Đức vâng lời (Lễ Chúa nhật IV Vọng, năm C)

52

Đức vâng lời

(Lễ Chúa nhật IV Vọng, năm C)

nen

Mùa Vọng được biểu tượng hóa bằng 4 ngọn nến: Ánh sáng của HY VỌNG, ánh sáng của HÒA BÌNH, ánh sáng của TÌNH YÊU và ánh sáng của NIỀM VUI. Ánh sáng soi đường chúng ta bước qua những ngày u tối. Cả 4 loại ánh sáng đó luôn cần được chiếu soi suốt cuộc đời chúng ta.

Mùa Vọng đang đến hồi kết thúc. Niềm hy vọng của chúng ta đã lên đỉnh điểm. Khoảng mong chờ gần hết. Chúa Giêsu sắp đến với chúng ta. Điều đó nghĩa là chúng ta được mãn nguyện. Nhưng càng cuối thời gian chờ đợi, đức vâng lời càng phải kiên quyết. Chúng ta đã “quen” với tinh thần tích cực của đời sống Kitô hữu: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Đức vâng lời cần thiết cho mọi người, đặc biệt là những người sống đời tu trì, vì đức vâng lời là một trong ba lời khấn chính – gọi cho “văn hoa” hơn thì là thanh tuân hoặc tuân phục.

Chính Đức Maria trở nên người diễm phúc vì đã mau mắn thực hiện đức vâng lời khi được truyền tin: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1:38).

Ngôn sứ Mikha nói: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5:1), và ông nói trước nhiều điều: “Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ítraen cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ítraen. Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Átsua” (Mk 5:2-3). Đặc biệt hơn hết: “Chính Người sẽ đem lại hoà bình” (Mk 5:4a).

Chắc chắn cuộc sống không gì hơn là được tận hưởng nền hòa bình đích thực. Muốn có hòa bình đích thực thì công lý phải được tôn trọng đúng mức. Và muốn có công lý thì phải cầu nguyện: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ Thiên Nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống” (Tv 80:4).

Cầu nguyện không chỉ một vài lần, mà phải cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16). Chân thành và tha thiết cầu nguyện thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ “mủi lòng” mà thương xót: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh” (Tv 80:18). Đồng thời còn phải tự nhủ lòng và đoan hứa chắc chắn: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:19).

Khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói rõ: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội” (Dt 10:5-6). Điều đó do chính Đức Kitô xác nhận chứ không phải ai khác, thế thì chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa: Chúa không cần lễ này hay vật nọ, ngay cả lễ toàn thiêu và lễ xá tội Chúa cũng coi như không. Thế mà chúng ta lại thích bày ra nhiều điều kiện và nhiều thứ lễ để làm gì? Chúa chỉ cần tấm lòng chân thành và đức vâng lời, như Đức Kitô đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:7). Đó mới là điều quan trọng nhất. Đừng coi trọng cái phụ mà lơ là cái chính, thích bề ngoài hơn tâm linh – vì đó là trái Ý Chúa.

Trước hết, Đức Kitô nói: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền” (Dt 10:8). Rồi Người nói thêm: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:9). Hai vế cân bằng. Chính Người bãi bỏ các lễ tế cũ thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ. Quan trọng là tuân phục Ý Chúa chứ không theo ý mình, dù Ý Chúa hoàn toàn trái ngược với ý chúng ta.

Đức Maria là gương mẫu về đức vâng lời, không hề lưỡng lự hoặc đắn đo khi vâng lời mà mau mắn vâng lời. Đức Mẹ là người vợ và người mẹ tuyệt vời, đồng thời cũng một nữ-tu-không-áo-dòng, sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh khiết, và thanh bần.

Sau khi thụ thai Thánh Tử và biết tin chị Êlidabét cũng đã mang thai một “người con đặc biệt” khi đã lớn tuổi, Đức Maria đã vội vã lên đường, đến miền núi, tại một thành thuộc chi tộc Giuđa. Đức Maria vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlidabét. Vừa nghe tiếng dì Maria chào, đứa con trong bụng chị Êlidabét nhảy lên. Được đầy tràn Thánh Thần, chị Êlidabét liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).

Chị Êlidabét đã là người có phúc vì mang thai Thánh Gioan Tẩy Giả, người tiên phong mở đường của Thiên Chúa, dì Maria còn có phúc hơn vì mang thai Thánh Tử Thiên Chúa. Không chỉ vậy, dì Maria còn có đại phúc khác, như chị Êlidabét xác nhận, đó là “tin Chúa sẽ thực hiện điều Người đã hứa”. Có TIN thì mới VÂNG LỜI. Thật là lô-gích!

Theo đó, (có lẽ) chúng ta chưa đủ tin nên chúng ta khó vâng lời. Như vậy, Năm Đức Tin quả là thực sự cần thiết cho tất cả mọi người chúng ta, không ngoại trừ bất kỳ ai.

Lạy Thiên Chúa hằng hữu, chúng con vô cùng nao nức vì được đón Thánh Tử Ngôi Hai đến với chúng con, không chỉ để chia sẻ mọi thứ với chúng con mà còn ban Ơn Cứu Độ cho chúng con. Xin thêm đức tin cho chúng con và giúp chúng con biết mau mắn “xin vâng” trong từng hơi thở của chúng con. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU