Dưới khoé nhìn sinh học, mỗi ‘con người’ là một cá thể thuộc loại sinh vật phát triển nhất của trái đất, là loài linh trưởng có vú, có dáng đi thẳng, tay và chân hoạt động phân biệt và khéo léo với não bộ và hệ thần kinh phát triển, nhờ đó mà có được khả năng tri thức và trừu tượng hoá, có ngôn ngữ thông tin theo hệ thống biểu tượng và đời sống cảm xúc phức tạp, trổi vượt và phân biệt hẳn với loài cây cỏ và các động vật khác. Theo quan điểm tiến hoá, việc trở thành người là một bước nhảy vọt xét về chất và lượng sau một quá trình của chọn lựa và đấu tranh sinh tồn. Tuy nhiên, một cách nào đó dù đứng ở vị trí cao trong bậc thang tiến hoá, xét về mặt bản năng thì con người kém xa loài vật nhiều mặt, như khả năng định hướng và thích nghi với môi trường, về chức năng hoạt động của một số giác quan và cơ phận…
Trong tiếng Latinh, danh từ ‘con người’ là homo, có liên quan đến một từ khác là humus-bùn đất, ám chỉ rằng con người thuộc về đất, chỗ thấp, ngược với trời cao và chốn thần linh. Ngành khảo cổ và nhân chủng học còn đặt tên cho giống người đứng thẳng trên đôi chân cách đây khoảng 200.000 năm là homo erectus, sau đó đến loại homo sapiens, người khôn ngoan cách đây khoảng 130.000năm. Cho đến hôm nay, khi chúng ta là những con người hiện đại, con người của lý luận và thực tiễn song hành, của tính toán lợi nhuận và phát triển, thì lịch sử đã đi qua nhiều thế kỷ. Tính thời gian, so với chiều dài một đời người, thì đây là lịch sử của bao thế hệ, nhưng so với thời gian của vạn vật từ thuở khai nguyên, thì chỉ là một khoảnh khắc, cũng như gió thổi mây bay mà thôi. Mà nếu bạn làm được một chút gió hoặc chút mây trong vũ trụ trăm triệu năm qua, thì bằng mấy đời người rồi còn gì mà không ao ước.
Xét về mặt xã hội,làm người là ‘sống cùng’ và ‘sống với’ người khác. Nói theo Triết học Aristotle, con người từ bản chất mang tính xã hội (con vật có tính xã hội). Theo ông, ai sống ngoài các quan hệ xã hội thì hoặc là loài cầm thú hoặc là bậc thần linh siêu phàm. Tuy vậy, tính xã hội nơi con người hơn hẳn loài ong hay tính bầy đàn của loài cầm thú. Con người có ngôn ngữ để truyền thông và có khả năng phân biệt tốt, xấu, công bằng-bất công cùng các sự khác. Tương quan này tạo ra gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, vì mỗi con người là một tiểu vũ trụ, độc nhất và khác biệt, nên việc tìm ra một điểm tương hợp cho tất cả là điều rất khó. Còn tệ hơn, vì sự khác biệt màu da, văn hoá, chính kiến, con người nhiều khi đối xử với nhau như loài cầm thú và người ta đã dùng chữ homo – con người là lang sói của nhau – để phần nào diễn tả điều này. Nếu thực sự cuộc sống chỉ là cuộc tranh giành theo kiểu ấy để tồn tại, thì tốt hơn là mơ làm cây thông đứng giữa trời mà reo vui với gió, làm tảng đá trơ mặt ra với nắng mưa để khỏi còn biết đau nỗi đau nhân tình thế thái, và để khỏi buồn sầu vì lòng người đổi thay, hay khỏi tiếc thương cho thân phận hẩm hiu và tài năng của mình vì bị người khác quên lãng.
Vậy thì ‘làm người phải thế nào ?’. Đúng là ‘làm người’ khổ thật vì ta chẳng bao giờ thấy bằng lòng với những gì mình là (being) và với những gì mình có (having). ‘Làm người’ đòi hỏi một điều gì đó xem ra ‘cao cả’ và ‘vượt trổi’ hơn so với những gì ‘thấp hèn’ hay bình thường mà chúng ta biết được. Mà sự cao sang hay thấp hèn tuỳ thuộc nhiều vào khả năng đánh giá của từng cá nhân. Tuy nhiên, từ trong thâm sâu chúng ta luôn biết giá trị của chính mình. Ta chẳng phải đơn giản là sỏi đá, cây cỏ hay loài giun dế, và thú vật, nên khi cảm thấy bị xem thường, hay bị chà đạp hay bị xúc phạm, liền sẵn sàng vung nắm đấm để đòi được tôn trọng, đòi quyền lợi, đòi hạnh phúc, đòi tự do và công bằng, hay nói tóm lại, đòi quyền sống và quyền làm người đó sao ?.
