Hãy nhớ mình là bụi tro!

74

HayNhoMinhLaTroBuiMùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro bằng nghi thức xức tro. Tuy không bắt buộc theo truyền thống, nhưng đó là ngày thánh, không tới nhà thờ để được xức tro thì những người có tâm hồn đạo đức sẽ cảm thấy áy náy, cảm thấy có lỗi với Chúa. Ngay cả những người không thường xuyên tới nhà thờ cũng cố gắng bắt đầu thể hiện mùa Chay bằng việc chịu tro. Tây phương xức tro bằng cách vẽ hình Thánh giá trên trán, còn Việt Nam thường bỏ một ít tro trên đầu.

Xức tro để nhớ lại thân phận mình chỉ là bụi cát: Được hóa thân từ bụi cát rồi sẽ trở về bụi tro. Nói thẳng ra là CHẾT. Điều đó nhắc nhở người ta phải không ngừng canh tân cách sống sao cho càng ngày càng tốt hơn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại là Thứ Ba trước Lễ Tro thường được gọi là Thứ Ba Béo (Fat Tuesday, Mardi Gras).

Tro trong Kinh Thánh

Thói quen dùng tro trong nghi lễ tôn giáo bị mai một từ giữa thời tiền sử, nhưng chúng ta vẫn thấy trong truyền thống tôn giáo thời Cựu ước. Chẳng hạn, tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối thế này: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6:26).

Mặt khác, tiên tri Isaia lại phê bình cách dùng vải thô và tro để cầu xin Thiên Chúa, ông chỉ ra rằng việc này phổ biến trong dân Ítraen: “Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?” (Is 58:5).

Tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Ítraen, và nêu gương cho họ thế này: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9:3).

Có thể các ví dụ điển hình về ăn chay trong Cựu ước liên quan vải thô và tro. Khi tiên tri Giôna vâng lệnh Chúa đến rao giảng trong thành phố lớn Ninivê, cách giảng của ông đã hiệu quả, lời kêu gọi ăn chay và sám hối tới tận tai nhà vua: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3:6).

Trong sách Giuđitha, chúng ta thấy việc ăn chay xác định rằng tro được xức trên đầu: “Hết mọi người nam trong dân Ítraen cùng với vợ con cư ngụ ở Giêrusalem đều phủ phục trước Đền Thờ, rắc tro lên đầu, mặc áo vải thô ra trước nhan Đức Chúa” (Gđt 4:11; x. Gđt 4:15 và 9:1).

Thời Tân ước, nhóm người đấu tranh giành độc lập cho Do Thái cũng đã chuẩn bị cuộc chiến bằng cách dùng tro: “Ngày hôm ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và xé áo mình ra” (1 Mcb 3:47; x. Mcb 4:39).

Trong Tân ước, Chúa Giêsu nhắc đến việc dùng vải thô và tro là dấu hiệu của sự sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, họ đã mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” (Mt 11:21; Lc 10:13).

Tro trong lịch sử Giáo hội

Dù các ám chỉ này có trong Kinh thánh, việc dùng tro trong Giáo hội chỉ còn lại ít tài liệu hồi thế kỷ I trong lịch lịch sử Giáo hội. Thomas Talley, chuyên gia về lịch sử phụng vụ, nói rằng phụng vụ ban đầu có thể xác định niên đại về Thứ Tư Lễ Tro cho thấy việc rắc tro có từ năm 960. Trước đó, tro được dùng làm dấu hiệu của sự chấp nhận đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XVI, nghi lễ dùng cách vẽ hình Thánh giá bằng tro trên trán khi chấp nhận một người bệnh nặng đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XI, Viện phụ Aelfric ghi chú rằng đó là thói quen đối với các tín hữu tham dự nghi lễ ngày Thứ Tư khởi đầu mùa Chay, bao gồm việc xức tro. Gần cuối thế kỷ XI, ĐGH Urbanô II kêu gọi dùng tro trong ngày này. Sau đó, ngày này mới được gọi là Thứ Tư Lễ Tro.

Đầu tiên, giáo sĩ và đàn ông được xức tro trên đầu, còn phụ nữ được vẽ dấu Thánh Giá bằng tro trên trán. Nhưng rồi cách vẽ Thánh giá bằng tro trên trán được áp dụng cho cả nam và nữ.

Thế kỷ XII, luật nói rằng tro được tạo ra bằng cách đốt những cành lá đã làm phép từ Lễ Lá năm trước. Ngày nay, nhiều giáo xứ kêu gọi giáo dân đưa lá được làm phép năm trước đến nhà thờ để làm nghi lễ đốt lá sau thánh lễ.

Nghi thức Sám hối

Có vẻ như việc dùng trong đầu mùa Chay là cách mở rộng việc dùng tro khi bước vào nghi thức sám hối. Quy luật này là cách mà Bí tích Hòa giải được cử hành qua hầu hết thế kỷ I của Giáo hội. Những người phạm tội trọng xưng tội với giám mục hoặc vị đại diện giám mục và được giao việc đền tội sẽ thực hành qua một thời gian. Sau khi đền tội xong, họ được giám mục giao hòa bằng lời tha tội trước cộng đoàn.

Khi làm việc đền tội, hối nhân thường có một chỗ riêng trong nhà thờ và mặc trang phục đặc biệt để cho biết tình trạng của mình. Như các tân tòng chuẩn bị lãnh Bí tích Thánh tẩy, họ thường ra khỏi cộng đoàn sau phần phụng vụ Lời Chúa.

Đây là toàn bộ quá trình được làm mẫu trên hành trình trở lại của tân tòng, vì Giáo hội thấy việc phạm tội trọng sau khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy là chưa thực sự trở lại. Đền tội là cố gắng thứ nhì để nuôi dưỡng sự trở lại. Các giáo phụ thời kỳ đầu của Giáo hội còn gọi việc đền tội là “Bí tích Thánh tẩy đệ nhị”.

Mùa Chay được phát triển trong Giáo hội là toàn thể cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay cho các tân tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Lúc đó, cả cộng đoàn đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy cùng chuẩn bị tái tuyên hứa lời hứa rửa tội trong đại lễ Phục sinh. Như vậy, mọi người cùng các tân tòng đào sâu sự trở lại của mình. Đó là điều tự nhiên mà nghi thức sám hối tập trung vào mùa Chay, với sự hòa giải thường được cử hành vào Thứ Năm Tuần Thánh để việc tái hòa giải có thể chia sẻ trong các phụng vụ của Tam Nhật Thánh (Triduum). Mùa Chay là mùa tập trung vào Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải.

Thay đổi cách hiểu mùa Chay

Việc tiếp nhận tân tòng dần dần biến mất khiến cách hiểu của người ta về mùa Chay cũng thay đổi. Thời Trung cổ, việc nhấn mạnh không còn rõ ràng về Bí tích Thánh tẩy. Thay vì thế, việc nhấn mạnh chính chú trọng vào cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô. Nghệ thuật Trung cổ phản ánh sự tập trung gia tăng này vào Đấng Cứu Thế Đau Khổ, cho nên lòng sùng kính phổ biến cũng vậy. Mùa Chay được coi là thời gian nhận biết tội lỗi mình đã khiến Đức Kitô phải đau khổ và chết thê thảm. Đền tội được coi là cách tránh hình phạt vì tội hơn là cách tái thề hứa lời hứa rửa tội.

Việc biến mất nghi thức sám hối dần dần, việc dùng tro trở thành phần thêm vào văn bản gốc. Sự tập trung vào việc đền tội riêng và Bí tích Hòa giải vẫn tiếp tục trong Mùa Chay, nhưng sự liên kết với Bí tích Thánh tẩy không còn rõ ràng với đa số chúng ta nữa. Điều này phản ánh trong công thức kết hợp với việc xức tro: “Hãy nhớ mình chỉ là cát bụi và sẽ trở về bụi tro”. Câu này tập trung vào sự chết của chúng ta, là cách nghiêm túc khích lệ đền tội, nhưng có chút gợi ý ở đây về ý nghĩa rửa tội nào đó. Cách nhấn mạnh vào sự chết hợp với kinh nghiệm sống thời Trung cổ, khi sự đe dọa của cái chết luôn chực chờ. Nhiều người chết còn rất trẻ, và sự tàn phá xã hội của bệnh dịch đã khiến tử vong rất dễ.

Thứ Tư lễ Tro sau Công đồng Vatican II

Công đồng Vatican II (1962-1965) đã kêu gọi đổi mới Mùa Chay, phục hồi đặc tính cũ liên quan Bí tích Thánh tẩy. Sự phục hồi này rất tiến bộ nhờ giữ lại cách tiếp nhận tân tòng được ủy thác của Nghi lễ Khai tâm Kitô giáo cho Người lớn (Rite of Christian Initiation of Adults) năm 1972. Khi người Công giáo gia tăng tương tác với các tân tòng trong giai đoạn cuối của việc họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, họ bắt đầu hiểu Mùa Chay là mùa chuẩn bị rửa tội và tái thề hứa lời hứa rửa tội.

