Tiến sĩ JEFF MIRUS
Điểm cuối cùng này không được tác giả Russell Shaw chính thức nói ra, nhưng vẫn khả dĩ chấp nhận, vì chủ đề này là tình trạng Hoa Kỳ hơn là xu hướng phổ biến của Giáo hội tại Tây phương như một tổng thể. Cuối cùng, Giáo hội Tây phương đang phát triển ít là gấp đôi như Hoa Kỳ đã từng có. Tác giả Shaw đưa ra chứng cớ rằng tình trạng Hoa Kỳ có có liên quan sâu xa tới sự thất bại phổ biến ở Âu châu và Tây phương nói chung. Nhưng điểm nổi trội nằm ở cách miêu tả của tác giả về các yếu tố liên quan Hoa Kỳ trong lịch sử buồn này, ví dụ:
– Thế kỷ 19, các cuộc tranh luận về giá trị tương đối của Công giáo Do Thái (Ghetto Catholicism) vì đối lập với xu hướng vào trong “mạch chính” của Hoa Kỳ, với các vị trí khác nhau được các giám mục ủng hộ.
– Cuộc tranh luận về tính tương hợp của “sự thử nghiệm Hoa Kỳ” (American experiment) với truyền thống Công giáo, đặc biệt các sự liên can sâu xa về khái niệm của Hoa Kỳ đối với sự tách rời giữa Giáo hội và nhà nước.
– Sự xung đột về các vấn đề này giữa hai luồng tư tưởng được miêu tả bởi LM Isaac Hecker (Dòng Thánh Phaulô) và tác giả Orestes Brownson.
– Việc ĐGH Leo XIII kết án tà thuyết Mỹ hóa (Americanist Heresy) năm 1899, và phủ nhận một số các vị lãnh đạo Giáo hội Hoa Kỳ rằng quan điểm bị kết án thực sự được ai đó tổ chức tại Hoa Kỳ.
– Sự phát triển mạnh về tổ chức và tăng quyền lực của Giáo hội khi số người Công giáo Hoa Kỳ tăng lên.
– Loại bỏ các thành lũy của thành phố để ủng hộ sự thay đổi của vùng ngoại ô.
– Áp lực của thế kỷ 20 đối với các trường đại học Hoa Kỳ phải vào “mạch chính” để được coi là tiêu chuẩn đời.
– Sự cố chấp ngây thơ của những “người khổng lồ” giữa thế kỷ 20 như John Tracy Ellis và John Courtney Murray mà đường lối của Hoa Kỳ vẫn cấu thành sự hy vọng tốt nhất đối với cả Giáo hội và nhân loại.
– Hầu như các sự thích nghi khó có thể tránh vì ảnh hưởng chủ nghĩa tân thời, dẫn tới văn hóa Công giáo của mối bất đồng và lên tới cực điểm trong nỗ lực chủ ý dùng “tinh thần” của Công đồng Vatican II đối nghịch với văn bản thật để tái lập Giáo hội (một phần rõ ràng của kiểu mẫu quốc tế).
– Sự suy sụp của các giám mục Hoa Kỳ khi họ kêu gọi hành động đã khiến xuất hiện tài liệu Land O’Lakes năm 1967, và rồi lại không nhận biết nhu cầu chính về văn hóa đời sống sau khi Tông thưHumanae Vitae (*) được ban hành năm 1968;
– Chủ thuyết giáo quyền của Giáo hội Hoa Kỳ từ đầu theo sự ủy thác khả dĩ tiên báo trong tội đồng lõa với việc lạm dụng tình dục (theo Shaw, đó cũng là kiểu mở rộng toàn cầu).
– Sự suy sụp về tổ chức và nhân khẩu của Giáo hội sau cuộc cách mạng giới tính, và những đợt sôi nổi canh tân đáng tin từ thập niên 1980, dẫn tới Công giáo phản văn hóa non trẻ (nascent counter-cultural Catholicism) trong thời đại chúng ta.
Tôi nên đề cập một tính riêng biệt của cuốn sách. Tựa đề của nó là “The Gibbons Legacy” (Di sản Gibbons), nhân vật nổi bật là ĐHY James Gibbons của Baltimore đã ca tụng lời hứa hẹn của Hoa Kỳ tại Rôma. Tại điểm nào đó, tiêu đề được mở rộng tới Giáo hội Hoa Kỳ, nhưng có vẻ văn bản không bao giờ được biên tập sau đó. Lời cảm ơn, lời giới thiệu, và các phần của văn bản chính giả định tựa đề cũ!
