Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày-Tuần II Mùa Chay

69

SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY – TUẦN II MÙA CHAY

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ  HAI TUẦN II MÙA CHAY

HÃY TRỞ NÊN NHÂN LÀNH NHƯ CHA CHÚNG TA Ở TRÊN TRỜI

(Đn 9:4b-10; Lc 6:36-38)

Một người Kitô hữu (tu sĩ) tốt, thánh thiện là người cầu nguyện luôn. Chúng ta thường cầu nguyện một mình [cá nhân] hay cầu nguyện với người khác. Nhưng điều chúng ta có thể rút ra từ bài đọc 1 hôm nay là: hãy cầu nguyện như chúng ta là. Điều này có nghĩa là gì? Nó đơn giản là: nếu chúng ta là những người cha, người mẹ thì hãy cầu nguyện như những người cha người mẹ; nếu là một người thầy, người cô, thì cầu nguyện như một người thầy, người cô; nếu là một người thánh hiến cho Thiên Chúa, thì hãy cầu nguyện như một người thánh hiến cho Thiên Chúa, v.v. Lời cầu nguyện và cách thức cầu nguyện phải tương hợp với mình là ai trước mặt Chúa và trước mặt anh chị em mình.

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta một mẫu cầu nguyện của một vị ngôn sứ, người cầu nguyện trên danh nghĩa của toàn dân. Chúng ta thấy trong mẫu cầu nguyện này những yếu tố cần thiết [chúng ta cũng đã trình bày trong các bài suy niệm trước] như sau: (1) nhận ra Thiên Chúa là ai (Đn 9:4b); (2) nhận ra mình là ai trước mặt Chúa (Đn 9:5-6); (3) nhận ra sự khác biệt giữa Thiên Chúa với chúng ta (Đn 9:7); (4) xin Thiên Chúa giúp để trở nên giống Ngài hơn (Đn 9:8-10).

Điều chúng ta cần suy gẫm trong bài đọc 1 hôm nay là việc Đanien nêu ra nguyên nhân tội lỗi của dân Israel [và chúng ta], đó là, “chúng con đã không nghe lời các tôi tớ Chúa là các ngôn sứ,” những người “đã nhân danh Chúa mà nói với vua chúa quan quyền, với cha ông chúng con và toàn dân trong xứ (Đn 9:6) và “chúng con đã không nghe tiếng của Đức Chúa là Thiên Chúa chúng con” (Đn 9:10). Kinh nghiệm thường ngày dạy chúng ta điều này. Khi chúng ta không lắng nghe và đem ra thực hành lời của Thiên Chúa, chúng ta dễ dàng phạm tội và từ chối tình yêu và đường lối của Ngài. Nghe là một trong những thái độ cần thiết khi đến với Lời Chúa. Nhưng nghe với đôi tai thể lý thì chưa đủ; chúng ta phải nghe với đôi tai của tâm hồn. Chỉ có như thế thì lời Chúa mới có thể ở lại trong con tim của chúng ta và làm chúng ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Đây chính là điều mà bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ lấy Thiên Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc đời của mình. Cách cụ thể, bài Tin Mừng bắt đầu với việc Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ lấy lòng nhân từ của Thiên Chúa làm tiêu chuẩn để cố gắng đạt đến. Chúng ta thấy, lòng nhân từ được trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay trong hai mệnh lệnh tiêu cực và hai mệnh lệnh tích cực: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6:37-38). Chúng ta cùng nhau suy gẫm bốn công việc cụ thể của lòng nhân từ, để chúng ta cũng được trở nên nhân từ như Cha chúng ta là Đấng nhân từ. Bốn công việc này liên kết chặt chẽ với nhau: bước này nối tiếp bước kia.

Thứ nhất, “đừng xét đoán”: Chúa Giêsu nói, chúng ta đừng xét đoán để rồi sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Đây thường là lý do chúng ta đưa ra để không xét đoán người khác. Tuy nhiên, để hiểu hơn, chúng ta có thể “chơi chữ” ở đây để rút ra ý nghĩa của công việc đầu tiên của lòng nhân từ: không xét đoán. Từ này gồm hai từ: “xét” và “đoán.” Thông thường khi chúng ta đoán một cái gì đó, thì xác xuất cao nhất là 50-50. Chính vì vậy chúng ta hay nói đùa rằng: đoán mò mà nó cũng trúng. Khi chúng ta đoán là chúng ta không chắc chắn về sự kiện hoặc con người. Như vậy, khi “xét” người khác mà dựa trên “đoán,” tức dựa trên những điều không chắc chắn, lời xét của chúng ta sẽ sai. Theo nguyên tắc luân lý và nhất là dưới sự hướng dẫn của nhân đức, chúng ta đừng có xét [xét nét] người khác. Điều Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta là: hãy biết rõ sự việc trước khi nhận xét người khác.

Thứ hai, “đừng lên án”: tuy nhiên, dù chúng ta có nhận xét hay xét đoán đúng người khác trong bước thứ nhất, thì công việc thứ hai của lòng nhân từ mời gọi chúng ta không lên án. Tại sao chúng ta không lên án? Là vì chúng ta không biết người đó đã trải qua những gì. Nếu chúng ta ở trong trường hợp của họ, có lẽ chúng ta còn trở nên tệ hơn chăng!

Thứ ba, “hãy tha thứ”: bước thứ ba đi theo bước thứ hai là hãy tha thứ thay vì lên án anh chị em mình. Và dù chúng ta có lên án người khác, tức là nói người khác đáng bị sử phạt, nhưng chúng ta cũng tha thứ cho họ hình phạt của họ. Tha thứ không phải vì họ đáng được tha thứ, nhưng là vì mình nhân lành. Khởi nguồn của tha thứ không nằm ngoài chúng ta, nhưng nằm trong con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta. Người nào có con tim đầy yêu thương thì dễ dàng tha thứ cho người khác. Ngược lại, con tim người nào chứa đựng toàn ghen tỵ và chua cay, thì người đó sẽ khó hoặc không thể tha thứ cho người khác.

