Luyến ái đồng giới là những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy mình bị lôi cuốn tình dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái. (GLC 2357)
Có những người có khuynh hướng nầy trong một thời gian nào đó, có những người có khuynh hướng luyến ái đồng giới suốt đời. Khuynh hướng nầy thúc đẩy hai người cùng phái liên hệ tình dục với nhau hoặc sống chung với nhau như vợ chồng. Những người đã lập gia đình, mặc dầu có sinh hoạt vợ chồng bình thường, nhưng vẫn có khuynh hướng đồng giới tính, liên hệ tình dục lén lút với người đồng phái. Đồng tính là một lệch lạc về tính dục.
Cho đến nay chưa xác định được nguyên nhân. Tất cả mọi lập luận về hoàn cảnh xã hội, môi trường đều chỉ là rất tương đối, không có cơ sở khoa học. Người ta hướng nhiều đến giả thuyết do bẩm sinh. Zwang (1985) cho rằng có thể do “rối loạn trong cấu trúc của bản năng cố định đối tượng”. Nghĩa là bình thường, đối tượng của một em trai đến tuổi dậy thì là nữ hoặc ngược lại. Nơi người đồng tính, định hình đối tượng bị lệch lạc.
Luyến ái đồng giới được đánh giá từ 0 đến 7
– 0: những người bình thường, không bao giờ có ý muốn quan hệ tình dục với người đồng phái.
-7: những người đồng tính thứ thiệt, không bao giờ có ý muốn quan hệ tình dục với người khác phái.
– Từ số 3 – 5: hay mang mặc cảm tội lỗi và khó hòa mình vào xã hội, tuy vẫn có vợ, có chồng, có con như bình thường, nhưng dấu diếm tật đồng tính của mình.
Về ngoại hình, người đồng tính ái nam chẳng có gì khác biệt với người bình thường, nhiều khi còn có vẻ “đàn ông” hơn nữa.
II. Lập trường của Giáo Hội
Tòa án Hôn Phối của Giáo Hội coi việc luyến ái đồng giới là có tính chất nghiêm trọng và là nguyên nhân làm cho hôn phối vô hiệu, miễn là đã có trước, vĩnh viễn, trầm trọng xét theo bản chất và cấp độ. Trường hợp nầy cũng có thể được coi như một ngăn trở giống như loại ngăn trở bất lực về chức năng, hoặc như một loại bệnh tinh thần hay là một hình thức giả vờ.
Công Đồng Vaticanô II đã làm phong phú nội dung của GL. đ.1081§2 khi nhấn mạnh đến ý niệm cộng đồng sống chung hôn nhân, cộng đồng sự sống không thể phân ly, cộng đồng sống chung trọn đời[1] và vì vậy phải xét việc luyến ái đồng giới dưới góc độ của sự ưng thuận đầy đủ hay không đầy đủ.
1. Giới tính là một yếu tố quan trọng của nhân cách, nó giúp con người trưởng thành hơn trong đời sống cá nhân cũng như xã hội. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin coi giới tính là một thực tế làm phát sinh những đặc tính riêng biệt, ảnh hưởng đến chính cá nhân người nam cũng như nữ, trong lĩnh vực sinh học, tâm lý và tinh thần, và vì thế nó có uy lực và đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện sự trưởng thành của mỗi người và giúp họ hội nhập vào đời sống xã hội[2].
2. Giới tính giúp vợ chồng trao hiến cho nhau cách trọn vẹn, vì giới tính là phương tiện của sự kết hợp, nhờ đó người nam và người nữ trao hiến cho nhau bằng những hành vi độc hữu và riêng biệt của vợ chồng, nó không còn là một cái gì thuộc về sinh học, nhưng đụng chạm đến tâm điểm của nhân cách con người, xét như là chính họ.Như vậy, nếu không có giới tính hoặc giới tính khác thường một cách thường xuyên và nghiêm trọng, thì không thể thực hiện được việc vợ chồng trao hiến cho nhau. Dấu hiệu và hoa quả của việc trao hiến cả con người của mình thật là cần thiết, vì trong đó cả nhân vị hiện diện, hơn là chỉ sự kết hợp thể lý đơn thuần. Sự kết hợp nầy dầu là tất cả, cũng chỉ được xem như một sự lừa dối[3].
