GÓC SUY TƯ ĐỨC MARIA Nữ vương Hòa bình

Nữ vương Hòa bình

 

Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương Hòa Bình, Giáo hội Công giáo kính mừng Đức Mẹ với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa vào ngày Tết dương lịch – mồng 1 tháng Một hằng năm, và cũng là ngày cầu xin hòa bình cho thế giới. Nghệ thuật diễn tả Đức Mẹ cầm trái địa cầu có chim bồ câu và cành lá ô-liu, biểu tượng của hòa bình. Lễ Đức Mẹ Hòa Bình được mừng vào ngày 24 tháng 1 hằng năm tại Hawaii và một số nhà thờ tại Hoa Kỳ, những nơi khác mừng vào ngày 9 tháng 7.
Cố NS Hải Linh (1920-1988) có bài Thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình”, với giai điệu du dương và lời ca nói lên tâm tình thảo kính của người Việt. Ca từ phần điệp khúc thế này: “Kính mừng Nữ vương, Nữ vương Hòa bình, Nữ vương Hòa bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con đất Việt nao nức, cất tiếng ca mừng vui: Kính chào Nữ vương Hòa bình. Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Mẹ là sáng khắp đất nước bao la! Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Đem nguồn sống an vui chan hòa”.
Đức Mẹ Hòa Bình là bổn mạng của Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ, do Peter Coudrin sáng lập tại Paris trong thời Cách Mạng Pháp. Khi dòng này xây nhà thờ Công giáo tại Hawaii, người ta kính dâng quần đảo Hawaii cho Đức Mẹ Hòa Bình che chở. Người ta xây nhà thờ Công giáo đầu tiên tại Hawaii để dâng kính Đức Mẹ. Ngày nay, Nhà thờ Đức Mẹ Hòa Bình ở Honolulu là nhà thờ Công giáo cổ nhất vẫn được sử dụng tại Hoa Kỳ.
Đền thờ EDSA (Epifanio De Los Santos, nghĩa là “quy tụ các thánh”) được dâng kính Đức Mẹ Hòa Bình. Đền thờ này ở Philippine, gần giao lộ các xa lộ lớn. Tại đường phố này, dân Philippine nói rằng Đức Mẹ Hòa Bình đã hiện ra bên những chiếc xe tăng và bộ chỉ huy quân đội tấn công đối phương hồi năm 1986, và đã ngăn chặn được.
Có ba tượng Đức Mẹ Hòa Bình đặt tại Paris và Honolulu. Tượng thứ nhất bằng gỗ được đặt tại Tu viện Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ ở Pháp. Tượng thứ nhì lớn hơn và bằng đồng được đặt trong Thánh đường Đức Mẹ Hòa Bình. Tượng thứ ba được đặt trên Thánh đường Đức Mẹ Hòa Bình.
Tượng Đức Mẹ Hòa Bình nguyên thủy được Đức TGM Paris ngày 9-7-1906. Từ đó, cứ đến ngày 9 tháng 7, Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại mừng lễ Đức Mẹ Hòa Bình. Trong những năm Thế chiến I, ĐGH Bênêđictô XVI đã thêm lời cầu Đức Mẹ Hòa Bình vào Kinh cầu Đức Mẹ Loreto (*) để dùng trong phụng vụ từ năm 1917.
Thánh GH Gioan Phaolô II đã thánh hiến và dâng kính Thánh đường Đức Mẹ Yamoussoukro cho Nữ Vương Hòa Bình. Đây là đền thờ lớn nhất Phi châu. Các nơi khác trên thế giới, có các nhà thờ mang tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình, nhất là ở Ai-len và Hoa Kỳ, đặc biệt là Nhà thờ Nữ Vương Hòa Bình ở Bray, Co. Wicklow, Ai-len.
Nhà nguyện Foujita ở Reims (Pháp) cũng được dâng kính Đức Mẹ Hòa Bình, để ghi nhớ cuộc tàn phá của vụ thả bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki. Nhà nguyện tại Đại học St. Edward ở Austin (Texas, Hoa Kỳ) cũng được dâng kính Đức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình.