Vì Thứ Tư Lễ Tro đánh dấu khởi đầu Mùa Chay, tự nhiên cũng là khởi đầu khôi phục sự tập trung vào Bí tích Thánh tẩy. Một gợi ý là công thức thứ nhì được đưa ra cho việc xức tro: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Dù điều này không minh nhiên nói tới Bí tích Thánh tẩy, nhưng vẫn nhắc nhớ chúng ta về lời hứa rửa tội là xa tránh tội lỗi và tuyên xưng đức tin. Rõ ràng kêu gọi chúng ta xa tránh tội lỗi, trở về với Chúa, người mà chúng ta phải ấp ủ cả đời mình.

Khởi đầu Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta bắt đầu hành trình trở về, đánh dấu Mùa Sám Hối. Khi các tân tòng bước vào giai đoạn cuối của việc chuẩn bị cho các Bí tích mùa Phục sinh, tất cả chúng ta cũng được mời gọi đồng hành với họ để chúng ta cũng chuẩn bị tái thề hứa lời hứa rửa tội trong đêm vọng phục sinh.

Các bài đọc trong lễ Tro

Các bài đọc trong Thứ Tư Lễ Tro làm nổi bật lời mời gọi trở về. Bài đọc I trích từ sách Giôen, kêu gọi chúng ta trở về với Chúa “bằng việc ăn chay, than khóc và thống thiết than van”. Tiên tri Giôen nhắc nhớ chúng ta rằng “Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, đó là mời gọi chúng ta tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa khi chúng ta cố gắng canh tân đời sống. Cần lưu ý rằng tiên tri Giôen không chỉ kêu gọi trở về cá nhân. Ông kêu gọi toàn thể mọi người, nên ông nói: “Hãy thổi kèn ở Sion, công bố ăn chay, kêu gọi nhóm họp; quy tụ mọi người, chú ý giáo đoàn; nhóm họp người lớn, con cái và trẻ em còn bú”. Khi chúng ta bước vào mùa canh tân, chúng ta kết hiệp với cả dân Chúa, vì tất cả chúng ta đều chia sẻ nhu cầu trở về liên tục và chúng ta được kêu gọi nâng đỡ nhau trong suốt hành trình này. Bắt chước những người tham dự Nghi thức Sám hối trong quá khứ, chúng ta cùng trở thành cộng đoàn sám hối khi tìm cách tiếp cận Thiên Chúa qua việc đền tội và canh tân đời sống.

Với cách nói khác nhưng không kém phần cấp bách, thánh Phaolô xin chúng ta “giao hòa với Thiên Chúa, vì đây là thời thuận tiện và là ngày cứu độ”. Thời điểm trở về với Chúa là lúc này, Mùa Chay Thánh này, chính ngày này.

Phúc âm Lễ Tro cho chúng ta lời khuyên tốt về cách chúng ta hành động trong Mùa Chay. Chúa Giêsu nói về 3 quy tắc chính của Mùa Chay: Bác ái, cầu nguyện và trai tịnh. Các hoạt động tâm linh này, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, được làm dù không ai biết. Điều quan trọng không phải là chúng ta chỉ nên cầu nguyện một mình mà không cầu nguyện chung với cộng đoàn, mà là chúng ta chỉ nên cầu nguyện không phải để người ta thấy mình đạo đức hoặc thánh thiện. Việc ăn chay và bác ái cũng vậy, không cần phải giấu giếm mà nên làm vì kính mến Chúa và yêu thương tha nhân, chứ không để người ta biết mà khen mình.

Có điều mỉa mai là chúng ta sử dụng đoạn Phúc âm này, khuyên chúng ta rửa mặt và không làm ra vẻ ăn chay, với vẻ chỉ loanh quanh với việc xức tro là xong. Đây chỉ là cách Chúa Giêsu bảo chúng tađừng làm những hành động mang tính tôn giáo chỉ muốn khoe khoang cho người khác biết. Chúng ta đừng xức tro để tỏ ra mình thánh thiện, mà phải biết rằng chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn cần phải sám hối, đền tội và canh tân.

Từ tro tới giếng rửa tội

Lời mời gọi liên tục sám hối phản ánh trong các bài đọc cũng là sứ điệp của TRO. Chúng ta sống Mùa Chay từ tro tới giếng rửa tội. Chúng ta xức tro vào Thứ Tư Lễ Tro và rửa sạch bằng nước của giếng rửa tội. Sâu xa hơn, chúng ta phải chết cho tội và xác thịt từ đầu Mùa Chay để có thể sống trọn vẹn hơn trong Đấng Phục Sinh trong ngày đại lễ Phục sinh.

Khi xức tro, chúng ta nhớ mình là gì. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là thụ tạo bởi bụi đất: “Hãy nhớ mình là bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những thụ tạo sẽ chết và “sẽ trở về bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những lữ khách trên hành trình trở về: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô: Xức tro để công bố mình đồng nhất với người khác.

