Mừng Xuân

Mừng Xuân

Tiệc vui nào cũng cần có chút rượu cho thêm mặn nồng tình nghĩa, thêm cởi mở thân thiện, thêm hòa đồng,… Tiệc Xuân mà không có chút rượu thì còn gì là Xuân! Người ta có thể say (đôi khi cũng nên say) nhưng không nên sa đà hoặc nghiện ngập, vì say chút men rượu ngày Tết là say men tình Xuân, say men tình nghĩa, và trao nhau những lời chúc Xuân tốt lành nhất.

Bản chất rượu không xấu, vì rượu có thể làm tăng sức khỏe và giúp kéo dài tuổi thọ – nếu biết điều độ. Người không biết uống chút rượu thì thường là người “khó chơi”, nhưng người “mê rượu” thì nên tránh xa. Quả thật, rượu không xấu, nhưng rượu hóa thành xấu vì người ta lạm dụng rượu mà thôi.

Chính Chúa Giêsu cũng muốn người ta vui vẻ với nhau và thưởng thức rượu ngon nên Ngài đã làm phép lạ đầu tiên khi Ngài thực hiện sứ vụ cứu độ: Hóa nước lã thành rượu ngon tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2:1-11). Điều đó cho thấy rõ ràng là rượu không xấu.

Trong niềm vui Xuân tột đỉnh, NS Phạm Đình Chương (*) đã viết ca khúc “Ly Rượu Mừng” với những lời chúc cho đủ các tầng lớp trong xã hội. Ca khúc được viết ở nhịp 3/4, giai điệu vui tươi và mượt mà “chảy” theo dòng nhạc của âm thể Fa Trưởng, người nghe có thể cảm thấy Xuân thực sự đang cuồn cuộn chảy trong mình.

Ông bắt đầu bằng những gì thực tế nhất: “Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi, mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi, người thương gia lợi tức, người công nhân ấm no, thoát ly đời gian lao nghèo khó”. Dân Việt sống bằng lúa gạo, cơm là chính, thế nên giới nông dân rất quan trọng – dù họ vẫn “bị” các tầng lớp khác coi thường. Có người cho rằng “nhất sĩ, nhì nông”, nhưng “hết gạo, chạy rông” thì lại “nhất nông, nhì sĩ”. Sĩ gì thì sĩ, có là tổng thống cũng vậy, không có gạo thì “chết chắc”.

Năm nào mùa màng thất bát thì Xuân mất vui, nếu mùa màng bội thu thì Tết tưng bừng. Niềm vui có tính lây lan rất nhanh, cả chiều ngang và chiều dọc. Vui toàn gia, vui toàn xã, vui toàn tỉnh, vui toàn quốc.

Mọi người cùng hân hoan nâng ly chúc mừng nhau: “Á a a a, nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui; á a a a, muôn lòng xao xuyến duyên đời”. NS Chương dùng chữ “duyên đời” thật lạ nhưng lại khá hay. Độc đáo thật! Chắc hẳn ai cũng cần cái “duyên đời” ấy.

Rồi ông chúc những người quên mình, hy sinh vui Xuân riêng để gìn giữ an bình cho dân, cho nước: “Rót thêm tràn đầy chén quan san, chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành, mừng người vì nước quên thân mình”. Thời nào cũng vậy, những người lính luôn đáng trân trọng vì họ quên hạnh phúc riêng mà lo cho hạnh phúc của cộng đồng dân tộc. Ngày Tết, chắc chắn họ cũng cần lắm một ly rượu mừng Xuân. Đó là công bằng!

Cuộc đời luôn có sự nối kết, tình liên đới. Không gì hơn mẫu tử tình thâm. Con đi xa thì nhớ Mẹ, còn Mẹ cũng nhớ thương con, Xuân về mà niềm vui chưa trọn vẹn: “Kìa nơi xa xa có bà mẹ già, từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa”. Thương biết bao khi Mẹ con không được sum họp trong ngày Xuân. Thương lắm, nhưng cũng chỉ biết cầu xin ơn trên: “Chúc bà một sớm quê hương, bước con về hòa nỗi yêu thương”. Có hòa bình đích thực thì Mẹ con mới khả dĩ đoàn tụ, nước mắt có rơi thì cũng là lệ mừng vui chứ không là lệ u sầu.

Mọi người yên ấm vui Xuân nhưng không thể quên những người còn vương sầu, và xin nâng ly cầu chúc: “Á a a a, hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính; á a a a, chúc mẹ hiền dứt u tình”. Không ai còn chút u tình nào thì Xuân mới trọn niềm vui.

Mùa Xuân là mùa yêu thương, mùa chim én xây tổ ấm, chúng ta nâng ly cầu chúc những người đang yêu nhau: “Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương, xây tổ ấm trên cành yêu đương”. Giới nghệ sĩ thường là những người cô đơn. Thi sĩ bị chê là lãng mạn, ca nhạc sĩ thì bị coi là “xướng ca vô loài”. Lưỡi không xương nên cỡ nào cũng chê bôi được. Có lẽ NS Chương có “máu nhạc” nên ông thông cảm và mời gọi mọi người chúc mừng giới nghệ sĩ: “Nào cạn ly mừng người nghệ sĩ, tiếng thi ca nét chấm phá tô thêm đời mới”.

