TUẦN III MÙA CHAY NĂM A
Lm Ngọc Dũng, SDB
CHÚA NHẬT
CHÚA GIÊSU MẠCH SUỐI TUÔN TRÀN
(Xh 17:3-7; Rm 5:1-2.5-8; Ga 4:5-42)
Ai trong chúng ta cũng đã trải qua một cơn khát. Khi khát chúng ta mới thấy nước có giá trị như thế nào. Như chúng ta biết, con người bao gồm cả xác lẫn hồn. Giống như thân xác khát, thì linh hồn cũng khát. Lời Chúa ngày hôm nay chỉ ra cho chúng ta hai loại khát và hai loại nước có thể làm thoả mãn cơn khát. Trong bài đọc 1, Dân Israel khát nước cho thân xác của mình và họ đã kêu trách Môsê: “Trong sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Môsê rằng: ‘Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?’” (Xh 17:3). Qua việc kêu trách Môsê, dân tỏ ra thiếu sự tin tưởng vào Đức Chúa, Đấng chọn Môsê làm người đại diện Ngài ở giữa dân. Họ đã thử thách và gây sự với Đức Chúa mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 7:17). Nhưng Đức Chúa thương dân Ngài và ban cho họ nước uống để thoả mãn cơn khát thể xác của họ: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khôrếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống’” (Xh 17:5-6). Trình thuật này phản ánh chính lịch sử cuộc sống mỗi người chúng ta. Cũng đã nhiều lần vì thiếu thốn những nhu cầu vật chất trong cuộc sống mà chúng ta gây sự và thử thách Chúa. Nhiều người kêu trách và đánh mất niềm tin vào Chúa. Nhưng dù cho chúng ta có bỏ Ngài, Đức Chúa vẫn âm thầm dõi theo bước chúng ta và ban cho chúng ta những thứ chúng ta cần cho cuộc sống. Ngài luôn mời gọi chúng ta vượt qua những cơn khác thể xác, để nhìn thấy cơn khác của linh hồn mà chỉ mình Ngài mới có thể thoả mãn cho chúng ta.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô trìnhh bày cho các tín hữu Rôma về tầm quan trọng của Đức Tin. Chỉ trong đức tin, người Kitô hữu được làm cho công chính và “được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5:1). Dưới ánh sáng đức tin, người Kitô hữu nhận ra rằng Đức Giêsu đã mở lối cho họ vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, mang lại cho họ niềm tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa và nhất là họ sẽ không bao giờ phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (x. Rm 5:2-5). Cuối cùng, đức tin làm cho người Kitô hữu nhận ra rằng “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8). Đây cũng chính là lời mời gọi cho các Kitô hữu biết sẵn sàng chết cho những người làm cho mình đau khổ. Tóm lại, thước đo chiều sâu của tình yêu chính là việc sẵn sàng yêu không chỉ những người tốt, những người mình thích, nhưng yêu ngay cả những người xấu, những người mình không thích và nhất là những người đã xúc phạm mình và làm cho mình bị tổn thương.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về cuộc gặp gỡ đối thoại của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria tại giếng Giacóp và những người Samaria khác. Trình thuật này đạt tới đỉnh cao trong lời khẳng định mang tính Kitô học, đó là Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian (x. Ga 4:42). Trước đó, chúng ta thấy sự trông chờ Đấng Cứu Thế của những người Samaria được trình bày qua việc phác hoạ Chúa Giêsu là ngôn sứ giống Môsê. Điểm đáng lưu ý là bài Tin Mừng tập trung vào công việc rao giảng Tin Mừng. Chúng ta nhận ra điều này trong hình ảnh người phụ nữ Samaria được trình bày như là ‘nhà truyền giáo đầu tiên’ và trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ (x. câu 31-38) cũng tập trung vào ‘mùa gặt.’ Cấu trúc của bài Tin Mừng gồm ba cuộc đối thoại và: (1) đối thoại về nước hằng sống (câu 6- 15); (2) đối thoại về Đấng Messia và là ngôn sứ (câu 16-26); đối thoại về mùa gặt với các môn đệ (câu 27-38), và (4) trình thuật về những người tin Samaria (câu 39- 42).
Trình thuật Tin Mừng bắt đầu với bối cảnh là: “Khi ấy, Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 4:5-6). Chi tiết chúng ta lưu ý đầu tiên là hình ảnh cái “giếng của ông Giacóp. Trong truyền thống Kinh Thánh, giếng đóng một vai trò quan trọng trong những chuyện tình: Ông nô bộc của Ápraham tìm thấy Rêbêca để làm vợ của Isaác tại giếng nước, Giacóp gặp con gái của Laban tại giếng nước, Môsê gặp các con gái của Reuel cũng tại giếng nước. Và hôm nay, giữa trưa nắng hai người lạ mặt gặp nhau để bắt đầu một cuộc tình thật đẹp trong hành trình đức tin. Hành trình đức tin của người phụ nữ Samaria cũng là trình đức tin của mỗi người chúng ta. Đức tin của người phụ nữ Samaria vào Chúa Giêsu trở nên sâu đậm hơn khi bà đáp lại lời của Chúa Giêsu, để cho Chúa vén mở cuộc đời của mình, và nhất để cho Ngài khát một tình yêu chân thật mà bà đang tìm kiếm được diễn tả trong khao khát thờ phượng Thiên Chúa cách đích thật. Chúa Giêsu cũng khao khát tình yêu, khao khát đức tin của chúng ta mỗi giây phút. Liệu chúng ta có đáp lại Ngài hay không?
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria có thể được xem là một hành trình đức tin bao gồm những yếu tố sau: (1) Chúa Giêsu mở lời mời gọi [“Chị cho tôi xin chút nước uống!”]; (2) người phụ nữ Samaria có thái độ nghi ngờ, không muốn đáp lại [“Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”]; (3) Chúa Giêsu giải thích [“Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống,’ thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”]; (4) người phụ nữ Samaria đặt nghi vấn dựa trên lời giải thích [“Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”]; (5) Chúa Giêsu tiếp tục giải thích, nhưng đưa người phụ nữ lên một cấp độ cao hơn của đức tin [“Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”]; (6) người phụ nữ bày tỏ sự khao khát để tin [“Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”]; (7) Chúa Giêsu mời gọi người phụ nữ đến việc thờ phượng trong thần khí và sự thật; (8) người phụ nữ đáp lại và đi làm chứng về Chúa Giêsu [“Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”]. Những chi tiết trên phác thảo hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn giải thích những thắc mắc của chúng ta. Điều quan trọng ở đây là liệu chúng ta có kiên nhẫn đủ để ở bên Ngài, lắng nghe lời giải thích của Ngài và đáp lại hay không? Đỉnh cao của đức tin chính là hành vi tuyên xưng, thờ phượng và làm chứng. Nói cách khác, đức tin của chúng ta phải là một đức tin sống động được diễn tả qua đời sống thờ phượng và đời sốnh phục vụ. Đức tin không có việc làm là đức tin chết! Đây chính là sứ điệp của Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay: Chúa Giêsu khát những con người có đức tin sống động được diễn tả qua đức ái và đức cậy.
