Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày- Tuần 16 Thường Niên

161

THỨ HAI TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN

(Xh 14:5-18; Mt 12:38-42)

PHÚC ÂM: Mt 12, 38-42

Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ”. Người trả lời: “Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Đấng cao trọng hơn Giona. Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Đấng cao trọng hơn Salomon”.

SUY NIỆM: CHÚA GIÊSU: “DẤU LẠ” CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Bài đọc 1 hôm này thuật lại cho chúng ta cuộc “trốn chạy” của dân Israel ra khỏi vùng đất nô lệ Ai Cập. Khi Pharaô biết “lợi ích” của mình bị vuột mất khỏi tầm tay, ông ta cùng toàn bộ bề tôi tìm cách để “cướp lại” những gì đã mất. Đây là điều mà mỗi người chúng ta cũng thường mắc phải, đó là khi lợi ích cá nhân riêng của mình bị cướp mất, chúng ta dùng đủ mọi cách để chiếm lại. Càng làm thế, thì lòng chúng ta càng trở nên chai đá (Xh 14:8) và không còn nhận ra thánh ý Thiên Chúa và nỗi khổ của anh chị em mình. Nhưng Đức Chúa luôn đứng về phía kẻ yếu. Điều này dễ nói, dễ nghe hơn đem ra thực hành. Theo kinh nghiệm thường ngày, cũng đã nhiều lần chúng ta quên mất Thiên Chúa khi đối diện với những khó khăn và hiểm ngụy. Giống như dân Israel xưa, chúng ta cũng phàn nàn với Thiên Chúa: “Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Đó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 23:11-12). Những lời này cho thấy dân Israel [và cả chúng ta] thấy vấn đề vượt qua quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta quên hết những kỳ công Chúa đã thực hiện để rồi chỉ còn biết sống trong nỗi thất vọng ê chề của kiếp con người. Chúng ta cần phải nhớ rằng, trong những khó khăn và hiểm nguy, nếu đặt niềm tin vào Chúa, chúng ta sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa tỏ hiện: “Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pharaô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pharaô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy” (Xh 23:17-18).

Bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta về dấu lạ của Giôna. Trình thuật hôm nay cũng được tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Máccô (8:11-12) và Luca (11:29-32). Theo các học giả Kinh Thánh, trình thuật này là ví dụ đầy ấn tượng về sự phát triển của truyền thống Tin Mừng qua việc kết hợp giữa những lời nói nguyên thuỷ riêng biệt nhau với những lời giải thích của chúng. Thánh Mátthêu đã tái thiết lại hình thể câu chuyện của Thánh Maccô trong 16:1-4 và hình thức của nguồn Q. Thánh sử thêm vào nguồn Q trích dẫn từ Cựu Ước (Gn 2:1) và ứng dụng của trích dẫn trong câu 40. Một cách tổng quát, trình thuật này dạy chúng ta những điều sau: (1) sự vô ích của việc tìm kiếm những dấu lạ ngoạn mục [lạ thường] (câu 39); (2) định mệnh của Giôna chính là một kiểu mẫu tiên báo về sự phục sinh của Chúa Giêsu (câu 40). Sự phục sinh chính là dấu lạ ngoạn mục nhất cho những người tin; (3) sự quan trọng của rao giảng và sám hối (câu 41); (4) dân ngoại đôi khi dễ mở rộng cõi lòng để đón nhận các sứ giả được Thiên Chúa sai đến hơn là người Do Thái (câu 41-42); (5) sự quan trọng của việc tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà trong đó những người nữ cũng được chia sẻ và đôi khi đạt đến mức vượt trội (câu 42); (6) Chúa Giêsu thì vĩ đại hơn tất cả những ngôn sứ và những người thông thái trước đó (câu 41-42), bởi vì Ngài chính là mạc khải tuyệt đối của Chúa Cha (x. Mt 11:27).

Điều đáng để chúng ta lưu tâm đầu tiên trong trình thuật Tin Mừng là thính giả của Chúa Giêsu. Họ không còn là các môn đệ hoặc đám đông mà là “mấy kinh sư và mấy người Pharisêu” (Mt 13:38). Họ đến với Chúa Giêsu với một mục đích, đó là muốn Chúa Giêsu thực hiện một dấu lạ: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.” Thuật ngữ “dấu lạ” thường được sử dụng trong Tin Mừng Thánh Gioan để nói đến những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện. Tuy nhiên ở đây, nó ám chỉ đến một điều lạ chói ngời mà giác quan có thể nhận ra để chứng minh quyền năng của Chúa Giêsu. Thái độ đến với Chúa Giêsu của các kinh sư và Pharisêu cũng phản ánh phần nào thái độ của nhiều người trong chúng ta. Nhiều lần, chúng ta đến với Chúa để xin Ngài dùng quyền năng của Ngài để thực hiện dấu lạ mà chúng ta có thể nhìn thấy như cho mình hoặc người khác lành bệnh, cho việc làm ăn được thuận tiện để thu về nhiều hoa lợi, v.v. Động lực thúc đẩy chúng ta đến với Chúa Giêsu không phải là tạo nên mối tương quan mật thiết với Ngài, nhưng là để thoả mãn sự hiếu kỳ hay ước muốn của mình. Dấu lạ quan trọng nhất khi đến với Chúa Giêsu là cuộc sống chúng ta được biến đổi trở nên yêu thương hơn.

