Năm 2022 là năm có con số nhị phân thật đẹp, số chẵn, nhưng không biết Nhâm Dần có đẹp như mơ hay không. Chắc chắn không ai biết, và chỉ một mình Thiên Chúa biết. Và chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài.
Con Cọp gợi nhớ câu tục ngữ của dân Việt: “Cọp chết để DA, người ta chết để TIẾNG.” Vấn đề quan trọng là tiếng TỐT hay tiếng XẤU. Đó mới thực sự là Dấu Xuân của chính mình!
Thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa xác định: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm.” (St 1:14) Và Ngài đã làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm. (St 1:16) Chúng ta gọi đó là mặt trời và mặt trăng.
Chính Thiên Chúa truyền lệnh cho dân: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng. Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, phải viết lên khung cửa nhà anh em, và lên cửa thành của anh em.” (Đnl 6:4-9)
Thế giới loài người cũng có những dấu riêng của mỗi dân tộc về phương diện nào đó. Bốn mùa thiên nhiên cũng có nét đặc trưng. Riêng Mùa Xuân có biểu tượng là hoa mai, hoa đào và chim én. Có một thứ ngày xưa được coi là một biểu tượng của ngày Tết là Cây Nêu, nhưng ngày nay không còn phổ biến. Đó là một nét văn hóa dân tộc, là một tục lệ cổ truyền của nhiều dân tộc tại Việt Nam vào dịp Tết Nguyên Đán, và dân gian có câu: “Cu kêu ba tiếng cu kêu – Trông mau tới Tết dựng NÊU ăn chè.”
Tất nhiên Kitô hữu không có tục lệ dựng cây nêu vì không mê tín dị đoan. Nhiều tín nhân không biết tục lệ này, có biết thì cũng để mà biết cho vui vậy thôi, nhưng họ có một dấu rất đặc biệt: Cây Thánh Giá.
I. DẤU TỐT LÀNH
Như đã nói, ngày xưa người ta có tục lệ dựng cây nêu trong những ngày vui Xuân, ăn Tết. Cây nêu là một thân cây dài khoảng 5-6 mét, được “trồng” (cắm, dựng) trước sân nhà mỗi dịp Tết Nguyên Đán, trên ngọn cây được treo một vòng tròn nhỏ và nhiều vật dụng có tính chất biểu tượng – tùy theo dân tộc, phong tục địa phương, vùng miền.
Theo thời gian và tập quán cộng đồng, ý nghĩa của việc dựng cây nêu ngày Tết lan rộng. Nhưng có lẽ vì người ta văn minh hơn, nên ngày nay cây nêu dần dần xa lạ với con người thời đại mới. Từ tuổi trung niên trở lên có thể “quen” với cây nêu, nhưng giới trẻ ngày nay hoàn toàn xa lạ vì không còn được nghe nói đến cây nêu, thậm chí chẳng hiểu cây nêu là gì, mà nếu có ai nhắc tới cây nêu thì bị cho là “nói nhịu” hoặc sai chính tả. Cây nêu chỉ còn thấy lác đác ở một số vùng quê của các dân tộc thiểu số vùng thượng du Bắc bộ hoặc Tây nguyên.
Trong cuốn “Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam,” Nguyễn Đổng Chi tóm tắt sự tích cây nêu thế này:
Ngày xưa, quỷ chiếm toàn bộ đất nước, còn người chỉ làm thuê, và nộp phần lớn lúa thu hoạch cho quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột người quá tay, và cuối cùng quỷ tự cho mình hưởng quyền “ăn ngọn, cho gốc.” Người chỉ được hưởng rạ, tuyệt đường sinh nhai nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Phật bảo người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, người được hưởng không biết bao nhiêu củ khoai, còn quỷ chỉ hưởng lá và dây khoai, đúng theo phương thức “ăn ngọn, cho gốc.”
