Đức tin và sống đạo
TIÊN BÁO VỀ SỰ NGƯỢC ĐÃI
Nếu bạn sống đạo đức, bạn sẽ bị chịu đau khổ. Bạn không thể ước tính. Đó không là vấn đề của đau khổ mà là vấn đề của thời điểm và mức độ. Chúng ta muốn công bố những lời hứa của Thiên Chúa về sự quan phòng và sự bảo vệ. Nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta công bố những lời hứa đó? Thánh Phaolô nói: “Những ai muốn sống đạo đức trong Đức Kitô Giêsu, đều sẽ bị bắt bớ” (2 Tm 3:12). Tôi không muốn. Có ai lại muốn bị hành hạ chứ?
Nhưng Chúa Giêsu đã có “định luật” của Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật): “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:10-11). Trong các Mối Phúc khác, chữ “phúc thay” đều được dùng, nhưng trong Mối Phúc đặc biệt này, Chúa Giêsu dùng chữ “phúc thay” 2 lần để nhấn mạnh phúc lành của Thiên Chúa dành cho những người bị bách hại.
Theo bản chất của điều đó, sự công chính mang tính đối đầu. Chính việc bạn tin vào Chúa Giêsu đã “làm phiền” một số người, vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3:20). Người ta viện nhiều cớ về lý do không là Kitô hữu, nhưng lý do người ta không đến với Đức Kitô là họ không muốn những điều xấu của họ bị vạch trần. Họ không muốn nhận mình là tội nhân.
Bạn đại diện cho Đức Kitô. Thực tế là nếu bạn theo Ngài, bạn sẽ đối mặt với sự bách hại, vì ai muốn sống thánh thiện trong Đức Kitô thì đều bị bách hại – cách này hay cách khác.
TẠI SAO TÍN HỮU PHẢI NÊN THÁNH?
Rất rõ ràng trong các giáo huấn của Kinh thánh: “Không ai không có tội” (x. 1 Ga 1:8-10), cũng rõ ràng khi Thiên Chúa muốn các tín hữu thực sự sẽ không quen phạm tội. “Ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội, vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy không thể phạm tội, vì đã được Thiên Chúa sinh ra” (1 Ga 3:9).
“Thực hành” tội là sống quen phạm tội. Người không được cứu độ sẽ sống quen phạm tội. Tội không tin là điều bình thường đối với những người đã hư mất. Người tin chân thành không sống trong thói quen phạm tội. Họ có thể phạm tội thường xuyên nhưng họ sẽ không biến nó thành thói quen.
Từ ngữ “thánh thiện”, “lành thánh” “thánh nhân”, và “thánh hóa” xuất xứ từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là “dành riêng cho Thiên Chúa”. Người tin vào Đức Giêsu Kitô được Chúa Thánh Thần dành riêng cho Thiên Chúa. “Thánh nhân” là người dành riêng cho Thiên Chúa, sống thánh thiện trước mặt Thiên Chúa nơi Đức Kitô, với bổn phận sống thánh thiện: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em,16 vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1:15-16).
Chứng cớ của sự tái sinh là cách cư xử công chính trong đời sống của người có đức tin. Sự thánh hóa là hiển nhiên trong đời sống đã thay đổi. Thiên Chúa biến đổi chúng ta từ trong ra ngoài, để trở thành “thụ tạo mới” (2 Cr 5:17). Trong một cuốn Holiness (Sự Thánh Thiện, tr. 40-44) bàn về sự thánh thiện, tác giả J. C. Ryle đã đưa ra 8 lý do cần thiết để sống thánh thiện:
1. Thiên Chúa đòi hỏi các Kitô hữu phải sống thánh thiện (x. 1 Pr 1:14-16; Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:7). Thiên Chúa nói: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh”. Hãy nên thánh, và đừng theo ý muốn của ma quỷ. Sự thánh thiện của Thiên Chúa diễn tả sự chí thánh của Ngài. Bản chất của Ngài là thánh, và Thiên Chúa chí thánh đó cũng kêu gọi những người thánh thiện (x. 1 Cr 6:19; 1 Pr 2:9; 1 Cr 1:2).
Sống thánh thiện cần phải quyết tâm (x. Rm 12:1). Các tín hữu có nhiệm vụ sống nội tâm và vào đời. Các lĩnh vực đời sống nên ở trong quá trình được trở nên giống Đức Giêsu Kitô. Tội lỗi là bất thường đối với tín hữu. Thánh Gioan nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Ga 1:8 & 10), nhưng chúng ta có thể vượt qua tội lỗi nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5:16-21). Thánh Phaolô cho biết: “Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin. Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết. Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu. Vậy tất cả chúng ta là những người hoàn thiện, chúng ta hãy nghĩ như vậy; và giả như có điểm nào anh em nghĩ khác, thì Thiên Chúa sẽ mặc khải cho anh em. Song, dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi” (Pl 3:8-16). Sự thánh thiện trưởng thành là càng ngày càng nên giống Đức Kitô (x. 2 Cr 3:18). Đó là sự thánh hóa tiến bộ, chứ không là sự hoàn thiện vô tội. Chúng ta sẽ đón nhận vinh quang khi chúng ta tận mắt thấy Chúa Giêsu trên trời, bây giờ thì chưa. Khi đó, chúng ta sẽ nên giống Ngài (x. 1 Ga 3:3). Bổn phận của chúng ta là để cho Chúa Thánh Thần tác động và tiếp tục nên giống Ngài: “Hãy đến gần Thiên Chúa, Ngài sẽ đến gần anh em” (Gc 4:8).
