Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Tuần 5 Mùa Chay
Lm. Ngọc Dũng, SDB
THỨ HAI TUẦN V MÙA CHAY
ĐỪNG KẾT TỘI ANH CHỊ EM MÌNH!
(Đn 13:1-9.15-17.19-30.33-62; Ga 8:1-11)
Mỗi khi gặp khó khăn và không được ai hiểu, chúng ta có chạy đến với Chúa không? Bài đọc 1 hôm nay kể cho chúng ta nghe về câu chuyện rất cảm động của bà Susana, một người không chỉ đẹp bên ngoài, nhưng còn đẹp cả bên trong: “bà rất xinh đẹp và kính sợ Chúa” (Đn 13:2). Câu chuyện của bà là câu chuyện của những người bị tố cáo cách bất công và không thể biện minh cho chính mình. Nhưng Thiên Chúa thấu hiểu tâm can con người từng gang tấc. Ngài sẽ là người minh oan cho những người bị tố cáo cách bất công. Bà Susana dạy chúng ta những điều sau đây khi đối diện với những tố cáo bất công hoặc bị hiểu lầm trong đời sống gia đình hay cộng đoàn: (1) thinh lặng; (2) sợ làm mất lòng Thiên Chúa hơn là sợ làm mất lòng người đời; (3) tin cậy vào Thiên Chúa, Đấng sẽ minh oan cho mình. Từ gương sáng của bà Susana, chúng ta có thể rút ra hai điều sau để suy gẫm:
Thứ nhất, thà làm mất lòng người đời hơn là làm mất lòng Chúa: “Bà Susanna thở dài não nuột và nói: ‘Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!’ (Đn 13:22-23). Nhiều lần trong cuộc sống, vì tính cả nể nên chúng ta sợ làm mất lòng người khác, nhất là những người mà chúng ta mang ơn, hơn là sợ làm mất lòng Thiên Chúa. Gương sáng của bà Susana nhắc nhở chúng ta về việc phải sợ ai: sợ người chỉ giết chết thân xác chúng ta hay Đấng có thể ném cả hồn và xác vào lửa không bao giờ tắt.
Thứ hai, hãy thinh lặng và mở lòng ra với Thiên Chúa, Đấng sẽ minh oan cho chúng ta: “Nhưng bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: ‘Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con’ (Đn 13:42-43). Chúng ta thấy trong bài đọc 1, Thiên Chúa đã nghe lời van xin của bà Susana và sai Đanien đến minh oan cho bà. Chúng ta cũng sẽ thấy Thiên Chúa dùng mọi hình thức khác nhau để giải thoát những tâm hồn tin cậy vào Ngài. Hãy giữ thái độ bình thản và trông cậy vào Thiên Chúa dù chung quanh bạn không còn ai hiểu bạn.
Theo các học giả Kinh Thánh, câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay được thêm vào Tin Mừng Thánh Gioan vào thế kỷ thứ 3. Mặc dù câu chuyện lấp đầy khoảng trống bằng việc cung cấp một trình thuật trước Ga 8:12-59, nó không chứa đựng đặc tính nào của thần học và lối viết của Thánh Gioan. Người chép đặt câu chuyện vào đây có thể nghĩ rằng câu chuyện làm sáng tỏ điều Chúa Giêsu nói trong Ga 8:15, “Tôi không phán xét bất kỳ ai,” và 8:46, “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi?” Trong câu chuyện, chúng ta thấy những người chống đối Chúa Giêsu đặt một cái bẫy mà Chúa Giêsu phải tránh khỏi bằng một hành động hay lời nói khôn ngoan. Bối cảnh của câu chuyện giả định việc ‘giảng dậy thường ngày trong Đền Thờ” liên kết với sứ vụ ở Giêrusalem của Chúa Giêsu trong Lc 20:1; 21:1,37; 22:53: “Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ” (Ga 11:2). Câu chuyện nói về việc Chúa Giêsu tha thứ cho một người phụ nữ tội lỗi. Đề tài này phản chiếu đề tài xuất hiện trong truyền thống đặc biệt của Thánh Luca. Để rút ra bài học cho ngày sống của mình, chúng ta có thể suy gẫm những điểm sau:
Thứ nhất, thái độ của các kinh sư và người Pharisêu: “Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (Ga 11:3-6). Các kinh sư và người Pharisêu sử dụng người phụ nữ như là một phương tiện, một cái bẫy để thử và tấn công Chúa Giêsu. Nói cách khác, đối tượng tấn công của họ là Chúa Giêsu chứ không phải là người phụ nữ ngoại tình. Đây cũng chính là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Nhiều lần chúng ta cũng dùng người khác như phương tiện để đạt được điều mình mong muốn. Chúng ta không đối xử với họ như những chủ thể cần được tôn trọng như chúng ta, nhưng như những ‘con vật thiêu thân,’ những con người tội lỗi đáng bị lên án. Chi tiết này mời gọi chúng ta xem xét lại thái độ sống của mình với Chúa và anh chị em chung quanh.