THỨ HAI
(2 V 5:1-15a; Lc 4:24-30)
PHÚC ÂM: Lc 4, 24-30
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
SUY NIỆM: VƯỢT QUA ĐỊNH KIẾN VÀ SỐNG CÁI NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU
Trong bài đọc 1, chúng ta đọc thấy câu chuyện của Naaman, người được Ngôn Sứ Êlisa chữa khỏi bệnh phong hủi. Trong trình thuật chữa lành này, chúng ta nhận ra những yếu tố cần thiết sau để cho việc chữa lành xảy ra và để Thiên Chúa được tôn vinh: (1) mọi nỗ lực của con người không mang lại sự chữa lành (x. 2 V 5:1-7); (2) Chúa dùng những con người bé nhỏ để đưa người cần chữa lành đến với Ngài [cô bé giúp việc và Ngôn Sứ Êlisa]; (3) bày tỏ ước muốn được chữa lành (x. 2 V 5:8-9); (4) từ bỏ con người tự cao và kiêu ngạo của mình để thực hiện những việc nhỏ bé mà Thiên Chúa muốn (x. 2 V 5:10-14); (5) tuyên xưng đức tin và tôn vinh Thiên Chúa vì được chữa lành (x. 2 V 5:15a). Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, những người phong hủi là những người không chỉ chịu sự đau đớn trên thân xác, nhưng sự đau đớn lớn nhất của họ là sự cách ly khỏi đời sống gia đình và cộng đoàn thờ phượng. Được chữa lành khỏi bệnh phong hủi là được hội nhập lại với đời sống cộng đoàn, được nối kết lại các mối tương quan với Chúa và tha nhân. Để được điều này, một trong những yếu tố quan trọng trong các yếu tố chúng ta nêu trên là từ bỏ sự tự cao, kiêu ngạo của mình và thực hiện những điều Chúa muốn nơi chúng ta. Những người sống khiêm nhường là những người có mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa và người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về Chúa Giêsu là vị ngôn sứ như Êlia và Êlisa. Theo Thánh Luca, khác với các ngôn sứ khác, Chúa Giêsu được sai đến không chỉ cho dân Do Thái, nhưng cho muôn dân. Phản ứng đầu tiên của dân chúng trước những lời giảng dạy của Ngài là: “Ai cũng tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4:22). Tuy nhiên, ngay sau đó, thái độ của họ thay đổi và họ vấp phạm về Ngài khi nhận ra nguồn gốc tầm thường của Ngài: “Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?” (Lc 4:22). Qua điều này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một chân lý mà ít người biết đến: Nhìn thấy sự vĩ đại trong cái vĩ đại là bình thường, còn nhìn thấy cái vĩ đại trong những gì tầm thường là phi thường. Thật vậy, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự vĩ đại trong những khám phá nổi tiếng của khoa học. Nhưng rất ít người nhận ra sự vĩ đại của tình yêu mà một người cha hay một người mẹ dành cho con cái trong những công việc thật bình thường mỗi ngày. Khi chúng ta không nhận ra được sự vĩ đại trong những gì là bình thường, chúng ta dễ dàng rơi vào thái độ loại trừ. Đây là điều mà người Do Thái rơi vào khi họ nhận thấy nguồn gốc tầm thường của Chúa Giêsu. Như là một ngôn sứ, Chúa Giêsu cũng phải chấp nhận định mệnh bị loại trừ và bị giết như các ngôn sứ khác. Thật vậy, có câu nói trong đời rằng: “Quen thuộc sinh ra coi thường”: Những người và những vật quá quen thuộc sẽ dễ dàng làm chúng ta “coi thường.” Hay nói cách khác, chúng ta khó khám phá ra cái mới mẻ trong những người hoặc những vật quá quen thuộc và như thế chúng ta dễ dàng để định kiến chi phối cách nhìn và lối cư xử của mình.
Để vượt qua thái độ định kiến, Thánh Luca trong Tin Mừng mời gọi chúng ta có cái nhìn cởi mở và không loại trừ. Điều này được Thánh Luca trình bày qua việc chỉ ra lối nhìn thiển cận của người Do Thái, đó là họ cho rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho “một dân tộc được tuyển chọn.” Nhưng theo Thánh Luca, ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến là cho mọi người, cả nam lẫn nữ. Điều này được phản chiếu trong hình ảnh của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4:25-27). Chúng ta thấy hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được sai đến với những người ngoài “dân được tuyển chọn.” Đây là điều sẽ tìm thấy trong sứ vụ của Chúa Giêsu như một vị ngôn sứ trong Tin Mừng của Thánh Luca.
Hai câu cuối cùng của Tin Mừng hôm nay chỉ ra phản ứng tiêu cực của những người nghe sự thật về chính họ: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:28-30). Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ ngưỡng mộ và là hệ quả của thái độ coi thường trước đó mà họ có về Chúa Giêsu. Họ phẫn nộ vì Chúa Giêsu nói rằng: Ơn cứu độ dành cho họ cũng được chia sẻ cho những dân tộc khác. Họ phẫn nộ vì sự quảng đại và tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Đúng hơn, họ phẫn nộ vì họ ghen tỵ vì Thiên Chúa “đối xử tốt với những người khác như Ngài đã từng đối xử độ lượng với họ.” Tuy nhiên, sự phẫn nộ vì ghen ghét của họ không ngăn bước chân của Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện kế hoạch cứu độ muôn người của Chúa Cha: Không có hành trình nào cao đẹp bằng hành trình của người ngôn sứ đi theo con đường Thiên Chúa vạch ra dù bị chống đối và loại trừ.
