Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày- tuần trước lễ Hiễn Linh

32

NGÀY VI TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

LỚN LÊN TRONG ÂN SỦNG THIÊN CHÚA

(1 Ga 2:12-17; Lc 2:36-40)

Trong bài đọc 1 hôm nay, thánh Gioan nhắc nhở các tín hữu trong cộng đoàn của ngài nhớ rằng họ “được tha tội nhờ danh Đức Giêsu Kitô” (1 Ga 2:12). Khi đã được tha tội, họ đã chiến thắng tử thần và thuộc về Thiên Chúa. Vì vậy, họ được mời gọi yêu mến Thiên Chúa hơn là yêu những gì thuộc về thế gian: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2:15-17). Trong những lời này, Thánh Gioan chỉ rõ rằng khi chúng ta yêu những gì thuộc về thế gian này thì chúng ta không có lòng mến dành cho Thiên Chúa vì chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Thật vậy, khi con tim chúng ta chứa đựng những gì thuộc về thế gian này thì Thiên Chúa không còn chỗ. Kinh nghiệm cuộc sống dạy chúng ta rằng nhiều người chạy theo của cải vật chất và những dục vọng của thế gian, đến khi nhắm mắt xuôi tay thì cũng không mang được gì. Mọi sự ở thế gian này đều chóng tàn và thoảng qua như cơn gió. Chỉ có Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng thuộc về Ngài như tình yêu, sự cảm thông, tha thứ mới vĩnh cửu.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta hình ảnh của một người nữ trong bối cảnh dâng Chúa Giêsu trong đền thờ. Như chúng ta biết trong Tin Mừng của mình, Thánh Luca thường trình bày hình ảnh người nam và người nữ cùng với nhau trong mọi bối cảnh. Hình ảnh của bà Anna đi cùng với ông Simêon. Thánh Luca ám chỉ trong chi tiết này sự kiện là tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người, cả nam lẫn nữ, như nhau. Thánh Luca vẽ lên hình ảnh của bà Anna thật đẹp: “Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa” (Lc 2:36-37). Trong những lời này, chúng ta lưu ý đến ba chi tiết sau: (1) bà Anna đã nhiều tuổi. Theo tư tưởng của người Do Thái, sống lâu là dấu hiệu của sự chúc lành của Thiên Chúa; (2) bà Anna là một bà goá. Trong văn hoá của người Do Thái, những người nữ goá bụa luôn là những người bị đối xử bất công. Vì vậy, họ luôn cậy dựa vào Thiên Chúa như là nguồn nâng đỡ duy nhất của họ. Điều này được diễn tả qua chi tiết thứ ba (3), đó là bà luôn chìm sâu trong đời sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa [ở trong Đền Thờ, là nhà của Thiên Chúa – hay nói cách khác, bà luôn ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa luôn ở trong bà]. Ba công việc chính bà thực hiện để nuôi dưỡng mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa là ăn chay, cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa liên lỉ trong đời sống của mình. Ai trong chúng ta cũng muốn có được mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại không muốn ở trong nhà Chúa hay ở trong Ngài. Học ở bà Anna, chúng ta cần phải trau dồi đời sống cầu nguyện, ăn chay, và thờ phượng Thiên Chúa qua lời ăn tiếng nói cũng như hành động của mình.

Điều thứ hai chúng ta học nơi bà Anna là đời sống tạ ơn: “Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2:38). Vì luôn sống trong Chúa nên bà Anna nhật ra mọi sự là ân sủng mà ân sủng lớn nhất Thiên Chúa ban cho con người là việc Ngài ban chính Con Một của Ngài. Đứng trước món quà lớn lao này, không có thái độ nào tương xứng cho bằng việc tạ ơn Thiên Chúa không ngừng và đồng thời làm chứng cho người khác biết về món quà cao quý đó. Mỗi ngày [mỗi tuần] chúng ta cũng đến với Thánh Thể, thái độ của chúng ta thế nào? Như chúng ta biết, Thánh Thể [Eucharistia] có nghĩa là tạ ơn. Chúng ta tạ ơn Chúa về món quà thật cao trọng, đó chính là chính Đức Giêsu Kitô. Niềm vui nhận được món quà tuyệt hảo nhất này phải được rao truyền cho hết mọi người qua đời sống yêu thương và vui tươi. Mỗi khi đến với Thánh Thể, chúng ta có thái độ thế nào?

Bài Tin Mừng kết với việc tập trung vào hình ảnh Hài Nhi Giêsu: “Khi hai ông bà đã hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành của mình là Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:39-40). Trong những lời này chúng ta lưu ý đến hai điểm sau: (1) Thánh Giuse và Mẹ Maria là những người sống trọn luật Chúa truyền, và (2) Chúa Giêsu lớn lên trong ân sủng và được đầy ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Hai chi tiết này nhắc nhở chúng ta về ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình. Chúng ta cũng được mời gọi sống trọn luật Chúa truyền, đó là luật yêu thương và mỗi ngày lớn lên trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa hầu làm đẹp lòng Ngài hơn là chạy theo những vinh hoa lợi lộc của thế gian.

