I/ HỌC LỜI Ch úa
1- TIN MỪNG: Lc 1,57-66.80
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. (59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an. (61) Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng có ai có tên như vậy cả”. (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. (63) Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”. Ai nấy đều rất bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi của ông lại mở ra. Ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” (80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
2- Ý CHÍNH
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào mặc khải diệu kỳ của cái tên Gio-an khi làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ. Bà con láng giềng tụ tập trong ngày này đã được chứng kiến sự lạ lùng ấy. Rồi việc ông Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm khiến cho mọi người có mặt đều bỡ ngỡ và đặt dấu hỏi về sứ mạng của con trẻ sau này. Sau đó Gio-an đã vào sống trong hoang địa cho đến khi thi hành sứ mạng tiền hô giúp dân Do thái nhận biết Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu thành Na-da-rét.
3- CHÚ THÍCH
– C 57-59: + Láng giềng và thân thích đều chia vui với bà: Bài tường thuật tập trung vào việc mặc khải diệu kỳ của tên Gioan và biến cố cắt bì đặt tên. Bà con láng giềng tụ tập lại để chia sẻ niềm vui với đôi vợ chồng già. Nhờ đó tiếng đồn sự lạ về con trẻ lại càng lan rộng. + Khi con trẻ được tám ngày: Tám ngày sau khi sinh là thời gian Luật định để làm phép cắt bì (x St 17,12; Lv 12,3; Pl 3,5). + Và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em: Người ta ít khi lấy tên cha mà thường lấy tên ông nội mà đặt cho cháu. Ở đây người ta lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho con, có thể do ông Da-ca-ri-a đã cao niên.
– C 62-63: + Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”: Dù hai ông bà đã không hội ý trước để đặt tên cho con là gì, vì ông vừa bị câm vừa bị điếc trước đó. Nhưng hai ông bà lại thống nhất cùng chọn tên Gio-an mà đặt cho con, như sứ thần đã truyền cho ông Gia-ca-ri-a khi truyền tin cho ông tại Đền thờ (x Lc 1,13). + Ai nấy đều rất bỡ ngỡ: Phải chăng sự thống nhất ý kiến về việc đặt tên cho con một cái tên không quen thuộc của hai ông bà chính là một dấu lạ khiến cho mọi người ngạc nhiên.
– C 65-66: + Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ: Trong Kinh Thánh, chữ “tâm” hay “lòng” ám chỉ nơi phát xuất ra tư tưởng, tình cảm, hòai niệm, quyết định và ước muốn của con người, giống như Đức Maria “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x Lc 2,19), nghĩa là để tâm tìm hiểu ý nghĩa của lời sấm hay sự việc xảy ra. + Có bàn tay Chúa phù hộ em: Kiểu nói “bàn tay Chúa” mô phỏng Cựu ước, cho thấy Thiên Chúa bảo vệ những ai tin cậy vào Người, mà Gioan là một trong số những người đó (x Tv 80,18; 139,5).
4- CÂU HỎI: 1) Gio-an Tẩy Giả liên hệ họ hàng thế nào với Đức Giêsu? 2) Tại sao láng giềng bà con lại phải đến nhà thăm hỏi chia vui khi nghe tin bà Ê-li-sa-bét sinh con? 3) Phép cắt bì là phép gì? Được cử hành thế nào? 4) Tại sao hai ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét lại cùng thống nhất ý kiến để đặt tên cho con trai là Gio-an?
II/ SỐNG LỜI CHÚA
1- LỜI CHÚA:“Đức Kitô phải nổi bật lên,còn thầy phải lu mờ đi”(Ga 3,30).
2- CÂU CHUYỆN: CUỘC ĐỜI VỊ TIỀN HÔ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ
Gioan là vị tiền hô của Chúa Giêsu (x.Mt 3,3), là con trai của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Cả hai ông bà thuộc dòng tộc tư tế. Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan chính là người anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan cư ngụ tại miền núi xứ Giu-đê (x.Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã vào trong sa mạc sống đời tu hành nhiệm nhặt. Đến năm thứ 15 thời hoàng đế Ti-bê-riô, Gioan bắt đầu xuất hiện tại vùng ven sông Gio-đan thuộc miền Giu-đê để rao giảng và làm phép rửa sám hối (x.Lc 3,1). Phép rửa của ông là một nghi thức tỏ lòng thống hối kèm theo sự xưng thú tội lỗi trước đó (x. Mt 3,6). Gioan công nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người là “chiên Thiên Chúa” với hai môn đệ (Ga 1,35). Có lần Đức Giêsu gọi Gioan chính là ngôn sứ Ê-li-a, người lớn nhất trong Cựu ước, là sứ giả đi trước dọn đường cho Người (x Mt 11,9-19;Lc 7,24-30).