THỨ BA
(Đn 3:25.34-43; Mt 18:21-35)
PHÚC ÂM: Mt 18, 21-35
“Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
SUY NIỆM: HÃY THỨ THA VÌ CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC THA THỨ
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta một mẫu cầu nguyện theo khuôn mẫu cầu nguyện trong Cựu Ước. Như chúng ta biết, theo mẫu cầu nguyện này, chúng ta luôn bắt đầu bằng việc nhắc lại những công trình kỳ diệu Chúa đã làm (Đn 3:34-36), tiếp đến là nhận ra thân phận tội lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết tâm trở về với Chúa (Đn 3:37-41), và cuối cùng là cầu xin Chúa can thiệp để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ đang tấn công chúng ta (Đn 3:42-43). Một cách cụ thể, bài đọc 1 trình bày cho chúng ta lời cầu nguyện của thầy thượng tế Adaria sau khi đền thờ bị phá huỷ. Dân chúng bị lưu đày. Điểm chúng ta cần lưu ý là việc thay thế của lễ bên ngoài với tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhường. Đây là điều không ai trong chúng ta không có. Chúng ta có thể không có tiền để mua những của lễ chiên bò, nhưng tâm hồn thống hối và khiêm nhường là điều chúng ta không mất tiền để mua. Và đó là của lễ đẹp lòng Chúa nhất. Hãy đến với Chúa với tâm hồn khiêm cung và thống hối của những người mang thân phận yếu đuối, của những con người cần đến Chúa.
Tuy nhiên, khi một người đến với Chúa với tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhường sẽ cảm nghiệm được tình yêu bao la và sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa. Và khi cảm nghiệm được tình yêu và tha thứ của Thiên Chúa, thì người đó được mời gọi phải đối xử với người khác như Thiên Chúa đã đối xử với họ. Đây chính là điểm nối kết hai bài đọc của ngày hôm nay.
Theo các học giả Kinh Thánh, dụ ngôn người đầy tớ không tha thứ trong bài Tin Mừng hôm nay được Thánh Mátthêu lấy từ nguồn Q (truyền miệng), nên chỉ được tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Mátthêu. Để hiểu bài Tin Mừng này, chúng ta cần đặt nó trong bối cảnh của nó, chương 18. Chương 18 của Tin Mừng Thánh Mátthêu nói đến tương quan trong Giáo Hội [cộng đoàn]. Chương 18 có thể chia ra hai phần: phần đầu nói về các vấn đề sẽ xảy ra trong Giáo Hội [cộng đoàn] – (1) vấn nạn ai là người lớn nhất; (2) vấn đề làm gương mù gương xấu cho các thành viên khác; (3) thái độ cần có với những “chiên lạc.” Phần hai nói đến những phương cách để giải quyết những vấn đề: (1) sửa đổi huynh đệ; (2) cầu nguyện chung với nhau; (3) tha thứ cho nhau. Bài Tin Mừng hôm nay gồm ý thứ ba trong phần hai: tha thứ cho nhau; và được áp dụng vào dụ ngôn người đầy tớ không tha thứ.
Kinh nghiệm thường ngày dạy chúng ta rằng: chúng ta thường không có vấn đề gì với người khác khi cuộc sống êm ả và hạnh phúc. Nhưng khi sóng gió ập đến, khi người chúng ta sống chung làm chúng ta đau khổ và tổn thương, chúng ta thường có những thái độ tiêu cực và đôi khi phản kháng. Một trong những điều khó nhất khi sống với người khác là tha thứ những tổn thương mà chúng ta mang lại cho nhau. Thật vậy, tha thứ là một trong những điều khó nhất con người có thể làm. Tha thứ một lần đã khó, huống gì là phải tha thứ bảy lần hoặc bảy mươi lần bảy. Đây là điều mà Thánh Phêrô đã đề cập với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không?” (Mt 18:21). Câu nói của Thánh Phêrô không đơn giản là một câu hỏi, nhưng là một câu nói mang tính “tự hào” về sự tha thứ của Phêrô, khác hẳn với lời tự hào đầy khát máu của Laméc trong sách Sáng Thế (4:15,24). Và Chúa Giê-su đáp lại cho Phêrô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:21-22).
Câu hỏi của Phêrô với Chúa cũng là câu hỏi của mỗi người trong chúng ta: Chúa ơi, con phải chấp nhận người anh chị em này cho đến bao giờ? Con phải tha thứ cho họ bao nhiêu lần nữa? Con mệt mỏi lắm rồi! Con hết sức rồi! Con không thể tha thứ cho họ được nữa vì con là con người. Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng: khả năng tha thứ nói lên sức mạnh và sự chân thật của tình yêu mà một người dành cho người khác. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô, với các môn đệ khác, và với mỗi người trong chúng ta: Người yêu ít sẽ tha thứ ít, còn người yêu thương nhiều sẽ tha thứ nhiều. Người có tình yêu chân thật sẽ tìm thấy niềm vui trong sự tha thứ cho người mình yêu. Còn người không dành cho người khác một tình yêu chân thật, sẽ chỉ thấy sự mệt mỏi và cay đắng trong việc tha thứ cho người khác. Tóm lại, tha thứ và yêu thương là hai mặt của một đồng tiền. Chúng ta có thể nói rằng: tha thứ là hình thức diễn tả tình yêu cao nhất cho người khác.
Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để dạy dỗ các môn đệ và dân chúng. Dụ ngôn người đầy tớ không tha thứ trong bài Tin Mừng hôm nay là ví dụ cụ thể Chúa Giêsu sử dụng để khuyên răn chúng ta về việc không lắng nghe những phương cách Ngài dạy để giải quyết những vấn đề trong cộng đoàn. Không những thế, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để nói cho chúng ta về sự khác biệt, nhưng có tương quan mật thiết giữa lòng thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta và của chúng ta dành cho nhau. Nói cách cụ thể, người nào không cảm nhận được sự yêu thương và tha thứ của Chúa dành cho mình sẽ khó và, có thể nói, là không thể yêu thương và tha thứ cho người xúc phạm đến mình. Điều này được khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : ‘Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18:32-33).
Chúng ta phải chân nhận rằng, câu chuyện về người đầy tớ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Chúng ta nợ Chúa rất nhiều. Mỗi ngày chúng ta phạm đến Chúa bao nhiêu lần, nhưng Chúa đều tha thứ cho chúng ta khi chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Còn anh chị em chúng ta không phạm đến chúng ta mỗi ngày, may lắm một tuần một lần, mỗi tháng một lần, hoặc 1 năm một lần, nhiều khi cả đời một lần mà chúng ta không thể tha thứ cho họ. Chúng ta biện minh rằng, nhưng tôi là con người giới hạn nên sự tha thứ của tôi có giới hạn. Đúng như thế! Nhưng nếu chúng ta chỉ ở lại trong cái giới hạn, thì chúng ta mãi ở lại trong cái gọi là con người như bao nhiêu người thuộc các tôn giáo khác. Còn khi chúng ta bước ra khỏi cái giới hạn để đi vào cái vô hạn, chúng ta sẽ trở nên “con Thiên Chúa” và “môn đệ của Chúa Giêsu” điều làm chúng ta khác với những “con người thuần tuý.” Có câu nói trong đời rằng: tha thứ cho người “đáng được tha” là con người; còn tha thứ cho người “không đáng được tha” là Thiên Chúa.