NGÀY VII TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

TÌNH YÊU NHẬP THỂ

(1 Ga 2:18-21; Ga 1:1-18)

Một trong những nghệ thuật để “giảng dạy” rất được Thánh sử Gioan yêu mến đó là sử dụng hình ảnh tương phản: Ánh sáng-bóng tối, tin-không tin, đón nhận-không đón nhận, v.v. Chúng ta nhận thấy điều này trong bài đọc 1 và Tin Mừng hôm nay. Trong bài đọc 1, Thánh Gioan sử dụng sự tương phản giữa Đức Kitô và “tên phản Kitô,” giữa sự thật và dối trá; còn trong Tin Mừng, thánh nhân sử dụng hình ảnh ánh sáng và bóng tối. Chúng ta thấy thánh nhân muốn trình bày hai thế lực đối nghịch nhau: Đức Kitô là ánh sáng và sự thật đối kháng với “tên phản Kitô” là bóng tối và sự dối trá. Sự đối kháng này chính là yếu tố giúp nhiều học giả Kinh Thánh chỉ ra vấn nạn mà cộng đoàn của Thánh Gioan đang phải đối đầu, đó là, lạc giáo nhị nguyên thuyết (“Gnosticism”). Một trong những điểm của lạc giáo này là tất cả vật chất (nhất là thân xác con người) là xấu, là sự dữ, còn tinh thần hay cái gì thiêng liêng là tốt lành. Chính vì tư tưởng này, họ cho rằng việc Chúa Giêsu nhập thể không thể xảy ra vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng và tốt lành, Ngài không thể mặc lấy xác phàm là xấu xa, tội lỗi.

Tin Mừng hôm nay được trính từ phần dẫn nhập của Tin Mừng Thánh Gioan và câu quan trọng nhất mà Thánh Gioan dùng để chống lại lạc thuyết trên là câu khẳng định: “Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.” (Ga 1:14). Trong phần dẫn nhập gồm 18 câu này, chúng ta thấy rõ ràng, một mặt Thánh Gioan tin nhận việc Ngôi Lời nhập thể, và mặt khác ngài xác quyết rằng việc Ngôi Lời mặc lấy xác phàm không làm mất đi bản tính Thiên Chúa của Ngôi Lời. Để làm điều này, Thánh Gioan đầu tiên chứng minh về sự tiền hữu của Ngôi Lời trong câu đầu tiên của phần dẫn nhập Tin Mừng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Ngôi Lời là Thiên Chúa, thì Ngài vẫn mãi là Thiên Chúa. Nên khi Ngôi lời nhập thể, Ngài hiện diện giữa chúng ta như là “Chúa thật và người thật.” Công đồng Êphêsô (431) dạy rằng: Chúa Giêsu có hai bản tính – bản tính con người và bản tính Thiên Chúa. Còn công đồng Chalcêdon (451) dạy rằng: Hai bản tính của Chúa Giêsu hiệp nhất một cách không thể tách rời trong một ngôi vị [gọi là ngôi hiệp]. Đây là mầu nhiệm mà cộng đoàn của Gioan không thể hiểu thấu và ngay cả chúng ta ngày hôm nay vẫn chỉ đón nhận trên lý thuyết, còn trong cuộc sống thường ngày chúng ta vẫn chưa tin nhận điều này, vì chúng ta đôi khi tách Ngài ra làm hai: Lúc thì muốn Ngài chỉ là Chúa và ở trên cõi cao xanh đừng đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta, còn khi khác thì muốn Ngài chỉ là con người để chúng ta có thể nắm bắt và “sai khiến” theo ý mình. Nói tóm lại, chúng ta chỉ muốn một Đức Kitô phục sinh vinh quang mà không phải qua thập giá.

Việc nhập thể của Đức Kitô là một lời khẳng định về ‘giá trị cao trọng của thân xác’ con người. Nói một cách khác, thân xác không phải là một cái gì xấu xa, tội lỗi hay rào cản cho đời sống thiêng liêng như chúng ta thường nghe hay được dạy. Thân xác của chúng ta là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cor 6:19). Tuy nhiên, chúng ta đã quen với một nền linh đạo “thiêng liêng hoá” mọi sự, chúng ta nghĩ Đức Kitô chỉ có thể được tìm thấy trong những ‘tư tưởng siêu phàm của lý trí,” hay nói theo triết học, Ngài chỉ ở ‘trong thế giới linh tượng’ [của Plato]. Chính vì vậy, chúng ta không thể chấp nhận một Đức Kitô có thể được tìm thấy trong những gì thật là con người, trong những cảm xúc và ‘ngôn ngữ’ của một thân xác được Thiên Chúa chuẩn bị cho. Chính vì lý do đó, chúng ta hiểu tại sao khi Đức Kitô xuất hiện trong thân xác thật mong manh, yếu đuối như chúng ta [chỉ trừ tội lỗi] thì “người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Và ngay cả ngày hôm nay cũng vậy, “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Ga 1:10).