Thứ hai, thái độ của Chúa Giêsu với các kinh sư và người Pharisêu: “Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: ‘Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.’ Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi (Ga 11:6-9). Chúng ta thấy dù hiểu rõ các kinh sư và người Pharisêu tìm cách thử và tố cáo Ngài, Chúa Giêsu rất bình thản, không vội vàng. Ngài sử dụng ‘chiến thuật’ hành động – lời nói – hành động để trả lời câu hỏi của các kinh sư. Trong cấu trúc này, chúng ta thấy kiểu ‘bánh mì kẹp,’ đó là hai hành động giống nhau, đó là cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Đây chính là hình ảnh của sự khiêm nhường, thống hối. Còn cái kẹp giữa quan trọng nhất chính là lời nói. Chính lời nói của Ngài đã đưa thính giả của Ngài đi sâu vào trong tim mình và mang lại nơi họ một sự biến đổi tận căn. Ở đây, điểm đáng lưu ý là những người đến với Chúa Giêsu có sự thay đổi sau khi gặp Ngài: họ không còn lên án người phụ nữ ngoại tình. Điều này xảy ra vì qua hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã làm cho họ nhận ra họ cũng là những tội nhân như người phụ nữ, là những người cần được tha thứ. Đây cũng chính là lời mời gọi cho mỗi người trong chúng ta. Tất cả chúng ta là tội nhân. Hãy kiên nhẫn với nhau, đừng xét đoán và lên án người khác vì tất cả chúng ta đều cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa.
Thứ ba, thái độ của Chúa Giêsu với người phụ nữ: “Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: ‘Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?’ Người đàn bà đáp: ‘Thưa ông, không có ai cả.’ Đức Giêsu nói: ‘Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 11:9-11). Chúa Giêsu tỏ thái độ bao dung với người phụ nữ vì Ngài biết thân phận yếu đuối tội lỗi của con người. Ngài không lên án chị, nhưng nhìn chị với ánh mắt cảm thông, tha thứ và yêu thương. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng kiên định trong việc mời gọi chị phải thay đổi lối sống của mình, không trở về lối sống cũ. Chúa Giêsu cũng yêu thương chúng ta như yêu thương người phụ nữ ngoại tình. Ngài cũng mời gọi chúng ta sau khi trở về với Ngài thì đừng phạm tội nữa. Chúng ta chỉ làm được điều này khi chúng ta không tách mình ra khỏi Chúa Giêsu.
***************
THỨ BA – Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Maria
LẮNG NGHE VÀ ĐEM LỜI CHÚA RA THỰC HÀNH
(2 Sm 7:4-5a.12-14a.16; Rm 4:13.16-18.22; Mt 1:16.18-21.24a)
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Trong phụng vụ của Giáo Hội, Thánh Giuse được tưởng nhớ hai lần trong năm phụng vụ: lễ Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria mà chúng ta cử hành hôm nay và lễ Thánh Giuse Thợ (mồng 1 tháng 5). Tuy nhiên, theo lòng đạo đức bình dân, chúng ta dành tháng 3 để tưởng nhớ Thánh Giuse cách đặc biệt và nhiều nơi tưởng nhớ Thánh Giuse vào mỗi ngày thứ 4 trong tuần.
Tại sao chúng ta lại có lễ mừng kính Thánh Giuse hôm nay? Như chúng ta biết, thường lễ các thánh được mừng vào ngày qua đời, được coi như ngày sinh (dies natalis) vào cõi sống trường cửu. Thế nhưng, đối với thánh Giuse cũng như nhiều thánh thời cổ, thì chúng ta không biết ngày qua đời của họ. Vì thế các ngày lễ thường được ấn định dựa theo một truyền thống địa phương nào đó. Riêng đối với Thánh Giuse, chúng ta nên ghi nhận một điểm quan trọng. Trong khi lễ kính các thánh tử đạo đã xuất hiện từ những thế kỷ đầu tiên, tiếp đến là các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria từ thế kỷ IV và các thánh tu hành, thì trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất, không nơi nào mừng lễ kính Thánh Giuse. Quả thật Thánh Giuse là một con người thầm lặng, lúc còn sống cũng như sau khi đã qua đời. Mãi đến thế kỷ XIV, lễ kính Thánh Giuse mới được bắt đầu cử hành trong các dòng hành khất, chẳng hạn Dòng Tôi tớ Đức Mẹ (năm 1324), Dòng Phan sinh (năm 1339). Sang thế kỷ XV, lễ kính Thánh Giuse mới được phổ biến rộng rãi hơn. Năm 1467, giáo phận Milano (Italia) ấn định lễ Thánh Giuse vào ngày 20 tháng 3, và chuyển sang ngày 19 tháng 3 từ năm 1509. Phải chờ tới cuộc cải tổ phụng vụ sau công đồng Trentô, do đức Piô V thì lễ Thánh Giuse mới được ghi vào lịch phổ quát của Giáo hội (1568-1570). Lễ được mừng vào ngày 19 tháng 3, và trở thành lễ trọng từ năm 1621, dưới thời đức Grêgôriô XV.
Như chúng ta đã trình bày, Thánh Giuse là con người âm thầm khi còn sống cũng như sau khi đã qua đời. Điều này được chứng minh qua sự kiện là Thánh Giuse được đề cập rất ít trong Tin Mừng. Ngài chỉ xuất hiện vào thời thơ ấu của Chúa Giêsu và không một lời nào của Ngài được ghi lại trong Kinh Thánh. Ngài được xem là “cha nuôi” của Chúa Giêsu và là “người công chính.” Hôm nay mừng kính trọng thể vị “Thánh Cả” trong Giáo Hội, chúng ta muốn học gì ở Ngài? Chúng ta hãy để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta.