Một chi tiết làm chúng ta suy gẫm là thái độ và lời cầu xin của người đầy tớ với chủ và người bạn với người đầy tớ như nhau: “Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy : ‘Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết’” (Mt 18:26); và “Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ : ‘Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh’” (Mt 18:29). Nhưng phản ứng của ông chủ và người đầy tớ hoàn toàn khác nhau trước thái độ van xin. Ông chủ “liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ” (Mt 18:27), còn người đầy tớ thì “không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ” (Mt 18:30). Chi tiết này là bối cảnh để giải thích cho câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18:35). Tóm lại, thái độ của ông chủ và câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta về thái độ không tha thứ của chúng ta với anh chị em của mình. Chúng ta phải nhớ rằng: Thiên Chúa là Đấng công bình và sẽ đối xử với chúng ta như chúng ta đối xử với người khác.
THỨ TƯ
(Đnl 4:1.5-9; Mt 5:17-19)
PHÚC ÂM: Mt 5, 17-19
“Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
SUY NIỆM: HÃY TRUNG THÀNH TUÂN GIỮ NHỮNG ĐIỀU NHỎ NHẤT CHÚA DẠY
Bài đọc 1 hôm nay được đặt trong bối cảnh của giao ước trên núi Sinai giữa Thiên Chúa và dân Israel. Môsê đưa ra cho dân Israel những lợi ích mà họ sẽ được khi họ đem ra thực hành những thánh chỉ và quyết định của Thiên Chúa. Một cách cụ thể, họ sẽ được: (1) “sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em (Đnl 4:1); (2) trở thành một “dân khôn ngoan và thông minh!’ (Đnl 4:6); (3) “thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người” (Đnl 4:7). Tuy nhiên, để được những điều ấy, họ phải “ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh em đã thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh em; trái lại, anh em hãy dạy cho con cháu anh em biết” (Đnl 4:9). Điều mắt họ đã thấy mà suốt đời phải giữ trong lòng và dạy cho con cháu là gì? Đó là những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện để đưa họ ra khỏi nộ lệ Ai Cập và ban cho họ đất hứa làm gia nghiệp. Chỉ khi họ thực hiện điều này, họ sẽ trở nên dân vĩ đại nhất và qua họ Thiên Chúa sẽ chúc lành cho mọi dân tộc trên mặt đất. Và đây chính là điều Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ai trong chúng ta cũng muốn mình trở nên vĩ đại và quan trọng. Vì vậy, chúng ta thường mong ước và tìm cách làm những điều lớn lao và vĩ đại trong cuộc sống. Không ai muốn làm những điều nhỏ nhặt. Tuy nhiên, một nguyên tắc căn bản trong cuộc sống mà ít người khám phá ra đó là: mọi khởi đầu đều rất nhỏ bé, rất khiêm nhường, đến nỗi không mấy người để ý và quan tâm đến. Một cung điện nguy nga bắt đầu với một viên đá, và những viên đá khác nối kết với nhau; một tác phẩm văn chương nổi tiếng bắt đầu với một chữ và những chữ khác kết với nhau; một bức tranh đẹp cũng bắt đầu với một đường màu đơn sơ và sự hoà hợp với những màu khác; một mối tình đẹp được bắt đầu với một nụ cười hoặc một ánh mắt trìu mến; ngược lại, một sự đổ vỡ trong tương quan thường bắt đầu với một lời nói hoặc một hành động thiếu suy nghĩ và thiếu tế nhị. Tất cả đều bắt đầu từ những điều nhỏ bé, không mấy quan trọng! Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: cái vĩ đại là chuỗi dài của những điều nhỏ bé kết lại. Một tình yêu trung thành là chuỗi dài của những trung thành nhỏ bé mỗi ngày. Đây là bối cảnh giúp chúng ta hiểu điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu lời dạy của Chúa về một nền luân lý mới mà các môn đệ của Ngài phải sống. Đây là lời mời gọi sống đời sống công chính cao. Theo các học giả Kinh Thánh, những câu trong trình thuật hôm nay đưa ra những nguyên tắc căn bản cho bài giảng của Chúa Giêsu. Đây là những câu được tranh luận nhiều nhất trong Tin Mừng Thánh Mátthêu và vẫn chưa có sự đồng ý chung nào về việc giải thích chúng. Người chú giải phải cố gắng nêu lên vấn đề thật rõ ràng và cung cấp một nhận định chân thật mang tính lịch sử, ngay cả khi phải trả giá cho việc nhận định của mình không mang tính thần học sâu sắc. Chúng ta cần lưu ý rằng, thái độ của các sách Tân Ước về Luật không đồng nhất với nhau. Điều này không có nghĩa là các tác giả trái ngược nhau, nhưng điều này đơn giản là sự không đông nhất này phản chiếu sự phát triển sự hiểu biết của các Kitô hữu về Luật và mối tương quan của sự hiểu biết này với Tin Mừng. Chúng ta có thể thấy điều này trong câu chuyện của Thánh Phaolô. Vì vậy, mục đích của trình thuật chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay là nỗ lực của Thánh Mátthêu khẳng định quan điểm của Chúa Giêsu về Luật cách chung. Trình thuật này phải được đọc và hiểu trong bối cảnh của toàn bộ Tin Mừng Thánh Mátthêu.
Thái độ của Chúa Giêsu với Luật được Ngài khẳng định cách tích cực như sau: “Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17). Những lời này cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu không phải là để bãi bỏ Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng là để kiện toàn chúng. Hai thuật ngữ này thường được sử dụng để ám chỉ toàn bộ các sách của Cựu Ước. Chúa Giêsu ‘hoàn thành’ Lề Luật và Ngôn Sứ bằng cách nào? Thuật ngữ ‘hoàn thành’ không đơn giản ám chỉ việc thực hành điều Lề Luật và Ngôn Sứ dạy theo nghĩa đen. Nhưng nó có nghĩa là mang Lề Luật và Ngôn Sứ đến sự hoàn hảo, mang lại cho chúng cùng đích mà những người Pharisêu tin là họ sở hữu, nhưng thật ra họ không sở hữu. Chúa Giêsu khẳng định một cách gián tiếp rằng Lề Luật chưa hoàn hảo, chưa kết thúc. Ngài sẽ hoàn hảo và đưa nó đến cùng đích, đó là đưa con người đến với Ngài để được cứu độ. Chi tiết đầu tiên này khuyến cáo chúng ta về lối sống ‘duy luật’ của mình. Chúng ta thường dùng luật để xét đoán và kết tội anh chị em mình. Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng, mục đích chính của Luật là đưa chúng ta đến với Ngài, Đấng là sự hoàn hảo và cùng đích của Luật. Nói cách khác, Luật đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu và đến với nhau trong tình yêu và tha thứ.