Trước đòi hỏi của mấy kinh sư và mấy người Pharisêu, Chúa Giêsu đã trách và cho họ biết rằng dấu lạ đã được thực hiện, đó là dấu lạ của Giôna: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna. Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 13:39-40). Dấu lạ của ngôn sứ Giôna bao gồm hai khía cạnh, đó là việc Giôna ở trong bụng cá và lời rao giảng của Giôna. Dấu lạ này ám chỉ đến việc Chúa Giêsu được chôn trong mồ ba ngày. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, ba ngày được tính từ ngày chuẩn bị lễ vượt qua/sabbát, chính ngày lễ và ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta là những người sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Đó là dấu lạ vĩ đại nhất mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Chúng ta cần sống dấu lạ này trong từng giây phút sống của mình, đó là sống đời sống mới trong Đức Kitô. Nói cách cụ thể, thay vì đi tìm dấu lạ, chúng ta trở thành dấu lạ cho anh chị em mình qua việc sống niềm vui và bình an phục sinh.

Thánh Matthêu kết thúc trình thuật của mình với việc đưa thính giả của mình về ngày cánh chung. Thánh sử sử dụng hình ảnh của Giôna [người nam] và nữ hoàng Phương Nam [người nữ] để làm chứng trong cuộc phán xét: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ninivê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa. Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn; mà đây thì còn hơn vua Salômôn nữa” (Mt 13:41-42). Thánh Matthêu tiếp tục sử dụng sự so sánh giữa Chúa Giêsu với những con người hoặc vật thể gần gũi với Do Thái giáo. Ở đây, thánh sử so sánh Chúa Giêsu với Giôna và Salômôn. Trong trường hợp so sánh với Giôna, Thánh Mátthêu muốn nói với thính giả rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu phải mang lại sự sám hối lớn hơn lời dạy của các ngôn sứ vì Chúa Giêsu cao trọng hơn. Còn trong trường hợp so sánh với Salômôn, Thánh Mátthêu chỉ ra Chúa Giêsu chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mà mọi người từ mọi phương tìm kiếm chứ không chỉ có nữ hoàng phương nam. Hai sự so sánh này phản ánh thực tại trong đời sống thường ngày. Chúng ta cũng thường mời nhiều nhà giảng thuyết lừng danh để nghe họ giảng hoặc chúng ta bỏ tiền để đi tìm sự khôn ngoan ở nhiều người. Điều này đôi khi làm chúng ta mãn nguyện với những gì mình đã nhận được rồi quên mất suối nguồn của sự khôn ngoan. Không có ai cao trọng hơn Chúa Giêsu. Lời Ngài phải mang lại sự sám hối [thay đổi] nơi chúng ta, đồng thời làm chúng ta trở nên khôn ngoan hơn trong Chúa. Liệu chúng ta có đến với Chúa Giêsu để được thay đổi và trở nên khôn ngoan hơn trong Ngài [chứ không khôn ngoan theo kiểu thế gian] không?

****************

THỨ BA TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN – THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ

(2 Cr 4:7-15; Mt 20,20-28)

PHÚC ÂM: Mt 20, 20-28

Khi ấy, bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: “Bà muốn gì?” Bà ta thưa lại: “Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài”. Chúa Giêsu đáp lại: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây ta sắp uống chăng?” Họ nói với Người: “Thưa được”. Người bảo họ: “Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được”. Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em. Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”.

SUY NIỆM: CÙNG UỐNG CHÉN ĐẮNG VỚI ĐỨC KITÔ

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính thánh Giacôbê tông đồ. Thánh Giacôbê là một trong ba “bạn đồng hành quen thuộc” của Chúa Giêsu. Thánh nhân cùng với Phêrô và Gioan được đón tiếp vào nhà của Giairô nơi mà đứa bé gái được cho sống lại. Cả ba cũng được đưa lên núi cao và nhìn thấy Chúa Giêsu biến hình. Cả ba cũng là những chứng nhân giây phút đau buồn của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Điều gì làm cho Thánh Giacôbê chiếm được vị trí đặc biệt đó? Đó là đức tin, lòng nhiệt thành, mạnh mẽ và trực tính. Nhưng thánh nhân cũng cần được thanh luyện trước khi có thể công bố Tin Mừng bình an. Chính thánh nhân là người xin lửa từ trời thiêu đốt những người Samaria không hiếu khách và cũng là người đi tìm chỗ danh dự trong Nước Trời. Khi khiển trách Giacôbê về những “phản ứng thái quá” này, Chúa Giêsu đã tiên báo về sự trung thành cho đến chết của thánh nhân. Khi thánh nhân bị đưa ra trước vua Herôđê Agrippa, thánh nhân đã tuyên xưng Đức Kitô bị đóng đinh một cách không sợ hãi. Điều này đã làm cho người kết án thánh nhân tuyên nhận mình là người Kitô hữu và cả hai được đưa đi hành hình và trên đường đi, người xử án xin thánh nhân tha thứ cho mình. Nhưng thánh nhân đã tha thứ cho người kết án mình từ lâu. Cả hai bị chém đầu để làm chứng cho niềm tin. Học gương thánh nhân, chúng ta cần tha thứ cho những người làm tổn thương mình. Chính tình thương và sự bao dung là động lực để đưa anh chị em chúng ta về với đường lối của Thiên Chúa.