Tước hiệu Đức Mẹ Hòa Bình thường được thay bằng Nữ Vương Hòa Bình. Đức Maria là Thân Mẫu của “Hoàng Tử Bình An”, tức là Chúa Giêsu, Đấng giao hòa đất trời. Đức Mẹ đã đau khổ đứng dưới chân Thánh Giá nên xứng đáng bảo trợ cho mọi người được hưởng hòa bình đích thực. Ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Mẹ đã cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an. Đức Mẹ cầu xin Chúa cho chúng ta được tinh thần yêu mến, đoàn kết và hòa giả. Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, luôn bình an sống kết hiệp với Thiên Chúa. Có nhiều tông thư của các giáo hoàng đã cầu xin Đức Mẹ can thiệp để có hòa bình.
Hòa Bình thế giới là chủ đề tại Fatima. Điều đó đã ảnh hưởng các phong trào như Đạo Binh Xanh và nhiều phong trào Chuỗi Mai Khôi. Đức Mẹ luôn nhắc tới hòa bình trong những lần hiện ra. Đức Mẹ Hòa Bình là bổn mạng của El Salvador. Tại Việt Nam, Đức Mẹ Hòa Bình cũng được đặt lộ thiên trước Vương cung Thánh đường Saigon tại trung tâm thành phố.
Theo tiếng Ả-rập, Hồi giáo nghĩa là “kiến tạo hòa bình”. Hồi giáo do Mohammed sáng lập, coi kinh Koran là sách thánh. Hồi giáo cũng chấp nhận Tân ước của Kitô giáo và Cựu ước của Do Thái giáo là những sách được Chúa Thánh Thần linh hứng. Các tín đồ Hồi giáo, cũng như các tín đồ Do Thái giáo và Kitô giáo, chỉ tin vào MỘT Thiên Chúa. Nhưng qua nhiều thế kỷ, các tín đồ Hồi giáo chiến tranh nhiều với các tín đồ Do Thái giáo và Kitô giáo, hy vọng hòa bình rất ít. Tuy nhiên, kế hoạch hòa bình của Thiên Chúa, liên quan Đức Mẹ, đã được chứng tỏ tại Fatima (Bồ Đào Nha) và ở những nơi khác trên khắp thế giới.
Khi người Hồi giáo chiếm Bồ Đào Nha, làng Fatima bị đổi tên theo Hồi giáo, với tên của Hoàng Tử Yêu Dấu ở Lâu đài Ourem gần đó. Công Chúa chết sau khi kết hôn với Bá tước Ourem, được rửa tội và được đặt tên là Oureana, theo tên khi mới sinh là Fatima, cũng như các cô gái Hồi giáo khác, để tôn kính ái nữ của Mohammed. Trong số con gái của ông, Fatima được Mohammed yêu quý. Mohammed nói: “Trên trời, nó ở chỗ cao nhất, chỉ sau Đức Trinh Nữ Maria”.
Sự thật là người Hồi giáo tới từ nhiều quốc gia, đa số từ Trung Đông, tạo nên số đông khách hành hương đến với Đức Mẹ Fatima khiến chính phủ Bồ Đào Nha phải quan tâm. Sự kết hợp giữa tên theo Hồi giáo lòng sùng kính của Hồi giáo dành cho Đức Mẹ tạo nên sự thu hút mạnh đối vối dân Hồi giáo. Thiên Chúa rất nhiệm mầu. Fatima là một phần trong kế hoạch của Ngài, là niềm hy vọng của thế giới.