Canh tân mình trước mặt Chúa là điểm cốt lõi của việc thực hành Mùa Chay. Rất dễ quên, vì thế chúng ta thường “lăn vào vết xe cũ” của thói quen phạm tội, cách nghĩ và cách sống trái ngược với Ý Chúa. Chúng ta cũng như dân thành Ninivê trong chuyện kể của tiên tri Giôna. Chính sự “đồi bại” của họ khiến Chúa phải sai Giôna tới rao giảng cho họ. Tiên tri Giôna muốn tránh né sứ vụ đó và bị chìm sâu trong nước. Được cá cứu, cuối cùng tiên tri Giôna mới làm theo Ý Chúa và bắt đầu rao giảng trong khắp thành Ninivê. Lời giảng của ông lọt vào tai và lòng của dân thành, họ làm theo và đã được cứu.

Từ đầu Mùa Chay, Lời Chúa kêu gọi chúng ta trở về. Nếu chúng ta biết mở tai và mở lòng đón nhận Lời Chúa, chúng ta cũng sẽ như dân thành Ninivê cố gắng từ bỏ tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ được tha thứ và được cứu độ. Rất đơn giản, thời điểm đó bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro!

Nghi thức xức tro là nghi thức long trọng, là dấu hiệu khởi đầu Mùa Chay Thánh. Nghi thức rất đặc biệt, không có động thái phụng vụ như những ngày khác trong suốt năm phụng vụ.

Tro được tạo ra từ việc đố các lá đã làm phép của Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Tro được làm phép trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro, sau bài giảng. Mọi người lần lượt lên chịu tro, thừa tác viên vừa xức tro vừa đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15), hoặc: “Hãy nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19). Tro là biểu tượng của hai thứ chính trong Cựu ước.

Sự chết và sám hối

Tro tương đương với cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7), và khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.

Tổ phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18:27), ám chỉ cái chết của nhân loại. Còn tiên tri Giêrêmia mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (Gr 31:40).

Tro là điềm gở, và chúng ta dùng tro vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ về cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Cái chết có thể đến sớm, cũng có thể đến chậm, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết đến, chúng ta cần chuẩn bị, và thời gian chuẩn bị là ngay từ bây giờ, còn cách chuẩn bị là sống theo phương cách của Chúa.
Tiên tri Đanien đã khúm núm lúc mặc áo vải thô và xức tro, đó là dấu hiệu ăn năn vì đã phản nghịch, bội bạc và trụy lạc: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9:3).

Khi Giôna cảnh báo dân thành Ninivê rằng Thiên Chúa sắp hủy diệt thành phố vì sự suy đồi và sự trụy lạc của họ, dân thành đã vội mặc áo vải thô và xức tro để tỏ ra xa tránh lối sống sa đọa: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:6 & 10). Tro là lời khẩn thiết cầu xin Chúa ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn tha thứ.

Hơn nữa, đó còn là cách công nhận tội lỗi mình, lá cách bày tỏ sự buồn rầu vì tội lỗi đã trót phạm, là lời hứa canh tân và quyết tâm chống lại chước cám dỗ trong tương lai.

Chúng ta đều là những tội nhân. Khi chúng ta chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình, và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa sai, để thanh tẩy tâm hồn, để kiểm soát ước muốn và tiến bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó chúng ta sẽ chuẩn bị mừng lễ Phục sinh.

Sống tinh thần Lễ Tro

Thiên Chúa là Đấng chí thánh, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đã ban sự sống và mọi thứ cho chúng ta. Trong đời sống, áp lực của công việc và trách nhiệm thường khiến chúng ta quên sám hối, đền tội và yêu thương. Chúng ta sa ngã và không sống đúng bổn phận của mình, không thể hiện niềm tín thác vào Con Thiên Chúa.

Mùa Chay Thánh giúp chúng ta chấn chỉnh những gì sai sót, giúp chúng ta đền tội và canh tân đời sống bằng ân sủng của Chúa, giúp chúng ta nhớ mình chỉ là tội nhân, đặc biệt là giúp chúng ta nhớ đến Lòng Chúa Thương Xót vô biên.

Khởi hành từ Thứ Tư Lễ Tro, mong sao tro có thể nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Con Thiên Chúa. Ước mong sự thờ phượng, lời cầu nguyện và việc đền tội của chúng ta có thể kiên trì bền vững trong suốt 40 ngày Mùa Chay.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta thực sự canh tân để có thể hân hoan mừng với sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô trong đại lễ Phục sinh. Chúng ta hãy đồng hành cùng Chúa để có thể thanh thản bước vào Mùa Chay Thánh…

KHA ĐÔNG ANH

(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org và TheCatholicSpirit.com)