Xét như vậy, chúng ta hiểu được tại sao Giáo Luật coi giao ước hôn nhân trước hết quy hướng về thiện ích của đôi bạn (GL. đ.1055§1). Bởi sự ưng thuận, người nam và người nữ trao thân cho nhau và đón nhận nhau để thiết lập hôn nhân (GL. đ.1057§2), dẫu rằng có khi người này hay người kia có thể loại trừ một trong những yếu tố thiết yếu của hôn nhân bằng một hành vi tích cực của ý chí, giới hạn sự ưng thuận của mình, hoặc là không có khả năng để trao hiến và nhận lãnh những quyền lợi và bổn phận thiết yếu của hôn nhân vì một lý do hoàn toàn do tâm lý (GL. đ.1095), nghĩa là độc lập với ý muốn của họ. Trong những trường hợp này, thì đó không phải là loại trừ, nhưng là sự khiếm khuyết về đối tượng của sự ưng thuận.
III. Luyến ái đồng giới: Tính dục bất thường.
1. Luyến ái đồng giới ngăn cản việc vợ chồng trao hiến cho nhau.
Khi một trong hai người mắc tật luyến ái đồng giới nặng và không thể thay đổi được, người ấy không thể trao thân và đón nhận người khác phái để tạo lập hôn nhân, vì người đó bị tước đoạt chính mình, xét như là mình, trong chính yếu tính của người ấy.
Hơn nữa, vì quyền lợi và bổn phận của hôn nhân gắn liền với giới tính, nên người bệnh không thể trao thân và đón nhận chúng, vì nó vượt quá khả năng của mình. Tình trạng tâm lý nầy không những đưa đến việc từ chối người khác giới, mà còn khiến cho không thể hiểu được đời sống lứa đôi cùng với những quyền lợi và bổn phận riêng của nó. Nhân cách của người luyến ái đồng giới bị giảm bớt và thiếu phẩm tính cốt yếu để kết hôn. Người nào kết hôn mà đời sống tính dục không bình thường, thì có thể là không bị bất lực thể lý khi liên hệ tính dục, nhưng về tâm lý thì thiếu khả năng phát biểu sự ưng thuận vì người này chịu ảnh hưởng của bệnh tật. Người mắc chứng luyến ái đồng giới, vì ý chí bất thường hoặc đã bị tổn thương nên mất đi khả năng nội tại để tự buộc mình hướng về những quyền lợi và bổn phận hôn nhân. Trong cam kết hôn nhân không thể thiếu quyền sống chung suốt đời và thiện ích của đôi bạn, hướng đến việc sinh sản con cái, qua việc kết hợp thể xác với nhau.
2. Luyến ái đồng giới bị xếp vào loại bất thường.
Mặc dầu nguồn gốc và nguyên nhân của những bất thường sinh lý đồng giới vẫn còn được tranh cãi và các bác sĩ vẫn chưa thống nhất với nhau trong việc xác định, nhưng chắc chắn, xét theo những hậu quả của nó, phải xếp luyến ái đồng giới vào loại tính dục bất thường, thuộc lãnh vực bệnh lý.
IV. Chứng cứ của luyến ái đồng giới.
Về chứng cứ, cần phải tham khảo các chuyên viên để biết rõ bản chất, sự trầm trọng và tính chất không thể chữa trị của bệnh. Cần phải cứu xét từng trường hợp, vì tính dục bất thường này liên quan với từng giai đoạn hoặc hoàn cảnh sống. Khi những giai đoạn hay hoàn cảnh này qua đi, thì đương sự có thể trở lại bình thường; cũng có khi khuynh hướng luyến ái đồng giới chưa đạt đến mức độ không thể chữa được; có khi, nhưng thường là hiếm, nó không ngăn cản khuynh hướng đến với người khác giới đến độ loại trừ khả năng kết hôn.
Tóm lại, tật luyến ái đồng giới khiến chủ thể không thể bày tỏ sự ưng thuận hôn nhân một cách hữu hiệu, nên thường Tòa án Giáo Hội tuyên bố hôn nhân vô hiệu với lệnh cấm (vetitum) không được kết hôn lại.
ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI VÀ CÁC NGỘ NHẬN
Khi nói về đề tài nhạy cảm đồng tính luyến ái, người ta thường rơi vào hai thái cực: một là kỳ thị không thương tiếc, hai là bao dung ủng hộ. Đa phần, cả hai thái độ này đều xuất phát từ những thành kiến có sẵn hoặc hùa theo đám đông mà không dựa trên một chuẩn mực đạo đức hay cơ sở luân lý nào.
