Những kiếp hoa Xuân
Con người có nhiều loại người (tốt, xấu), nhiều dáng người (cao, thấp, mập, gầy), nhiều tính người (hiền, dữ), nhiều kiếp người (sướng, khổ, may mắn, bất hạnh),… Và hoa cũng có nhiều loại hoa, với hương sắc khác nhau. Kiếp người đa dạng, thì kiếp hoa cũng vậy, có loại “sống mãi” (hoa bất tử), có loại sớm nở chiều tàn (hoa phù dung),…
Mùa Xuân là mùa “trăm hoa đua nở”. NS Anh Bằng (*) đã viết ca khúc “Những Kiếp Hoa Xuân”, và ông “mượn” những cánh hoa để nói về những kiếp người. Nói đến chữ “kiếp” thì thường có gì đó đượm buồn, có lẽ vì vậy mà ông viết ca khúc này ở âm thể Thứ, có thể đệm đàn bằng điệu Tango. Giai điệu buồn mà lạ, sâu lắng.
Ông đặt mình vào vị trí của một người đang đứng giữa mùa Xuân: “Tôi buồn đứng trông hoa cười, hoa nào duyên không lả lơi, không thẹn thùng trước gió xuân tươi, không đậm đà giữa nắng xuân vui, không say mộng đời?”. Vâng, chắc hẳn hoa nào cũng thế. Cũng vậy, người con gái nào cũng đầy nữ tính, cũng hãnh diện về “nét riêng” của mình. Nàng Kiều có nét của nàng Kiều, bà Trưng có nét của bà Trưng, bà Triệu có nét của bà Triệu, Thị Nở có nét của Thị Nở, chẳng ai giống ai, và “nét riêng” ấy không thể lẫn lộn với ai được.
Nhưng ông nói rất lạ: “Hương trời cố hương xa vời, Xuân về cho hoa tả tơi”. Xuân về mà hoa tả tơi ư? Sao lại khốn khổ thế nhỉ? Đúng thôi, lý do là thế này: “Hoa lạnh lùng sống với đơn côi, chôn cuộc đời khép kín đôi môi”, và vì vậy mà “hoa chẳng còn tươi”. Hoa không còn tươi là hoa héo úa, hoa tàn tạ, vậy là hoa tả tơi rồi!
Đóa hoa đó không là thực vật mà là một con người, một cô gái đang độ xuân thì: “Anh ơi, em là hoa hoa biết nói, giữa tuổi xuân thắm tươi, vẫn không yêu kiếp người”. Một cô gái trẻ mà lại thiếu sức sống, đầy chán nản, không thấy yêu đời. Lý do cũng đơn giản thôi: “Anh đi trong ngày Xuân hay bóng tối, hồn em như chới với, mắt em như lệ rơi”. Ngày Xuân mà không được ở gần người yêu, buồn lắm thôi! Không biết chàng người yêu giờ ra sao, còn cô nàng cảm thấy chới với và chỉ chực khóc. Tội nghiệp cô nàng!
Mùa Xuân về, ngày Tết đến, nhưng cô gái chưa thấy mùa Xuân, chưa cảm nhận được Tết. Cô gái thổ lộ: “Xin mượn tiếng ca u hoài, cung đàn yêu thương người ơi!”. Tiếng ca dù buồn nhưng là cung đàn yêu thương tha thiết của người con gái xuân thì đang yêu, khao khát cháy bỏng. Chính cung thương điệu sầu đó là dấu ấn tình yêu của cô nàng và anh chàng trong thời chiến: “Ghi tình sầu đất nước chia đôi, ghi tình đời những cánh hoa rơi, ghi cả tình tôi”. Cô gái yêu thật, thương thật, và nhớ thật. Cái tương tư có mà như không, vô hình mà như hữu hình, thực tế mà như ảo tưởng. Lạ thật!
Ước gì đừng ai phải cách xa khi tình yêu đã lên ngôi thực sự!
Sách Huấn Ca gọi đời người là “kiếp người khốn khổ”. Có một số câu điển hình:
– Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ, mang thân phận con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu Ađam, nợ phong trần đương nhiên phải trả (Hc 40:1).
– Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết. Từ bậc vua chúa trên ngai vinh hiển đến kẻ cùng đinh chân lấm tay bùn, từ người cân đai áo mão đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương, đều băn khoăn, lo lắng, rồi sợ chết, rồi hận thù cãi cọ (Hc 40:2-4).