Trong bài đọc 1, Thánh Phaolô, trong thư Thứ Hai gởi tín hữu Côrintô, trình bày cho chúng ta về thực tại mà người môn đệ Chúa Giêsu đối diện, đó là “mang sứ vụ tông đồ nơi mình như chứa đựng kho tàng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4:7). Điều này được thấy rõ trong hình ảnh Thánh Giacôbê trong bài Tin Mừng hôm nay khi thánh nhân “nói mẹ” đến xin Chúa Giêsu cho được chỗ danh dự trong vương quốc của Ngài. Dù đi theo Chúa, nhưng những môn đệ vẫn còn trong mình những yếu đuối của con người. Chính trong những yếu đuối mà người môn đệ nhận ra rằng những gì họ đạt được không phải do sức của họ, nhưng do quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa. Điều này giúp chúng ta không thất vọng khi thấy mình yếu đuối, nhưng khi nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta trở nên khiêm nhường và ý thức mình cần đến Chúa.

Điểm thứ hai đáng để chúng ta suy gẫm là tâm tình tin tưởng và hy vọng của Thánh Phaolô khi đối diện với những đau khổ: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2 Cr 4:8-9). Ngài sống trọn tâm tình này vì Ngài “luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4:10). Trong những lời này, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy khi đối diện với đau khổ, chúng ta không trốn chạy, nhưng đón nhận với tâm tình như mang trong mình cuộc thương khó của Đức Kitô. Khi làm được điều đó, chúng ta sẽ nhận ra chúng ta không còn sống với sự sống yếu đuối của mình, nhưng đang sống với sự sống mới trong Đức Kitô.

Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc trong lễ kính nhớ Thánh Giacôbê, vì tên thánh nhân được đề cập đến. Tuy nhiên, khi chúng ta mới đọc lướt qua đoạn Tin Mừng này, thánh nhân được trình bày với một hình ảnh tiêu cực. Nói cách cụ thể, ngài được trình bày như người “ham chức ham quyền.” Chúng ta cùng nhau phân tích hai phần của bài Tin Mừng hầu rút ra điều Chúa muốn nói với chúng ta khi Ngài nói vời Thánh Giacôbê.

Phần 1 (Mt 20:20-23) trình bày việc mẹ của Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu ban cho bà một điều ước, đó là con bà sẽ ngồi một người bên hữu và một người bên tả Ngài trong Nước Trời (x. Mt 20:21). Chúng ta thấy ở đây Thánh Mátthêu đặt lời cầu xin vào miệng của người mẹ, để tránh tiếng cho người môn đệ. Thánh sử cũng không nói đến tên các con bà. Khi làm điều này, Thánh Mátthêu cố ý bảo vệ danh tiếng cho người hùng của những người Kitô hữu gốc Do Thái, đó là Thánh Giacôbê [người được xem là “giám mục đầu tiên” của Giêrusalem]. Đối với các tín hữu gốc Do Thái, Thánh Giacôbê là người rất được tôn kính. Tuy nhiên, để được tôn kính, Chúa Giêsu mời gọi thánh nhân chia sẻ trong “chén đắng” Ngài sắp uống. “Chén đắng” là biểu tượng của sự đau khổ. Ở đây Thánh Mátthêu bỏ qua “phép rửa” mà Thánh Máccô đề cập đến. Chi tiết này dạy chúng ta rằng: để được người khác tôn kính, chúng ta phải chia sẻ trong nỗi thống khổ của Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta chỉ được tôn kính chỉ khi chúng ta sống cho người khác ngay cả khi phải chịu đau khổ và chết cho họ.

Chúng ta cần lưu ý rằng trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu không trách các môn đệ [và người mẹ] về việc họ xin ngồi bên hữu và bên tả Ngài. Ngài chỉ muốn họ khẳng định quyết tâm chia sẻ trong đau khổ mà Ngài sắp chịu: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (Mt 20:22). Và họ đã khẳng định với Ngài về quyết tâm của: “Thưa uống nổi.” Khi thấy họ quyết tâm, Chúa Giêsu bảo đảm cho họ một chỗ trong việc chia sẻ chén đắng của Ngài [có thể ám chỉ đến việc tử đạo], đồng thời Ngài cũng bảo đảm cho họ một phần thưởng mà Chúa Cha đã chuẩn bị cho họ: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được” (Mt 20:23).

Đứng trước lời yêu cầu của người mẹ các con ông Dêbêđê và phản ứng khó chịu của mười người môn đệ còn lại, Chúa Giêsu [trong phần 2 (Mt 20:24-28)] dạy họ về việc muốn được tôn trọng hoặc trở thành người lãnh đạo. Theo Chúa Giêsu, kiểu mẫu lãnh đạo theo kiểu trần thế không phù hợp với Nước Trời. Trong lời dạy của mình, Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người lãnh đạo, đó là “phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26) và “phải làm người đầy tớ anh em” (Mt 20:27). Hai kiểu mẫu này được tìm thấy trong chính Chúa Giêsu: Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Điều này cho thấy Chúa Giêsu muốn các môn đệ trở nên giống Ngài trong mọi sự, nếu họ muốn được ngồi vào “vị trí cao” trong Nước Trời. Càng nên giống Chúa Giêsu, chúng ta mới hiểu được thế nào là “có quyền.” Càng trở nên giống Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận ra rằng người có quyền là người tự do trao ban chính mình để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình cho những người kém may mắn.

Nếu chúng ta phân tích cấu trúc bài Tin Mừng hôm nay [gồm 9 câu], chúng ta nhận ra rằng câu ở giữa là câu 24: “Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó.” Điều này cho thấy có sự ghen tỵ, cạnh tranh ở giữa các môn đệ liên quan đến vấn đề chức danh và quyền lợi. Có thể đây là một vấn đề đang xảy ra trong cộng đoàn của Thánh Mátthêu. Vấn đề này vẫn xảy ra trong đời sống gia đình, cộng đoàn đời tu. Để giải quyết vấn đề này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trước hết phải đón nhận mọi sự như được chia sẻ trong “chén đắng” của Ngài và sau đó là khiêm nhường “cúi xuống” phục vụ anh chị em mình. Đây là hai thái độ cần thiết để chiến thắng sự ghen tỵ và tức tối khi người khác thành công hơn mình.

******************

THỨ TƯ TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN- THÁNH GIOAKIM VÀ ANNA

LỄ THỨ TƯ TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN: (Xh 16:1-5.9-15; Mt 13:1-9)

PHÚC ÂM: Mt 13, 1-9

Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói: “Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt được sáu mươi, hạt ba mươi. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe”.

SUY NIỆM: ĐÂM RỄ SÂU TRONG CHÚA ĐỂ SINH HOA TRÁI TỐT

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Thông thường, con người hay phàn nàn kêu ca khi những nhu cầu thân xác của mình không được thoả mãn. Ít người phàn nàn khi nhu cầu thiêng liêng không được thoả mãn. Đây là điều dân Israel làm trong bài đọc 1 hôm nay. Họ đã phàn nàn kêu ca khi bị đói khát: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16:3). Khi rơi vào cảnh túng thiếu, chúng ta thường “hồi tưởng” lại những “kỷ niệm đẹp” của quá khứ, mà ít khi nhìn về một tương lai tươi sáng đang chờ đợi chúng ta. Thật vậy, khi bị túng thiếu, con cái Israel đã nhớ về những giây phút “huy hoàng” trong đất nô lệ Ai Cập mà quên mất một tương lai tươi sáng Thiên Chúa chuẩn bị cho họ trong đất hứa, vùng đất tự do.

Điều đáng để chúng ta suy gẫm trong bài đọc 1 là lời Đức Chúa phán với ông Môsê trước sự phàn nàn của dân Israel: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không.  Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần chúng lượm mỗi ngày” (Xh 16:4-5). Trong những lời này, chúng ta thấy rằng trong cái nhìn Kitô giáo, những khó khăn trong cuộc sống có thể là thử thách để thử lòng chúng ta xem có trung thành với Thiên Chúa không? Người ta thường nói: Tình yêu thật phải được thử thách. Thật vậy, một người yêu người khác chỉ khi thịnh vượng thì không yêu thật. Yêu một người với một tình yêu chân thật là yêu người đó khi “thinh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ.” Tình yêu dành cho Chúa cũng vậy. Chúng ta cũng phải trung thành với tình yêu của mình dành cho Chúa ngay cả khi gặp thử thách và gian nan.

Đoạn trích Tin Mừng hôm nay cũng được Thánh Máccô (4:1-9) và Luca (8:4-8) thuật lại. Đây là dụ ngôn người gieo giống. Dụ ngôn này là dụ ngôn đầu tiên trong những dụ ngôn về Nước Trời (Mt 13:1-53). Theo các học giả Kinh Thánh, dụ ngôn gieo giống được Chúa Giêsu sử dụng nhằm đến những thính giả là những người quen thuộc với việc cày cấy.

Thông thường chúng ta thấy Chúa Giêsu giảng trong các hội đường. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài dạy dân chúng bên ngoài, ven Biển Hồ: “Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ” (Mt 13:1). Chi tiết Ngài “phải xuống thuyền mà ngồi” ám chỉ một nhóm người rất đông đứng trên bờ để lắng nghe Ngài. Cử chỉ “ngồi” là vị thế của một Rabbi. Chúng ta cùng nhau phân tích những loại hạt giống gieo trên những môi trường khác nhau và suy gẫm xem mình thuộc loại hạt giống được gieo trên môi trường nào.

Loại hạt đầu tiên của bốn loại là loại “rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất” (Mt 13:4). Như chúng ta biết, vệ đường là nơi không cày cấy được, đất không được chuẩn bị cho việc trồng trọt. Vì vậy, hạt giống rơi xuống chỉ nằm trên mặt đất. Nên chim trời dễ dàng đến ăn mất. Loại hạt này ám chỉ những người có tâm hồn chai đá hay những người đóng tai lại trước lời Chúa. Họ là những người đến với Chúa mà không chuẩn bị. Tâm hồn không được cày xới để lời Chúa được gieo vào. Lời Chúa chỉ “đi vào tai này và ra tai kia,” không đọng lại một tí gì trong tâm trí và cõi lòng họ. Ngày hôm nay, nhiều người chúng ta rơi vào tình trạng này khi chúng ta bị cuốn hút vào dòng chảy cuộc sống, chúng ta bận rộn đến nỗi không còn giờ để chuẩn bị tâm hồn đón nhận lời Chúa, nên lời Chúa chỉ ở trên bề mặt của cuộc sống và dễ dàng bị lấy đi bởi những lời khác của con người.