Cuối cùng, “hãy cho”: chúng ta đọc thấy trong sách Công Vụ Các Tông Đồ những lời này: cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20:35). Có người cho từ những cái dư thừa của mình, nhưng cũng có người cho từ những gì mình còn để sống. Nguyên lý trong đời là: chúng ta không thể cho những gì chúng ta không có. Vậy chúng ta có gì để cho người khác? Chúng ta không có của cải vật chất để cho cũng không sao. Thiên Chúa và người khác sẽ hiểu chúng ta. Nhưng chúng ta có nụ cười, có lời nói tế nhị tao nhã, có những cử chỉ thân thiện, mà nhiều khi chúng ta quá “keo kiệt” đã không cho người khác. Hãy trao cho người khác những gì mình không cần phải mất tiền và công sức để sở hữu. Hãy trao ban cho anh chị em những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!

Cuối cùng, điều làm chúng ta kinh ngạc là bài Tin Mừng bắt đầu với “anh em hãy có lòng nhân từ,” và kết thúc với “[Thiên Chúa] sẽ đong cho anh em.” Đây chính là hành trình chúng ta phải đi: chúng ta bắt đầu với lòng nhân từ của mình, là dựa trên sự công bình, và kết thúc với lòng nhân từ của Thiên Chúa, là dựa trên đức yêu thương. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không chỉ dừng ở chỗ đã dằn, đã lắc, nhưng còn đầy tràn. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng khuyến cáo chúng ta: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6:38). Nếu lòng nhân từ của chúng ta chỉ ở lại mức độ của con người, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho chúng ta theo mức độ của con người; còn nếu lòng nhân từ của chúng ta như Thiên Chúa là Đấng nhân từ, thì Ngài sẽ đong lại cho chúng ta theo mức độ của Thiên Chúa.

*********************

THỨ  BA TUẦN II MÙA CHAY

SỐNG PHỤC VỤ TRONG KHIÊM NHƯỜNG

(Is 1:10.16-20; Mt 23:1-12)

Theo bản tính tự nhiên, ai trong chúng ta cũng muốn “thống trị” người khác, nhất là những người thuộc quyền. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu thế nào là sử dụng quyền bính. Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia truyền lời sấm của Đức Chúa cho những người cầm đầu Xơđôm. Lời sấm này mời gọi họ phải thay đổi lối sống của họ và sử dụng quyền bính của mình để bảo vệ những người yếu thế cô thân: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1:16-17). Những lời này mời gọi mỗi người chúng ta, nhất là những người đang chăm sóc anh chị em mình phải luôn làm điều tốt, điều thiện cho anh chị em mình. Điều thiện, điều tốt được thực hiện bắt đầu từ đức công bình, đó là trả lại cho anh chị em mình những gì thuộc về họ và kết thúc với đức yêu thương, đó là bảo vệ những anh chị em kém may mắn trong xã hội. Chúng ta có đang sống đức công bình và yêu thương trong tương quan của mình với anh chị em không?

Những lời tiếp theo của lời sấm mang lại cho người nghe một niềm an ủi: “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Mỗi người chúng ta nhận ra rằng mỗi ngày chúng ta xúc phạm đến Chúa nhiều lần, nhưng tình yêu Thiên Chúa luôn bao bọc chúng ta. Ngài luôn tha thứ cho chúng ta.  Tuy nhiên, để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, dân chúng được mời gọi phải lắng nghe lời Đức Chúa và đem ra thực hành: “Nếu các ngươi chịu nghe lời Ta, các ngươi sẽ được hưởng dùng hoa mầu trong xứ. Còn nếu các ngươi từ chối mà phản nghịch, các ngươi sẽ phải ăn gươm ăn giáo” (Is 1:19-20). Những lời này trình bày cho chúng ta thấy phần thưởng của những người lắng nghe Thiên Chúa và hậu qua những người không nghe Thiên Chúa phải gánh chịu. Thiên Chúa nói với chúng ta mỗi ngày qua người khác và những sự kiện. Chúng ta có con tim và tâm trí mở rộng để lắng nghe và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa không?

Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của những lời “khốn” chống lại các kinh sư và người Pharisêu (Mt 23:1-36). Chúng ta có thể phân chia bài Tin Mừng hôm nay thành hai phần: Trong phần 1 (câu 1-7) Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những thái độ họ phải tránh nơi các kinh sư và người Pharisêu. Phần 2 (câu 8-12) thuật lại việc Chúa Giêsu muốn các môn đệ sở hữu những thái độ cần thiết nào khi sống với anh chị em mình. Chúng ta cùng nhau chia sẻ chi tiết hơn từng phần.

Trong phần 1, Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ phải tránh những thái độ sau của các kinh sư và người Pharisêu: (1) thái độ “làm thầy dạy đời” mọi người (câu 2); (2) không thực hành những gì mình giảng dạy (câu 3); (3) chất lên vai người khác những gánh nặng mà mình không muốn làm (câu 4); làm việc tốt để được người đời tôn vinh (câu 5); thích được “ăn trên ngồi chốc” (câu 6-7). Chúng ta cùng nhau đọc lại bản văn: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy.” Trong những thái độ trên, thái độ “nói một đường làm một nẻo” là thái độ người môn đệ Chúa Giêsu [nhất là những người đang phục vụ quyền bính] phải tránh. Như chúng ta biết, những gì các kinh sư và những người Pharisêu giảng dạy đều đúng và chính thống. Điều đáng tiếc là hành động của họ không đi đôi với lời họ nói. Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chúng ta ai cũng đã một lần không sống với những gì mình nói. Lời Chúa mời gọi chúng ta phải sống thế nào để lới nói và hành động phải luôn ăn khớp với nhau.

Chi tiết quan trọng nhất trong phần 1 là việc Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình tránh những thái độ sống của các kinh sư và người Pharisêu. Điều này ám chỉ đến sự “không liên tục” trong thái độ sống của những người môn đệ Chúa Giêsu. Nói cách khác, khi theo Chúa Giêsu họ phải sống lối sống hoàn toàn khác với lối sống trước kia. Điều này được diễn tả qua việc sử dụng thì quá khứ khi nói đến quyền giảng dạy của các kinh sư và người Pharisêu [toà Môsê là biểu tượng của quyền bính của Môsê. Người Pharisêu khẳng định họ là những người thừa hưởng quyền của Môsê]. Chúng ta đã theo Chúa Giêsu nhiều năm, lối sống chúng ta có thay đổi không?