Chúng ta phải thú nhận rằng, thật khó để nhận ra Chúa đang cư ngụ giữa chúng ta và muốn làm cho vinh quang của Ngài chiếu sáng trong ‘thân xác yếu đuối’ của chúng ta. Chúng ta đi tìm Ngài nơi những hệ tư tưởng cao siêu. Chúng ta như Thánh Augustinô, suốt một thời gian dài tìm kiếm Chúa trong những học thuyết triết lý vĩ đại, nhưng hệ quả là thánh nhân đã nếm mùi thất bại ê chề vì những hệ tư tưởng lỗi lạc này không làm cho con tim khao khát tình yêu của ngài yên nghỉ. Và cuối cùng thánh nhân phải thú nhận rằng: “Ngài ở trong con [trong thân xác mong manh và yếu đuối, trong con tim đầy cảm xúc con người] mà con đi tìm Ngài ở bên ngoài. … Ôi vẻ đẹp nguyên thuỷ, con đã yêu Ngài quá muộn!” Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta không nhận ra Chúa đến với chúng ta qua người khác, qua những ‘phận người đầy yếu đuối và tội lỗi,’ hoặc trong những hoàn cảnh không ngờ. Hãy dừng tìm Chúa trong những hệ tư tưởng cao siêu. Ngài đang ngự trong thâm sâu của con tim bạn, trong những con tim đang khao khát một tình yêu đích thật. Khi bạn khám phá khả năng yêu thương vô điều kiện của con tim bạn, bạn sẽ đồng thời tìm ra Chúa. Và khi bạn ngừng tìm Thiên Chúa ở nơi bạn muốn và để cho Ngài tìm bạn ‘nơi bạn đang là,’ bạn sẽ gặp Ngài!

Điều thứ hai chúng ta có thể rút ra từ lời Chúa hôm nay để suy gẫm đó là hình ảnh Gioan sử dụng trong bài đọc 1: Sự tương phản giữa sự thật và dối trá. Chúng ta có thể nói rằng: Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới khuyến khích một ‘nền văn hoá nói dối.’ Chúng ta sợ nói thật vì “sự thật thì mất lòng.” Chúng ta đang sống trong thế giới của kỹ thuật số. Mọi tương quan của chúng ta với nhau thường xảy ra trong thế giới ảo. Những gì người này nói cho người kia không thể kiểm chứng trực tiếp. Mọi sự xảy ra trên ‘màn hình vô cảm,’ chứ không phải trên ‘khuôn mặt có cảm.’ Nên việc nói dối dễ dàng xảy ra hơn là khi nói chuyện trực tiếp. Tuy nhiên, dù có nói dối hàng trăm hoặc ngàn lần, thì chúng ta cũng không thể làm cho sự dối trá trở thành sự thật. Thánh Gioan nói cho chúng ta biết trong bài đọc 1 rằng: “Tên phản Kitô là những người nói dối,” và cha của những kẽ nói dối là Satan. Khi chúng ta nói dối, chúng ta không đứng về phía Thiên Chúa, không đứng về phía sự thật, nhưng đứng về phía sự dối trá: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8:44). Hãy nói và sống trong sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng chúng ta (x. Ga 8:32)!

Điểm cuối cùng chúng ta có thể học đó chính là hình ảnh của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài là một con người thật khiêm nhường và trung thành với công việc làm chứng của mình: “Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: ‘Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:15). Ngài nhận ra rằng: Chúa Giêsu trổi vượt hơn Ngài dù đến sau Ngài. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường như Thánh Gioan Tẩy Giả mới có thể nhận ra Chúa Giêsu và hiểu được mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm của sự tự hạ. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường mới được mạc khải những mầu nhiệm nước trời. Và chỉ có những tâm hồn để cho Đức Kitô sở hữu mới có thể thấy Thiên Chúa vì “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1:18).

CUUỐI TUẦN TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH – Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời

SUY GẪM TÌNH YÊU THIÊN CHÚA TRONG LÒNG

(Ds 6:22-27; Gl 4:4-7; Lc 2:16-21)

Chuyện kể rằng: Có một sinh viên vừa tốt nghiệp thủ khoa đi xin việc. Anh ta nộp đơn ở một công ty nổi tiếng. Anh ta vượt qua vòng phỏng vấn thứ nhất, vòng thứ hai, và cuối cùng với tổng giám đốc. Đến ngày phỏng vấn, anh ta hơi lo lắng và cố gắng đoán trước tất cả các tình huống có thể xảy ra. Khi bước vào phỏng vấn, anh thấy vị tổng giám đốc rất thản nhiên. Ông không hỏi anh ta về bằng cấp, chỉ đơn giản nói:

“Có phải Bố anh trả tiền học phí cho anh không?”

“Không, Mẹ tôi vì Bố tôi qua đời khi tôi mới được ba tuổi.”

“Mẹ anh làm nghề gì?”

“Mẹ tôi làm trong một tiệm giặt ủi.”

“Anh cho tôi xem hai bàn tay của anh.”

Anh thanh niên ngạc nhiên, không biết tổng giám đốc muốn gì, nhưng đưa hai bàn tay của mình về phía tổng giám đốc. Đôi bàn tay của anh ta thật trắng và mịn màng.

“Anh có bao giờ giặt đồ không?”

“Thưa không. Mẹ tôi không bao giờ để tôi giặt.”

“Tối nay, khi mẹ anh về, anh vui lòng cầm lấy đôi bàn tay của Mẹ anh và lau sạch. Ngày mai trở lại đây và tôi sẽ quyết định.”