Loại thứ hai là loại “ rơi trên nơi sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô” (Mt 13:5-6). Như chúng ta biết, hầu hết diện tích đất ở Palestine là sỏi đá và lớp đất trên mặt thường rất mỏng. Khi rơi vào những chỗ như thế, hạt giống mọc lên rất nhanh, nhưng không được bảo vệ bởi đất sâu hơn, nên rễ không thể đâm sâu. Kết quả là nó sẽ bị chết khô. Đây là hình ảnh của những người sống theo cảm tình tự nhiên. Họ mau mắn đáp lại lời Chúa, nhưng đáp lại cách nhất thời. Họ không để cho lời Chúa cắm rễ sâu trong tâm trí và cõi lòng họ. Nên khi những khó khăn và giông bão cuộc đời ập đến, họ sẽ dễ dàng đánh mất niềm tin của mình.

Loại thứ ba là loại “rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt” (Mt 13:7). Loại thứ ba này rơi vào chỗ có đất sâu vì bụi gai có thể mọc lên. Nhưng vấn đề là mảnh đất này đã bị chiếm lấy bởi cỏ lùng [bụi gai]. Nên khi hạt nảy mầm, nó không thể cạnh tranh với sức mạnh của bụi gai nên nó bị làm cho chết nghẹt. Đây là hình ảnh của những người cũng mong ước lắng nghe lời Chúa, nhưng lại để cho mảnh đất tâm hồn bị chiếm lấy bởi những tiếng nói khác. Khi lời Chúa được gieo vào lòng, thì ngay lập tức bị giết chết.

Loại cuối cùng là loại “rơi trên đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8). Khi hạt giống rơi vào đất tốt và sâu, chúng sẽ đâm rễ sâu, sinh nhiều hoa trái, dù rằng chúng không cùng một khối lượng. Hình ảnh này áp dụng cho những người với khả năng riêng của mình để cho lời Chúa cắm rễ sâu trong tâm trí và cõi lòng mình để rồi sinh hoa trái theo khả năng Chúa ban cho họ.

Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn với lời mời gọi “Ai có tai thì nghe” (Mt 13:9). Đây là câu điệp khúc (x. 11:15; 13:43) tạo thành một lời mời gọi thính giả suy nghĩ cẩn thận về những ứng dụng vào cuộc sống con người những hình ảnh được trình bày trong dụ ngôn. Người nghe phải tham gia vào câu chuyện nếu muốn câu chuyện mang lại hiệu quả trong cuộc sống họ. Dụ ngôn này sẽ được giải thích trong câu 18-23 [chúng ta sẽ nghe vào một trong những ngày tới]. Dù lời giải thích đến sau, nhưng trong câu chuyện chúng ta có thể đoán biết rằng người gieo giống chính là Thiên Chúa, Chúa Giêsu hay một trong những sứ giả của Thiên Chúa. Hạt giống là lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả hoặc bị mai một đi, tùy theo thái độ sống và tự do của mỗi người: đón nhận hay chối từ. Như thế, dụ ngôn “Người Gieo Giống” là một lời kêu gọi tin tưởng vào sức mạnh của Ơn Chúa, của việc Chúa làm miễn là chúng ta để Chúa hành động trong chúng ta.

************

LỄ THÁNH GIOAKIM VÀ ANNA

PHÚC ÂM: Mt 13, 16-17

Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?”. Người đáp lại: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật, còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: Vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành. Phần các con, phúc cho mắt các con, vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe”.

SUY NIỆM: Thánh Gioakim và Anna GIÁO DỤC BẰNG GƯƠNG SÁNG

(Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP)

Hôm nay phụng vụ mừng kính song thân Đức Mẹ là thánh Gioakim và Anna. Các ngài là ông bà ngoại của Đức Giêsu. Cuộc đời của các ngài rất âm thầm đến nỗi không có một trang Tin Mừng nào nhắc đến.

Trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, thánh Anna cũng có những lúc thăng trầm trong phụng vụ, tức là ngài được Giáo Hội thiết lập ngày lễ mừng nhưng rồi lại bỏ và cuối cùng, Đức Lêo XIII (+ 1903) cho tái lập lại. Đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI (+ 1978), khi canh tân phụng vụ, ngài mới cho phép mừng chung với thánh Gioakim vào ngày 26-7 như hiện nay.

Mỗi lần nhắc đến song thân Đức Maria, chúng ta có quyền hiểu rằng: các ngài là người công chính, được Thiên Chúa yêu thương, bởi lẽ các ngài là người sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế là Mặt Trời Công Chính.

Các ngài còn là người cha, người mẹ mẫu mực về đời sống đạo đức và trung thành với Thiên Chúa. Tại sao lại nói được như vậy? Thưa, bởi vì chúng ta cứ xem quả thì biết cây. Cây nào sinh trái đó. Cây xấu không sinh được trái tốt và cây tốt không thể sinh ra trái xấu. Quả thật, Đức Maria là người đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương và tiền định cho làm mẹ Đấng Cứu Thế, vì vậy, Đức Giêsu không thể sinh ra bởi một người mẹ bất toàn được.

Mừng lễ Gioakim và Anna hôm nay, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi hai đấng trong mầu nhiệm cứu chuộc, đồng thời cũng biết noi gương các ngài để lại, nhất là gương sáng về đời sống đạo đức và gương mẫu trong đời sống gia đình.