Trong kinh Koran, Thánh danh Đức Maria được nhắc tới không dưới 30 lần. Ngoài ra không một phụ nữ nào được nhắc tới, kể cả ái nữ của Mohammed là Fatima. Trong số nam giới, chỉ có Áp-ra-ham, Môsê, và Noe được nhắc tới nhiều lần hơn Đức Maria. Cũng trong kinh Koran, Đức Maria được mô tả là “Trinh Nữ trọn đời đồng trinh”. Niềm tin của Hồi giáo về sự đồng trinh của Đức Maria khiến những người tự nhận mình là Kitô hữu phải hổ thẹn vì đã nghi ngờ hoặc không tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh. Đức Mẹ và các tín đồ Hồi giáo có mối quan hệ đặc biệt!
Thánh địa Giêrusalem là chiến trường giữa người Hồi giáo và người Kitô giáo qua nhiều thế kỷ. Bằng chứng là nhiều nhà thờ đã được Công giáo xây dựng đã bị người Hồi giáo phá hủy, nhưng lại được Thập Tự Quân tái xây dựng, ngày nay cũng vẫn xảy ra. Tuy nhiên, có một ngoại lệ: Đền thờ Thánh Anna ở Giêrusalem vẫn nguyên vẹn.
Thập Tự Quân đã xây dựng và dâng kính Thân mẫu của Đức Maria – Thánh Anna. Tại hầm mộ ở Nhà thờ Thánh Anna, tượng Nhi Nữ Maria vẫn được tôn kính ngay tại nơi Đức Mẹ sinh ra. Lòng sùng kính Đức Mẹ khiến người Hồi giáo không phá hủy nơi sinh của Đức Maria. Nền tảng trong kế hoạch của Thiên Chúa tại Fatima có thể thấy tại Thánh địa, nơi Đức Giêsu Kitô đã sống và thực hiện sứ vụ.
Thế kỷ VIII, khi người Hồi giáo càn quét khắp Tây Ban Nha, một kho tàng tôn giáo lớn được chôn giấu để giữ an toàn, trên núi Estremadura: Tượng Đức Mẹ bế Hài Nhi Giêsu. Đó là tặng phẩm của Thánh GH Grêgôriô Cả dành cho ĐGM Leander, GP Seville. Sau khi lật đổ chế độ của Hồi giáo, người ta phát hiện bức tượng quý này vào năm 1326, ngay sau khi Đức Mẹ hiện ra với một người chăn chiên tên là Gil. Tượng Đức Mẹ được đem về đặt tại một tu viện Phanxicô ở gần “Sông Sói”.
Trong thời gian chiếm giữ Tây Ban Nha, chính người Hồi giáo đã đặt tên cho dòng sông đó. Họ đặt tên theo kiểu của Hồi giáo là “Guadalupe” (nhĩa là Sông Sói – Guada là “sông”, Lupe là “sói”). Từ đó, hình ảnh Công giáo trở thành nổi tiếng ở tây Ban Nha, từ thế kỷ XIV, nhờ cái tên “Đức Mẹ Guadalupe” theo kiểu Hồi giáo – tức là “Đức Mẹ Hoa Hồng”, lễ ngày 12 tháng 12 hằng năm).
Thiên Chúa biết các nhà truyền giáo Tây Ban Nha sẽ phải đối mặt với sự chống đối dữ dội trong “thế giới mới” từ người Aztec ở Ấn Độ. Dân Aztec thờ Tỵ Thần (thần Rắn) bằng đá, thần này bắt người ta phải hy sinh tế thần. Rất khó giành lấy các linh hồn cho Đức Kitô từ những kẻ khát máu đó. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi thứ đều có thể (x. Mt 19:26; Lc 1:37; Mc 10:27). Đức Mẹ hiện đã ra với Juan Diego năm 1531. Đức Mẹ yêu cầu Juan Diego gọi Đức Mẹ là “coatloxopeuh” (phát âm là “te quatlasupe”, theo tiếng Aztec Ấn độ ở vùng Nahuatl nghĩa là “người đạp rắn”). Về lịch sử, đó là một phần văn hóa Aztec thời đó, hằng năm có ít nhất 20.000 người (đàn ông, phụ nữ và trẻ em) phải làm vật hy sinh tế thần.