Sau khi nói về sứ mệnh của mình trong tương quan với Lề Luật, Chúa Giêsu khẳng định tính vĩnh cửu của Lề Luật: “Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18). Trong câu khẳng định này, Chúa Giêsu sử dụng từ ‘Amen,’ một trong những thuật ngữ thường xuyên sử dụng trong các Tin Mừng để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời dạy của Chúa Giêsu. Thuật ngữ này thường diễn tả sự đồng ý với một câu khẳng định hoặc một điều ước, nhất là với một lời cầu nguyện. Ở đây, Chúa Giêsu sử dụng như một tiền tố khẳng định cho lời nói của Ngài. Ngài khẳng định tầm quan trọng của một chấm (yodh), là một phụ âm nhỏ nhất trong 22 phụ âm của tiếng Do Thái. Nhưng điều dù nhỏ, không quan trọng như thế cũng được Chúa Giêsu quan tâm đến và hoàn thành nó. Điều này nhắc nhở chúng ta về thái độ ‘chọn con voi mà bỏ qua con kiến’ trong đời sống thường ngày của mình. Theo khuynh hướng tự nhiên, chúng ta muốn làm điều lớn, điều vĩ đại. Chẵng mấy người trong chúng ta sẵn sàng làm những việc nhỏ bé cách hoàn hảo. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm những việc nhỏ bé của mình cách hoàn hảo, vì đó là điều đưa chúng ta đến gần Ngài hơn mỗi giây phút.
Chúa Giêsu kết thúc lời dạy của mình về thái độ sống trước Lề Luật bằng việc chỉ ra cho các môn đệ mối tương quan giữa việc tuân giữ Lề Luật với đời sống trong Nước Trời: “Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5:19). Theo các học giả Kinh Thánh, trong những lời này, Chúa Giêsu chấp nhận sự phân biệt của các Rabbi giữa những giới răn ‘nặng’ và ‘nhẹ’ trong Lề Luật. Các Rabbi đếm được 613 giới răn khác nhau trong Ngũ Kinh và phân loại theo sự nghiêm trọng của chúng. Từ thuật ngữ ‘nặng’ hay ‘nhẹ’ mà những thuật ngữ ‘tôn vinh’ và ‘lên án’ phát xuất. Trong những lời này, Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ rằng: Họ phải thực hành và dạy Lề Luật, nhưng là Lề Luật đã được Ngài kiện toàn. Việc tuân giữ Lề Luật và truyền thống sẽ đảm bảo sự công chính cho các luật sĩ và người Pharisêu; nhưng sự công chính này không mang lại sự đảm bảo để được vào Nước Trời. Sự công chính của các môn đệ phải vượt qua sự công chính này, đó chính là hoàn toàn quy phục thánh ý Thiên Chúa điều vượt qua việc tuân giữ Lề Luật. Người được xem là lớn nhất trong Nước Trời là người hoàn toàn tìm kiếm và tuân theo thánh ý Thiên Chúa.
THỨ NĂM
(Gr 7:23-28; Lc 11:14-23)
PHÚC ÂM: Lc 11, 14-23
“Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: “Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi. “Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán”.
SUY NIỆM: HÃY LÀ NHỮNG NGƯỜI THU GÓP VỚI CHÚA GIÊSU
Thế giới chúng ta sống hôm nay đang khuyến khích một lối sống thực dụng và “duy cảm xúc.” Những gì chúng ta không thích thì chúng ta có thể bỏ đi và thay bằng cái khác hợp với khẩu vị của chúng ta hơn. Trong nền văn hoá ưa chuộng những gì chóng qua và mang lại hạnh phúc chóng tàn này, con người không trân trọng những giá trị mang tính tuyệt đối và vĩnh cửu. Nếu có thì họ cũng xem những giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu như những gánh nặng. Hệ quả là con người dễ dàng thay đổi trong mọi sự, từ các vật dụng cho đến các tương quan. Mọi thay đổi luôn bắt đầu với sự thay đổi của cõi lòng, nhất là trong tương quan của chúng ta với người khác và với Chúa. Hãy nhìn sâu vào trong con tim và cõi lòng của chúng ta để xem Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải thay đổi điều gì trong ngày hôm nay.
Lòng chúng ta có dễ dàng thay đổi không? Có nhiều lý do để một người thay đổi cõi lòng, và một trong những lý do chính đó chính là lời nói của người khác. Khi nghe một lời nói đầy an ủi, lòng của một người đang buồn phiền sẽ cảm thấy được nâng đỡ; nhưng khi nghe một lời nói thiếu tế nhị thì lòng của một người đang vui cũng cảm thấy nôn nao. Nếu chúng ta để cho lòng của chúng ta thay đổi vì lời nói của người khác, tại sao chúng ta không thay đổi cõi lòng khi nghe Chúa nói với chúng ta? Khi một người nghe tiếng người yêu của mình, họ sẽ vui mừng. Chúng ta có cảm thấy vui mừng khi nghe tiếng Chúa, Đấng yêu chúng ta cách tuyệt đối và vô điều kiện và là Đấng chúng ta yêu trên hết mọi sự không? Thánh vịnh đáp ca hôm nay trình bày sự khao khát của Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta khi chúng ta nghe tiếng Ngài: Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng.” Thật vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta phải thay đổi cõi lòng mỗi khi nghe Ngài phán.
Lời Chúa trong bài đọc 1 hôm nay nói lên sự cứng lòng của dân Israel trước lời của Đức Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia nhắc lại cho dân Israel giao ước mà họ đã ký kết với Đức Chúa tại Sinai, là họ phải “bước theo mọi đường lối [Đức Chúa] truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc” (Gr 7:23). Nhưng họ đã “chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến” (Gr 7:24). Thái độ này của dân Israel cũng chính là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta nghe lời Chúa mỗi ngày. Nhưng chúng ta không nghe với cõi lòng nên chúng ta không suy niệm trong lòng và đem ra thực hành. Nói cách cụ thể, chúng ta chỉ giữ đạo hay làm các việc đạo đức cách máy móc để chu toàn bổn phận “bên ngoài” của việc thờ phượng, còn cõi lòng của chúng ta thì xa Thiên Chúa. Hết năm này đến năm khác, chúng ta nghe Chúa mời gọi hãy tha thứ, nhưng chúng ta vẫn không nghe, vẫn không thứ tha; Chúa dạy chúng ta không xét đoán người khác và cầu nguyện cho những người làm chúng ta đau khổ, chúng ta cũng không chấp nhận lời sửa dạy của Ngài và sống mãi trong thái độ “bới lông bắt rận” khi đối xử với người khác.