Mong sao, các bậc làm cha mẹ hôm nay, biết giáo dục con cái bằng chính đời sống đạo đức và gương sáng của mình. Luôn biết chọn lọc những điều hay, điều tốt để đưa vào truyền thống gia đình, nhằm giúp cho gia đình được thăng tiến và quân bình trong một xã hội luôn có chiều hướng suy thoái đạo đức.

Tuy nhiên, chúng ta phải cậy dựa đến ơn Chúa rất nhiều, xin Ngài giúp cho chúng ta sáng suốt và khôn ngoan để chọn sao cho trọn, nếu không, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng nhập nhằng giữa đạo đức thật và đạo đức giả trong một xã hội đang mê mẩn chạy theo và thích thú những “viên thuốc đắng bọc đường”. Thật vậy, trong cuộc sống của chúng ta hôm nay luôn phải đối diện với những thứ được coi là đạo đức nhưng thực chất không hề đạo đức chút nào.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con Chúa và luôn trung thành với bổn phận của mình. Amen.

 

********************

THỨ NĂM TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN

(Xh 19,1-2.9-11.16-20b; Mt 13:10-17)

PHÚC ÂM: Mt 13, 10-17

Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Người đáp lại: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành”. “Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe”.

SUY NIỆM: HẠNH PHÚC MỖI KHI ĐƯỢC NGHE LỜI CHÚA

Lm. Ngọc Dũng, SDB

1 Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi. 9 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi.” Ông Mô-sê thưa lại với Đức Chúa những lời dân nói. 10 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Hãy đến với dân và bảo họ : hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, 11 và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Đức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân.” 16 Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. 17 Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa ; họ đứng dưới chân núi. 18 Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống ; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. 20bĐức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ sau khi Chúa Giêsu kể cho đám đông nghe dụ ngôn người gieo giống. Cuộc đối thoại xoay quanh lý do tại sao Chúa Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng. Thật vậy, sau khi nghe Chúa Giêsu kể về dụ ngôn, các môn đệ thắc mắc về lý do tại sao Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để nói với thính giả của mình: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” (Mt 13:10). Nếu đặt câu hỏi này trong bối cảnh của câu chuyện (câu 1 và 2), câu hỏi này chỉ ra rằng đám đông vẫn đang còn hiện diện với các môn đệ khi họ hỏi Chúa Giêsu. Như thế, đám đông cũng nghe thấy câu trả lời của Chúa Giêsu. Trong câu trả lời, Chúa Giêsu chỉ ra mục đích của các dụ ngôn Ngài dùng trong giảng dạy là để cho thính giả hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (Mt 13:11-13). Trong những lời của Chúa Giêsu, điểm đáng lưu ý là việc Chúa Giêsu nói ai có thì được cho thêm. Theo ngôn ngữ học, thì được sử dụng ở đây là thì bị động [được cho]. Điều này mang tính thần học, tức là Thiên Chúa sẽ ban. Sự thật cay đắng ở đây không phải mang nghĩa kinh tế, nhưng mang nghĩa thiêng liêng hoặc kiến thức: Nếu chúng ta mở rộng cõi lòng với trọn niềm tin và hy vọng vào mạc khải của Thiên Chúa về kế hoạch cứu độ của Ngài, thì chúng ta sẽ thăng tiến rất nhanh trong sự hiểu biết. Nếu chúng ta khép kín chính mình, chúng ta sẽ đánh mất điều được trao ban. Chúng ta đang mở lòng hay đóng con tim với mạc khải của Thiên Chúa?

Khi nói về sự hiểu biết về mầu nhiệm nước trời, khác với các thính giả của Chúa Giêsu, các môn đệ là những người có phúc: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13:16-17). Những lời này chỉ ra cho chúng ta thấy các môn đệ chính là những chứng nhân trực tiếp [mắt thấy tai nghe] những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm. Đây chính là đặc ân của các môn đệ. Chúng ta cũng là những chứng nhân của Chúa Giêsu. Mặc dù chúng ta không nhìn thấy và nghe Ngài cách thể lý như các môn đệ đầu tiên, chúng ta vẫn nhìn thấy và nghe Ngài cách thiêng liêng qua con tim tràn đầy tình yêu. Điều này giúp chúng ta thấy mình được chúc phúc mỗi khi lắng nghe lời Chúa được công bố hay đến với Ngài trong giây phút cầu nguyện.

**********************

THỨ SÁU TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN

(Xh 20:1-17; Mt 13:18-23)

PHÚC ÂM: Mt 13, 18-23

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Vậy các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi”.

SUY NIỆM: SINH HOA TRÁI TỐT TRONG ĐỜI SỐNG THƯỜNG NGÀY

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Bài đọc 1 hôm nay chứa đựng Mười Điều Răn. Tuy nhiên, chúng ta chỉ hiểu lý do tại sao chúng ta phải tuân giữ Mười Điều Răn khi chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh Giao Ước. Theo ngôn ngữ bình dân, Giáo Ước được xem như một bản hợp đồng. Thông thường, mỗi bản hợp đồng luôn chứa đựng những điều kiện mà hai bên phải thi hành. Nhìn từ khía cạnh này, mười điều răn là những điều kiện dân Israel phải thực hiện khi “ký hợp đồng” với Thiên Chúa tại Sinai. Về phần Thiên Chúa, điều Ngài phải thực hiện là Ngài “mãi là Thiên Chúa của ngươi” [dân Do Thái]. Nói cách khác, điều Ngài phải thực hiện là trung thành với lời Ngài đã hứa. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về “bản hợp đồng” mà chúng ta ký kết với Chúa khi chịu Phép Rửa Tội, đó là chúng ta hoàn toàn thuộc trọn về Ngài. Chúng đã sống điều này thế nào? Chúng ta đã hoàn toàn thuộc về Chúa chưa hay chỉ thuộc về Ngài cách nửa vời?