Bài đọc 1 nói về lời sấm của Nathan. Trong lời sấm này, Nathan nói cho Vua Đavít về lời hứa của Đức Chúa cho ông và con cháu của ông: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền” (2 Sm 7:12). Trong bối cảnh gần, lời sấm nói về Solomon, nhưng trong bối cảnh xa, nó tiên báo về Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ làm cho vương quyền và ngai vàng của Vua Đavít được củng cố và bền vững đến muôn đời. Vai trò của Thánh Giuse ở đâu trong lời sấm này? Ngài là một người thuộc “dòng dõi của Vua Đavít,” là một “mắt xích” trong chuỗi mắt xích để chuẩn bị cho Đức Kitô “Con Vua Đavít” (x. Mc 10:48; Mt 15:22). Điều Thánh Giuse mang lại cho Chúa Giêsu chính là danh hiệu và vương quyền của Vua Đavít. Chúng ta tìm thấy điều này trong gia phả của Chúa Giêsu được trình thuật trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (Mt 1:1-17) và Luca (3:23-38). Thật vậy, Thánh Giuse đã trao cho Chúa Giêsu tất cả “danh hiệu và vinh quang của mình.” Hay nói đúng hơn, là Ngài đã trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì Ngài có và Ngài là. Còn chúng ta thì thế nào? Chúng ta (nhất là những người thánh hiến cho Thiên Chúa) có sẵn sàng dâng cho Chúa tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là không? Hay chúng ta còn giữ lại cho mình “vinh quang và danh dự” thuộc về Ngài?
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói về đức tin của Ápraham. Chính đức tin này đã làm cho ông trở nên công chính. Chúng ta thấy đức tin của ông làm cho ông hoàn toàn trông cậy khi không còn gì để trông cậy (x. Rm 4:18). Nói cách khác, ông đã vững tin và trông cậy khi không còn lý do con người nào có thể thuyết phục ông để tin, vì như chúng ta đã biết, ông đã già và vợ ông đã cao niên thì làm sao mà có thể trở nên tổ phụ của nhiều dân tộc (x. St 18:9-13). Giáo Hội chọn bài đọc này để nói đến Thánh Giuse, người cũng có niềm tin son sắt như Ápraham và cũng chính đức tin đó đã làm cho Ngài được kể là người công chính. Ngài đã tin khi không còn lý do con người để tin vào việc thụ thai đồng trinh của Đức Trinh Nữ Maria. Học ở gương Thánh Giuse, chúng ta phải vững tin và trông cậy, nhất là khi chúng ta không thể tìm thấy một lời giải thích hợp lý nào của con người hoặc không còn lý do con người nào để tin và trông cậy khi những đau khổ và thập giá xảy ra trong cuộc đời của chúng ta. Để được như thế, chúng ta phải luôn chìm đắm trong thinh lặng cầu nguyện. Đây là điểm thứ ba mà chúng ta sẽ học nơi Thánh Giuse trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay là nền tảng Kinh Thánh của lễ mừng hôm nay: “Ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1:16). Nhưng chuyện làm “bạn trăm năm” của Đức Trinh Nữ Maria xảy ra như thế nào đã tạo nên bối cảnh của đoạn Tin Mừng được gọi là “truyền tin cho Thánh Giuse.”
Như chúng ta đã trình bày, việc mang thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần vượt lên trên trí hiểu của con người (Mt 1:18). Không có một lý do hay luận chứng của con người có thể giải thích thoả đáng việc này. Đứng trước sự kiện này, Thánh Giuse không phản ứng như chúng ta thường làm, là có thể tức giận hoặc bêu xấu người khác. Phản ứng đầu tiên của ngài cũng rất tự nhiên và rất con người, đó là, sẽ rời bỏ Mẹ Maria. Tuy nhiên, Thánh Mátthêu cho chúng ta hay, vì là người công chính, dù muốn rời bỏ Mẹ Maria, Thánh Giuse cũng làm việc đó cách kín đáo để giữ danh dự cho Mẹ Maria và đồng thời mang tiếng xấu về mình là người “chạy trốn trách nhiệm.” Chúng ta có thể nói rằng: Thánh Giuse là người luôn “chịu thiệt thòi” về mình và không tố cáo những lỗi lầm của người khác. Thái độ sống này rất cần thiết cho mỗi người chúng ta, những người sống trong một thế giới mà mọi người có khuynh hướng chỉ tìm kiếm lợi ích cho chính mình, cho gia đình, cho nhóm hoặc cho quốc gia của mình, đến độ tố cáo người khác không thương tiếc khi lợi ích của mình bị đụng chạm đến. Hãy học nơi Thánh Giuse: luôn nghĩ tốt và làm tốt cho người khác. Luôn nghĩ đến người khác và lợi ích của họ trước khi nghĩ đến mình và lợi ích của mình.
Để luôn nghĩ tốt và làm tốt cho người khác, chúng ta cần học nơi Thánh Giuse thái độ lắng nghe. Như chúng ta biết, Thánh Giuse dường như không nói vì không có lời nào của Ngài được ghi lại. Ngài là con người của lắng nghe và hành động. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, Thánh Giuse lắng nghe ngay cả trong giấc ngủ; và khi thức giấc, Ngài liền làm những điều Thiên Chúa nói qua sứ thần trong giấc mơ (Mt 1: 21). Ngài là mẫu gương của những người lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Ngài luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng, ngay cả khi ở trong bóng đêm của đức tin. Chính thái độ thinh lặng tìm kiếm này mà Thánh Giuse đã nhận ra được thánh ý Thiên Chúa, là muốn Ngài đón nhận “Ngôi Lời” và Mẹ của Ngôi Lời về nhà mình và thánh nhân đã không ngại làm điều đó (Mt 1:20). Thật vậy, chỉ những người yêu mến thinh lặng để tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa mới nhận ra được ý Ngài và đem ra thực hành. Người không biết lắng nghe, sẽ không thể nghe lời Thiên Chúa qua Ngôi Lời và như thế sẽ không có khả năng để đón nhận Thiên Chúa và người khác vào trong cuộc đời của mình.