Sự cứng lòng cũng được Thánh Luca trình bày trong bày Tin Mừng ngày hôm nay. Dân chúng đã nghe Chúa Giêsu giảng dạy, nhìn thấy những phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng họ vẫn không tin Ngài đến từ Thiên Chúa và dùng bàn tay Thiên Chúa để trừ quỷ. Chúng ta cần đọc bài Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh cầu nguyện mà Chúa Giêsu đang dạy các môn đệ của Ngài (Lc 11:1-13). Ngài khẳng định rằng: tất cả những gì chúng ta xin trong khi cầu nguyện sẽ được ban cho chúng ta. Và một trong những món quà Thiên Chúa sẽ ban là quyền trừ quỷ.
Câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay là bối cảnh lời dạy của Chúa Giêsu về nguồn gốc của sức mạnh Ngài có để trừ quỷ: “Khi ấy, Đức Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên” (Lc 11:14). Chúng ta thấy thái độ đầu tiên của đám đông là ngạc nhiên. Nhưng thái độ này nhanh chóng biến thành chê bai. Chúng ta để ý đến ngôn từ Thánh Luca sử dụng. Thánh Sử đã dùng từ “đám đông ngạc nhiên” khi nói đến phản ứng trước phép lạ Chúa Giêsu thực hiện (Lc 11:14). Nhưng khi nói đến thái độ nghi ngờ, ngài sử dụng từ “có mấy người” (x. Lc 11:15), và cuối cùng khi nói đến những người muốn thử Chúa Giêsu, ngài sử dụng từ “kẻ khác” (Lc 11:16). Điều này có nghĩa gì đối với cuộc sống chúng ta? Điều này dạy chúng ta rằng: đứng trước một người hay một sự kiện xảy ra chúng ta thường có những thái độ và nhận định khác nhau, tuỳ góc độ chúng ta nhìn. Như vậy, sự khác biệt trong ý kiến và cái nhìn không hệ tại ở thực tại chúng ta quan sát vì nó vẫn là một và không thay đổi, mà hệ tại ở góc độ chúng ta đang đứng để quan sát hay nói đúng hơn, hệ tại ở “tương quan” của chúng ta với thực tại. Khi tôi có tương quan tốt với người khác thì tôi dễ dàng cảm thông cho một lỗi nhỏ của họ; nhưng cùng lỗi đó sẽ khó được tôi tha thứ khi người đó không được lòng tôi.
Trước khi phân tích cách chi tiết nội dung chính của bài Tin Mừng, có hai điều chúng ta cần lưu ý: (1) Vấn đề được tranh luận trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là vấn đề trừ quỷ, nhưng là vấn đề về nguồn gốc của sức mạnh Chúa Giêsu dùng để trừ quỷ; (2) Chúa Giêsu là Đấng thông hiểu, Ngài biết những gì trong tâm trí của con người: “Người biết tư tưởng của họ” (Lc 11:17).
Nội dung chính của cuộc tranh luận về nguồn gốc của sức mạnh để trừ quỷ nằm trong lời giải thích của Chúa Giêsu (Lc 11:17-22). Chúng ta có thể chia lời giải thích của Chúa Giêsu làm ba phần sau:
Trong phần thứ nhất (Lc 11:17-18), Chúa Giêsu dùng hình ảnh trong thực tế để nói đến sự nghịch lý trong luận chứng của những người chống đối Ngài và không chấp nhận nguồn gốc của sức mạnh trừ quỷ đến từ Thiên Chúa. Khi nói, “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? Chúa Giêsu khẳng định chân lý sau: ở đâu có sự chia rẽ, ở đó có sự điều tàn và sụp đổ. Nếu ngay cả những người làm xấu [Satan] không chống đối nhau để đứng vững thì những người làm việc tốt càng không nên chống đối nhau nếu muốn được đứng vững. Hãy tránh mọi hình thức gây chia rẽ (nhất là những ai sống đời thánh hiến), nếu chúng ta muốn đứng vững và tồn tại để có được một đời sống an vui phục vụ Chúa và phục vụ nhau.
Phần thứ hai (Lc 11: 18-19) là trọng tâm của câu trả lời của Chúa Giêsu về nguồn gốc của sức mạnh trừ quỷ: “… bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ. Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” Trong phần này, Chúa Giêsu dùng từ “ngón tay Thiên Chúa” để đưa người nghe về với “kinh nghiệm xuất hành” (x. Xh 8:15). Qua đó, Ngài muốn khẳng định với họ rằng: những gì Thiên Chúa đã làm trong quá khứ để giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ, bây giờ đang được Chúa Giêsu tiếp tục. Như vậy, câu trả lời này chính là câu khẳng định về căn tính của Chúa Giêsu: Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa và dùng “ngón tay Thiên Chúa” để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi.
Trong phần thứ ba (Lc 11: 21:22), Chúa Giêsu kết thúc câu trả lời của mình với lời mời gọi hãy trở nên mạnh mẽ trong sức mạnh của Thiên Chúa nếu chúng ta muốn chiến thắng những thế lực của sự dữ tấn công chúng ta: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.” Lời Chúa ở đây khuyến cáo chúng ta rằng: Những ai dựa vào sức của mình sẽ bị thất bại ê chề trong cuộc chiến với sự dữ; chỉ có những ai dựa vào ơn Chúa mới đủ sức để “canh giữ lâu đài của mình” và của cải của mình được an toàn. Bạn đang dựa vào sức mạnh của bạn hay của Chúa?
Cuối cùng, bài Tin Mừng hôm nay kết thúc với lời mời gọi cho những ai muốn trở nên môn đệ của Chúa Giêsu: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11:23). Nếu chúng ta là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải là những người cùng Ngài thu góp. Câu này nhắc nhở chúng ta về trường hợp của Phêrô khi ông can ngăn Chúa Giêsu sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Ông liền bị Chúa Giêsu gọi là Satan, là người chống lại Ngài. Chúng ta có đi với Chúa Giêsu không? Nếu chúng ta đi với Chúa Giêsu tại sao nhiều khi chúng ta lại phàn nàn và giận dữ khi Ngài muốn chúng ta đi theo con đường Ngài muốn chúng ta đi hoặc làm những việc Ngài muốn chúng ta làm? Hãy là những người đi với Chúa Giêsu và thu góp với Ngài trong từng lời nói và việc làm của chúng ta.