Giới nghệ sĩ là những người làm đẹp cho đời bằng các tác phẩm nghệ thuật, chính các tác phẩm đó là “món ăn tinh thần”. Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn cần bồi dưỡng tinh thần nữa. Cần lắm, vậy tại sao người ta lại chỉ chú trọng vật chất? Có tự mâu thuẫn không?

Dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ, dù đời thường hay tôn giáo, ai cũng luôn cần sự hòa bình đích thực: “Bạn hỡi, vang lên lời ước thiêng liêng, chúc non sông hoà bình, hoà bình, ngày máu xương thôi tuôn rơi, ngày ấy quê hương yên vui, đợi anh về trong chén tình đầy vơi”. Lời cầu chúc là điều ước nguyện, mà điều ước nguyện nào cũng thực sự thiêng liêng, cần lắm trong cuộc sống thường nhật.

Khi người ta mơ ước là người ta đang tin tưởng, tin chắc thì sẽ được, như người Pháp nói: “Vouloir, c’est pouvoir” (Muốn là được). Quả thật, niềm tin rất cần trong cuộc sống đối với bất kỳ ai. Hãy tin tưởng và mừng vui: “Nhấc cao ly này, hãy chúc ngày mai sáng trời tự do, nước non thanh bình, muôn người hạnh phúc chan hoà”. Đẹp lắm hai tiếng “hòa bình”. Tự do và hòa bình đều liên đới với nhau.

Cuối cùng, NS Chương dùng câu kết (coda) ngắn gọn và đầy ý nghĩa, tạo hứng khởi cho chúng ta, và niềm tin đó cứ dâng cao theo giai điệu đi lên cao vút: “Ước mơ hạnh phúc nơi nơi, hương thanh bình dâng phơi phới”.

Còn về đời sống tâm linh, chúng ta có cần cầu chúc nhau điều gì?

Chắc hẳn có nhiều điều lắm, nhưng điều cần thiết trước tiên là chúc bình an. Chúa Giêsu căn dặn: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10:5). Sau khi sống lại, khi các Tông đồ và các bạn hữu đang tụ họp trong phòng, Chúa Giêsu hiện ra và nói: “Bình an cho anh em” (Lc 24:36). Thánh Phaolô cũng nhắc tới bình an: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2:17).

Quả thật, bình an là điều tối cần thiết cho mọi người, không trừ ai. Bình an của Chúa càng cân thiết hơn vì bình an đó quá đặc biệt: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27).

Trong Thánh lễ hằng ngày, Giáo hội cũng vẫn mời gọi chúng ta chúc bình an cho nhau. Lúc đó, chúng ta có thực sự chúc bình an cho nhau hay chỉ là làm theo nghi thức? Chúc bình an cũng bao hàm lòng yêu thương: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ” (Lc 6:32). Nghe Chúa Giêsu nói vậy, bạn có thấy “nhột gáy” không?

Người Anh có câu nói chí lý: “Let bygones be by gones” (chuyện gì đã qua thì cứ cho qua), nghĩa là tha thứ cho nhau, có vậy thì mới có thể nâng ly rượu cùng mừng Xuân mới và chân thành chúc nhau: Chúc Mừng Năm Mới.

TRẦM THIÊN THU

Tết Nguyên Đán – 2013

__________________________________

(*) NS Phạm Đình Chương sinh ngày 14-11-1929 tại Bạch Mai (Hà Nội). Quê nội ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, thân phụ là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ kết hôn với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh, và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.

Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: Trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái Hằng, vợ NS Phạm Duy), con trai thứ là NS Phạm Đình Chương, và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh (ca sĩ Thái Thanh).

Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý, nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập Ban Văn nghệ Quân đội ở Liên khu IV.

Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác lúc 18 tuổi (1947), nhưng phần nhiều những nhạc phẩm của ông thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu tiên như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng (viết chung với Phạm Duy), Hò Leo Núi,… đều có nét hùng kháng, tươi trẻ.

Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với nghệ danh ca sĩ Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc Giao Duyên, Kiếp Cuội Già, Được Mùa, Tiếng Dân Chài,… Thời gian sau đó, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn: Xóm Đêm, Đợi Chờ, Ly Rượu Mừng, Đón Xuân, Xuân Tha Hương,…

Sau khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào những bài nhạc tình da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm Cuối Cùng, Thuở Ban Đầu, Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn Thương Đau, Khi Cuộc Tình Đã Chết,…

Ông được coi là nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến và là một tên tuổi lớn của nền tân nhạc Việt Nam. Có thể nói rằng Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như: Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa Hồn Thương Đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm Nhớ Trăng Saigon (thơ Du Tử Lê), Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần Dạ Từ), Màu Kỷ Niệm (thơ Nguyên Sa), Buồn Đêm Mưa (thơ Huy Cận),… Ông cũng đóng góp cho tân nhạc một bản trường ca bất hủ “Hội Trùng Dương”, viết về ba con sông Việt Nam: Sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.

Sau 1975, ông định cư tại California (Hoa Kỳ), và qua đời ngày 22-8-1991.

Exit mobile version