***************
THỨ TƯ TUẦN V MÙA CHAY
HÃY SỐNG NGAY LÀNH ĐỂ THIÊN CHÚA ĐƯỢC TÔN VINH QUA BẠN
(Đn 3:14-20.24-25.28; Ga 8:31-42)
Câu chuyện về ba thanh niên trong bài đọc 1 hôm nay đáng cho chúng ta học hỏi. Họ là những người đứng vững trong đức tin của mình dù cho phải thiệt thân. Điều làm chúng ta ngạc nhiên và bị thách đố là câu trả lời của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô với vua Na-bu-cô-đô-nô-xo [ước gì câu trả lời của họ cũng là của mỗi người chúng ta khi chúng ta chọn lựa giữa tôn thờ Thiên Chúa hay ngẫu tượng tiền tài và danh vọng thế gian]:
Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo: “Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, các ngươi không phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, có đúng như vậy không? Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng ta đã làm không? Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?” (Đn 14-15).
Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!” (Đn 3:16-18).
Nếu ở trong trường hợp của ba thanh niên này, chúng ta có kiên định trong đức tin của mình vào Thiên Chúa như họ không? Nói cách khác, chúng ta có đứng vững trong đức tin nếu chúng ta nghi ngờ không biết Thiên Chúa có giải thoát mình khỏi khó khăn và đau khổ không? Chính đời sống kiên định trong đức tin của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô mà những người không tin vào Thiên Chúa phải thốt lên những lời tôn vinh Ngài: “Chúc tụng Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ” (Đn 3:28). Cũng vậy, chính cuộc sống trung thành với Thiên Chúa của chúng ta dù phải đối diện với khó khăn và thử thách, người khác sẽ nhận ra vinh quang và sức mạnh của Thiên Chúa đang tỏ hiện trong cuộc đời của chúng ta. Những người kiên định trong đức tin vào Thiên Chúa và không tôn thờ ngẫu tượng là những người tự do nhất.
Chúng ta là những người tự do hay nô lệ? Tự do là điều ai trong chúng ta cũng mong muốn. Ngay cả những người sống trong đời sống thánh hiến, những người đã khấn lời khấn vâng phục cũng chạy theo “phong trào đòi thêm tự do.” Nhiều người trong chúng ta hiểu tự do là không bị áp lực bên trong [bên trên] hoặc bên ngoài nào can thiệp vào những gì mình muốn có và muốn làm hoặc muốn là. Có hai loại tự do: tự do khỏi và tự do cho. Nhiều khi chúng ta có “tự do khỏi,” nhưng chúng ta lại không có “tự do cho.” Ví dụ, chúng ta có thể có “tự do khỏi” kiểm soát của người khác, nhưng điều đó không bảo đảm là chúng ta có “tự do cho điều tốt.” Đây chính là bối cảnh để giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta đâu là người mang lại cho chúng ta tự do đích thật: Tự do đích thật là tự do “khỏi tội” để rồi được “tự do sống cho Thiên Chúa và tha nhân.” Loại tự do này chỉ có được khi chúng ta đến với Chúa Giêsu, Đấng là sự thật: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32). Chúng ta chỉ biết sự thật khi chúng ta ở lại trong lời của Chúa Giêsu. Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết đâu là dấu hiệu để biết được một người là môn đệ của Chúa Giêsu, đó là ở lại trong lời của Ngài: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi” (Ga 8:31). Việc “ở lại” trong Tin Mừng của Thánh Gioan không đơn giản là lắng nghe, nhưng còn là “thấy,” “chạm đến” [cảm nếm] và cuối cùng là “công bố.” Theo cách nhìn này, “ở lại” là hành trình nội tâm hoá và công bố những gì mình đã nghe, đã thấy, đã cảm nghiệm trong tình yêu của Thiên Chúa. Theo các học giả Kinh Thánh, ý tưởng “ở lại trong lời của Ta” (x. Ga 6:56b; 14:21, 23-24; 15:4-10) xuất hiện trong bài Tin Mừng hôm nay là yếu tố quan trọng để giúp chúng ta biết hoàn cảnh của cộng đoàn Thánh Gioan trong thời gian đó. Câu “Chúa Giêsu nói với những người Do Thái tin Ngài” cho chúng ta hiểu rằng tác giả của Tin Mừng đang nghĩ về những Kitô hữu người Do Thái trong thời của tác giả phải đối diện với chọn lựa giữa việc “ở lại” như những người môn đệ của Chúa Giêsu hoặc từ bỏ như “những môn đệ” của Môsê (x. 9:27-28). Trong ngày sống, chúng ta cũng thường đối diện với những chọn lựa: làm môn đệ của Chúa Giêsu hay làm môn đệ của thế gian, làm theo ý Chúa hay làm theo ý của riêng mình. Chúng ta sẽ chọn gì khi chúng ta đối diện với những chọn lựa như thế?
Một điểm khác chúng ta có thể suy gẫm trong ngày sống là việc Chúa Giêsu liên kết sự thật và tự do: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32). Sống trong thế giới mà sự thật luôn bị bóp méo và bị giết chết, lời khẳng định này của Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta về việc phải luôn nói thật và sống thật nếu chúng ta muốn có được tự do đích thật. Ai trong chúng ta cũng phải công nhận rằng, nói thật và sống thật không phải là điều dễ dàng. Thật vậy, chúng ta cũng thường để cho sự dối trá chiến thắng chúng ta. Đôi khi chúng ta sợ mất mặt, sợ xấu hổ nên chúng ta không nói thật và sống thật. Không những thế, chúng ta còn biện minh cho việc không nói thật [nói dối] của chúng ta: “việc nói dối của mình không hại đến ai” hay “việc nói dối của mình bảo vệ được hạnh phúc cho gia đình [cộng đoàn].” Khi làm như thế, tức là chúng ta không sống theo sự thật, chúng ta đã làm nô lệ cho tội lỗi: “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8:34-35). Hãy dừng làm nô lệ cho tội! Hãy sống trong sự thật để được Chúa Giêsu giải thoát hầu sống một đời sống tự do cho yêu thương và tha thứ.