Nhiều người vẫn suy nghĩ rằng các quan điểm Tôn giáo hầu hết ‘gãi đúng chỗ ngứa’ của nhân loại non yếu về trí tuệ, là muốn lý giải nguồn gốc và giá trị của cuộc sống con người trong tương quan với thần linh giữa cuộc sống thực tại bế tắc cần giải quyết. Chuyện bế tắc nhất của con người là sự chết đã hiện diện cùng với con người bao lâu nay, mà nào ai giải quyết được ?.
Chúng ta không muốn lạm bàn ở đây về quan điểm Tôn giáo, nhưng từ những người Phật Tử, chúng ta có thể học được một kinh nghiệm. Họ quan niệm rằng dục vọng là căn nguyên mọi đau khổ. Với con người, thông thường, các giá trị vật chất hiện hữu trước mắt có sức cuốn hút con người mạnh hơn các giá trị tinh thần phi vật chất ; cũng vì thế, người ta dễ chạy theo dục vọng cùng những gì là tham-sân-si. Mà giá trị của đời người theo dục vọng sẽ không mang tính vĩnh hằng, vì chỉ hiện hữu trong cuộc đời sắc sắc không không. Tiếp tục theo dục vọng không cùng là vòng nghiệp chướng của cuộc đời như là bể khổ triền miên. Chỉ có sự giác ngộ – sự hiểu ra đâu là sắc không – mới mang lại giá trị hạnh phúc vĩnh hằng cho đời sống con người. Nếu không muốn nói là sự giải thoát khỏi mọi tục luỵ và tự cứu lấy chính mình.
Kitô giáo nhìn cuộc sống con người với lăng kính khác. Con người được tạo thành do hình ảnh của Thiên Chúa. (linh hồn, tinh thần hướng thiện, ý chí tự do), nhưng con người đã xa ngã và rời xa Thiên Chúa, vì kiêu căng và vì dục vọng nơi thân xác của mình. Nhờ Đức Kitô con Thiên Chúa làm người được vực dậy, được thông phần vào cuộc sống vĩnh hằng của Thần linh (được cứu rỗi). Có lẽ con người như một loài thọ tạo, tự thân con người không thể vươn tới Trời cao nếu Thiên Chúa không đưa tay kéo họ, và con người cần đến một trung gian, vì giữa Thiên Chúa và con người, xét về mặt hữu thể học, có một sự khác biệt khá lớn. Ngoài ra, nhờ được thông phần vào bản tính Thần linh, mà con người trở nên tạo vật sáng giá và là người cộng tác vào chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa. Giá trị của cuộc sống con người : Vinh quang của Thiên Chúa là con người đang sống (Thánh I-rê-nê). Sự chết không là dấu chấm hết, hay là quay trở lại từ đầu mọi thứ một lần khác, mà là cánh cửa mở ra một chân trời mới, sự sống mới trong cung lòng của Thiên Chúa.
Trở lại với thực tế cuộc sống, thời gian gần đây, Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Mỹ đã công bố danh mục 10 vấn đề chính liên quan đến nguồn gốc sự sống trên trái đất, vũ trụ, môi trường và đời sống con người … mà các nhà khoa học phải tìm lời giải đáp trong giai đoạn đầu thế kỷ 21. Một số vấn đề có thể đòi hỏi trả lời hàng thập niên, nhưng số khác có thể chỉ mất vài năm. Người ta cho rằng trong bất cứ trường hợp nào, nếu không tìm được lời giải đáp đúng đắn cho 10 câu hỏi đó, khoa học sẽ bị rơi vào tình cảnh giậm chân tại chỗ. Bạn có thể không cần quan tâm vì cho đó là vấn đề khoa học của thế giới và là ‘vấn đề đó là của người khác’, trong khi mình đang phải đầu tắt mặt tối vì lo chuyện ‘cơm áo gạo tiền’ hằng ngày mệt nhoài. Tuy vậy, hình như với tất cả mọi người, có một câu hỏi lớn mà người ta rất khó trả lời trọn vẹn là : “đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người ?”.
Người ta có thể bị ràng buộc mãi mãi về những lo toan đơn giản nhất, vì mọi bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, ngay cả khi thế giới này bước vào giai đoạn phát triển tột bậc. Trong khi đó người ta không thể quên rằng giữa mọi lo toan phải tìm cách để luôn sống ‘cho ra con người’ ‘thành người’ hơn.
Có một câu danh ngôn rằng : “Ngày bạn sinh ra, mọi người quanh bạn cười, còn bạn thì khóc. Hãy sống làm sao để khi nhắm mắt xuôi tay, mọi ngừơi quanh bạn thương khóc, còn bạn thì có thể mỉm cười”. Với cuộc sống như một quà tặng duy nhất và quí giá cùng khả năng ‘trời cho’ không như bao người khác, bạn có thể tạo nên giá trị cho chính cuộc sống của mình vậy.
An Phong, SDB