta được thắp lên từ ngọn lửa của cây nến phục sinh, đức tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô phục sinh lại được thắp sáng. Ánh sáng đức tin đó không chỉ dành riêng cho chúng ta mà được chuyền đi cho tất cả mọi người được quy tụ trong nhà thờ [hình ảnh của Giáo Hội] để thắp sáng niềm tin cho họ. Như vậy, chúng ta không sống đức tin cho chính mình, nhưng cho người khác, những người yếu đức tin hay những người mà ngọn nến đức tin đã tắt từ lâu. Hãy giữ ngọn nến đức tin của chúng ta cháy sáng và hãy thắp sáng niềm tin của người khác. Đó là sứ điệp đầu tiên của đêm vọng phục sinh hôm nay. Tóm lại, khi chiêm ngắm ánh sáng của cây nến phục sinh, chúng ta được nhắc nhở hai điều: Thứ nhất, ánh sáng mang lại cho chúng ta niềm vui vì thấy nhau và thấy Chúa trong đêm đen của lịch sử nhân loại và lịch sử cuộc đời chúng ta; thứ hai, chúng ta phải bảo vệ ánh sáng này trước những “làn gió” của sự tục hoá đang tìm mọi cách để làm tắt.

Trong đêm hôm nay, phụng vụ Lời Chúa có tất cả 7 bài đọc, 5 bài từ Cựu Ước và 2 bài từ Tân Ước. Tuy nhiên, chúng ta thường chỉ nghe 5 trong 7 bài đọc, 3 bài từ Cựu Ước và 2 bài từ Tân Ước. Chúng ta để Lời Chúa trong phụng vụ đêm nay hướng dẫn chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu cách xứng đáng.

Trong bài đọc trích từ Sách Sáng Thế, chúng ta được nghe về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một trong những điệp khúc chúng ta nghe trong suốt công trình tạo dựng đó là, “Thiên Chúa thấy [mọi sự Ngài đã sáng tạo] là tốt đẹp (x. St 1:3,10,12,18,21,25,31). Khi nghe hết bản văn, chúng ta nhận ra một khác biệt nhỏ nhưng rất quan trọng trong những lần khẳng định này. Khẳng định trong các câu 3, 10, 12, 18, 21, và 25 giống nhau và đơn giản là: “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Tuy nhiên, câu khẳng định trong câu 31, sau khi Thiên Chúa sáng tạo con người, hoàn toàn khác biệt và sự khác biệt nằm ở “cấp độ tốt lành”: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” Với sự hiện diện của con người mọi sự được mang một cấp độ tốt lành cao hơn vì con người có nhân phẩm cao quý, được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1: 26-27). Chính nhân phẩm cao quý này mà khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đến để phục hồi lại nhân phẩm cho họ. Đây chính là ý nghĩa của đêm nay. Nói cách khác, mầu nhiệm phục sinh là “một sáng tạo mới.” Và qua sáng tạo này Thiên Chúa sẽ phục hồi mọi sự trở nên “rất tốt đẹp.”

Bài đọc trích từ sách Xuất Hành là bài đọc Cựu Ước bắt buộc trong phụng vụ lời Chúa đêm nay. Nó trình thuật cho chúng ta về biến cố Vượt Qua của người Do Thái. Qua biến cố này, dân Do Thái được giải thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập để đi vào đất Thiên Chúa đã hứa cho tổ phụ của họ và con cháu đến muôn đời. Đêm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của chúng ta: cuộc Vượt Qua thoát khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi để được tự do làm con cái Thiên Chúa. Như Ngài đã chiến đấu chống lại người Ai Cập trong Cựu Ước, Thiên Chúa cũng chiến đấu chống lại quyền lực ma quỷ qua Đức Giêsu Kitô. Đêm nay, chúng ta được mời gọi để Vượt Qua con người cũ của mình, con người đã bị giam cầm bởi những thói hư tật xấu, con người bị giam giữ trong nhà tù của tội lỗi. Chúng ta được mời gọi để cho Thiên Chúa chiếm lấy chúng ta hầu biến chúng ta thành những con người tự do để yêu thương, để tha thứ và để chiếm lấy phần đất gia nghiệp mà Chúa đã hứa cho chúng ta.

Bài trích từ sách Ngôn Sứ Êdêkien ghi lại cho chúng ta những tâm tình đầy yêu thương của Thiên Chúa trước sự phản bội của dân Israel và của mỗi người chúng ta. Những lời của Thiên Chúa mang lại cho chúng ta hơi ấm của tình thương và sự an ủi: “Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi. Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Ed 36:24-28). Đêm nay, qua hơi ấm của ánh nến, chúng ta cảm nghiệm được hơi ấm tình yêu Thiên Chúa để xua tan sự băng giá trong con tim vô cảm của chúng ta.