Điểm cuối cùng trong bài Tin Mừng đáng chúng ta suy gẫm là sự thay đổi thái độ của những người Do Thái “tin vào Chúa Giêsu.” Thánh Gioan dùng hình ảnh tương phản của “ở lại trong lời Tôi” (Ga 8:31) và “không ở lại trong lời Tôi” (x. Ga 8:37) để nói lên thay đổi này. Thái độ của người Do Thái thay đổi từ thiện cảm, tin vào Chúa Giêsu thành chống đối và tìm cách giết Ngài (x. Ga 31-39). Điều này cũng thường xảy ra trong ngày sống của chúng ta: chúng ta gần gũi và có thiện cảm với Chúa Giêsu vào ban sáng, nhưng ban chiều chúng ta lại xa lánh và giết chết Ngài với những tội lỗi của mình. Đây là lời mời gọi chúng ta nỗ lực luyện tập để có được một thái độ kiên định và trung thành trong lối sống yêu thương và phục vụ của mình. Nói cách khác, là luyện tập để sở hữu một “cá tính trước sau như một” trong đời sống yêu thương, cảm thông và tha thứ.
***************
THỨ NĂM TUẦN V MÙA CHAY
TRƯỚC KHI ÁPRAHAM HIỆN HỮU, CHÚA GIÊSU ĐÃ HIỆN HỮU
(St 17:3-9; Ga 8:51-59)
Hai bài đọc lời Chúa hôm nay tập trung vào hình ảnh của Ápraham. Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta việc Thiên Chúa đổi tên Ápram thành Ápraham khi lập giao ước với ông: “Phần Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc. 5 Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (St 17:4). Trong Kinh Thánh, việc đổi tên mang ý nghĩa rất quan trọng: nó nói đến một sự cắt đứt hoàn toàn về tương quan xác thịt để hoàn toàn thiết lập một tương quan mới với Thiên Chúa và để nói lên việc không còn thuộc về gia đình nhân loại, nhưng thuộc về Thiên Chúa và gia đình thiêng liêng của Ngài; nó cũng ám chỉ sứ mệnh mà Thiên Chúa kêu gọi người đó chia sẻ với Ngài.
Bài đọc 1 cũng trình bày cho chúng ta những điều kiện của bản giao ước giữa Thiên Chúa và Ápraham. Đây là giao ước mà Thiên Chúa ký kết muôn đời với dân Israel. Nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng đây là bản hợp đồng được ký kết giữa hai đối tác “không tương xứng”: một bên là Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, một bên là con người, tạo vật; một bên là vô hạn, một bên là hữu hạn; một bên luôn trung thành và một bên luôn sống bất trung. Chúng ta nhận thấy trong bản giao ước, Thiên Chúa làm hết mọi sự cho con người từ việc làm cho Ápraham không có con cái trở thành cha của những dân tộc và vua chúa, từ việc không có đất làm gia nghiệp thành một người có đất Canaan làm gia nghiệp muôn đời: “Ta sẽ cho ngươi sinh ra nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi. Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Canaan, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (St 17:6-8). Còn về phía con người, Thiên Chúa chỉ mời gọi họ một điều là: “Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác” (St 17:19). Giao ước mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta tuân giữ hôm nay chính là giao ước chúng ta đã ký kết trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội hay trong ngày khấn dòng. Khi chúng ta tuân giữ giao ước của Ngài, Thiên Chúa sẽ làm cho chúng ta trở nên nguồn phúc lành cho nhiều người. Hãy biến sự hiện diện của chúng ta thành lời “phúc lành” của Thiên Chúa cho những người chúng ta đang sống và tiếp xúc mỗi ngày; đừng là lời “chúc dữ” cho họ.
Cuộc tranh luận về nguồn gốc của Chúa Giêsu được tiếp tục trong bài Tin Mừng ngày hôm nay với sự liên kết với nguồn gốc của Ápraham. Câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay về việc “tuân giữ lời” của Chúa Giêsu nối kết với bài Tin Mừng hôm qua. Tuy nhiên, điểm khác biệt là ngày hôm qua “việc nghe lời Chúa Giêsu” được xem là dấu hiệu cho biết một người là môn đệ của Chúa Giêsu, còn ngày hôm nay “việc nghe lời Chúa Giêsu” là điều kiện cần để “không bao giờ chết: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8:51). Câu này được Thánh Gioan sử dụng như cầu nối để chuyển đề tài về nguồn gốc của Chúa Giêsu sang đề tài về sự sống vĩnh cửu của Ngài với Thiên Chúa của Ápraham, hay đúng hơn là để khẳng định Ngài là Đấng Hằng Hữu. Và hơn hết, chính câu này làm cho những người chống đối Chúa Giêsu hiểu lầm ý Ngài và như vậy trở thành cơ hội để Ngài công bố sự cao trọng của Ngài vượt trên Ápraham.