Đọc Mười Điều răn, chúng ta thấy Mười Điều răn được viết dưới những “mệnh lệnh tiêu cực.” Trong thần học luân lý, Mười Điều Răn được xem là những “mệnh lệnh tiêu cựu tuyệt đối,” tức là chúng ta không được phép làm những điều bị cấm ở mọi nơi và trong mọi lúc. Trong Mười Điều răn, có ba điều “bảo vệ” tương quan giữa con người với Đức Chúa, bảy điều còn lại “bảo vệ” tương quan giữa con người với nhau. Mười Điều Răn chỉ cho chúng ta thấy: vị trí đầu tiên mà con người cần lưu ý là tương quan với Thiên Chúa, vì đây là nền tảng mà trên đó con người xây dựng các mối tương quan với anh chị em mình. Như vậy, khi một người không có tương quan sâu đậm với Thiên Chúa, thì các mối tương quan của họ với người khác sẽ dễ dàng bị sụp đổ vì không được xây dựng trên nền tảng vững chắc. Thật vậy, cuộc sống dạy chúng ta rằng: những người kính sợ Thiên Chúa luôn sống hiền hoà với hết mọi người.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn gieo giống. Trong lời giải thích của mình về dụ ngôn, Chúa Giêsu cho biết bốn loại đất tượng trưng cho bốn loại người. Chúng ta cũng tìm thấy phần này trong Tin Mừng Thánh Máccô (4:13-20) và Luca (8:11-15). Ngoài những thay đổi nhỏ ở phần mở đầu và kết thúc, Thánh Mátthêu theo sát trình thuật của Thánh Maccô. Trong bốn loại đất, tượng trưng cho bốn loại người khi nghe lời Chúa: Loại thứ nhất là những kẻ đã được gieo bên vệ đường. Họ là những người “nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy” (Mt 13:18-19). Loại người này chỉ nghe bằng tai thể lý, mà không mang lời Chúa vào trong tim mình để thực hành. Loại thứ hai là những “kẻ được gieo trên sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận; nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nông nổi nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay” (Mt 13:20-21). Loại người này là những người nghe với đôi tai thể lý, mang lời Chúa vào trong lòng, nhưng không để lời Chúa cắm rễ sâu vì không có thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi gian khó để làm chứng cho lời Chúa. Loại thứ ba là những “kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt Lời, khiến Lời không sinh hoa kết quả” (Mt 13:22). Loại người này là những người lắng nghe lời Chúa với đôi tai thể lý, đem lời Chúa vào lòng, nhưng không chuẩn bị chỗ xứng hợp cho lời Chúa, nên lời Chúa dễ dàng bị biến mất trong đống hoang tàn đổ nát của những lo lắng sự đời. Loại cuối cùng là những “kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục” (Mt 13:23). Những người này là những người nghe lời Chúa với đôi tai thể lý và con tim rộng mở hầu lời Chúa bén rễ và sinh hoa kết trái trong cuộc đời họ. Tuy nhiên, điều quyết định năng suất của hoa trái là sự mở rộng cõi lòng để cho lời Chúa chiếm lấy chính mình. Mỗi khi lắng nghe lời Chúa, cõi lòng chúng ta như thế nào: hoàn toàn rộng mở hay chỉ nửa vời?

*******************

THỨ BẢY TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN – Thánh nữ Mácta, Maria và Ladarô

LỄ Thánh nữ Mácta, Maria và Ladarô

PHÚC ÂM: Ga 11, 19-27

Khi ấy, nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

SUY NIỆM: NIỀM XÁC TÍN CỦA CON: THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Mácta, người bị Chúa Giêsu “khiển trách” là người lo “nhiều việc không cần thiết.” Sau lời khiển trách, thánh nữ đã thay đổi để chỉ làm một điều cần, đó là lắng nghe lời Chúa Giêsu. Điều này chúng ta thấy được diễn tả trong các bài đọc mà Giáo Hội chọn để đọc trong ngày lễ mừng thánh nữ.