Về phần mình, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của Bí Tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Trong Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được dìm trong cái chết của Chúa Giêsu, và “vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đóng đinh con người cũ của chúng ta vào thập giá với Đức Kitô, để như thế, “con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, và chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6:6). Như vậy, qua đêm nay chúng ta hoàn toàn là con người mới trong Đức Kitô. Con người cũ của ghen ghét, hận thù, nóng giận, không tha thứ, nghĩ xấu và nói xấu người khác không còn thống trị chúng ta. Thay vào đó là một con người biết cảm thông, biết an ủi, biết yêu thương và biết tha thứ cho anh chị em của chúng ta. Người nào không biến đổi như thế thì vẫn không hiểu được mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Hãy làm cho sự phục sinh của Chúa Giêsu được hiện thực hoá trong cuộc đời chúng ta.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca trình bày về buổi sáng phục sinh, ngày thứ nhất trong tuần (x. Lc 24:1). Câu hỏi và giải thích của “hai người đàn ông y phục sáng chói” cho các bà đi ra mồ của Chúa Giêsu khi trời vừa tảng sáng là lời “công bố đầu tiên về Tin Mừng Phục Sinh” của Chúa Giêsu: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (Lc 24:5-7). Trong bài Tin Mừng, chúng ta có thể nhận ra hai bằng chứng quan trọng sau đây về sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Thứ nhất là sự kiện ngôi mộ trống: “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả” (Lc 24:1-3). “Ngôi một trống” chính là bằng chứng đầu tiên về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày hôm nay? Thông thường, trong những ngôi mộ, chúng ta chỉ có những xác chết không hồn với mùi thối của nó. Khi nói đến ngôi một trống là nói đến việc không có thân xác tàn rữa trong nấm mồ, không có mùi thối của xác chết. Như vậy, sự phục sinh của Chúa Giêsu đưa chúng ta ra khỏi tình trạng tàn rữa của thân xác trong nấm mồ và cuộc sống của chúng ta trở nên của lễ như hương trầm nghi ngút dâng lên Thiên Chúa với mùi hương đặc biệt. Mầu nhiệm hôm nay mời gọi chúng ta sống một cuộc sống lành mạnh với tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải sống “như những cái xác không hồn.” Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi để loại trừ những “mùi thối” trong cuộc sống để mang đến cho người khác một mùi hương của tình mến và hy vọng.

Thứ hai, sự thay đổi thái độ của Phêrô và các môn đệ khác trước sự kiện phục sinh cũng là điều đáng để chúng ta suy gẫm. Khi nghe các bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacôbê kể về sự kiện ngôi mộ trống, Phêrô và các môn đệ không tin (x. Lc 24:8-11). Nhưng khi chính Phêrô nhìn thấy ngôi mộ trống, “ông rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra” (Lc 24:12). Kinh ngạc là thái độ cần thiết đầu tiên đứng trước mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi kinh ngạc, chúng ta nói lên sự cao siêu của mầu nhiệm, đồng thời tiếp tục tìm hiểu và mong ước được hiểu điều làm mình ngạc nhiên. Chi tiết quan trọng khác đó là “nhưng khi cúi nhìn, ông [Phêrô] thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi” (Lc 24:12). Chi tiết này cho thấy sự kiện phục sinh không phải là một sự “trộm xác” vì nếu xác Chúa Giêsu bị trộm, những người trộm phải mang theo cả những khăn liệm dùng để quấn xác Người, chứ không để lại. Tuy nhiên, điều chúng ta cần quan tâm trong chi tiết thứ hai này là gì? Hay nói cách khác, chúng ta học được gì từ chi tiết này? Đứng trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta phải có thái độ “kinh ngạc thánh.” Thật vậy, có bao giờ chúng ta cảm thấy kinh ngạc và hãnh diện khi đến với Chúa không? Một cách cụ thể, chúng ta thường hãnh diện khi được chia sẻ điều này điều kia với những người nổi tiếng. Nhưng đây không chỉ là người nổi tiếng mà còn là Thiên Chúa của chúng ta. Ngài không chỉ chia sẻ với chúng ta “một vài thứ” như các người nổi tiếng trong xã hội, Ngài chia sẻ cho chúng ta tất cả mọi sự, ngay cả sự sống thần linh của Ngài. Vậy trong đêm vọng phục sinh hôm nay, chúng ta được mời gọi thay đổi thái độ mỗi khi đến với Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đến với Ngài với thái độ kính trọng và yêu mến, kinh ngạc và hãnh diện, tin tưởng và phó thác.