Sang mùa khác, quỷ lại chuyển qua phương thức “ăn gốc, cho ngọn.” Phật bảo người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả quỷ lại hỏng ăn. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên bố “ăn cả gốc lẫn ngọn.” Phật trao cho người giống cây ngô (bắp) để gieo khắp nơi. Quỷ lại không được gì, còn người thì thu hoạch cơ man là trái ngô. Cuối cùng quỷ nhất định bắt người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa.
Phật bàn với người điều đình với quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến quỷ mất đất phải chạy ra biển Đông.
Do mất đất sống nên quỷ huy động quân vào cướp lại. Trận đánh này bên quỷ bị thua sau khi bị bên người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột,… và quỷ lại bị Phật đày ra biển Đông. Trước khi đi, quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên hứa cho.
Do đó, hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên Đán là những ngày quỷ vào thăm đất liền, người ta theo tục cũ trồng cây nêu để quỷ không bén mảng đến chỗ người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để ngăn cấm quỷ.
Cách lý giải tại sao ngày Tết phải cắm cây nêu theo truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam là treo cành trúc trước nhà. Cách lý giải đó không đi ngoài thuyết Phật giáo và Lão giáo. Cây nêu trở thành biểu tượng của sự đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Thiên thần và Quỷ sứ, nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên cho con người. Ngày tiễn thần linh về trời, con người cần có những “bảo bối” của thần linh để đề phòng, cảnh giác để ngăn chặn ma quỷ xâm nhập lúc con người đón Xuân, vui tết.
Theo thông lệ là ngày 23 tháng Chạp âm lịch. Người ta dựng cây nêu – gọi là thượng nêu, với quan niệm rằng từ ngày 23 tới đêm giao thừa (đêm trừ tịch), vắng mặt ông Táo (ông Công), ma quỷ sẽ thừa cơ lẻn về quấy nhiễu dân chúng, thế nên người ta phải dựng nêu làm “bùa hộ mệnh” để an tâm ăn Tết. Ngày làm lễ dỡ cây nêu xuống – gọi là hạ nêu – là ngày 7 hoặc ngày 8 tháng Giêng âm lịch. Người Mường trồng cây nêu vào ngày 28 tháng Chạp âm lịch. Cây nêu của người H’mông vùng Tây Bắc được dựng trong lễ hội Gầu Tào (cầu Phúc hoặc cầu Mệnh), tổ chức từ ngày 3 đến ngày 5 tháng Giêng âm lịch.
Theo dòng thời gian, cùng với sự phong phú của các “đồ lễ” được treo, cây nêu được coi là “cây vũ trụ” nối liền Đất với Trời, do tín ngưỡng thờ Thần Mặt Trời của các dân tộc cổ xưa – hàm chứa ý thức về lãnh thổ của người Việt. Việc dựng nêu ngày Tết có dụng ý thờ kính thần linh và vong hồn tổ tiên, trừ tà ma và trừ những điều xấu của năm cũ, hy vọng năm mới an lành.
Cây nêu của người Kinh mang triết lý âm dương thông qua con số Lạc Thư [1] và quẻ Kinh Dịch [2] được thể hiện qua các biểu tượng treo trên ngọn cây – tùy địa phương. Có thể đó là cái túi nhỏ đựng trầu cau, ống sáo, và những miếng kim loại. Khi có gió thổi, chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh, nghe vui tai.
Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cùng với những tiếng động của những khánh đất, báo hiệu cho ma quỷ biết rằng “nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu.” Buổi tối, người ta treo thêm chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch, người ta đốt pháo ở cây nêu để mừng đón năm mới, xua đuổi ma quỷ, vận xui, sự dữ,…
II. DẤU CỨU ĐỘ
Khi Con Thiên Chúa giáng sinh, sứ thần nói với các mục đồng: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2:12) Trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13:35) Một dấu chỉ đơn sơ, một dấu chỉ đơn giản. Cả hai dấu chỉ đều tạo Dấu Ấn rõ ràng và mạnh mẽ.
