Ngày 8-12-1854, ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc Ineffabilis Deus (Thiên Chúa bất khả ngộ).
Lễ Mẹ Vô Nhiễm đã có tại Ðông phương từ giữa thế kỷ VII và VIII. Các vị giảng thuyết đã nói về sự Vô Nhiễm, thai sinh thánh thiện, nhưng không nêu lên vấn đề gì khác. Thời Trung cổ, lễ này được đưa vào Tây phương, rồi nhiều dòng tu ở Ðức và Rôma cũng đã mừng lễ này từ thế kỷ IX.
Năm 1060, các tu sĩ đưa vào Anh quốc, tới năm 1127-1128, lễ này được lan rộng khắp Âu châu, mặc dầu Thánh Bênađô vẫn tỏ ra dè dặt trước “sự mới lạ” ấy. Đầu tiên, đó là một phong trào sùng kính sốt sắng nhưng thiếu suy tư, nhất là bị ảnh hưởng những ý kiến mù mờ của thời đại.
Cùng với Thánh Augustinô, người ta cho rằng việc giao hợp vợ chồng là hành động trác táng lưu truyền tội tổ tông. Như vậy, Đức Maria sinh bởi sự giao hợp của cha mẹ thì cũng không thoát khỏi định luật ấy. Vả lại, người ta có một quan niệm không mấy khoa học về việc thai sinh, như thể xác được cưu mang trước rồi linh hồn đến trong khoảng cách sau: Linh hồn con trai trước 40 ngày, linh hồn con gái phải lâu hơn mới hợp với thể xác vì bản tính con gái yếu kém (!)
Các thần học gia lại không biết làm sao thoát khỏi cái “vòng lẩn quẩn” này: Chúa Kitô là Ðấng cứu chuộc hết mọi người. Nếu nói rằng Ðức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, dù chỉ nói đến tội tổ tông, thì Chúa Kitô không còn là Ðấng cứu chuộc toàn thể nhân loại. Các nhà thần học thế kỷ XIII, kể cả Thánh Thomas Aquinô, đều cho rằng Ðức Mẹ vẫn có phần lệ thuộc tội lỗi, ít là trong thể xác khi thai sinh.
Cuối thế kỷ XIII, thần học gia tu sĩ Gioan Duns Scott cùng với tu sĩ Phanxicô là William Ware đã có công học hỏi và đảo ngược lý luận trên. Chân phước Duns Scott lý luận rằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Mẹ chẳng những không làm tổn thương đến vinh dự Chúa Kitô và Công Cuộc Cứu Chuộc của Ngài, nhưng càng làm tỏ rạng sự sung mãn của công cuộc ấy. Nhân loại được khỏi Nguyên tội khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu có sức ngăn ngừa tội lỗi. Vì Ðấng Cứu Chuộc hoàn hảo phải là Ðấng không chỉ có thể chữa lành tội lỗi mà còn ngăn ngừa tội lỗi. Lý luận thật tuyệt vời! Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm! Và rồi, vào ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Điều này cho thấy Chúa Thánh Thần thực sự tác động mạnh trong đời sống Giáo hội Lữ hành, vì lúc đó, Giáo hội mới công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm được gần 4 năm.
Trình thuật St 3:9-15 là một cuộc xưng tội công khai của Ông Bà Nguyên Tổ trước mặt Thiên Chúa.
Thuở hồng hoang, Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”.
Đó là một dây-chuyền-tội-lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho con rắn. Cuộc đời người ta “chết” vì những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ, GIẢ DỤ,… Thật là nguy hiểm!
Được Thiên Chúa ban cho “người đẹp” (chắc là dễ thương lắm) nên ông Adam nhà ta đạt tên cho vợ là Eva, vì nàng là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Có một câu danh ngôn hay như thế này: “A-xít làm CHÁY tiền, tiền làm CHÁY tim đàn bà, nước mắt đàn bà làm CHÁY tim đàn ông”. Vừa lô-gích, vừa thú vị, và cũng chí lý thật!
Phụ nữ mềm mà cứng, yếu mà mạnh. Chính sự “liễu yếu đào tơ” lại chính là thế mạnh của họ, nhất là họ vừa trẻ vừa đẹp, ngày nay còn “chân dài” nữa, nó “khoèo” một cái là lũ đàn ông té hàng loạt. Khốn thay! Thật vậy, cô nàng chỉ “nhão” một chút khi ẻo lả nói: “Anh ơi!”, thì ôi thôi, chàng chợt mềm nhũn như bún thiu. Chẳng thế mà Samson khỏe như voi mà đã “chết” vì một phụ nữ, Đa-vít cũng “tiêu” vì một phụ nữ, và Hê-rô-đê cũng sẵn sàng “làm liều” chỉ vì một phụ nữ. Vâng chỉ MỘT phụ nữ mà quý ông đã “tiêu diêu miền tình ái” chứ chưa cần nhiều phụ nữ đâu. Khiếp thật!