Mỗi năm ngay tại Roma, thủ phủ của Giáo Hội Công Giáo, thành trì luân lý đạo đức của thế giới, luôn có một cuộc tuần hành rất quy mô để biểu dương lực lượng và đòi quyền bình đẳng của nhóm LGBT (viết tắt của Lesbian, Gay, Bisexual, Transexual / Transgender: đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính luyến ái, chuyển giới). Nhóm LGBT này đến từ khắp nơi trên Châu Âu, họ tụ họp về đây và lớn tiếng giới thiệu với công chúng các nhân vật có tiếng tăm trong cộng đồng LGBT của mình; đồng thời đòi hỏi được có các quyền như mọi người khác, quyền được yêu và quyền hôn nhân.
Ở Việt Nam, đây đó trên các diễn đàn online, và cả trên các tờ báo chính thống của chính phủ, đã có các bài viết về đồng tính luyến ái. Hầu hết các bài viết này đều giật tít rất kêu, sau đó đưa ra những luận cứ ủng hộ cho hành vi đồng tính luyến ái dựa trên cảm xúc nhất thời của một nền nhân học vô thần, tâm điểm là cái tôi của mình.
Biểu tượng của LGBT là lá cờ cầu vồng bảy sắc màu. Cần phân biệt lá cờ của nhóm này với lá cờ hòa bình của thế giới. Cả hai đều là cờ cầu vồng nhưng cờ hòa bình thì có mầu đỏ ở phía dưới trong khi cờ LGBT thì màu đỏ ở trên. Tại các thành phố lớn trên thế giới, chúng ta thấy có những khu phố cắm nhiều lá cờ cầu vồng LGBT. Đây là dấu hiệu cho mọi người biết đó là đại bản doanh của cộng đồng LGBT trong khu vực. Sự sang trọng cũng như nét ăn chơi của các khu phố này luôn nổi bật và dễ nhận biết qua các quán bar, nhà hàng, club tất bật nhộn nhịp nhất là từ khi hoàng hôn xuống.
Không giống như một số quan niệm cho rằng một khi đồng tính thì người nam thường ẻo lả, ủy mị; người nữ thì lông lá, cơ bắp. Không phải thế! Ngoại hình không nói lên được điều gì cả trong vấn đề này. Chàng gay có thể là một ca sĩ, một chính tra gia lừng danh, hay là một tay anh chị hầm hố; còn nàng “les” cũng có thể sở hữu một sắc đẹp nghiêng thành đổ nước và dịu dàng ủy mị chẳng thua chị kém em tí nào. Vấn đề không hệ tại ngoại hình nhưng ở khuynh hướng tình dục của họ.
Thái độ của con người thời nay về vấn đề
Châu Âu với lịch sử sáng chói tỏa đầy hào quang về văn hóa, nghệ thuật, khoa học; nhưng cũng bị bao trùm bởi bóng đen tội lỗi xâm chiếm thế giới, mặc cảm thực dân. Thế nên hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, Châu Âu của ngày hôm nay là một lục địa đầy tính đa nguyên, quảng đại bao dung. Họ dễ dàng chấp nhận tất cả mọi khác biệt. Châu Âu giờ đây là một châu âu đầy màu sắc, hết sức phong phú, đa dạng. Kể cả khi vì thế mà họ sẵn sàng đánh mất căn tính của mình. Đây là điều Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 luôn cảnh báo. Thái độ bao dung tùy tiện của một xã hội đa nguyên dựa trên mặc cảm dẫn tới các hệ lụy khôn lường, trong đó có sự tan rã các giá trị truyền thống, nguy hiểm nhất là sự hủy hoại thể chế gia đình, tế bào gốc của xã hội. Châu Âu luôn dẫn đầu trong các phong trào tự do về quyền người đồng tính. Lập luận họ viện dẫn để ủng hộ cho hành vi đồng tính luyến ái có rất nhiều, đây là vài nét chính:
· Vấn đề đồng tính đã có từ thuở xa xưa, các truyền thuyết Hy Lạp và cả Thánh Kinh cũng nhắc tới.
· Có cả những người nổi tiếng, người của công chúng cũng là LGBT, những nhân vật này thường được trưng ra như nhãn hiệu cầu chứng của giới này.
· Giáo Hội và cả khoa học ngày nay cũng chưa tìm được cơ chế dẫn tới tình trạng LGBT. Do vậy, đây là tình trạng không thể chữa được: sinh ra là như thế[1]. Hãy chấp nhận cho chúng tôi yêu và cưới.