Cuộc đời của Gioan kết thúc bằng cái chết bị chém đầu trong nhà ngục, do ông đã can đảm lên tiếng ngăn cản vua Hê-rô-đê không được cưới bà chị dâu tên là Hê-rô-đi-a-đê làm vợ, nên ông đã bị vua Hê-rô-đê bắt giam và cuối cùng đã bị bà Hê-rô-đi-a-đê thù ghét hãm hại (x.Lc 9,7-9).
3- THẢO LUẬN: 1)Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống thế nào để chu toàn sứ vụ tiền hô dọn đường cho Đức Giêsu? 2)Mỗi chúng ta hôm nay cũng phải sống thế nào để làm chứng cho Chúa trước mặt tha nhân như Gio-an?
4- SUY NIỆM: SỨ VỤ TIỀN HÔ NOI GƯƠNG GIO-AN
1/ Đức Giêsu đã nói về sứ vụ của Gioan Tẩy Giả như sau: “Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Ông là người mà Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Lc 7,24-27). Như vậy, Gioan chính là vị ngôn sứ, được Thiên Chúa sai đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Với sứ vụ đó, Gioan đã trở nên một nhân vật lớn nhất trong lịch sử cứu độ như Đức Giêsu có lần đã khẳng định: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả…” (Mt 11,11).
2/ Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cần làm gì để giới thiệu Chúa Giêsu cho tha nhân noi gương Gio-an xưa?
+ Gương khiêm tốn: Khiêm hạ trong cách ăn nói như: Nói năng nhỏ nhẹ, tôn trọng tha nhân, năng khen các ưu điểm của tha nhân để khích lệ họ hơn phê phán chỉ trích nói xấu những ai trổi vượt hơn mình. Tránh tự cao nâng mình lên nhưng làm mọi việc để tôn vinh Thiên Chúa như Gio-an Tâỷ Giả đã làm với Đức Giêsu: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).
+ Gương khó nghèo: Tránh đua đòi mua sắm quần áo theo mốt thời trang, nhưng luôn tỏ ra đơn giản nghèo khó trong cách ăn ở sử dụng đồ dùng, noi gương thánh Gio-an xưa: “mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và uống mật ong rừng” (x Mc 1,6-8).
+ Gương vâng phục: Luôn bỏ đi ý riêng để vâng phục ý Chúa, noi gương thánh Gio-an xưa đã sẵn sàng vâng lời Đức Giêsu để làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan (x Mt 3,13-15).
+ Gương trung tín: Luôn chu tòan sứ vụ tiền hô giúp người đời tin nhận Đức Giêsu, noi gương thánh Gio-an xưa đã giới thiệu và khích lệ hai môn đồ thân tín để họ bỏ mình mà đi theo làm môn đệ Đức Giêsu (x Ga 1,35-37).
+ Gương trung thực: trung thực là dám nhìn nhận khuyết điểm của mình để tu sửa, noi gương thánh Gio-an xưa đã tự nhận: Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: ”Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” đúng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm. Gio-an cũng thừa nhận phép rửa của ông chỉ giúp người ta hồi tâm sám hối, còn có Đấng khác tuy đến sau nhưng quyền thế hơn ông, mà ông không đáng xách dép cho Người. Đấng ấy mới “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11; Ga 1,20-27).
+ Gương can đảm: Can đảm là công khai làm chứng cho chân lý noi gương thánh Gio-an. Gio-an đã can đảm lên tiếng can ngăn vua Hê-rô-đê không được lấy bà chị dâu là bà Hê-rô-đi-a làm vợ của mình (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9). Cũng do sự can đảm dám nói thật này mà ông đã bị Hê-rô-đê tống ngục và cuối cùng còn bị nhà vua Hê-rô-đê sai lính chặt đầu để làm vừa lòng bà Hê-rô-đi-a.
5- LỜI CẦU
LẠY CHÚA GIÊSU. Xin cho chúng con biết noi gương thánh Gio-an Tẩy Giả: can đảm làm chứng cho Chúa bằng những việc cụ thể như: không khoe khoang thành tích của mình, sống đơn giản tiết độ trong cách ăn mặc, không chè chén say sưa, can đảm bênh vực những người thân yếu thế cô, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt vì danh Chúa. Xin cho chúng con trở thành những người đi trước mở đường cho Chúa bằng một lối sống vị tha quên mình phục vụ, nhờ đó người đời sẽ dễ dàng nhận biết và tin yêu Chúa giống như thánh Gio-an khi xưa.
X/ HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ/ XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH- HHTM