– Mọi xác phàm, từ người đến vật, nhưng quân tội lỗi thì gấp bảy lần, không làm sao tránh khỏi: chết chóc và đổ máu, cãi cọ và đâm chém, hoạn nạn, đói kém, đổ nát, tai ương (Hc 40:8-9).
– Rượu và nhạc khiến lòng người phấn khởi, nhưng lòng mến đức khôn ngoan vẫn đáng quý hơn. Tiếng sáo, tiếng đàn khiến giọng hát du dương, nhưng lời nói dịu dàng còn êm tai hơn nữa (Hc 40:20-21).
– Vẻ đẹp và duyên dáng làm người ta thích nhìn, nhưng cánh đồng xanh mướt còn đáng nhìn hơn (Hc 40:22).
– Có anh có em là để giúp nhau khi hoạn nạn, nhưng của bố thí còn trợ giúp đắc lực hơn. Có bạc, có vàng là an tâm vững chí, nhưng được người góp ý còn quý giá hơn (Hc 40:24-25).
– Giàu sang và sức mạnh khiến người ta tin tưởng, nhưng lòng kính sợ Đức Chúa còn trổi vượt hơn. Có lòng kính sợ Đức Chúa thì chẳng thiếu gì. Kính sợ Chúa rồi, không cần phải cầu cứu ai nữa (Hc 40:26).
– Con ơi, đừng đi ăn xin để sống: thà chết còn hơn! (Hc 40:28).
– Kẻ nhìn trộm mâm người khác, có sống cũng kể như chẳng sống ra người. Vì đứa ăn bám làm mình ra nhơ nhớp; còn người hiểu biết và có giáo dục thì sẽ không xử sự như thế. Miệng đứa ăn xin ngọt như mía lùi, nhưng tâm địa hắn thì như lò lửa (Hc 40:29-30).
Thân phận con người “bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về” (Tv 38:79), mẫu số chung của nhân loại là “cất tiếng khóc, tiếng đầu đời của bất cứ một ai” (Kn 7:3). Khổ thật!
Vì thế, chúng ta phải nhận ra mình và cầu xin Thiên Chúa: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa! Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, muôn lạy Chúa, xin đừng trì hoãn” (Tv 70:6). Và như thế thì an tâm mà sống, cứ vui Xuân và ăn tết, vì Đức Giêsu luôn đồng hành với chúng ta: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:10).
Tạ ơn Thiên Chúa!
TRẦM THIÊN THU
Chào Xuân Quý Tỵ – 2013
___________________________
(*) Ns Anh Bằng tên thật là Trần An Bường (có lẽ ông “biến” chữ An Bường thành Anh Bằng) sinh năm 1925 tại Điền Hộ, nay thuộc xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1935, ông xa gia đình để học tại Tiểu chủng viện Ba Làng (huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa), rồi học trung học ở Hà Nội, sau đó theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống tại Saigon cho đến 1975. Ông đã sáng tác khoảng 850 ca khúc. Ông là người sáng lập Trung Tâm Asia vào năm 1981.
Ông rất nổi tiếng với nhiều tác phẩm sáng tác và phổ thơ. Các tác phẩm như “Nỗi lòng Người Đi” (đánh dấu cuộc di cư vào Nam), “Nếu Vắng Anh” (phổ bài thơ “Cần Thiết” của thi sĩ Nguyên Sa), “Hoa Học Trò”, “Người Thợ Săn Và Đàn Chim Nhỏ”,… đã được các ca sĩ Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Ngọc Lan thể hiện thành công.
Ông gia nhập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa năm 1957 trong ngành Công binh, sau chuyển sang Tâm lý chiến, đến năm 1962 thì ông giải ngũ. Trong thời gian phục vụ quân đội, ông sáng tác vở kịch “Đứa Con Nuôi” và đoạt “Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc”. Những vở kịch khác do ông soạn tiếp theo là “Hoa Tàn Trên Đất Địch”, “Lẽ Sống” và “Nát Tan”. Sau khi giải ngũ, ông tiếp tục hoạt động ở đài truyền thanh VTVN.