Người ta còn ví von thế này: “Phụ nữ muốn là trời muốn”. Và người ta cũng so sánh: “Nhất vợ, nhì trời,…”. Trời còn đứng hàng thứ chứ nói gì phàm phu tục tử. Đáng sợ là khoảng giữa “cái có” và “cái không” ở phụ nữ thì dù một sợi tóc cũng không đặt vào. Tinh vi quá đỗi! Đàn ông là sóng cồn nhưng đàn bà là sóng ngầm. Sóng ngầm không thấy mà tránh và có sức cuốn trôi mạnh hơn.
Vì một phụ nữ phạm tội mà nhân loại chịu kiếp đọa đày, đó là Bà Cố Tổ Eva; nhưng lại nhờ một phụ nữ thánh thiện, nhu mì và tuân phục, đó là Đức Maria, mà nhân loại được giải án tuyên công. May cho chúng ta lắm!
Nhận ra “cái may” đó thì phải biết không ngừng tạ ơn. Như Thánh Phaolô nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1:3). Và ngài xác định chi tiết: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:4-6). Rất rõ ràng, mạch lạc, và dễ hiểu.
Thánh Phaolô nói thêm: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12). Quả thật, hồng ân Thiên Chúa quá bao la, cao vời và khôn ví. Chúng ta chỉ còn biết suốt đời cúi đầu mà cảm tạ, từng phút, từng giây.
Ân sủng là ân sủng, hồng ân là hồng ân, chúng ta không thể xác định đại ân hoặc tiểu ân, đại xá hoặc tiểu xá. Chỉ có Thiên Chúa mới là người xác định mức độ, vì chỉ một mình Ngài là người thi ân giáng phúc. Đức Mẹ và các thánh chỉ là người cầu thay nguyện giúp, là “ống dẫn” chuyển ơn phước từ Thiên Chúa tới chúng ta.
Tin Mừng hôm nay là trình thuật (Lc 1:26-38) về cuộc Truyền Tin. Thánh sử Luca kể: Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Sứ thần vào và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, Cô Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần trấn an ngay: “Cô Maria ơi, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Chu choa, gì mà kỳ vậy? Người ta đã khấn giữ đồng trinh mà tự dưng nói chuyện mang thai và sinh sản. Kỳ ghê đi, mắc cỡ thí mồ, mặt đỏ bừng và nóng ran luôn! Thế nên Cô Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần liền giải thích cặn kẽ và minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Nói đến Thiên Chúa thì miễn bàn, vì Cô Maria hết lòng tin kính Ngài. Thế là hai năm rõ mười. Tỏ rõ nguồn cơn. Chắc hẳn Cô Maria nhà ta thở phào nhẹ nhõm. Thế nên Cô Maria dịu dàng nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Nghe vậy, sứ thần cũng “an tâm” mà từ biệt ra đi…
Và rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”, và ở cùng chúng ta… Đức Maria là một Nữ Tỳ nhưng Vĩ Đại, đã trở thành Đấng Theotokos – “Người Mang Thiên Chúa”. Xin kính chào Đấng Emmanuel. Và xin “kính mừng Maria đầy ơn phước”.
Xin cùng hợp với lời cầu của thi sĩ Paul Claudel (Tác Phẩm Thơ, Gallimard, 1967):
Trời đúng ngọ
Tôi trông thấy giáo đường rộng mở
Phải bước vào mới được!
Lạy Mẹ Chúa Giêsu Kitô
Con không vào để cầu nguyện
Vì con không có gì để dâng cho Mẹ và cũng chẳng xin Mẹ điều gì.
Con chỉ đến để ngắm nhìn Mẹ thôi, ôi lạy Mẹ.
Ngắm nhìn Mẹ và khóc lên vì hạnh phúc
Con không nói gì cả, nhưng con chỉ hát thôi
Bởi vì trái tim con tràn ngập tâm tình!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đủ sức chống lại cái xấu và cương quyết “thà chết chứ không phạm tội” (Thánh “nhí” Saviô). Lạy Mẹ Vô Nhiễm, xin giúp chúng con biết “nói ít và làm nhiều” như Mẹ, sống khiêm nhu và vâng phục như Mẹ, mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.