2. Mục đích đời đời của Thiên Chúa nơi Đức Kitô đối với chúng ta là chúng ta phải nên thánh. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần để làm cho chúng ta thành Dân Thánh của Ngài (x. 2 Tx 2:13; 1 Pr 1:2; Ep 5:25-27). Chúa Giêsu đã chết để chúng ta nên thánh. Mục đích của Thiên Chúa nơi cái chết của Con Thiên Chúa vì tội lỗi của chúng ta là để cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời, và giành chúng ta cho Thiên Chúa để chúng ta được làm con cái Thiên Chúa (x. Rm 8:29). Số phận đời đời của chúng ta được làm theo hình ảnh của Thiên Chúa nơi Đức Kitô (x. 1 Ga 3:3). Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn đối nghịch với Ngài, đã sai Con Ngài đến thế gian chịu chết thay cho chúng ta, nay chúng ta được là con cái của Ngài và được giống Chúa Cha. Tín hữu phạm tội là chống lại chính Thiên Chúa Cha.
3. Chứng cớ an toàn duy nhất mà chúng ta có đức tin cứu độ nơi Đức Kitô là đời sống thánh thiện (x. Dt 12:14; Jas 2:26; 1 Ga 2:6; 3:9). Không ai có thể thấy Thiên Chúa nếu không sống thánh thiện: “Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện” (1 Tx 4:7). Thiên Chúa muốn chúng ta sống thánh thiện. Tín hữu được dành riêng cho Thiên Chúa, thế nên phải sống thánh thiện mới xứng đáng với Ngài: “Hãy tẩy rửa hồn xác cho sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện hoàn toàn” (2 Cr 7:1). Với đức tin mà hy vọng vào Con Thiên Chúa thì sẽ được thanh tẩy nên trinh trong như Đức Kitô. Chúng ta trở nên giống Đức Kitô khi chúng ta tập trung đức tin vào ơn cứu độ.
4. Chứng cớ duy nhất về tình yêu chân thành chúng ta dành cho Đức Kitô là đời sống thành thiện: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14:15). Chúa Giêsu xác định: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14:21). “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Câu trả lời cho vấn đề vâng lời là lòng yêu thương. Yêu Ngài thì vâng lời Ngài: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14:14).
Nếu thật lòng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta phải sống thành thiện. Nếu yêu mến Ngài, chúng ta sẽ muốn nên giống Ngài. Nếu không vâng lời Ngài thì chúng ta không yêu mến Ngài. Nếu yêu mến Ngài, chúng ta sẽ vâng lời Ngài. Nếu không yêu mến Ngài thì chúng ta không thực thi những điều Ngài dạy. Chúng ta biết Thiên Chúa, Ngài sống vâng lời và không hề phạm tội.
5. Điều duy nhất chứng tỏ chúng ta là con cái Thiên Chúa chính là sống thánh thiện: “Ai ở lại trong Người thì không phạm tội. Còn ai phạm tội thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người” (1 Ga 3:6). Con Thiên Chúa không có thói quen phạm tội vì Ngài có Luật Chúa để sống. Chúng ta không thể tiếp tục phạm tội vì hiện nay chúng ta có chính bản chất của Thiên Chúa trong chúng ta.
Con cái của Thiên Chúa phải hành động như Chúa Cha: “Những người được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta tới sự thánh thiện vì Ngài sẽ không hướng dẫn chúng ta vào tội lỗi và bất tuân. Nếu Chúa Thánh Thần hướng dẫn, bạn sẽ sống thành thiện: “Ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội, vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy không thể phạm tội, vì đã được Thiên Chúa sinh ra” (1 Ga 3:9 & 15). Tái sinh liên quan sự thanh tẩy tội lỗi.
6. Những người sống thánh thiện là phúc lành cho tha nhân (x. Gl 5:13). Luôn sống thánh thiện là chứng cớ hùng hồn về hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Ngài chúc lành cho những người sống thánh thiện. Những người sống thánh thiện thì không ích kỷ, họ là phúc lành cho tha nhân (x. 1 Pr 1:22).
7. Sự thanh thản tùy vào cách sống của chúng ta. Người ta không thể vừa theo Chúa vừa theo thế gian, không thể bắt cá hai tay: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Ngài mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Ngài đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Ngài” (Dt 12:6-10).
Sự thánh hóa của chúng ta không là sự đạt được cá nhân: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu” (2 Tm 1:9). Đó là trách nhiệm của chúng ta, phải “tự thánh hóa” chính mình (x. 1 Pr 1:15; 2 Pr 3:11). Nếu chúng ta kết hiệp mật thiết với Ngài, chúng ta phải cố gắng xa tránh tội lỗi. Chúa Giêsu nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8).
8. Không sống thánh thiện trên thế gian, chúng ta sẽ không bao giờ được hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng: “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện thì không ai sẽ được thấy Chúa” (Dt 12:14). “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, anh em hãy ở lại trong Ngài, để khi Người xuất hiện, chúng ta được mạnh dạn, chứ không bị xấu hổ, vì phải xa cách Ngài trong ngày Ngài quang lâm” (1 Ga 2:28). Sự biến đổi sẽ xảy ra khi Đức Kitô trở lại, và thân xác chúng ta sẽ được vinh hiển: “Chúng ta biết rằng khi Ngài xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài” (1 Ga 3:3; Pl 3:20-21; 1 Cr 15:52-54). Chúng ta sẽ có một thân xác vinh quang mới được tạo ra để sống trên Nước Trời. Vì Chúa Giêsu Kitô sẽ trở lại, chúng ta nên giữ cho thân xác mình tinh tuyền.