THỨ SÁU
(Hs 14:2-10; Mc 12:28b-34)
PHÚC ÂM: Mc 12, 28b-34
“Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”
Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Còn đây là giới răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
SUY NIỆM: ĐỪNG SỐNG BẤT TRUNG VỚI THIÊN CHÚA
Sách Ngôn sứ Hôsê là một trong những sách nói lên tình yêu trung thành của Thiên Chúa dành cho Israel: Thiên Chúa vẫn luôn trung thành cho dù dân Israel bao lần chạy theo ngẫu tượng. Điều này được phản chiếu trong hình ảnh của Ngôn sứ khi ông được gọi và làm theo lệnh của Thiên Chúa để cưới một cô gái điếm; cô gái điếm này sẽ đi theo những người đàn ông khác, và ngôn sứ phải đi tìm về từ lần này đến lần khác. Đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành và đi tìm Israel [chúng ta] trở về với Ngài, dù nhiều lần họ bỏ Ngài để đi theo những ngẫu tượng khác. Đây chính là bối cảnh để chúng ta hiểu lời Chúa trong bài đọc 1 hôm nay. Nội dung chính của bài đọc 1 là lời mời gọi Israel hãy trở về với Đức Chúa.
Một trong những điểm Hôsê muốn nói cho dân Israel thời đó và chúng ta hôm nay là nguồn gốc của những vấp ngã của chúng ta. Chúng ta vấp ngã vì chúng ta cầu cứu và dựa vào sức của con người, dựa vào những gì không phải là Thiên Chúa (x. Hs 14:4). Thật vậy, một trong những đề tài chính của sách Hôsê là việc tôn thờ ngẫu tượng. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng: dân Israel thời đó và chúng ta hôm nay thường tôn thờ ngẫu tượng hơn là Thiên Chúa. Chúng ta để cho các ngẫu tượng như tiền tài, danh vọng và quyền lực chi phối cuộc sống của chúng ta và làm cho chúng ta tìm thấy sự an toàn trong chúng. Hệ quả là chúng ta trở thành bất trung với Thiên Chúa, với những lời chúng ta tuyên hứa trong bí tích Rửa Tội [hoặc trong ngày tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm]. Nếu chúng ta đang sống bất trung với Thiên Chúa, hãy nghe lời của Ngôn sứ Hôsê mà trở về với Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài.
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta cuộc tranh luận liên quan đến giới răn hàng đầu trong 613 giới răn của luật Cựu Ước. Đây là một đề tài thường được đưa ra bàn thảo giữa các thầy dạy Do Thái nổi tiếng. Câu hỏi được một kinh sư đặt ra cho Chúa Giêsu là: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” (Mc 12:28b). Thông thường các kinh sư và người Pharisêu có thái độ chống đối với Chúa Giêsu. Họ thường thử Ngài. Nhưng trong bối cảnh này, người kinh sư không mang vẻ muốn tấn công hay thử Chúa Giêsu, mà là muốn biết đâu là giới răn quan trọng nhất. Thật vậy, chính thái độ và khát vọng chân thật muốn học hỏi từ Chúa Giêsu đã biến cuộc gặp gỡ thành một buổi học hỏi hơn là một cuộc tranh luận. Điều này được chứng tỏ qua việc Chúa Giêsu đã khen ông ta: “Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ‘Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!’” (Mc 12:34). Chi tiết này dạy chúng ta một điều, đó là trong cuộc sống chúng ta cần tránh thái độ ‘vơ đũa cả nắm,’ hay đúng hơn là thái độ ‘tổng quát hoá’ – từ một sự kiện, chúng ta tổng quát hoá nó lên và gán cho người khác cái mác họ là như thế. Con người là một hữu thể có khả năng chọn lựa để thay đổi. Vì vậy, chúng ta cần nhìn người khác với con tim và tâm trí rộng mở, để có thể đón nhận và yêu thương họ mà không có thành kiến.
Câu hỏi mà người kinh sư đưa ra cho Chúa Giêsu thường là câu hỏi được đặt cho các rabbi. Câu trả lời nổi tiếng của Hillel là: “Điều gì chính mình ghét, đừng làm cho người thân cận của mình. Đây chính là toàn bộ lề luật; phần còn lại chỉ là giải thích. Hãy đi và học!” Đây là câu trả lời của Hillel cho một người mới tin đạo mong muốn được biết về đạo. Bối cảnh này phản ánh điều đang xảy ra giữa Chúa Giêsu và người kinh sư. Trước câu hỏi của vị kinh sư, Chúa Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31). Câu trả lời của Chúa Giêsu bao gồm hai câu trích từ sách Đệ Nhị Luật (6:4-5) và Lêvi (19:18). Điều này chứng tỏ lời dạy của Chúa Giêsu là chính thống như một thầy dạy Do Thái và chứng minh việc Ngài yêu thích đưa thính giả của mình trở về với nền tảng của mọi sự. Câu trích từ sách Đệ Nhị Luật (6:4-5) là bản văn đầu tiên trong ba bản văn được những người Do Thái đạo đức đọc hai lần trong ngày (Đnl 6:4-9; 11:13-21; Ds 15:37-41). Giới răn yêu Chúa tuôn chảy từ chính bản chất của Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Bốn danh từ được nêu ra trong câu 30 [lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực] không ám chỉ đến bốn bộ phận khác nhau của con người, nhưng là cách thức để nhấn mạnh rằng toàn bộ con người phải yêu mến Thiên Chúa. Dù người kinh sư chỉ hỏi một giới răn, Chúa Giêsu thêm giới răn thứ hai. Theo các học giả Kinh Thánh, đây không phải là một nỗ lực đánh đồng hay nối hai giới răn lại với nhau [như trong Tin Mừng Thánh Luca]. Hai giới răn được nối với nhau bởi từ ‘yêu.’ Chính giới răn yêu Chúa làm cho giới răn yêu người thân cận như chính mình là có thể. Điều này cho thấy chỉ những ai có một tình yêu chân thật dành cho Chúa mới có thể yêu người khác cách chân thật.
Khi nghe Chúa Giêsu trả lời cách khôn ngoan và chính thống, người kinh sư thốt lên: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Ông ta tán thành với lời dạy của Chúa Giêsu bằng cách nhắc lại câu trả lời của Ngài không với cung giọng tấn công hay khinh thường. Qua lời dạy của Chúa Giêsu ông ta hiểu hơn về mối tương quan giữa tình yêu và hy tế. Bằng lời của mình, người kinh sư đơn giản bày tỏ sự hiểu biết của mình sau khi được Chúa Giêsu chỉ dạy, đó là tình yêu dành cho Thiên Chúa và người thân cận phải là những nguyên lý căn bản nâng đỡ toàn bộ hệ thống hy tế. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta rằng, những hy sinh của chúng ta sẽ không có giá trị gì nếu chúng không xuất phát từ động lực yêu Chúa và yêu anh chị em mình.