Theo các nhà nghiên cứu Kinh Thánh, đoạn Tin Mừng hôm nay chứa đựng một số truyền thống khác nhau để trình bày về ý tưởng Chúa Giêsu bị quỷ ám (x. Mc 3:22-23), với việc gán cho ngài danh xưng tiệu cực “là người Samaria.” Khi làm như thế, những người chống đối Chúa Giêsu xỉ nhục nguồn gốc của Ngài và liên kết Ngài với ma quỷ. Đây chính là bối cảnh giúp chúng ta hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu về mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa của Ápraham. Ngài là con cháu của Ápraham theo bản tính nhân loại [là một người Do Thái], nhưng trong bản tính Thiên Chúa, Ngài cao trọng hơn Ápraham. Chính trong bản tính này mà Ngài hiện hữu và được tôn vinh với Thiên Chúa của Ápraham từ muôn thuở: “Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. Ông Ápraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Ga 8:54-56). Trong câu trả lời này của Chúa Giêsu, điều làm chúng ta lưu ý và suy gẫm là việc ông Ápraham đã “hớn hở và vui mừng và hy vọng được thấy ngày của Chúa Giêsu. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.” Sự vui mừng của Ápraham mang hai đặc tính: hiện tại và tương lai [trong ngày sau hết]. Đây là niềm vui và hy vọng mang tính cánh chung, nhưng đã được bắt đầu trong giây phút hiện tại của ngày sống. Điều này có đang thật sự xảy ra cho chúng ta hay không? Chúng ta có thật sự vui mừng và hớn hở mỗi khi được nhìn thấy ngày hay đúng hơn là sống trong ngày của Chúa Giêsu hay không? Khi Chúa Giêsu tuyên bố với người Do Thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!” (Ga 8:58), Ngài muốn nói cho họ và cho chúng ta biết rằng: Ngài siêu vượt thời gian, nhưng Ngài có thời gian cho mỗi người chúng ta. Ngài luôn là “hiện tại,” luôn hiện diện. Như vậy, không có giây phút nào trong ngày sống của chúng ta không thuộc về Thiên Chúa. Liệu chúng ta có thuộc về Ngài mỗi giây phút không?
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc với thái độ giận dữ và chống đối của người Do Thái khi họ “lượm đá để ném Người” (Ga 8:59). Hình phạt “ném đá” cho đến chết thường được dành cho tội phạm thượng. Qua câu khẳng định về sự “Hằng Hữu” của mình, Chúa Giêsu đã bị liệt vào hàng những người phạm thượng, đáng phải chết. Điều này giúp chúng ta hiểu hơn về nguyên nhân cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Tuần V Mùa Chay là tuần cuối cùng chuẩn bị chúng ta bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội trích từ Tin Mừng Thánh Gioan để giúp chúng ta suy gẫm và hiểu hơn về bối cảnh mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu: mầu nhiệm của sự chống đối của con người do hiểu lầm và không sám hối [không thay đổi lối nhìn, lối suy nghĩ thiển cận và lối sống hẹp hòi của mình] và mầu nhiệm của tình yêu vô điều kiện và tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với tình yêu của mình và sẵn sàng tha thứ mỗi khi con người trở về với Ngài. Hãy sám hối để Chúa Giêsu không bị “chúng ta ném đá” bởi tội lỗi của mình, hay bị “người khác ném đá” vì gương mù gương xấu của chúng ta.
***************
THỨ SÁU TUẦN V MÙA CHAY
ĐỪNG PHẢN ỨNG TIÊU CỰC KHI NGHE NHỮNG LỜI KHÓ NGHE
(Gr 20:10-13; Ga 10:31-42)
Bài đọc 1 hôm nay nói về tâm trạng của Giêrêmia khi bị vu cáo. Giống như nhiều mẫu gương trong Cựu Ước, Ngôn sứ không tìm cách để biện minh, nhưng chạy đến giãi bày nỗi lòng với Đức Chúa. Một trong những lý do Ngôn sứ Giêrêmia đưa ra để khuyên chúng ta phải đến với Thiên Chúa khi bị vu cáo là: “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng (Gr 20:11). Vì Đức Chúa luôn ở bên chúng ta nên chỉ có một mình Ngài “thấu suốt tâm can” (Gr 20:12). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta không đánh giá đúng mức giá trị của việc chạy đến giãi bày nỗi lòng với Thiên Chúa khi bị vu cáo hoặc hiểu lầm. Chúng ta thường để cho những suy nghĩ hay lối cư xử tiêu cực chiến thắng chúng ta, để rồi chúng ta có những lời nói, suy nghĩ và hành động gây tổn hại cho chính mình và người khác. Những ai khi bị tố cáo hoặc hiểu lầm mà biết giữ thinh lặng và chạy đến giãi bày với Đức Chúa, sẽ giữ được bình tĩnh và sẽ là người chiến thắng vì Thiên Chúa sẽ biện minh cho họ. Tuy nhiên, bài đọc 1 hôm nay cũng khuyến cáo chúng ta tránh thái độ vu cáo và “bới lông tìm lỗi” của người khác. Một người mà chỉ tập trung đi tìm lỗi của người khác để vu cáo và kết án là người không biết mình. Những người như thế không bao giờ hiểu tình yêu đích thật, vô điều kiện và tuyệt đối là gì. Đừng mất giờ vô ích cho việc tìm lỗi người khác để vu cáo và lên án. Hãy dành thời gian đó cho việc nhận ra lỗi của mình để sửa và lớn lên trên đường nhân đức.
Tâm tình của Ngôn sứ Giêrêmia diễn tả cách hoàn hảo tâm tình của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Giống như Ngôn sứ Giêrêmia bị “biết bao người vu cáo,” và “tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem Ngôn sứ vấp ngã,” Chúa Giêsu cũng bị người Do Thái hiểu lầm, vu cáo và lấy đá ném. Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay tốt hơn, chúng ta cần đặt nó vào trong bối cảnh. Đoạn trích hôm nay nằm giữa hai việc Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Nhân Lành (Ga 10:1-18). Một tuyên bố đã gợi lên giữa người Do Thái một sự bất đồng (Ga 10:19-21), với trình thuật về việc Chúa cho Lazarô sống lại, mà qua đó dân Do Thái âm mưu giết Ngài và cả Lazarô (Ga 11:45-54). Nằm giữa tuyên bố Ngài là Mục Tử Nhân Lành và việc tỏ lộ Ngài là Đấng mang lại sự sống, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là con Thiên Chúa (Ga 10:22-30). Chính khẳng định này đã gợi lên nơi người Do Thái sự phản ứng dữ dội và muốn ném đá Ngài, hành vi để thi hành bản án dành cho những người phạm thượng (x. Ga 10:31). Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng hôm nay làm hai phần: phần 1 nói về đối thoại của Chúa Giêsu với người Do Thái dẫn đến thái độ loại trừ Chúa Giêsu (Ga 10:31-39) và phần 2 trình bày về thái độ đón nhận của nhiều người (Ga 10:40-42).
Như chúng ta đã biết, Thánh Gioan dùng lối viết “sân khấu Hy Lạp” để viết Tin Mừng của mình. Để rút ra được sứ điệp của Chúa Giêsu trong phần 1, chúng ta có thể viết lại đoạn trích như một đối thoại trong một bản kịch như sau:
Người dẫn: Khi ấy, người Do Thái lại lấy đá để ném Đức Giêsu (Ga 10:31).
Chúa Giêsu: Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi? (Ga 10:32).
Người Do Thái: Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10:33).
Chúa Giêsu: Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: ‘Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh’? Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: ‘Ông nói phạm thượng!’ vì tôi đã nói: ‘Tôi là Con Thiên Chúa’? Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha (Ga 10:34-38).
Người dẫn: Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ (Ga 10:39).
Đoạn đối thoại này mở và kết giống nhau, đó là thái độ loại trừ và chống đối của người Do Thái. Như chúng ta biết, đây là lối viết “bánh mì kẹp,” hay theo từ chuyên môn của nghành Kinh Thánh là “biblico inclusio” (lối viết “Kinh Thánh mang tính bao gồm”): mở và kết giống nhau còn phần giữa giải thích. Như vậy, việc Chúa Giêsu bị “người Do Thái lấy đá ném” và “tìm cách bắt” là vì Ngài khẳng định mình là “Con Thiên Chúa” và “Chúa Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Chúa Cha” [hay Ngài và Chúa Cha là một]. Nếu chúng ta xét kỹ hơn phần giữa, chúng ta nhận ra rằng: Chúa Giêsu là người “hỏi” và “giải thích cáo buộc,” còn người Do Thái là người trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu. Điều này ngụ ý rằng: Chính Chúa Giêsu đang xét xử và lên án người Do Thái chứ không phải người Do Thái xét xử và lên án Ngài. Tuy nhiên, điều chúng ta lưu ý ở đây để rút ra bài học cho ngày sống của mình là câu nói của người Do Thái: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng.” Chúa Giêsu bị lên án “chỉ vì một lời nói.” Điều này nhắc nhở chúng ta về việc cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói của mình. Nhiều lần trong ngày sống, chúng ta làm tổn thương người khác bằng những lời thiếu tế nhị trong lúc nóng giận của mình, hoặc chúng ta để cho lời nói của người khác làm chúng ta ngừng yêu thương, cảm thông và tha thứ. Một chân lý chúng ta có thể kiểm nghiệm trong cuộc sống là: Những người không có Chúa Giêsu, không có Lời của Thiên Chúa trong cuộc đời, trong con tim thường không biết “giữ mồm giữ miệng” nên thường nói “những lời chua cay khó nghe”; ngược lại, những người để cho Lời của Thiên Chúa chiếm lấy môi miệng và con tim, họ luôn nói những lời nhẹ nhàng, khôn ngoan và đầy tràn yêu thương.
Liên quan đến “lời nói,” chúng ta tìm thấy trong bài Tin Mừng hôm nay hai phản ứng khác nhau chỉ vì một lời nói của Chúa Giêsu: một số kết án Chúa Giêsu và một số tiếp tục đến và tin vào Ngài (Ga 10:42). Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta? Điều này đơn giản có ý nghĩa là: người không có cảm tình với người nói hoặc không “sám hối,” không đi ra khỏi lối suy nghĩ của mình để khám phá ra điều hay, điều mới trong tư tưởng của người nói sẽ phản ứng tiêu cực khi người nói nói những lời khác với điều mình đã quen thuộc; ngược lại, người có cảm tình với người nói thì dễ dàng bỏ qua những lời khó nghe của người nói. Như vậy, khi nghe những lời “khó nghe,” nếu trong chúng ta có những phản ứng tiêu cực, chúng ta hãy xem lại chính mình chứ không cần quan tâm đến điều người khác nói, vì điều họ nói đã trôi theo làn gió, cái còn lại chỉ là cảm giác khó chịu trong chúng ta. Tại sao chúng ta không cố gắng thay đổi cái mình có thể thay đổi [cảm giác khó chịu trong mình] hơn là cái mình không thể thay đổi [lời nói như gió thoảng qua của người khác]?
******************
THỨ BẢY TUẦN V MÙA CHAY
HÃY TRỞ NÊN NHÂN TỐ CỦA HIỆP NHẤT
(Ed 37:21-28; Ga 11:45-57)
Chia rẽ luôn đem lại nước mắt và đau khổ. Chia rẽ giữa những người không quen biết thì không đau đớn cho bằng chia rẽ giữa những người trong cùng một gia đình: giữa chồng với vợ, giữa cha mẹ với con cái, giữa con cái với nhau, hoặc giữa các thành viên trong cùng một cộng đoàn đời tu. Trong lịch sử dân Israel, các con cái của Giacóp cũng bị chia rẽ thành hai vương quốc, nhà Israel [gồm 10 chi tộc] và nhà Giuđa (gồm 2 chi tộc], trước và sau thời gian trị vì của Davít và Solomon. Đây chính là bối cảnh đằng sau bài đọc 1 hôm nay.
Niềm vui và bình an sẽ được tái thiết khi sự chia rẽ được vượt thắng. Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Edêkien trình bày cho chúng ta về viễn cảnh Thiên Chúa sẽ quy tụ con cái Israel tản mác khắp nơi khi bị lưu đày trở về. Không những thế, Ngài còn chữa lành vết thương chia rẽ giữa họ để họ chỉ tôn thờ một mình Ngài. Ngài sẽ tha thứ lỗi lầm của họ, sẽ thanh tẩy họ và nhắc lại cho họ giao ước Ngài đã ký kết với Ápraham, tổ phụ của họ: “Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở và đã phạm tội; Ta sẽ thanh tẩy chúng. Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Ed 37:22-23). Điều này cho chúng ta thấy rằng, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể vượt qua được bức tường chia rẽ và với ơn của Ngài những vết thương bị chia rẽ gây ra sẽ được chữa lành.
Đề tài chia rẽ và quy tụ được Êdêkien trình bày trong bài đọc 1 được tìm thấy sự hoàn thành trong hình ảnh của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ngay trong hai câu đầu tiên của bài Tin Mừng, chúng ta nhận ra sự chia rẽ giữa những người Do Thái trước sự kiện Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại: “Khi ấy, sau khi ông Ladarô sống lại ra khỏi mồ, trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pharisêu và kể cho họ những gì Đức Giêsu đã làm” (Ga 11:45-46). Sự chia rẽ này cũng được lặp lại trong ba câu cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay: “Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên Giêrusalem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. Họ tìm Đức Giêsu và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: ‘Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?’ Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga 11:55-57). Điều này cho thấy bài Tin Mừng hôm nay lại trình bày theo nghệ thuật viết kiểu “bánh mì kẹp”: mở đầu và kết thúc với sự chia rẽ, và phần kẹp bên trong nói đến vai trò “quy tụ” của Chúa Giêsu qua cái chết của Ngài.
Như chúng ta biết, việc làm cho Ladarô sống lại là “dấu lạ” cuối cùng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Giống như những dấu lạ khác trong Tin Mừng Thánh Gioan, dấu lạ cuối cùng này cũng gợi lên hai phản ứng khác nhau nơi những người chứng kiến hoặc nghe kể về, một số người Do Thái đón nhận và tin vào Chúa Giêsu, còn số khác thì tố cáo Ngài. Chúng ta có thể rút được gì từ sự kiện này? Chúng ta có thể rút ra hai điều sau để suy gẫm cho ngày sống của mình.
Thứ nhất, Chúa Giêsu bị kết án tử khi đem lại sự sống cho người khác. Hay nói cách khác, để cho người khác được sống, Chúa Giêsu phải chết: “Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: ‘Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là : thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt’” (Ga 11:49-50). Như vậy, Chúa Giêsu phải chết để toàn dân được sống và hơn thế nữa, cái chết của Ngài có sức mạnh chiến thắng chia rẽ để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11:52). Điều này nhắc nhở chúng ta về việc chết làm sao cho có ý nghĩa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết: chết vì tai nạn, chết vì đau ốm, chết vì già lão, v.v. Cũng có nhiều loại chết: chết cho đất nước, chết cho người yêu hoặc người thân, hay chết cho chính mình. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng bị người khác biến thành “con vật thế thân.” Chúng ta phải chấp nhận bị kết án vì người khác. Giống như cây nến tiêu hao để chúng ta có được ánh sáng, chúng ta được mời gọi để tiêu hao chính mình mỗi ngày để người khác được sống. Để sống được như thế, chúng ta cần nhìn lên Đức Giêsu để học ở nơi Ngài nghệ thuật sống và chết có ý nghĩa: đó là sống và chết cho người khác. Trọn cuộc sống của chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng là để chỉ làm một việc, đó là, trở thành mối dây của sự hợp nhất. Liệu chúng ta có làm được điều này không?
Thứ hai, chúng ta chỉ tìm thấy Chúa Giêsu trong nơi thanh vắng. Sau khi bị các thượng tế và các người Pharisêu tìm cách giết, Chúa Giêsu “không đi lại công khai giữa người Do thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Épraim. Người ở lại đó với các môn đệ” (Ga 11:54). Đọc những lời này chúng ta không khỏi không đấm ngực ăn năn. Biết bao nhiêu lần, chúng ta cũng giống như các thượng tế và người Pharisêu, tìm cách giết Chúa Giêsu “bằng tội lỗi” của chúng ta, đến nỗi Ngài không còn “hiện diện” cách công khai được. Sự hiện diện của Ngài trở nên lu mờ trong cuộc đời của chúng ta. Hay nói đúng hơn, người khác không còn thấy Chúa hiện diện trong cuộc đời của các môn đệ của Ngài. Từ những ý nghĩa trên, chúng ta nhận ra rằng: ở đâu có ghen ghét và hận thù, ở đó Thiên Chúa không hiện diện. Thiên Chúa chỉ hiện diện ở những nơi thanh vắng không có sự ồn ào của nói xấu nhau, không có sự ồn ào của tranh chấp hơn thua, không có sự ồn ào của những con tim đi tìm sự an nghỉ trong của cải chóng qua. Nói tóm lại, Chúa Giêsu chỉ hiện diện với các môn đệ của Ngài, những người sống theo lời khuyên của Ngài: “cứ dấu này người ta sẽ nhận ra anh [chị] em là môn đệ của Thầy, là anh [chị] em yêu thương nhau” (Ga 13:35).