Chuyện còn nữa. Ngày 7-10-1571, Hải quân Công giáo đã chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Tây ban Nha, Venice, và Genoa, dưới sự chỉ huy của tư lệnh Don Juan, người Áo. Đó là cuộc chiến cuối cùng trên biển, lực lượng Hồi giáo với khoảng 12.000 tới 15.000 Kitô hữu nô lệ. Các tàu chiến Công giáo được “trang bị” bằng Chuỗi Mai Khôi của Đức Trinh Nữ Maria.
Biết quân đội Công giáo yếu thế, Thánh GH Piô V kêu gọi cả Âu châu lần chuỗi Mai Khôi cầu xin chiến thắng. Ngày nay, chúng ta biết rằng chiến thắng hiển hách đó đã được xác nhận là nhờ Kinh Mai Khôi, ngăn chặn được cuộc xâm lăng của quân Hồi giáo ở Âu châu, đó là quyền lực của Thiên Chúa tác động qua Đức Mẹ. Lúc chiến thắng, St. Thánh GH Piô V, ở Vatican cách hằng trăm dặm, đã tuyên bố đó là sức mạnh siêu nhiên. Ngài nói: “Quân đội Kitô giáo đã chiến thắng!”. Và rồi ngài bật khóc trong tâm tình tạ ơn Chúa.
Tại Lepanto, khi chiến thắng quân Hồi giáo nhờ Kinh Mai Khôi. Thánh Padre Piô (Piô Năm Dấu), khi đó là linh hướng của Đạo Binh Xanh, đã xác định: “Chuỗi Mai Khôi là vũ khí”. Có thể nói rằng Kinh Mai Khôi là vũ khí “siêu nguyên tử”. Thật đúng như vậy!
Từ chiến thắng trận Lepanto, Giáo hội mừng kính tước hiệu “Đức Mẹ Chiến Thắng” vào ngày 7 tháng 10. Sau đó, lễ này được đổi thành tước hiệu “Đức Mẹ Mai Khôi”, và được mở rộng ra toàn cầu từ năm 1716, thời ĐGH Clement XI. Mở ngoặc: ĐGH Clement XI đã tuyên thánh cho ĐGH Piô V năm 1712.
Tại Fatima, khi được hỏi danh xưng, Đức Mẹ đã nói: “Ta là Mẹ Mai Khôi”. Đức Mẹ đã dạy chúng ta hằng ngày phải cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi. Chính Kinh Mai Khôi là kế hoạch hòa bình của Thiên Chúa, cho chúng ta niềm hy vọng. Tại Fatima, Đức Mẹ cũng đã hứa: Hoán cải các tội nhân và hoán cải nước Nga. Điều gì đến cũng đã đến.
Tuy nhiên, mỗi chúng ta phải nghiêm túc xét lại mình qua ba mệnh lệnh Fatima: Tôn sùng Mẫu Tâm, lần Chuỗi Mai Khôi, và canh tân đời sống. Được như vậy thì chắc chắn có hòa bình đích thực. Nhưng nên lưu ý, hòa bình có hai dạng: Hòa bình xã hội và hòa bình tâm hồn. Có hòa bình tâm hồn, hòa bình tâm linh, tất nhiên sẽ có hòa bình xã hội. Chiến tranh bom đạm, dù là nguyên tử hoặc hạt nhân, cũng không độc hại bằng chiến tranh tinh thần!
Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska (1905-1938) viết trong Nhật Ký: “Tôi càng bắt chước Mẹ Thiên Chúa, tôi càng nhận biết Thiên Chúa – The more I imitate the Mother of God, the more deeply I get to know God” (số 843).
Lạy Đức Mẹ Mai Khôi, Nữ Vương Hòa Bình, xin ban hòa bình đích thực cho chúng con, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
KHA ĐÔNG ANH
(*) Kinh cầu này có từ thời Trung Cổ, được ĐGH Sixtô V phê chuẩn năm 1587.
Exit mobile version