Quả thật, những người LGBT rất đáng thương. Họ chịu áp lực rất lớn ngay từ bé khi bắt đầu nhận thức về giới tính của mình. Họ thấy mình không giống ai, không biết mình thuộc về nam hay về nữ, và vì thế họ bị mặc cảm tự ti, cảm thấy mình bị khinh bỉ ngay trong gia đình mình, trong trường học của mình. Trong khi giấu căn tính giới tính, họ tìm đến với những người cùng cảnh ngộ, đến với các nơi, các nhóm mà họ được tôn trọng. Tuy nhiên, số người mắc tình trạng này từ bé chỉ là một phần nhỏ. Phần lớn trong đó là chạy theo trào lưu, những người đổ vỡ đời sống tình cảm, những người có lối sống tình dục buông thả, thỏa mãn nhất thời vì hoàn cảnh. Dù sao đi nữa, thái độ kỳ thị đồng tính luyến ái là một sự thiếu hiểu biết và không bác ái.
Được sống căn tính giới tính, được trở nên chính mình là một điều thật hạnh phúc. Thật tuyệt vời.
Hiểu được tình cảnh của người có khuynh hướng đồng tính, hiểu được trăn trở của họ khi họ tìm đến nhau để được thông cảm, tìm đến dao kéo y tế để trở nên mình hơn, chúng ta sẽ thương họ hơn, chúng ta sẽ dễ dàng thông cảm hơn với những phản ứng thái quá của họ.
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở chúng ta “Ðối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống và, nếu là Kitô hữu, họ nên kết hợp với các khó khăn gặp phải do hoàn cảnh đặc biệt của mình với hy tế thập giá của Chúa”[2].
Khuynh hướng và hành vi
Tuy vậy, chúng ta phải luôn rạch ròi phân biệt giữa người có khuynh hướng tình dục đồng giới và hành vi đồng tính luyến ái. Cá nhân có khuynh hướng này và hành vi tính dục của họ là hai điều hoàn toàn khác nhau. Nói như Đức Thánh Cha Phanxicô: “nếu một người đồng tính tìm kiếm Thiên Chúa và luôn có thiện ý, thì tôi là ai mà dám phê phán người ấy”. Yêu thương họ không có nghĩa là cổ vũ hành vi luyến ái, hay chấp nhận hôn nhân đồng tính. Dù hết lòng cảm thông tình cảnh đáng thương của họ, Giáo Hội vẫn khẳng định: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn”[3].
Không chỉ Công Giáo có nhãn quan như thế, Phật Giáo qua quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo Phật Giáo tối cao của Tây Tạng đã trả lời cho các lãnh tụ phong trào đồng tính tại San Francisco rằng: đồng tính luyến ái là “tà hạnh”, nguyên văn bản tiếng Anh là “sexual misconduct”[4] của nhà báo James Shaheen, nghĩa là sự rối loạn hay phi luân dục tình.
Nếu nhìn nhận đồng tính luyến ái là bất thường, là rối loạn tính dục, sự bất bình thường trong tự nhiên, vậy thì nó cần được điều chỉnh, chứ không được hợp thức nó qua luật lệ như đòi hỏi của các phong trào đồng tính. Cho dù các trường hợp riêng lẻ cách nào đó là rất đáng thương. Nhưng nguyên tắc luân lý của Giáo Hội là không bao giờ phổ quát hóa luân lý các trường hợp cá biệt.
Chẳng có sự trân trọng nào đúng nghĩa nếu chỉ dựa vào cảm xúc tội nghiệp chóng qua hay sự dễ dãi mang tính phi luân, từ lối sống buông thả. Lòng bao dung cho hành vi đồng tính luyến ái cách hời hợt dựa trên kiến thức giáo lý vụng về sẽ dẫn đến các tai họa khôn lường như thảm cảnh tan vỡ cơ chế gia đình, đồng thời làm mất đi bản chất cao thượng hay tính thánh thiêng của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Sự yêu thương trân trọng đích thật cần dựa trên nền tảng nhân học kitô giáo, trong đó nhân vị được đề cao và được kỳ vọng hướng tới siêu việt. Dù cho cá nhân có khiếm khuyết như thế nào chăng nữa, nó vẫn được yêu thương và được kỳ vọng để sống cho những điều cao quý hơn. Theo đó, quyền của người có khuynh hướng đồng tính đích thực là quyền được hòa nhập, được tôn trọng, được sống đúng phẩm giá nhân vị, được cộng đồng giúp đỡ để vượt qua sự căng thẳng nội tại về giới tính, để có được một cuộc sống triển nở, tròn đầy.