Tối hôm đó, khi mẹ anh trở về, anh cầm đôi bàn tay của mẹ mà nước mắt tuôn trào, đôi bàn tay của mẹ anh sạm đen và chai cứng vì làm việc để cho đôi bàn tay anh được trắng và mịn màng. Anh lau sạch và hôn lên đôi bàn tay của mẹ, đôi bàn tay đã luôn che chở và dẫn dắt anh từng ngày trong cuộc sống. Với cảm xúc dâng trào, anh nói khẽ vào tai mẹ: “Mẹ ơi, con yêu mẹ thật nhiều. Từ nay con sẽ giặt đồ cho mẹ.”

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bắt đầu năm mới với việc tôn vinh Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đây là một trong bốn tín điều về Mẹ Maria được công bố bởi Công Đồng Êphêsô năm 431. Tại sao Giáo Hội cử hành lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu tiên của năm mới? Giáo Hội bắt đầu năm mới bằng việc tận hiến chúng ta cho Mẹ vì một trong những tình yêu đẹp nhất trên đời là tình yêu của người mẹ. Hơn nữa, mọi sự sống của con người luôn bắt đầu trong cung lòng của người mẹ. Chính vì vậy, tình yêu một con người có thể cảm nghiệm đầu tiên là tình yêu của người mẹ. Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng nhận thấy ngay cả sự sống trên dương thế của Chúa Giêsu cũng bắt đầu với tình yêu của một người mẹ. Chúng ta có thể rút ra bốn điểm trong Lời Chúa hôm nay để làm kim chỉ nam cho năm mới này.

Thứ nhất, trong bài đọc 1 chúng ta tìm thấy ‘công thức’ của lời chúc mừng cho năm mới. Theo kinh nghiệm thường ngày, chúng ta thường chúc cho nhau “an khang-thinh vượng” và “được nhiều điều như ý” trong ngày đầu của năm mới. Tuy nhiên, trong bài đọc 1, Thiên Chúa truyền cho Môsê nói cho con cái Israel biết nội dung để chúc mừng cho nhau: (1) Chúc được Chúa chúc lành và gìn giữ; (2) được Chúa tươi nét mặt nhìn đến và dủ lòng thương; (3) được Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an. Nói cách khác, chúng ta chúc nhau có Chúa trong cuộc đời của mình. Thật vậy, mọi sự trên thế gian này nay còn mai mất, chỉ có Chúa luôn ở với chúng ta vì Ngài là vĩnh cửu. Hãy chúc cho nhau có Chúa trong tâm hồn và trong gia đình năm nay.

Thứ hai, bài đọc hai nói cho chúng ta rằng: Chúa Giêsu đến để chuộc chúng ta khỏi gánh nặng của Lề Luật và biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi Chúa là Áp-ba, Cha ơi! Đây là một ngôn từ được Chúa Giêsu sử dụng mỗi khi Ngài đối thoại với Cha của Ngài. Trong khi đối thoại với Chúa Cha, Chúa Giêsu đưa chúng ta vào trong quỹ đạo của tình yêu giữa Chúa Cha và Ngài. Như thế, chúng ta đã không còn nô lệ của tội lỗi. Ngay từ đầu năm, Giáo Hội nhắc nhở cho chúng ta nhân phẩm cao quý của chúng ta: Chúng không phải là những người nô lệ của tội lỗi và thói hư tật xấu, chúng ta là những người thừa kế. Hỡi những người Kitô hữu, hãy nhớ đến phẩm giá cao quý của mình. Chúng ta không phải là những tạo vật đơn hèn. Chúng ta là những người được chuộc lại bằng máu châu báu của Chúa Giêsu. Đừng làm cho hy tế của Chúa Giêsu trở nên vô nghĩa trong cuộc đời chúng ta.

Thứ ba, chúng ta tập trung vào hành động của Mẹ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hành động của Mẹ gồm được diễn tả trong ba động từ: Mẹ nghe những điều các người chăn chiên “nói về Hài Nhi,” và ghi nhớ những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Điều này cho thấy Mẹ không nghe gì khác ngoài những gì liên quan đến Chúa Giêsu con của Mẹ; Mẹ không giữ gì trong lòng ngoài những gì liên quan đến những gì của Người Con; và Mẹ chỉ suy đi nghĩ lại những gì liên quan đến Con của Mẹ. Nói tóm lại, Chúa Giêsu chính là “nội dung” cuộc sống của Mẹ. Chúa Giêsu là tất cả của Mẹ. Còn chúng ta, chúng ta thích nghe gì? Chúng ta ghi nhớ trong lòng điều gì? Chúng ta có suy đi nghĩ lại những gì Chúa Giêsu nói không? Chúa Giêsu có phải là tất cả của đời sống chúng ta không?

Thứ tư, không ai gặp Chúa Giêsu rồi ra về với khôn mặt buồn bã. Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy hành động của những người chăn chiên cũng được diễn tả với một loạt động từ: Họ hối hả đi, gặp, thấy, kể lại, ra về vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa về những điều họ đã được tai nghe mắt thấy. Các mục đồng, những con người đơn sơ, khi nghe các thiên thần loan báo tin vui của Vị Cứu Tinh, đã vội vã ra đi để gặp, để thấy, để kể lại những kỳ công của Chúa và để rồi ra về với niềm vui và bình an của Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có khát khao được gặp Chúa và kể lại cho Ngài những kỳ công Ngài đã thực hiện trên cuộc đời của chúng ta không? Những người gặp Chúa là những người tràn đầy niềm vui vì Chúa Giêsu muốn niềm vui của Ngài ở trong chúng ta và niềm vui của chúng ta nên trọn vẹn (x. Ga 15:11). Những tâm hồn có Chúa Giêsu ngự trị luôn tôn vinh ca tụng Thiên Chúa với niềm vui bất tận.

THỨ NĂM TRƯỚC LỄ HIỂN LINH

LÀM CHỨNG CHO ĐỨC KI TÔ BẰNG LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM

(1Ga 2:22-28; Ga 1,19-28)

Trong cuộc sống thường ngày, có những người thấy cuộc sống qua nhiều nước mắt và đau thương thì lại muốn rút ngắn cuộc đời của mình. Đây là một mâu thuẫn nội tại bên trong con người thời hiện đại của chúng ta. Khi hạnh phúc chúng ta muốn sống thật lâu để hưởng phúc, còn khi đau khổ thì than trách cả ngày sinh của mình và cả những người đã đưa mình vào trong thế giới như ông Job. Tuy nhiên, trong tận thâm sâu của con người lại chứa đựng “bản năng sinh tồn” hay còn gọi là khát vọng được sống và sống lâu. Thật vậy, ai trong chúng ta cũng muốn sống lâu trăm tuổi! Đó là lời chúc mà chúng ta thường trao cho nhau trong ngày sinh nhật hoặc trong ngày đầu năm. Trong Cựu Ước, người sống lâu để thấy con cái đến mấy đời là người được Chúa chúc lành. Khát vọng sống lâu là động lực giúp con người thực hiện những nghiên cứu y khoa để sáng chế ra những loại thuốc và những phương pháp chữa trị bệnh hữu hiệu để kéo dài sự sống con người. Dù cho khoa học có phát triển đến đâu thì cũng không thể làm cho con người sống mãi! Vậy khát vọng sống mãi, sống muôn đời của con người sẽ bị chôn vùi trong nấm mồ sao?

Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta câu trả lời về vấn nạn khao khát sống muôn đời của con người. Sự sống muôn đời chính là điều Chúa Giêsu hứa ban ngay từ khởi đầu: “Và đây là điều mà chính Đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời” (1Ga 2:25). Như vậy, sự sống muôn đời của chúng ta chỉ tìm thấy nơi Đức Kitô: “Còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:14). Chỉ có những người ở lại trong Đức Kitô, hay đúng hơn, để Đức Kitô ở lại trong họ mới có được sự sống đời đời. Nói một cách khác, con người chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời của mình trong Đức Kitô. Chỉ khi chúng ta “ở lại trong Người, thì khi Người xuất hiện, chúng ta được mạnh dạn, chứ không bị xấu hổ, vì phải xa cách Người trong ngày Người quang lâm” (1Ga 2:18).

Điều thứ hai để chúng ta suy gẫm là thái độ của chúng ta khi làm việc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa Giêsu bằng cách quy chiếu mọi sự về Chúa Giêsu. Ông không nhận cho mình những danh hiệu mà người khác nghĩ ngài sẽ là. Ngay cả những việc vĩ đại ông làm ông cũng quy chiếu về Chúa. Về phần chúng ta, khi được nổi tiếng, được nhiều người chú ý đến, chúng ta cảm thấy hãnh diện và chúng ta muốn mình trở thành trung tâm mọi sự. Chúng ta thường hãnh diện với tài năng của mình nhưng chúng ta quên mất người ban cho chúng ta những tài năng đó. Đôi khi, chúng ta nhận cho mình những gì không thuộc chúng ta. Điều này nhắc nhở cho những người đã thánh hiến đời mình cho Chúa. Khi chúng ta tuyên khấn, chúng ta đã dâng cho Chúa mọi sự, chúng ta không còn sở hữu gì cho chính mình. Vậy mà trong cuộc sống thường ngày, chúng ta từ từ rút lại những gì chúng ta đã dâng cho Chúa. Thật là đáng buồn: Tặng quà cho người khác hôm nay và ngày mai lấy lại!

Điều thứ ba chúng ta rút ra từ bài Tin Mừng là làm sao biết chính mình. Nhiều người trong chúng ta mất nhiều thời gian và tiền của để tìm biết mình là ai, nhất là qua tâm lý học. Chìa khoá để biết chính mình trong Tin Mừng hôm nay là “mối tương quan thâm sâu với Chúa Giêsu.” Chúng ta nhận thấy điều này trong hình ảnh của Thánh Gioan Tẩy Giả, người suốt đời chỉ làm chứng cho Chúa Giêsu và chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu là ai. Bài Tin Mừng ghi lại quá trình biết chính mình của Thánh Gioan Tẩy Giả thật tuyệt vời như sau: Một số người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem đến hỏi:

  • Ông là ai?”
  • “Tôi không phải là Đấng Kitô.”
  • “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?”
  • Không phải.”
  • “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”
  • Không.”
  • “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”
  • “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.”
  • “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?”
  • Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”