Điều này là sai lầm lớn về xuất bản, nhưng thực sự không quan trọng. Tác giả Russell Shaw kể chi tiết lịch sử một cách khéo léo và chính xác, với cách chọn lựa nổi bật về chất liệu và chủ đề. Phán đoán của ông cân bằng và sắc sảo. Ông nắm bắt tính phức tạp mà không mất tầm nhìn về các vấn đề rộng lớn được tạo ra bởi cách chọn lựa sai. Ông kết luận rằng sự canh tân hiệu quả phải bắt nguồn từ sự thay đổi văn hóa mới đúng mục đích.
Kết luận này cũng tượng trưng cho sự phát triển được hoan nghênh về tư tưởng của ông từ năm 1993, khi ông viết cuốn sách về thuyết giáo quyền (cũng là tác phẩm hay), đôi khi có vẻ thấy cách giải quyết theo cách cho Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB – United States Conference of Catholic Bishops) thuê các giáo dân đặc biệt làm chuyên viên hoặc phát ngôn viên về các vấn đề xã hội. Không có cách nhìn đó ở đây. Chỉ trong hơn 200 trang, Giáo hội Hoa Kỳ cho độc giả thấy lịch sử thăng trầm của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ, khỏa lấp khoảng trống về xu hướng trí thức và văn hóa, mà không phải chịu rắc rối nhiều hơn và phải đọc hàng ngàn trang nữa.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải trở lại điều đề cập trong cuốn sách này. Tôi nghi rằng các độc giả ngoài Hoa Kỳ sẽ hiểu điều này, vì mỗi độc giả ngoài Hoa Kỳ hiện nay sẽ lầm bầm: “Nhưng tại sao đây là câu chuyện của Hoa Kỳ? Điều tương tự đã xảy ra ở đây”.
Quả thật, tác giả Shaw đã nhấn mạnh nhiều vào sự thực tế mà các vấn đề riêng của Hoa Kỳ trong cách kể của ông thực sự thay đổi nhiều về chủ đề chung trong toàn bộ văn hóa Tây phương khi nó dần dần mệt mỏi và chết. Chẳng hạn, “điểm tương đồng” của Hoa Kỳ là cách diễn tả riêng về vấn đề gia tăng “lộc thánh” tại các quốc gia Tây phương. Áp lực Công giáo tại Hoa Kỳ là bỏ giai cấp hạng hai bằng cách tích hợp thành nền văn hóa phi Công giáo ưu việt được lặp đi lặp lại tại các quốc gia trên thế giới như tình trạng thú tội biến mất và trật tự công cộng càng trở nên tục hóa hơn.
Cuộc tranh luận giữa Hecker và Brownson về tính khả dĩ vố có trong thử nghiệm tại Hoa Kỳ (the City on the Hill of freedom – thành phố trên đồi tự do) là ví dụ điển hình về cuộc tranh luận diễn ra toàn cầu, quan điểm tục hóa về sự tự do đòi hỏi tự do chính trị từ tôn giáo mà không công khai từ chối cơ hội cho tôn giáo hình thành văn hóa. Sự phát triển của Giáo hội theo cơ cấu từ khi người Công giáo nhập cư hàng loạt và tái sản sinh, theo sau là sự đồng hóa và giảm sút, có sự mau chóng tại Hoa Kỳ, nhưng đó là câu chuyện trải qua một thời kỳ lâu dài ở khắp Âu châu.
Các cơ sở giáo dục Công giáo Hoa Kỳ cảm thấy áp lực tương tự được sự đồng tình của những trường học ngoài Công giáo, dẫn tới sự tục hóa của cả ban giảng huấn và các chương trình của họ, khiến cả thế giới như xã hội bị tục hóa, khi Hoa Kỳ chịu trách nhiệm về giáo dục, và khi các nhà giáo dục Công giáo tiêm nhiễm chủ nghĩa hiện đại cảm thấy khó phân biệt đâu là vàng hay thau. Theo cách tương tự, các tổ chức xã hội Công giáo càng ngày càng trở nên độc lập về tiền bạc và các giá trị cộng đồng khi thuế má tăng và các cơ chế đối với việc diễn tả các vấn đề xã hội tăng dần về tính chất thống kê.
Tác giả Russell Shaw lưu ý và nhấn mạnh tính quốc tế của chủ nghĩa hiện đại. Ông biết đó là cách phản ứng trí thức của các viện sĩ Công giáo khi cảm thấy mình trân trọng nhìn vào văn hóa và có ý kiến rằng điều đó “thực sự là vấn đề”. Nó biểu hiện lòng khao khát không đáng kể về tình trạng trong một thế giới càng ngày càng ít người Công giáo hơn những năm trước. Ông cũng thoải mái công nhận rằng vấn đề lạm dụng tình dục cũng tương tự ở thế giới Tây phương, nhưng ông giải thích quyết định của ông về vấn đề đó trong Giáo hội Hoa Kỳ với ảnh hưởng riêng đối với Hoa Kỳ. Do đó đã có các sự liên kết nào đó, hoặc không có. Nhưng như tôi đã nói, mục đích của Shaw là kể chuyện về Hoa Kỳ; ông làm trước nhiều nhiệm vụ khó khăn là giải thích lý do văn hóa Tây phương như một tổng thể xa rời Đức Tin trong 500 năm qua.
Có những câu hỏi không dễ trả lời, nhưng khi chúng ta thấy có vấn đề, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi để sống và hành động theo cách của Đức Tin, và có những điều chúng ta không thể biết. Chúng ta không thể biết sự khác biệt giữa thời kỳ phát triển lâu dài của Công giáo, sau đó giảm sút và thấy có ít các thánh nhân trong thời chúng ta, thậm chí ít người sống đạo đức. Mỗi giai đoạn lịch sử đều khác nhau nhưng mỗi thời đều được Thiên Chúa quan phòng, có những sự quan phòng mà chúng ta không thể hiểu. Trong cách phân tích, chúng ta có thể thấy một số nguyên nhân nhưng chúng ta không thể hoàn toàn hiểu tại sao người Công giáo, từ năm 700 tới năm 1200, lại có thể tạo thành nền văn hóa Công giáo mạnh mẽ như vậy (dù không có phương tiện hoàn hảo), và từ năm 1500 tới năm 2000, mặc dù có nhiều nỗ lực anh dũng, Công giáo chỉ có thể làm chủ sự mất mát của nền văn hóa như vậy.
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự. Chúng ta không hề biết. Chúng ta không được kêu gọi để thành công theo nghĩa thế gian. Chúng ta được kêu gọi để sống Đức Tin. Công giáo chiến thắng và nổi trội, nhưng một nền văn hóa bị hiểu là phi văn hóa chính là văn hóa của người nghèo và của những người bị xã hội ruồng bỏ (có cả bạn và tôi), văn hóa này nên càng ngày càng có sức thu hút trở thành văn hóa nổi bật giữa đống xà bần của xã hội.
Ngta nói rằng người Mỹ càng ngày càng thực dụng hơn người Âu châu. Có thể câu chuyện tục hóa của Âu châu có cách chọn lựa tinh tế về lý thuyết, còn chuyện của Mỹ xử lý qua một chuỗi thỏa hiệp tự mãn với ảo giác đơn giản hóa. Đối với Âu châu và các nước thực dân xưa, có giá trị lớn trong việc hiểu mỗi câu chuyện được mở ra để chúng ta có thể nhân biết rõ hơn về các mối nguy hiểm mà chúng ta có xu hướng làm ngơ, và để phản ứng các mối nguy đó bằng các quy luật Công giáo chính xác và kiên vững.
Tác giả Russell Shaw cung cấp câu chuyện đó cho người Mỹ, rất có giá trị. Nhưng cũng có rất nhiều câu chuyện để kể, để biết, để hiểu rõ về chính mình và mối quan hệ với Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Khi tập trung và trau dồi mối quan hệ đó, chúng ta sẽ đúng theo cách chúng ta suy nghĩ và cầu nguyện, nói và hành động, mơ ước và sống. Điều đó có tạo nên một thế giới Công giáo mới hay không là quyền của Thiên Chúa. Điều này đủ cho thấy rằng một nền văn minh như vậy không thể phát triển từ cái gì khác.
Nhưng thực ra chúng ta phải ngừng quan ngại về nền văn minh Công giáo. Vấn đề thích hợp là chúng ta có sẵn sàng sống đời sống Công giáo hay không. Sự sai lầm nghiêm trọng của cha ông chúng ta, ít ra là tại Hoa Kỳ, là họ đã quan ngại về nền Văn minh Công giáo – và họ nghĩ mình có dự phòng rồi.
KHA ĐÔNG ANH (Lược dịch từ CatholicCulture.org)
____________________________
(*) Tông thư “Sự sống Con người” của ĐGH Phaolô VI có phụ đề “Trật tự đúng cần theo trong việc Lưu truyền Sự sống”. Có bốn phần trong tông thư: (1) Các khía cạnh mới của vấn đề; (2) Quyền hạn của giáo quyền để giải quyết vấn đề; (3) Các nguyên tắc giáo lý; và (4)s Các hướng dẫn mục vụ. Một trong các điểm lớn được ĐGH Phaolô VI tái tuyên bố là Giáo hội có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng trong các vấn đề luân lý, không chỉ khi các vấn đề ấy được mặc khải chính thức, mà cả khi các vấn đề ấy “liên quan đến luật luân lý tự nhiên” (ngày 25-7-1968).