Kitô hữu chúng ta không quan tâm chuyện cây nêu. Tuy nhiên, Kitô giáo có một loại “cây nêu” đặc biệt là Cây Thánh Giá. Loại “cây nêu” này không riêng gì ngày Tết mà là suốt tháng, quanh năm, lúc nào cũng được dựng “nêu cao” để triệt tiêu ma quỷ. Người ta cũng đeo Thánh Giá trước ngực, và hằng ngày ai cũng làm Dấu Thánh Giá nhiều lần – nhất là khi vừa thức dậy buổi sáng, chuẩn bị đi ngủ ban đêm, khi lên xe, khi ăn uống,…
Trình thuật Ds 21:4-9 cho biết: Từ núi Ho, dân Israel lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Êđôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Israel mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.” Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Israel phải chết. Dân đến nói với ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống.”
Còn sách Khôn Ngoan cho biết: “Ngay cả khi dân Chúa bị thú dữ hung hăng xông vào, và rắn trườn ra cắn chết, thì cơn thịnh nộ của Ngài cũng không kéo dài vô tận. Họ phải chịu hành hạ ít lâu như là chịu một lời cảnh cáo; rồi họ được một dấu hiệu cứu thoát nhắc họ nhớ đến luật Ngài truyền. Vì bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do vật họ nhìn, nhưng là do chính Ngài, Đấng cứu độ muôn người hết thảy.” (Kn 16:5-7)
Cuối cùng, đặc biệt nhất là lời minh định của Chúa Giêsu: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Và Ngài hứa chắc chắn: “Khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12:32) Chính Thánh Giá là “Cây Nêu Thánh” có sức mạnh ngăn chặn ma quỷ, tẩy trừ điều xấu, và che chở những người thành tâm tín thác vào Đức Kitô, nhất là trong tình trạng dịch bệnh covid suốt 2 năm qua.
Chính đức tin là phương thuốc chữa lành hiệu quả. Kinh Thánh nói: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả.” (Kn 16:12) Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Tôi vừa cất tiếng kêu lên cùng Chúa, Chúa liền đáp lại từ núi thánh của Người.” (Tv 3:5) Thật vậy, vì chính Thiên Chúa đã nói: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban.” (Tv 91:15-16)
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin thương xót chúng con là những tội nhân, xin thêm đức tin và biến đổi chúng con theo Thánh Ý Ngài, đặc biệt trong năm mới này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[1] Bát Quái, Lạc Thư, và Hà Đồ là ba họa đồ được truyền lại từ thời xa xưa, có nguồn gốc từ các bộ tộc phía Nam sông Dương Tử cổ đại. Mỗi họa đồ được truyền tụng, phát triển, và sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Bát Quái gồm Bát Quái Tiên Thiên và Bát Quái Hậu Thiên. Hà Đồ và Lạc Thư thường được nhắc chung mặc dù Lạc Thư được sử dụng nhiều hơn vì dễ hiểu. Theo truyền thuyết Trung Hoa, trên sông Hoàng Hà từng xuất hiện Long Mã trên mình có đồ (đường ngoằn ngoèo) gọi là Hà đồ, và trên sông Lạc Thủy xuất hiện Thần Quy (linh quy, rùa thiêng), trên lưng có thư gọi là Lạc Thư. Do đó mà người ta đặt ra Bát Quái và Cửu Chương.
[2] Kinh Dịch là bộ sách kinh điển rất lâu đời của Trung Hoa. “Kinh” nghĩa là một tác phẩm kinh điển, tiếng Hoa có gốc từ “quy tắc” hay “bền vững,” hàm ý tác phẩm này miêu tả quy luật của Tạo Hóa bất biến theo thời gian. “Dịch” nghĩa là “thay đổi” hay “chuyển động.” Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy. Đó là hệ thống tư tưởng triết học cổ Á Đông. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và chuyển dịch. Ban đầu, Kinh Dịch được coi là hệ thống bói toán, nhưng sau đó được các triết gia Trung Hoa phát triển dần dần. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt tư tưởng triết học cổ Á đông và được coi là cổ học tinh hoa của Trung Hoa, được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh,…