Chúng ta thấy tiến trình “biết mình” của Thánh Gioan Tẩy Giả bắt đầu với việc khẳng định những gì ông ta “không phải là,” để cuối cùng dừng lại với những gì “ông ta là.” Và điều “ông ta là” chính là điều Chúa muốn ông và được tiên báo trong sách Ngôn sứ I-sai-a. Thật vậy, những câu hỏi xoay quanh căn tính và công việc của Gioan Tẩy Giả, nhưng ông không trả lời về bản thân mình, mà luôn quy chiếu về Đức Kitô, Đấng mà ông không xứng đáng để cởi quai dép cho Người. Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Điều này cho chúng ta hay rằng: Căn tính và công việc của chúng ta sẽ không có giá trị gì nếu chúng không quy chiếu mọi sự về Đức Kitô và làm chứng cho Ngài. Để biết mình là ai, hãy đến với Chúa, Đấng đã “hình thành và thánh hiến con ngay khi con còn trong bụng mẹ” (Ger 1:5).

THỨ SÁU TRƯỚC LỄ HIỂN LINH

CON CHIÊN XOÁ TỘI TRẦN GIAN

(1 Ga 2: 29 – 3: 6; Ga 1: 29-34)

Một trong những điều Thánh Phao-lô đề cập nhiều trong thư gởi tín hữu Rô-ma là vấn đề công chính trước mặt Chúa hoặc được Chúa làm cho nên công chính. Công chính là gì? Bài đọc 1 cho chúng ta hay rằng: Nếu chúng ta sống công chính thì chúng ta được sinh ra bởi Thiên Chúa (1 Ga 2:29). Chúng ta trở lại với hình ảnh của Thánh Giuse, Đấng được gọi là Đấng Công Chính. Thánh Giuse trở nên công chính vì Ngài luôn lắng nghe và tin điều Thiên Chúa nói với ngài qua thiên thần trong các giấc mơ. Như vậy, hai đặc tính để làm cho một người nên công chính là: lắng nghe và tin vào lời Thiên Chúa. Quả vậy, đức tin là điều làm cho Abraham được nên công chính: “Thật vậy, Kinh Thánh nói gì? Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính. Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy không được kể là ân huệ, mà là nợ. Trái lại người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính” (Rm 4:2-5).

Nếu đọc lời Chúa với lòng tin, chúng ta nhận ra lời Chúa trong bài đọc 1 hôm nay thật an ủi và ấm áp. Thánh Gioan nói về tình yêu Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta trở thành ‘người mà chúng ta không phải là’ và ‘sở hữu những thứ không thuộc về chúng ta’: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người (1 Ga 3:1). Thật tuyệt vời! Nhưng có phải là thế gian không biết chúng ta là con cái Chúa vì họ không biết Người không? Hay thế gian không biết Chúa vì chúng ta không sống đúng ơn gọi là con cái của Ngài? Chúng ta phải thú nhận rằng: Chúng ta không làm cho người khác nhận ra Chúa vì chúng ta không sống đúng với ơn gọi làm con, làm môn đệ của Chúa Giêsu: “Cứ dấu này mà người khác nhận biết anh [chị] em là môn đệ của Thầy là anh [chị] em yêu thương nhau” (Ga 13:35). Đã nhiều lần chúng ta để cho sự ghen ghét, hận thù chiến thắng và bóp chết con tim chúng ta để rồi chúng ta sống trong sự cay đắng và bất an trong thời gian dài hoặc đến lúc nhắm mắt suôi tay. Hãy tha thứ, hãy để tình yêu của Thiên Chúa chiếu sáng trong chúng ta! Hãy là những người con ngoan của Thiên Chúa tình yêu.

Điểm thứ hai trong bài đọc 1 làm chúng ta suy nghĩ là thực tế của việc phạm tội trong tương quan với tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta không thể chối bỏ rằng: Ai trong chúng ta cũng phạm tội. Chúng ta phạm tội vì chúng ta đi xa khỏi tình yêu của Chúa. Thật vậy, càng đến gần Chúa là ánh sáng bao nhiêu thì bóng tối trong cuộc đời của chúng ta bị đẩy lui. Thánh Gioan cho chúng ta hay rằng: “Phàm ai ở lại trong Người [Đức Ki-tô] thì không phạm tội. Còn ai phạm tội thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người” (1 Ga 3:6). Chúng ta tự hào là chúng ta ‘thấy’ và ‘biết’ Chúa Giêsu: Chúng ta ‘thấy’ Ngài khi chúng ta đón nhận Ngài trên bàn tay nhỏ bé của chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể; chúng ta ‘biết’ Ngài qua việc lắng nghe, suy gẫm lời Chúa và học giáo lý [thần học]. Vậy tại sao chúng ta vẫn phạm tội? Vì chúng ta chỉ thấy Ngài với đôi mắt thể xác và biết Ngài qua những tư tưởng cao siêu. Chúng ta chưa thấy và biết Ngài với ánh mắt đức tin và con tim đầy tình yêu. Chỉ có những người yêu nhiều và cảm nghiệm được yêu nhiều mới hiểu lời nói: “Những ai ở trong Đức Ki-tô thì không phạm tội.”