Trong bài đọc 1, Thánh Gioan kêu gọi các thành viên trong cộng đoàn của Ngài [và chúng ta] hãy yêu thương nhau. Nhưng Ngài chỉ cho chúng ta thấy rằng chính Thiên Chúa là nguồn gốc của tình yêu mà chúng ta dành cho nhau. Nói cách khác, chúng ta chỉ yêu người khác khi chúng ta gắn chặt đời mình với Thiên Chúa, là suối nguồn tình yêu: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1 Ga 4:7). Một trong những điều tuyệt vời nhất mà Thánh Gioan để lại cho chúng ta là “định nghĩa” về Thiên Chúa. Theo Thánh Gioan, Thiên Chúa là tình yêu. Như vậy, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa (x. 1 Ga 4:8). Tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả qua việc Ngài đi “bước trước” để sai “Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Một trong những đặc tính quan trọng của tình yêu là sáng tạo. Nói cách khác, tình yêu luôn thúc đẩy người yêu làm mọi việc hầu mang hạnh phúc cho người mình yêu. Ai không yêu thương, thì không có tính sáng tạo trong việc diễn tả tình yêu cho người mình yêu. Ai không yêu thương, thì chỉ đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Còn ai sống yêu thương thì “ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:16). Trong những lời này, Thánh Gioan mời gọi chúng ta nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa và với anh chị em của mình: Nếu chúng ta nói rằng, chúng ta ở lại trong Thiên Chúa [tin Chúa] thì chúng ta phải sống đời sống yêu thương. Còn khi chúng ta chưa sống yêu thương, thì chúng ta vẫn chưa ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa vẫn chưa có chỗ trong con tim, trong cuộc đời chúng ta.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta hình ảnh của một Mácta, người đắm chìm trong tình yêu Thiên Chúa và diễn tả tình yêu đó cho người em đã qua đời của mình. Tình yêu đó được diễn tả qua lời tuyên xưng đức tin của thánh nữ. Để có thể trình bày cách chân thật hình ảnh của Thánh Mácta mà Thánh Gioan đã vẽ lên, chúng ta cần tập trung vào cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mácta. Trong bối cảnh chung của Bài Tin Mừng, chúng ta thấy Mácta là người đi đón Chúa Giêsu khi được tin Ngài đến. Điều này trái ngược với điều Thánh Gioan trình bày trong phần dẫn nhập: Chúa Giêsu đến nhà mình và gia nhân của Ngài đã không đón nhận Ngài (x. Ga 1:11). Khi đón Chúa Giêsu, cuộc đối thoại của tình yêu và đức tin bắt đầu:

Mácta: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11:21-22).

Chúa Giêsu: “Em chị sẽ sống lại!” (Ga 11:23).

Mácta: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11:24).

Chúa Giêsu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” (Ga 11:25-26).

Mácta: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).

Hành trình đức tin và tình yêu của Mácta bắt đầu với việc đón Chúa vào cõi lòng mình. Chúng ta thấy Mácta đã công bố “tin mừng” khi nói rằng: “Nếu Thầy ở đây thì em con sẽ không chết.” Những lời này cho thấy Mácta tin rằng nơi đâu có Chúa Giêsu, nơi đó sẽ không có sự chết. Nhưng sự sống mà Mácta tin Chúa Giêsu mang lại khi Ngài hiện diện là sự sống thể lý. Chúa Giêsu đưa Mácta lên một cấp độ cao hơn trong đời sống đức tin khi Ngài tuyên bố Ngài là “sự sống lại và là sự sống.” Trong những lời này, Chúa Giêsu khẳng định mình không chỉ ban cho con người sự sống thể lý, nhưng còn ban cho họ sự sống vĩnh cửu. Nghe những lời khẳng định này, đức tin của Mácta đã được củng cố và làm cho mạnh mẽ, đến nỗi Mácta đã thốt lên lời tuyên xưng đức tin mà chính Thánh Phêrô đã tuyên xưng (x. Mt 16:16). Thánh nữ Mácta là mẫu gương của đời sống cởi mở với sự hiện diện của Thiên Chúa. Không những thế, thánh nữ còn là mẫu gương của đời sống đức tin. Khi chúng ta mừng lễ thánh nữ, chúng ta được mời gọi duyệt xét lại đời sống cởi mở của chúng ta trước sự hiện diện của Thiên Chúa: Chúng ta đã thật sự mở rộng cõi lòng đón nhận Chúa với đức tin khi Ngài đến với chúng ta không?

LỄ THỨ BẢY TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN

PHÚC ÂM: Mt 13, 24-30

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Ðầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: “Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?” Ông đáp: “Người thù của ta đã làm như thế”. Ðầy tớ nói với chủ: “Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Chủ nhà đáp: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta”.

SUY NIỆM: LÚA VÀ CỎ LÙNG MỌC CÙNG LÚC

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP

Sự bất nhân và không bao dung đã là cha đẻ sinh ra tính ích kỷ, óc bè phái nơi con người. Thật thế, con người luôn tìm dịp để trả thù nhau… Chính vì sự hẹp hòi này mà cái ác đã thắng cái thiện, sự tội đã thắng lẽ công chính! Vì thế, dù đối phương có tốt thế nào, thì trước con mắt của những kẻ muốn trả thù, họ đều là xấu xa.

Quan điểm này hoàn toàn ngược lại ý hướng và mục đích của Thiên Chúa qua hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn cỏ lùng hôm nay.

Câu chuyện khởi đi từ việc gia nhân thắc mắc xem tại sao có cỏ lùng trong ruộng??? Tuy nhiên, ông chủ đã khẳng định rõ rằng: đó là do kẻ thù gieo trộm vào nên mới có! Sau đó, gia nhân đã không kiên trì nổi, nên xin ông chủ cho họ đi nhổ cỏ lùng kẻo nó lấn át lúa! Tuy nhiên, ông chủ đã không đồng ý và đưa ra lý do: “Đừng! Sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.

Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy toát lên lòng nhân từ, bao dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì thế, đã có lần chính Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến để cứu chuộc những người tội lỗi chứ không phải những người công chính”.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha… chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năm thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt… Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, để mọi người được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.