Năm 1975, ông cùng gia đình sang Hoa Kỳ, và tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981–1990). Thời gian sau, ông cộng tác với Trung Tâm Asia. Thời gian ở hải ngoại, ông sáng tác nhiều ca khúc, đáng kể là Anh Còn Nợ Em (thơ Phan Thành Tài), Căn Gác Lưu Đày, Chuyện Giàn Thiên Lý, Khúc Thụy Du (thơ Du Tử Lê), Kỳ Diệu, Mai Tôi Đi,… Từ cuối năm 2010, đã có một số ca khúc của ông được chính thức cấp phép tại Việt Nam: Người Tình Mùa Đông, Anh Còn Nợ Em, Tình Là Sợi Tơ, Chuyện Tình Lan và Điệp,…
Năm 1966, ông cùng Lê Dinh và Minh Kỳ thành lập nhóm sáng tác nhạc, ký tên chung là Lê Minh Bằng. Các hoạt động chính của nhóm gồm:
– Mở “Lớp Nhạc Lê Minh Bằng” tại 102/8 đường Hai Bà Trưng, Tân Định, Saigon. Ba nhạc sĩ thay phiên nhau giảng dạy về lý thuyết (nhạc lý, ký âm) và thực hành (luyện giọng, xướng âm).
– Thành lập ban nhạc “Sóng Mới”, chuyên trình diễn trên Đài phát thanh Saigon.
– Cố vấn cho hãng đĩa hát Asia của ông Nguyễn Tất Oanh trong việc lựa chọn bài hát và ca sĩ.
– Phụ trách việc tổ chức chương trình “Tuyển Lựa Ca Sĩ” hằng tuần tại rạp hát Quốc Thanh, do Đài phát thanh Saigon thực hiện.
– Sáng tác, xuất bản, và phổ biến nhiều ca khúc mới dưới nhiều bút hiệu khác nhau: Lê Minh Bằng, Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,… Trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất có lẽ là “Chuyện Tình Lan Và Điệp”.
Ông có nhiều ca khúc khác như Ai Bảo Em Là Giai Nhân, Anh Còn Yêu Em (thơ Phan Thành Tài), Áo Dài Quê Hương, Bài Thơ Đan Áo (thơ T.T.KH.), Bẽ Bàng, Biển Dâu, Bướm Trắng (thơ Nguyễn Bính), Căn Nhà Ngoại Ô, Chuyện Giàn Thiên Lý 1 (thơ Yên Thao), Chuyện giàn thiên lý 2 (thơ Yên Thao), Chuyện Hoa Sim (thơ Hữu Loan), Chuyện Hoa Tigôn (thơ T.T.KH.), Chuyện Một Đêm, Chuyện Người Con Gái Ao Sen, Chuyện Tình Hoa Mai (thơ Nguyễn Bính), Chuyện Tình Hoa Trắng (thơ Kiên Giang), Chuyện Tình Mùa Thu, Chuyện Tình Yêu, Cỗ Bài Tam Cúc (thơ Hồ Dzếnh), Đừng Nói Yêu Tôi, Giấc Ngủ Cô Đơn, Gõ Cửa (Một Lần Ghé Thăm), Gọi Anh Mùa Xuân (thơ Trần Mộng Tú), Hai Mùa Mưa, Hồi chuông xóm đạo (thơ Kiên Giang), Khóc Mẹ Đêm Mưa, Lạy Mẹ Con Đi, Lẻ Bóng, Mất Nhau Mùa Đông, Mộ Đời, Mưa Buồn, Mưa Chiều, Nam Xương Tiếng Khóc Đêm Mưa, Nếu Hai Đứa Mình (viết chung với Lê Dinh), Nếu Vắng Anh (thơ Nguyên Sa), Ngoại Ô Buồn, Người Thương Binh (thơ Thái Tú Hà), Người Tình Mùa Đông, Nhớ Saigon (viết chung với Trúc Giang), Nước Mắt Mẹ Tôi, Nước Mắt Một Linh Hồn, Qua Ngõ Nhà Em, Saigon Vẫn Mãi Trong Tôi (viết chung với Trúc Hồ), Sầu Lẻ Bóng 1, Sầu Lẻ Bóng 2, Sầu Lẻ Bóng 3, Tango Dĩ Vãng, Thăm Mộ Mẹ (thơ Lê Duy Phương), Trúc Đào (ý thơ Nguyễn Tất Nhiên), Truyện Kiều (ý thơ Nguyễn Du), Về, Vọng Cổ Ông Đồ,…