Tư tưởng về ‘tội’ là điểm nối kết hai bài đọc hôm nay. Để giúp chúng ta hiểu hơn về điểm nối kết này, chúng ta cần trở lại với Lời Chúa trong Mùa Vọng và Giáng Sinh. Một trong hai hình ảnh nổi bật trong Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh là Thánh Gioan Tẩy Giả [và Mẹ Maria]. Trong những ngày qua, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta công việc của Thánh Gioan Tẩy Giả: Ông đến chuẩn bị dân để đón Đấng Cứu Thế bằng việc “kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lk 3:3).  Khi Chúa Giêsu xuất hiện thì chỉ cho dân biết: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Chúa Giêsu được nhận ra là Đấng Cứu Thế qua phép rửa. Hay nói cách khác, chính qua phép rửa Chúa Giêsu được tỏ ra cho dân Ít-ra-en là Đấng Cứu Thế. Điều này đưa chúng ta trở về với ngày chúng ta được rửa tội. Trong ngày ấy, chúng ta được Thiên Chúa chiếm lấy làm của riêng Ngài và tẩy rửa chúng ta sạch mọi tỳ ố của tội lỗi. Năm tháng trôi qua, chúng ta dần dần để cho thế gian chiếm lấy chúng ta và chúng ta không còn hoàn toàn thuộc về Chúa. Hãy bắt đầu lại, sống trọn vẹn ơn gọi ‘thánh hiến’ chúng ta lãnh nhận khi rửa tội: Từ bỏ ma quỷ và thuộc trọn về Chúa.

Điểm cuối cùng chúng ta rút ra trong bài Tin Mừng hôm nay là ‘thấy.” ‘Thấy’ là một trong những điều cần thiết trong Tin Mừng Gioan cho những ai muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và của những người muốn làm chứng cho Ngài: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:34). ‘Thấy’ là lời Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đầu tiên khi họ muốn theo Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” các môn đệ hỏi. “Hãy đến và xem” (Ga 1:39). ‘Thấy’ ở trong Tin Mừng của Gioan không chỉ mang nghĩa thể lý, nhưng còn hiểu được ý nghĩa hàm chứa đằng sau các dấu lạ Chúa Giêsu làm. Chúng ta muốn thấy gì trong cuộc sống? Chúng ta thấy nhiều thứ và nhiều người trong ngày sống của chúng ta: Có những thứ, những người làm chúng ta thích thú khi nhìn thấy, nhưng cũng có những thứ hoặc những người làm chúng ta không mấy hạnh phúc. Tuy nhiên, liệu chúng ta có đọc được ý nghĩa [bài học] đằng sau những gì chúng ta thấy trong ngày sống không? Liệu chúng ta có nhìn thấy được ‘bàn tay vô hình’ của Chúa hiện diện trong những gì chúng ta thấy với con mắt thể xác không?

THỨ BẢY TRƯỚC LỄ HIỂN LINH

CHÚNG TA ĐANG TÌM GÌ TRONG CUỘC SỐNG?

(1 Ga 3: 7-10; Ga 1: 35-42)

Như chúng ta đã biết, Thánh sử rất thích dùng hình ảnh tương phản trong Tin Mừng và các thư của mình. Và trong bài đọc 1 hôm nay, hình ảnh tương phản được sử dụng là: Phạm tội-không phạm tội, con cái Thiên Chúa-con cái ma quỷ. Thánh Gioan muốn nhắc nhở cho chúng ta về một thực tế luôn xảy ra trong cuộc đời chúng ta, đó là, chúng ta luôn đứng giữa sự giằng co của hai thế lực: Sự thiện và sự dữ. Sự giằng co này được Thánh Phao-lô diễn tả cách trung thực như sau: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. … Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7:15-20). Khi đứng về phía Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm điều thiện; còn khi để xác thịt chiến thắng, chúng ta sẽ phạm tội. Chúng ta rút ra được điều gì ở điểm này? Theo Thánh Gioan, nếu chúng ta ở trong Thiên Chúa thì chúng ta không phạm tội. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc không phạm tội, chúng ta chỉ mới đạt đến mức “hoàn hảo tối thiểu.” Sự “hoàn hảo tối đa” là: “Hãy đi, bán hết những gì anh có, bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Tôi” (Mc 10:21; Mt 19:21). Để hoàn toàn ở trong Thiên Chúa như Đức Ki-tô chúng ta phải “làm việc thiện” và trở nên giống Đức Ki-tô trong mọi sự.