Trong phần 2, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đối xử với nhau như anh chị em: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là thầy, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người chỉ đạo, vì anh em chỉ có một vị chỉ đạo, là Đấng Kitô” (Mt 23:8-10). Trong những lời này, Chúa Giêsu chỉ trích những người thích được gắn cho tước hiệu hay danh vị. Theo các học giả Kinh Thánh, danh hiệu rabbi (thầy) theo nghĩa văn chương là “người/đấng vĩ đại của tôi.” Danh hiệu này được sử dụng sau này từ năm 60-80 như là thuật ngữ dành cho một thầy dạy hay nhà thông thái người Do Thái được uỷ quyền. Danh hiệu “cha” được gán lần đầu tiên cho nhà thông thái người Do Thái Saul ben Batnith (ca 80-120). Mặc dù danh hiệu này bị cấm sử dụng, nhưng nó đã “bò” vào trong Kitô giáo qua các dòng tu, nơi mà danh hiệu này được sử dụng như thuật ngữ dành cho người hướng dẫn thiêng liêng. Còn đối với danh hiệu “người chỉ đạo,” người Kitô hữu chỉ có một người chỉ đạo là Đấng Kitô theo nghĩa là họ suốt đời là môn đệ của Ngài, còn những người chỉ đạo khác chỉ là tạm thời và chuyển tiếp. Từ những chi tiết liên quan đến các danh hiệu, chúng ta rút ra được điều gì? Chúng ta rút ra được rằng Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ nhận ra mọi quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa. Những danh xưng họ được gán cho không phải là do công trạng của họ mà đạt được, nhưng là được chia sẻ trong vinh quang của Thiên Chúa. Điều này nhắc nhở mỗi người chúng ta biết sống khiêm nhường khi được người khác tôn vinh với những danh hiệu khác nhau và quy chiếu mọi sự về cho Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng kết với lời dạy của Chúa Giêsu dành cho những người được đặt lên để phục vụ quyền bính trong gia đình, hội đoàn, cộng đoàn [tu sĩ], giáo xứ, v.v. Ngài muốn các môn đệ của Ngài sử dụng quyền bính để phục vụ chứ không phải để thống trị. Họ phải sử dụng quyền bính với lòng khiên nhường: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23:11-12). Những lời này cho thấy, quyền bính không nhằm mục đích đưa chúng ta lên để được người khác phục vụ mà là mãnh lực “đè” chúng ta quỳ xuống để phục vụ anh chị em.

*********************

THỨ  TƯ TUẦN II MÙA CHAY

CHÉN ĐẮNG CỦA CHÚA GIÊSU: PHỤC VỤ ANH CHỊ EM CHO ĐẾN CÙNG

(Gr 18:18-20; Mt 20:17-28)

Chúng ta thường đáp lại những hành động không tốt của người khác bằng một hành động không tốt khác. Nếu có người chửi tôi thì tôi chửi lại, hoặc tệ lắm thì tôi cũng nói lời khó nghe hoặc có một ý tưởng không tốt về họ; nếu một người nói xấu tôi thì tôi cũng sẽ nói những lời không hay về họ hoặc ít ra cũng có ý tưởng không hay về họ. Có mấy người trong chúng ta đáp lại điều không tốt bằng một việc tốt. Điều này thật hiếm, nhưng không phải là không thể và không có. Nó chỉ có thể cho những người luôn chạy đến Chúa khi người khác mang lại cho cuộc sống của họ nhiều nước mắt và đau khổ. Đây là trường hợp của Ngôn sứ Giêrêmia mà chúng ta nghe trong bài đọc 1.

Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Giêrêmia thuật lại cho chúng ta câu chuyện về chính ngài khi bị kẻ thù mưu hại. Cấu trúc của bài đọc 1 gồm có hai phần: âm mưu của kẻ thù và phản ứng của Giêrêmia. Kẻ thù của Giêrêmia mưu toan rằng: “Hãy đến đây ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giêrêmia. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Đến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó, và phải hết sức để ý đến mọi lời nó nói” (Gr 18:18). Chúng ta thấy, họ chỉ để ý đến lời nói của ngôn sứ để mưu hại. Tại sao? Vì ngôn sứ là người “nói” nhân danh Thiên Chúa. Như vậy, chính qua “lời nói” mà họ có thể phân biệt được ngôn sứ thật và ngôn sứ giả. Chúng ta thường nghe người ta nói: cái miệng hại cái thân. Một lời nói thiếu suy nghĩ sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng. Nhìn vấn đề từ khía cạnh khác, thì việc bàn mưu tính kế hại Giêrêmia khuyến cáo chúng ta việc đừng tìm cách kéo bè kéo phái để mưu hại người khác khi họ không sống theo “phong cách” của chúng ta.

Đứng trước mưu toan của kẻ thù, phản ứng của Ngôn sứ Giêrêmia là chạy đến “than thở” với Đức Chúa: “Lạy Đức Chúa, xin để ý đến con và nghe những kẻ tố cáo con nói đó. Nào có ai lấy oán đền ơn? Thế mà chúng lại đào hố nhằm làm con mất mạng. Xin Ngài nhớ cho: con đã từng đứng trước nhan Ngài để nói tốt nói hay cho chúng, để ngăn cơn thịnh nộ của Ngài khỏi giáng lên đầu chúng” (Gr 18:19-20). Điều đầu tiên Ngôn sứ Giêrêmia làm khi biết người khác tìm cách hại mình là nghĩ đến Đức Chúa và chạy đến với Ngài. Ngôn sứ chỉ muốn Thiên Chúa là Đấng minh oan cho mình. Còn chúng ta thì sao? Khi biết người khác âm mưu hại chúng ta hoặc khi người khác hại chúng ta, việc đầu tiên chúng ta làm là gì? Và người đầu tiên chúng ta chạy đến là ai? Chỉ những ai chạy đến với Chúa thì mới có những phản ứng đúng đắn khi người khác hại mình hoặc làm cho mình đau khổ.

Bài Tin Mừng hôm nay gồm có bốn phần liên kết với nhau cách chặt chẽ: Lời tiên báo của Chúa Giêsu về cuộc thương khó của Ngài, đối thoại của Chúa Giêsu với Mẹ của Giacôbê và Gioan, phản ứng của mười môn đệ còn lại, và lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ về quyền bính. Chúng ta cùng nhau phân tích từng phần để rút ra những bài học quý giá cho ngày sống.

Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài. Lần thứ nhất xảy ra sau tuyên xưng của Phêrô ở Caesarea Philippi (Mt 16:21-23). Lần thứ hai xảy ra sau biến cố biến hình và sau khi các môn đệ hỏi Ngài về lý do tại sao họ không thể trừ quỷ (Mt 17:22-23). Lần thứ ba xảy ra khi chỉ có Ngài và Nhóm Mười Hai và tất cả đang trên đường lên Giêrusalem. Ngài lặp lại điều mà Ngài đã nói cho họ hai lần: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20:17-19). Điều làm chúng ta ngạc nhiên là sau mỗi lần Ngài tiên báo về cuộc thương khó của Ngài, thì các môn đệ lại hiểu lầm. Lần thứ nhất xảy ra cho Phêrô và ông đã trách móc Chúa Giêsu, lần thứ hai xảy ra cho các môn đệ và các ông tranh luận với nhau ai sẽ là người lớn nhất trong nước trời, và lần thứ ba xảy ra khi hai người con của Dêbêđê đến xin được hai chỗ nhất trong Nước của Ngài [Nước Thiên Chúa]. Chúng ta thấy, cả ba lần Chúa Giêsu nói một điều và các môn đệ hiểu điều khác. Ngài nói về tư tưởng của Thiên Chúa, còn các môn đệ lại hiểu theo tư tưởng của con người. Lý do họ không hiểu được ý Chúa là vì họ chỉ nghĩ đến mình và lợi ích cá nhân. Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta không? Khi chúng ta đặt mình làm trung tâm của mọi sự thì Thiên Chúa không còn là trung tâm. Và khi chúng ta chỉ tập trung vào chính mình và lợi ích cá nhân, thì Thiên Chúa và người khác sẽ không còn chỗ trong con tim và tâm trí của chúng ta. Để biết và hiểu được ý Chúa, hãy dừng đặt mình vào vị trí trung tâm, vị trí của sự quan tâm và ảnh hưởng. Hãy ngừng làm “chúa” của đời mình và để Thiên Chúa làm Chúa của đời mình. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể hiểu tư tưởng của Thiên Chúa.

Giống như những người Do Thái thời đó, các môn đệ cũng mong chờ Đấng Messia đến để giải thoát họ khỏi ách đô hộ của người La mã. Và ai cũng nghĩ Chúa Giêsu là Đấng họ đang mong chờ. Bây giờ là thời gian chín mùi. Ngài đang trên đường lên Giêrusalem để thiết lập vương quyền của Ngài. Biết được điều này, Giacôbê và Gioan nói với mẹ đến xin những chỗ danh dự trong vương quốc của Ngài. Trình thuật của Thánh Mátthêu khác với trình thuật của Thánh Máccô: trong Tin Mừng Thánh Mátthêu thì chính mẹ của Giacôbê và Gioan là người đến xin Chúa Giêsu cho hai con của bà; còn trong Tin Mừng của Thánh Máccô thì chính hai ông đến xin. Chúa Giêsu không từ chối lời thỉnh cầu của họ. Ngài chỉ trình bày trước họ hai thực tế của người môn đệ, những người muốn chia sẻ vinh quang với Ngài: (1) uống chén đắng mà Ngài uống: “Chén của Thầy, các người sẽ uống” và (2) tuân theo thánh ý của Chúa Cha: “còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được” (Mt 20:23). Một điều Chúa Giêsu chắc chắn là chúng ta sẽ chia sẻ trong chén đắng của Ngài nếu chúng ta muốn được Chúa Cha xếp cho một chỗ bên hữu hoặc bên tả Chúa Giêsu.

Phản ứng của mười môn đệ còn lại: “Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó” (Mt 20:24). Mười môn đệ khác dù không đến xin một chỗ bên hữu và bên tả, nhưng phản ứng của họ nói lên rằng họ còn “tham vọng” hơn thế nhưng không có can đảm để nói ra. Phản ứng này cũng là phản ứng của mỗi người chúng ta khi chúng ta biết người khác “phỏng tay trên” của mình. Chúng ta trở nên tức tối với anh chị em của mình. Từ điều này, chúng ta có thể nói rằng: khi thấy người khác thành công hơn mình và chúng ta trở nên tức tối, là chúng ta đang ghen tỵ với họ về điều họ có mà chúng ta không có. Hãy là mình trước mặt Chúa! Đừng cố gắng trở nên hoàn toàn giống người khác [nhất là trong những điều không tốt]. Vì khi làm như thế, chúng ta sẽ đánh mất nét đẹp đặc thù mà Chúa đã ban cho chúng ta.

Đứng trước việc tranh giành chỗ nhất của các môn đệ, Chúa Giêsu dạy họ về quyền bính: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:25-28). Quyền bính không phải là để quy chiếu về mình, nhưng quy chiếu về Thiên Chúa và anh chị em của mình. Người có quyền bính là người phải chết đi hoàn toàn cho chính mình để chỉ sống cho Chúa và cho người khác. Ai muốn được chỗ nhất trong Nước Thiên Chúa sau này và được nhiều người tôn trọng bây giờ, thì hãy phục vụ anh chị em của mình và sẵn sàng hiến mạng sống của mình để mang niềm vui cứu độ đến cho họ.

*********************

THỨ  NĂM TUẦN II MÙA CHAY

SỬ DỤNG CỦA CẢI VẬT CHẤT ĐỂ GIÚP Đ ANH CHỊ EM

(Gr 17:5-10; Lc 16:19-31)

Trong cuộc sống, chúng ta luôn dùng những cặp tương phản để đánh giá về con người: người này tốt, người kia xấu; người này vui, người kia buồn, v.v. Bài đọc 1 hôm nay cũng dùng hình ảnh tương phản để nói lên hai loại người: loại tin vào người đời và loại tin vào Thiên Chúa.

Ngôn sứ Giêrêmia trình bày cho chúng ta về hậu quả của những người tin tưởng ở người đời. Họ là những người đáng nguyền rủa vì lòng dạ xa rời Thiên Chúa. Quả thật, không có gì sai khi tin tưởng ở người khác. Nhưng điều làm chúng ta bị nguyền rủa là “lòng dạ xa rời Thiên Chúa.” Khi làm như thế, chúng ta trở thành “như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người” (Gr 17:5). Những người đặt niềm tin vào người đời, họ chỉ có được những hạnh phúc chóng qua nhất thời. Ngược lại, những người đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân thì họ sẽ như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17:8). Chúng ta thuộc loại người nào trong hai loại trên?

Câu cuối cùng của bài đọc 1 hôm nay là lời cảnh tỉnh cho chúng ta khi tương quan với người khác: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? Ta là Đức Chúa, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm” (Gr 17:9-10). Cho dù không ai biết lòng dạ của chúng ta, nhưng Thiên Chúa biết. Điều này nhắc nhở chúng ta phải sống tốt, làm tốt mọi nơi mọi lúc, dù người khác không nhìn thấy, dù người khác không theo, dù người khác không để ý. Vì Chúa nhìn thấy hết tâm can chúng ta và Ngài sẽ thưởng cho chúng ta theo việc chúng ta làm.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta cách cụ thể kết cục của người tin vào người đời, vào tiền của và người đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Ở đây chúng ta có thể nói là các mối phúc và họa được Thánh Luca trình bày trong chương 6 (câu 20-26) được thực hiện: phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em; nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.” Chúng ta thấy những lời này được áp dụng cho “ông nhà giàu” và Ladarô. Đâu là điều làm cho Ladarô được chúc phúc và đâu là điều làm cho “ông nhà giàu” bị nguyền rủa?

Như chúng ta đã biết, giàu có tự bản chất không phải là điều đáng nguyền rủa, nhưng cách thức sử dụng nó không theo ý định của Thiên Chúa cho mục đích sử dụng của cải mới đáng lên án. Trong bài Tin Mừng, xét về khía cạnh luân lý, chúng ta không tìm thấy chi tiết nào nói rõ là người giàu có làm điều xấu và Ladarô làm điều tốt. Chúng ta cũng nhận ra ở đây điều Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Ngài sau câu chuyện của chàng thanh niên giàu có đến hỏi Ngài làm thế nào để được sự sống đời đời: “Các con ơi, người giàu có và nước Thiên Chúa thật khó biết bao!” Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của chương 16, chương nói về giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sử dụng tiền của. Chương bắt đầu với dụ ngôn người quản gia bất trung, kết thúc với bài Tin Mừng hôm nay và ở giữa là lời giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sử dụng tiền của đúng đắn: “Hãy sử dụng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. … Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16:9-15). Khi đặt đoạn Tin Mừng trong bối cảnh này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về lý do tại sao ông nhà giàu bị nguyền rủa, vì ông không “biết sử dụng của cải bất chính để tạo lấy bạn bè và khi làm như thế ông chỉ biết làm tôi cho tiền của chứ không làm tôi Thiên Chúa.” Còn chúng ta đang làm tôi cho ai?

Thật vậy, điều làm cho ông nhà giàu bị lên án chính là sự vô cảm trước nhu cầu của người thân cận của mình. Ladarô không phải là người xa lạ gì với ông vì ngày nào cũng nằm trước cổng nhà ông. Còn nếu ông không biết Ladarô, tức là ông không đi ra khỏi nhà của mình [ra khỏi cổng], hay đúng hơn là không bao giờ mở cổng. Hành động này mang một ý nghĩa sâu xa hơn: cổng ở đây không đơn giản được hiểu là cổng của nhà ông, nhưng là cổng của con tim, của tâm hồn để đón nhận một người anh em thiếu thốn vào trong con tim của mình, để yêu thương và chăm sóc họ. Chính vì không bao giờ mở cánh cửa của con tim nên ông trở nên vô cảm trước sự đói khát của Ladarô. Điều này khuyến cáo chúng ta về việc vô cảm của chúng ta trước những nhu cầu của anh chị em mình. Chúng ta có thể nói rằng, cuối cuộc đời của mình, chúng ta sẽ bị xét xử theo sự nhạy cảm hoặc vô cảm của con tim trước nhu cầu của anh chị em.

Về phía Ladarô, anh “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc 16:21). Câu này gợi chúng ta nhớ lại câu mà người phụ nữ ngoại giáo nói với Chúa Giêsu khi đến xin Ngài chữa cho con gái của mình được tường thuật lại trong Tin Mừng Thánh Máccô: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con” (7:28). Đức Kitô cho bà “mảnh vụn,” còn người giàu có thì từ chối Ladarô ngay cả những gì đáng bỏ đi. Tuy nhiên, điều làm chúng ta ngạc nhiên là dù bần cùng khốn khổ, nhưng những ghẻ chốc của Ladarô mang lại “một cái gì đó”cho những con chó (x. Lc 16:21). Chúng ta thấy ở đây một sự hoán chuyển tuyệt vời: thay vì chia sẻ mảnh vụn của những con chó, thì Ladarô lại cho những con chó “những mảnh vụn.” Đây là một hành động mang lại phúc lành cho Ladarô: Chính trong sự “bần cùng và khốn khổ” của mình, Ladarô vẫn làm điều tốt. Đừng ngừng làm việc tốt dù chúng ta có rơi vào tình trạng đau khổ và thiếu thốn.

 

*********************

THỨ SÁU TUẦN II MÙA CHAY

HÃY TRAO CHO CHÚA CÁC HOA LỢI CHÚNG TA LÀM RA

(St 37:3-4.12-13a.17b-28; Mt 21:33-43.45-46)

Lời Chúa ngày hôm nay kể về hai câu chuyện của hai người con. Hai hình ảnh hoàn toàn khác nhau: một người là một trong số 12 người con, trong khi người kia là con một. Nhưng cả hai có điểm tương đồng như sau: cả hai người gặp đau khổ vì người khác tạo ra cho mình. Chúng ta thấy ở đây kỳ công Chúa đã thực hiện trong cả hai trường hợp. Hay nói đúng hơn, qua hai câu chuyện, chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa tuyệt hảo như thế nào. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta khi chúng ta phải mang thập giá người khác tạo ra cho mình: Thiên Chúa sẽ biến nước mắt của chúng ta thành niềm vui.

Câu chuyện về Giuse trong bài đọc 1 tiếp tục nói về sự đổ vỡ của tương quan trong gia đình nhân loại. Những tuần trước chúng ta đã chia sẻ với nhau về đổ vỡ trong tương quan vợ chồng của hôn nhân đầu tiên của nhân loại giữa Adam và Eva, về đổ vỡ trong tương quan huynh đệ giữa hai anh em đầu tiên là Cain và Abel. Và hôm nay, chúng ta chứng kiến sự đổ vỡ ngay trong gia đình mà từ đó 12 chi tộc của dân thánh Israel sẽ được sinh ra. Nhìn lại những đổ vỡ này, chúng ta nhận ra rằng: nguồn gốc của đổ vỡ là do ghen tỵ, là do việc không chấp nhận giới hạn của mình nên không muốn người khác hơn mình.

Từ thực tế cuộc sống, chúng ta phải chân nhận rằng khi người khác được quan tâm và yêu thương hơn mình, chúng ta thường có cảm giác khó chịu và nhiều khi chúng ta trở nên tự ti, ghen tỵ và khép kín. Đôi khi chúng ta tỏ ra thái độ không mấy thiện cảm với người kia. Các anh của Giuse thấy cha yêu và quan tâm cậu hơn họ, nên họ “sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu” (St 37:4). Được yêu nhiều và quan tâm hơn không phải là lỗi của Giuse. Lỗi của Giacóp chăng? Những người anh của Giuse có thể nghĩ rằng Giacóp đã không đối xử công bằng với họ. Ông không thương mọi người như nhau và đó là lý do làm cho họ ghen tỵ và là nguyên nhân dẫn họ đến việc đối xử “tàn nhẫn” với Giuse. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng, trong Kinh Thánh, chúng ta thường thấy người con út hoặc trẻ hơn đều được yêu thương và quan tâm hơn (như Abel, Giuse, David, v.v.). Điều này có nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là, hình ảnh người con trẻ đại diện cho sự thiếu trưởng thành nên cần được chăm sóc và quan tâm. Còn những người đã trưởng thành thì không cần đến điều này vì họ đã biết yêu và cảm nhận được mình được yêu. Chúng ta rút ra được điều gì trong chi tiết này? Những người luôn đi tìm sự quan tâm, yêu thương và chú ý của người khác, có thể nói, là những người chưa trưởng thành vì họ chưa biết yêu và chưa cảm nghiệm là họ được yêu. Người trưởng thành là người không ghen tỵ với người khác và cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc khi người khác được yêu và quan tâm hơn mình, vì điều đó cho biết mình đã trưởng thành và biết thế nào là yêu và được yêu.

Điều chúng ta thường thấy trong lịch sử con người là trong sự dữ luôn có sự hiện diện của sự thiện, trong những mưu toan phá huỷ cũng có kế hoạch xây dựng. Chúng ta thấy trong câu chuyện của Giuse có sự hiện hữu của “cha của kẻ nói dối”: các người anh mưu toan giết Giuse và nói dối với Giacóp là cậu bị thú dữ ăn thịt (x. St. 37:20). Chúng ta thấy sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa trong bài đọc 1 hôm nay qua hình ảnh Rưuvên và sau đó là của Giuđa. Chính những “toan tính tốt lành” của họ mà Thiên Chúa đã thực hiện công trình vĩ đại của Ngài là cứu dân Israel khỏi cảnh túng thiếu lương thực trong khi hạn hán. Trong những đắng cay của cuộc đời luôn có sự an ủi dịu ngọt của Thiên Chúa.

Chúng ta thấy phản ứng của Giuse trong câu chuyện thật khác thường: Cậu không chống lại, không nói lời nào. Cậu hoàn toàn thinh lặng. Hình ảnh của Thánh Giuse trong Tân Ước được phản chiếu ở cậu: anh chàng chiêm bao. Điều này chúng ta cũng thấy rõ ràng trong hình ảnh của Thánh Giuse: Chúa luôn báo cho Ngài mọi sự Ngài cần thực hiện qua chiêm bao. Câu chuyện Giuse bị bán sang Aicập sẽ được tái diễn trong Tân Ước với hình ảnh Thánh Giuse đem Chúa Giêsu và Mẹ Maria trốn sang Aicập để lời Ngôn sứ Isaiah được ứng nghiệm. Tuy nhiên, điều chúng ta lưu ý ở đây là thái độ thinh lặng của Giuse trước những sự dữ mà những người anh của cậu làm cho cậu. Hình ảnh thinh lặng này của Giuse được phản chiếu trong hình ảnh của người con trong bài Tin Mừng hôm nay. Không một lời hay một hành động chống cự nào của người con được ghi chép lại. Người con hoàn toàn thinh lặng. Thái độ thinh lặng này nhắc nhở chúng ta hãy bình tĩnh và thinh lặng khi đối diện với thập giá người khác tạo ra cho chúng ta. Nói cách khác, người không biết thinh lặng sẽ không hiểu được ý nghĩa đằng sau những thập giá chúng ta phải vác trong cuộc sống hằng ngày.

Câu chuyện vườn nho và những tá điền gian ác trong bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh những bài giảng dạy sau cùng của Chúa Giêsu ở Giêrusalem. Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở Giêrusalem trước cuộc thương khó của Ngài báo trước sự đến gần của Nước Thiên Chúa. Chi tiết này được phản chiếu trong câu: “gần đến mùa hái nho” (Mt 21:34). Đây là sứ điệp đầu tiên mà Ngài rao giảng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2). Chúng ta thấy hai đề tài về “sám hối” và “Nước Trời” được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai đề tài này luôn đi với nhau không thể tách rời, để nói cho chúng ta rằng: người nào muốn được vào Nước Trời thì phải sám hối, phải thay đổi lối sống, lối suy nghĩ và nhất là phải sinh lợi cho chủ.

Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc sinh lợi cho chủ và trả lại cho chủ những gì thuộc về ông. Nhưng chúng ta thấy thay vì sinh lợi cho chủ thì các tá điền dành lấy cho mình. Chúng ta chọn ba điểm trong bài Tin Mừng hôm nay để suy gẫm về điều Chúa muốn mời gọi chúng ta thực hiện để xứng đáng được vào Nước Trời.

Thứ nhất là hành động của ông chủ: “Có chủ nhà kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa” (Mt 21:33). Hình ảnh vườn nho thường được sử dụng để ám chỉ dân Israel và hôm nay chính là Giáo Hội. Ông chuẩn bị mọi sự sẵn sàng từ bên trong lẫn bên ngoài, không thiếu một điều gì. Và ông trao cho các tá điền trông coi vườn nho của mình mà không can thiệp gì. Ông chỉ đợi đến mùa nho để thu hoa lợi thuộc về ông. Khi các tá điền không trao hoa lợi thuộc về ông, ông vẫn kiên nhẫn cho họ cơ hội. Hình ảnh ông chủ này chính là hình ảnh của Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ. Ngài chuẩn bị mọi sự và trao cho chúng ta toàn bộ “gia tài” của Ngài [đó là con tim có khả năng yêu thương, vì Ngài là tình yêu]. Ngài để chúng ta tự do sử dụng gia tài của Ngài. Ngài kiên nhẫn với chúng ta và cho chúng ta nhiều cơ hội để thay đổi. Ngài chỉ mong chúng ta trao lại cho Ngài những gì thuộc về Ngài. Trước thái độ này của Thiên Chúa, chúng ta có thay đổi không? Đừng để Chúa chờ quá lâu!

Thứ hai là hành động của những tá điền: họ đối xử tệ với những người mà chủ sai đến để thu hoa lợi. Cuối cùng, họ còn giết cả người con duy nhất của ông chủ. Chúng ta biết Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói về định mệnh của các Ngôn Sứ được sai đến cho dân Israel trước Ngài và định mệnh của Ngài là bị bắt, bị “tống ra khỏi vườn nho và giết đi” (Mt 21:39). Họ cứ nghĩ rằng, khi họ giết được người con thì vườn nho thuộc về họ. Họ quên mất một điều là ông chủ vẫn sống và vườn nho là của ông. Chính vì vậy mà “ông sẽ tru diệt bọn chúng và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21:41). Chúng ta nhiều khi cũng giống như những tá điền: chúng ta đối xử tệ bạc với những người Thiên Chúa sai đến để giúp chúng ta như cha mẹ, thầy cô, hoặc những người có trách nhiệm trên chúng ta. Không những thế, chúng ta còn giết chết Chúa Giêsu từng ngày khi chúng ta để cho con tim của mình bị chiếm lấy bởi sự ghen tỵ và hận thù ngay sau khi chúng ta rước Ngài trong thánh lễ; khi chúng ta để cho hành động của mình không phản chiếu tình yêu đầy yêu thương của Ngài. Hãy cẩn thận, đừng để Chúa Giêsu không tìm thấy chỗ trong con tim của chúng ta.

Điểm cuối cùng là câu nói của Chúa Giêsu: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21:42). Trong câu này, chúng ta thấy được sự khác biệt giữa những gì con người có thể làm và những gì Thiên Chúa có thể làm. Nói cách cụ thể, những gì con người loại trừ sẽ trở nên quan trọng trong bàn tay của Thiên Chúa. Đây chính là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Nhìn vào cuộc sống của mình [nhất là những người thánh hiến cho Thiên Chúa], chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước mặt người đời chúng ta không có giá trị gì, nhưng khi hoàn toàn trao cuộc sống của mình vào tay Thiên Chúa, chúng ta trở nên mối phúc cho nhiều người. Điểm này nhắc nhở chúng ta hai điều: thứ nhất là chúng ta đừng thất vọng về chính mình khi người khác cho rằng mình “không được tích sự gì”; hãy đặt trọn vẹn con người của mình vào tay Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy điều kỳ diệu Ngài sẽ thực hiện. Thứ hai là chúng ta tránh thái độ coi thường người khác khi họ dường như “vô dụng.” Họ có thể vô dụng với chúng ta, nhưng hữu dụng trong bàn tay của Thiên Chúa. Tóm lại, hãy biết trân trọng chính mình và người khác với những gì chúng ta có và chúng ta là.

*********************

THỨ BẢY TUẦN II MÙA CHAY

HÃY TRỞ VỀ ĐỂ CẢM NGHIỆM TÌNH YÊU VÔ ĐIỀU KIỆN CỦA CHÚA

(Mk 7:14-15.18-20; Lc 15:1-3.11-32)

Bài đọc 1 nói cho chúng ta về lòng thương vô biên của Thiên Chúa là Mục Tử nhân lành. Điều mang lại cho chúng ta thật nhiều an ủi là Mikha trình bày cho chúng ta một hình ảnh về Thiên Chúa thật giàu lòng thương xót. “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài? Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót chúng ta, tội lỗi chúng ta Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển. Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Giacóp, và tình thương cho Ápraham, như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước” Mk 17:18-20). Những lời này mang lại cho chúng ta sự an ủi và thách đố. An ủi là vì mang lại cho chúng ta sự an tâm vì biết Thiên Chúa “không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa.” Ngài luôn yêu chúng ta vô điều kiện. Nhưng cũng là thách đố là vì khuyến cáo chúng ta về thái độ sống của chúng ta với anh chị em mình. Thông thường, nhiều người trong chúng ta giữ mãi cơn giận với anh chị em mình. Nhìn lên Chúa, chúng ta được mời gọi sống thái độ hiền lành, không giận nhưng giàu tình thương và lòng thành tín.

Ngày hôm qua chúng ta đã nghe tường thuật về dụ ngôn các tá điền gian ác không sinh lợi cho chủ; và chúng ta thấy hình ảnh của một người chủ thật công bình. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta hình ảnh của một người cha thật nhân hậu. Hai hình ảnh này nói về Thiên Chúa, Đấng công bình và nhân hậu, luôn được Giáo Hội sử dụng để nhắc nhở chúng ta trong mùa chay này để chúng ta biết Thiên Chúa dù Ngài rất nhân hậu, nhưng lại công bình, Ngài công bình nhưng rất nhân hậu để chúng ta không rơi vào thái cực của việc quá tin tưởng mà quên mất phần nỗ lực của mình, hoặc quá dựa vào sức mình mà quên tin tưởng vào Chúa.

Hai câu đầu tiên của bài Tin Mừng tạo nên bối cảnh của câu chuyện đặc sắc trong Tin Mừng hôm nay: “Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:1-2). Câu chuyện này chỉ tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Luca.

Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn, một câu chuyện hay một vở kịch gồm có ba vai diễn: người cha, người con cả và người con thứ. Trước đây, chúng ta xem dụ ngôn này là dụ ngôn người con hoang đàng. Nhưng ngày hôm nay, nó được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu vì nhân vật chính trong dụ ngôn không phải là người con út, người thường được xem là người con hoang đàng. Chúng ta cùng nhau phân tích ba vai diễn này để xem chúng ta đang đóng vai nào trong vở kịch đầy yêu thương của Thiên Chúa.

Người con thứ: cậu thường được xem là “người con hoang đàng.” Thật sự, không có gì sai khi cậu đến xin cha chia phần gia tài thuộc về cậu. Điều sai ở đây là cậu bỏ nhà ra đi, đi khỏi vòng tay đầy yêu thương của người cha và gia đình. Trong văn hoá thời đó, bỏ đi khỏi gia đình đồng nghĩa với chết. Điều này giải thích câu nói của người cha với người anh cả: “Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’” (Lc 15:31-32). Cậu sử dụng gia tài của cậu cho những thú vui xác thịt. Khi “xa cơ lỡ vận,” cậu cũng cố gắng tìm cách để sống sót; nhưng cuối cùng, trong bần cùng của mình, cậu nhận ra rằng: không đâu bằng nhà mình và không ai yêu mình bằng người cha nhân hậu của mình. Hành trình trở về của người con thứ cũng chính là hành trình trở về với Thiên Chúa của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng: khi bị rơi vào “vực sâu” của tội lỗi, của cuộc sống xa Thiên Chúa, không ai và không có gì có thể làm chúng ta trở về ngoại trừ ý thức được việc chúng ta được Thiên Chúa yêu cách tuyệt đối và vô điều kiện.

Người con trưởng: cậu đại diện cho những người “vâng mà không phục.” Cậu ở trong nhà, nhưng với thái độ của một người “đầy tớ” chứ không phải là của một người con. Chúng ta thấy điều này trong đối thoại của cậu với người cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè” (Lc 15:29). Cậu là người đặt của cải lên trên tình thân. Cậu xem vật chất quan trọng hơn người em của mình, hơn nhân phẩm của người em. Hệ quả là cậu phủ nhận em của mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15:30). Những điều này dẫn đến thái độ giận dữ và từ chối vào tham dự bàn tiệc để nhận lại người em đã mất, đã chết của mình.

Trước khi phân tích hình ảnh người cha, điều làm chúng ta ngạc nhiên ở hai người con là việc người con thứ cuối cùng là nhân vật chính của bữa tiệc, còn người con trưởng là người được mời vào dự tiệc. Người con thứ bây giờ ở trong nhà, còn người con trưởng thì ở ngoài. Cuối cùng, ai là người con hoang đàng? Người con thứ hay người con trưởng? Đây là câu hỏi cho mỗi người chúng ta! Nhiều khi chúng ta cũng nghĩ tôi thánh thiện và tôi đang ở trong nhà Chúa, còn người anh chị em của chúng ta tội lỗi nên họ sẽ bị ở ngoài. Hãy cẩn thận! Có thể chúng ta đang ở ngoài và anh chị em của chúng ta đang ở trong và dự tiệc với Thiên Chúa.

Người cha: ông sẵn sàng chia gia tài cho con thứ mà không tỏ thái độ khó chịu hoặc tra hỏi gì. Khi người con thứ ra đi, mỗi ngày ông vẫn đứng chờ và mong cậu trở về. Khi người con thứ trở về, ông không quan tâm gì về những của cải người con thứ đã phung phí. Ông chỉ đón nhận cậu về một cách vô điều kiện và phục hồi lại phận làm con của cậu. Chúng ta học được gì nơi người cha? Chúng ta có thể học hai điều chính yếu và quan trọng sau: điều đầu tiên chúng ta học được ở người cha là việc ông luôn trung thành với ơn gọi làm cha của mình và ông trung thành với tình yêu của mình. Nói cách khác, tình yêu của ông dành cho người con thứ [và người con trưởng] không bao giờ thay đổi. Dù hai người con có nhìn ông thế nào, ông vẫn luôn xem chúng là con của ông. Điều thứ hai là người cha luôn ở ngoài để chờ con trở về. Ông ở ngoài để chờ người con thứ; và khi cậu trở về, thì ông lại ra để thuyết phục người con trưởng để vào ngồi chung bàn tiệc với người em của mình. Hình ảnh này là hình ảnh của Thiên Chúa đầy yêu thương của chúng ta: Ngài luôn yêu và chờ đợi chúng ta dù chúng ta có đi xa tình yêu của Ngài.

Cuối cùng, chúng ta kết thúc bài chia sẻ hôm nay với thực tế sau: trở về với Chúa thì dễ hơn trở về với anh chị em của mình [làm hoà với Chúa thì dễ hơn làm hoà với người khác]. Chi tiết này được phản chiếu trong hình ảnh người con trưởng. Bài Tin Mừng kết lửng với việc người cha cố gắng thuyết phục người con trưởng vào nhà và đón nhận em của mình trở về, nhưng không cho chúng ta biết cậu có vào không. Đặt mình vào trong vị trí của người con trưởng, liệu chúng ta có vào không? Nếu Chúa muốn chúng ta ngay bây giờ đón nhận một người anh chị em mà chúng ta thù ghét [hay hờn giận], liệu chúng ta có làm điều đó không? Đừng làm Chúa phải chờ đợi và đau buồn vì sự chia rẽ vì giận hờn ghen ghét giữa chúng ta.