THỨ BẢY
(Hs 6:1-6; Lc 18:9-14)
PHÚC ÂM: Lc 18, 9-14
“Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi”. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
SUY NIỆM: ĐỪNG “COI KHINH” NGƯỜI KHÁC
Ai trong chúng ta cũng đã một lần trải qua kinh nghiệm mang trong mình một vết thương trên thân xác hoặc trong tâm hồn. Khi mang vết thương, chúng ta cảm thấy đau đớn, nhưng khi vết thương được chữa lành, chúng ta được hưởng một niềm vui khôn tả. Niềm vui được chữa lành làm chúng ta quên đi những đau đớn mà chúng ta đã phải chịu đựng. Đây chính là kinh nghiệm của dân Israel được Ngôn sứ Hôsê nói đến trong bài đọc 1 hôm nay. Chính niềm vui được Thiên Chúa chữa lành là động lực để cho họ trở về với Chúa. Chúng ta có thể nhận ra trong bài đọc 1 hôm nay hai thái độ sau: thái độ kiên định của dân Israel khi quyết định trở về với Thiên Chúa và thái độ “đòi hỏi” tình yêu nơi dân Israel khi họ trở về. Đây chính là hai thái độ chúng ta cần suy gẫm trong tương quan mỗi ngày của chúng ta với Thiên Chúa.
Hôsê trình bày quyết tâm trở về của dân Israel trong những lời thật cảm động: “Con cái Israel bảo nhau rằng: ‘Nào chúng ta hãy trở về cùng Đức Chúa. Người đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó vết thương’” (Hs 6:1). Dân Israel trở về vì họ biết chắc một điều là Đức Chúa sẽ đoái thương đến họ sau khi sửa phạt những lỗi lầm của họ. Hôsê trình bày kinh nghiệm trở về này của dân Israel như là kinh nghiệm phục sinh của Chúa Giêsu: “Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan Người” (Hs 6:2). Nói cách khác, khi trở về với Chúa, dân Israel sẽ được biến đổi và sống một đời sống mới mà Thiên Chúa ban cho họ. Để đạt được điều đó, họ phải ra sức nhận biết Thiên Chúa khi Ngài đến như hừng đông mỗi ngày xuất hiện và như mưa rào, như mưa xuân tưới gội đất đai (x. Hs 6:3). Chỉ khi nhận ra Thiên Chúa xuất hiện trong từng giây phút sống, chúng ta mới có thể đáp lại và sống trọn vẹn theo sự hướng dẫn của Ngài. Vậy, hãy tỉnh thức để nhận ra Chúa đến với chúng ta trong những sự kiện nhỏ bé của đời sống thường ngày.
Nỗi lòng của Thiên Chúa mỗi khi dân Israel và chúng ta đi lạc xa khỏi tình yêu của Ngài là Ngài vẫn mong chờ họ và chúng ta với một tình yêu tuyệt đối. Chính tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải đáp lại với tình yêu, chứ không phải với hy lễ (x. Hs 6:6): “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” Ngài muốn chúng ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa của chúng ta chứ không phải là những ngẫu tượng. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta về tình yêu chóng tàn của chúng ta: “Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai” (Hs 6:4). Thiên Chúa muốn nơi chúng ta một tình yêu kiên định và trung thành. Không ai trong chúng ta muốn người khác yêu mình với một “tình yêu bốn mùa” – sáng nắng, chiều mưa, trưa lâm râm và tối sương mù. Ai cũng mong người khác yêu mình với một tình yêu không thay đổi và trung thành. Thiên Chúa luôn yêu chúng ta với tình yêu trung thành và vô điều kiện, và Ngài cũng mong chúng ta yêu lại Ngài với một tình yêu chân thật và trung thành.
Trong dụ ngôn người Pharisêu và thu thuế hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ về tầm quan trọng của việc lệ thuộc vào Thiên Chúa hơn là dựa vào chính mình. Đây là dụ ngôn cuối cùng của Thánh Luca. Mục đích của dụ ngôn được trình bày ngay trong câu giới thiệu của chính Thánh Luca: “Khi ấy, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18:9). Trong những lời này, Thánh Luca không chỉ nhắm đến những người Pharisêu, là những người ‘công chính’ trước lề luật vì họ giữ luật rất chặt chẽ. Vì lý do đó, họ rất tự tin vào chính mình. Đối với họ, tiêu chuẩn để cho một người nên công chính là khả năng giữ luật. Điều này hoàn toàn dựa trên sức của mình. Nói cách khác, chính việc giữ luật của họ làm cho họ nên công chính chứ không phải lòng thương xót của Thiên Chúa làm cho họ nên công chính. Đây chính là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta thường có thái độ khinh chê người khác khi họ sống không đạo đức, thánh thiện như chúng ta. Từ đó, chúng ta đặt mình làm tiêu chuẩn của sự thánh thiện. Những ai không đạt đến tiêu chuẩn của mình, chúng ta loại trừ và khinh chê. Chúng ta có đang ở trong tình trạng khinh chê anh chị em thiếu đạo đức hơn mình không? Nếu có, chúng ta hãy để Chúa Giêsu biến đổi chúng ta qua dụ ngôn.
Chi tiết đầu tiên chúng ta cần lưu ý là: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế” (Lc 18:10). Hai người làm chung một công việc, đó là lên đền thờ cầu nguyện. Thời gian cầu nguyện trong đền thờ của người Do Thái là từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Khách quan mà nói, họ không có gì khác nhau trong công việc. Điều làm cho họ khác nhau chính là thái độ cầu nguyện: “Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’” (Lc 18:11-13). Chúng ta thấy người Pharisêu đứng thẳng ở ‘chỗ nhất,’ trong khi đó người thu thuế đứng đằng xa ở ‘chỗ rốt hết,’ mặt cúi xuống; người Pharisêu kể cho Thiên Chúa nghe công trạng của mình và nhìn xuống cách khinh chê những người khác, còn người thu thuế chỉ đấm ngực sám hối xin Thiên Chúa thương xót mình. Trong cầu nguyện, thái độ trước Thiên Chúa mới quan trọng. Cầu nguyện là tương quan cá vị của mình với Thiên Chúa. Trong cầu nguyện, chúng ta đáp lại sứ điệp Tin Mừng của Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Người thu thuế đã thực hiện điều này, đã không dựa vào sức mình để được nên công chính, nhưng đáp lại sứ điệp của Chúa Giêsu để chỉ dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa để được nên công chính. Thái độ khiêm nhường sám hối của người thu thuế đã được Chúa Giêsu khen ngợi: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18:14). Trong những lời này, Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ rằng sự công chính của một người không hệ tại những việc tốt người đó thực hiện, nhưng là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho những người sám hối trở về với Ngài. Cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu mỗi người chúng ta không khinh chê anh chị em mình, nhưng biết khiêm nhường sám hối trước mặt Chúa mỗi phút giây vì sự yếu đuối mỏng dòn của mình.