Trong bài đọc 1, Thánh Gioan tiếp tục khai triển đề tài ‘công chính’ và ‘không phạm tội’ mà chúng ta đã nghe ngày hôm qua. Tuy nhiên, trong bài đọc hôm nay, Thánh Gioan liên kết tội với tư tưởng ‘đi lạc đường,’ tức là, đi theo ma quỷ (1 Ga 3:7-8). Tiếp đến, Ngài nối kết sự công chính với tình yêu. Sống công chính và yêu thương là hai tiêu chuẩn để biết một người thuộc về Thiên Chúa hay không. Như chúng ta đã biết, công chính hệ tại việc nghe và tin vào lời Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta thấy có nhiều người tự hào về việc đi lễ mỗi ngày để nghe lời Chúa, và là người tin Chúa. Nhưng họ lại sống trong hận thù, ghen tỵ, không tha thứ và cảm thông. Khi Thánh Gioan liên kết tư tưởng công chính với tình yêu, hay đúng hơn, đồng hoá sự công chính với đời sống tình yêu, ngài cảnh báo chúng ta về tình trạng nghe lời Chúa, tin vào Chúa mà không sống yêu thương. Tiêu chuẩn để thẩm định một người có nghe lời Chúa hoặc tin Chúa hay không tuỳ thuộc vào lối sống của họ: yêu thương hoặc không yêu thương!

Bài Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta đối diện với thực tế của đời mình với câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1: 38). Trong ngày sống, chúng ta thường bận rộn với nhiều việc và chúng ta thường cho rằng mình đã làm quá nhiều việc và đôi khi cảm thấy thoả mãn và tự hào về những thành quả mà mình đạt được. Nhưng khi nhìn lại, chúng ta tự hỏi: Tôi đang chạy theo cái gì? Khi đi vào sự thinh lặng của tâm hồn và đối diện với Thiên Chúa, chúng ta không khỏi ngậm ngùi tự nhận rằng: Tôi đang chạy theo những gì không quan trọng và bỏ quên những gì quan trọng. Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Con đang tìm gì thế?” Các tông đồ đầu tiên không tìm gì khác ngoài “nơi ở” của Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1:38). Tại sao các tông đồ không tìm gì khác ngoài “chỗ ở” của Chúa Giêsu? Đây là điểm mấu chốt để biết được một trong những đề tài quan trọng của Tin Mừng Thánh Gioan, đó là, đề tài “ở lại.” Điều này chúng ta thấy ngay trong hành động của các tông đồ sau khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu “đến và xem” (Ga 1: 39): “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1:39). Trong câu này có một điểm cần chú ý nhất: Các môn đệ đầu tiên không ở lại với ai khác ngoài Chúa Giêsu. Như vậy, “ở lại với Chúa Giêsu” quyết định ơn gọi làm môn đệ của những ai muốn theo Chúa. Các môn đệ ‘tìm chổ ở’ của Chúa Giêsu, nhưng ‘không ở lại trong chỗ ở,’ mà ‘ở lại với Chúa Giêsu.’ Nói một cách cụ thể, ‘nơi ở’ không làm nên người môn đệ của Chúa Giêsu, vì “con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chổ gối đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58). Chỉ có ‘ở lại với Chúa Giêsu’ mới làm nên người môn đệ.

Điểm kế tiếp mà bài Tin Mừn gợi cho chúng ta là việc khẳng định rằng: Chỉ có người môn đệ ‘ở lại với Chúa Giêsu’ mới có khả năng giới thiệu Chúa cho người khác cách thuyết phục và đem họ đến với Chúa. Chúng ta thấy điều này nơi hình ảnh của ông An-rê. Sau khi ở với Chúa Giêsu, ông đến gặp em mình và nói cho em mình về Chúa Giêsu. Điều làm chúng ta ngạc nhiên ở đây là việc ông chỉ mới ở với Chúa Giêsu một ngày, thời gian rất ngắn, nhưng ông ta biết được căn tính của Chúa Giêsu: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga 1:41). Danh hiệu này chính là danh hiệu mà sau này Phê-rô sẽ đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Còn anh em, anh em gọi Thầy là ai?” (Mt 16:16; Mc 8:29). Điều này làm cho chúng ta ý thức rằng: Chỉ những ai ở lại với Chúa mới có thể biết Chúa Giêsu là ai để giới thiệu cho người khác. Chúng ta không thể nói cho người khác về Đấng chúng ta không biết và không yêu.

Điểm cuối cùng cho chúng ta suy gẫm hôm nay là mẫu gương của Thánh Gioan Tẩy Giả. Trong thực tế thường ngày, khi thấy một ai đó hơn mình chúng ta cũng có tí ghen tỵ và ‘ước muốn’ hơn họ. Nếu có một ai đó hơn mình, liệu chúng ta có can đảm để cho những người thuộc về chúng ta đi theo người đó không? Chúng ta luôn có khuynh hướng giữ lại cho mình những thứ và những người mà mình cảm thấy gần gũi hoặc mang lại cho mình sự an toàn và vui vẻ. Hơn nữa, chúng ta phải đồng ý rằng: Bỏ đi một thứ gì thì dễ hơn bỏ đi một người mà mình đã gắn bó. Chúng ta thấy ở Thánh Gioan Tẩy Giả một sự thanh thoát không chỉ trong tương quan với sự vật, mà còn cả trong tương quan với những người đã theo ngài. Ngài không giữ lại cho chính mình cái gì, dù là môn đệ của mình. Tất cả đều dành cho Chúa Giêsu. Như vậy, Thánh Gioan Tẩy Giả dạy cho chúng ta rằng: Đừng để một tương quan với con người nào ngăn cản chúng ta đến với Chúa và trở thành môn đệ của Ngài. Những tương quan không giúp người khác đến với Chúa và gần Chúa là những tương quan mang tính con người!

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB