CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG
Lời Chúa: Cv 2, 1-11; 1Cr 12, 3b-7.12-13; Ga 20, 19-23
——
-
Giữ Lấy Tình Yêu (Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
-
Thánh Thần Chúa Thiên San, MTG. Thủ Đức
-
Đấng ban sự sống (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Thần Khí đổi mới (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
-
Hoa trái Chúa Thánh Thần (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
-
Lễ ngũ tuần-Cộng đoàn yêu thương được thành lập (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Hãy nhận lấy Thánh Thần (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Đấng Bảo Trợ âm thầm (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. (Jorathe Nắng Tím)
-
Say (Trầm Thiên Thu)
-
Hãy nhận lấy Thánh Thần. (Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
-
Kiệt tác của Chúa Thánh Thần (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Cuộc đổi mới kỳ diệu (Jos Hồng Ân)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Hiện Xuống (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
-
Nhận lấy hồng ân (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Thánh Thần là ai và làm gì? (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
-
Can đảm dấn thân cho Tin mừng (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
1. Thánh Thần – Quà tặng của Thiên Chúa (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đức Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…” (Gm. Nguyễn Văn Khảm)
4. Chúa Thánh Thần làm chủ thế gian (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
6. Thời kỳ ân điển của Thần Khí (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
7. Sức mạnh nâng đỡ đức tin trong ý thức truyền giáo (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
8. Chúa Thánh Thần là Đấng tác sinh (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
9. Thánh Linh (Trầm Thiên Thu)
10. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
11. Ngọn lửa Thánh Linh soi chiếu (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
12. Làm chứng cho Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. ThánhThần-Đấng thúc đẩy Giáohội đi đến với muôn dân (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
14. Bình an của Chúa Thánh Thần (PM. Cao Huy Hoàng)
15. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
16. Qùa tặng vô giá (JM. Lam Thy, ĐVD)
17. Lời Chúa là Thần Khí (P. Trần Đình Phan Tiến)
18. Ơn sủng Chúa Thánh Thần (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
19. Được sai đi (Hoa Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
20. Thần Chân Lý (Lm. Trần Việt Hùng)
21. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em (Fx. Đỗ Công Minh)
22. Bình an Chúa Thánh Thần (AM. Trần Bình An)
23. Ngôn ngữ mới (Lm. Jos. DĐH.)
24. Thánh Thần giúp chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng (Lm. Đan Vinh)
25. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
26. Đổi đời (Lm. Vũ Đình Tường)
27. Nguồn Nước Thanh Tẩy (Lm. Giuse Nguyễn)
28. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_A (Lm. Antôn)
GIỮ LẤY TÌNH YÊU
Chúa Thánh Thần-A: Ga 20, 19-23
Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Cổ nhân nói: người thành công luôn có 2 thứ trên môi miệng, đó là sự thinh lặng và nụ cười. Giới trẻ lại quan tâm đến việc làm giầu và nổi tiếng, thiết thực với quan niệm: đừng tự hào cho rằng mình nghèo mà học giỏi, hãy hỏi tại sao giỏi mà vẫn nghèo ! Trong khi đó, nhiều người cho rằng: bạc đeo đầy mình, không bằng thông minh sáng suốt. Lại cũng có câu: thà rằng ăn bát cơm rau, còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời ! Qua các phương tiện truyền thông phản ánh: nổi tiếng, tai tiếng, bằng các thủ đoạn, đều bị xã hội gọi là “lệch chuẩn”, sớm muộn cũng phải trả giá. Phải chăng, từ sâu thẳm tâm hồn, mỗi người đều được mách bảo một sự thật: hạnh phúc đâu phải là có tất cả danh lợi thú, hạnh phúc là hãy trân trọng những gì mình đang có. Thứ cản trở ta không hạnh phúc là thiếu tình yêu, chứ đâu phải tiền tài danh vọng.
Tình yêu là đề tài muôn thuở, thích hợp với mọi hoàn cảnh, cần thiết cho mọi đối tượng, dù không thể cầm nắm, mua bán, nhưng mọi người đều thấy hạnh phúc khi được yêu thương. Trước tình yêu và quyền năng của Đấng phục sinh từ trong kẻ chết, các tông đồ và muôn dân thiên hạ, được mở rộng tầm hiểu biết về Đức Giêsu làm người, làm Thiên Chúa cứu độ. Vào buổi chiều hôm đó, cửa nhà, cửa phòng, các môn đệ họp đều đóng kín vì sợ, vì buồn, Đấng phục sinh không dò hỏi, Ngài đến, trao ban bình an, trao ban tình yêu Thánh Thần, và các ông đã được no thoả ân tình Chúa. Đúng với tâm trạng: người hiểu biết thì nói nhiều, người thông minh hay lắng nghe, người được yêu thương thì hạnh phúc. Chút nắng mong manh chẳng làm nên mùa hạ, chút tình nồng ấm lại vừa đủ niềm tín thác: tôi đã gặp mùa xuân yêu thương.
Hãy giữ lấy tình yêu, dù khó hiểu với các môn đệ, lơ mơ lờ mờ với những ai nặng tính thế trần, Chúa phục sinh vẫn phán bảo rõ ràng: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần .…”. Hãy giữ lấy tình yêu, dẫu biết rằng: giá trị thật của việc cho đi không hệ tại món quà lớn hay nhỏ, mà tuỳ thuộc ở tấm lòng người cho. Đấng phục sinh ban tặng, cho đi tình yêu Thánh Thần, các môn đệ im lặng không phải là đồng ý, đúng hơn thinh lặng để sức mạnh của niềm tin, để Thánh Thần tình yêu “bùng nổ” trong sứ mạng được trao phó. Có phải Chúa phục sinh biết rõ sức mạnh của tình yêu, có phải các môn đệ tin các ông sẽ lớn lên, trưởng thành hơn, khi được tình yêu Thánh Thần tác động ? Ở trong tình yêu, người ta sẽ hiểu: cha mẹ sinh ra ta, anh chị em, bạn bè, sẽ đồng hành với ta, còn Thánh Thần sẽ nói và hành động trong tự do của mỗi chúng ta.
Hãy giữ lấy tình yêu, hãy trân quý sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần: có những vị rất quan trọng trước cuộc đời ta, nhưng họ chỉ ở trong trái tim ta, mà không thể sánh bước cùng ta đi đến tận cùng thế giới. “Bình an cho các con: như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con…”, tình yêu của Thầy, cũng là tình yêu của Thánh Thần, đều phát xuất bởi tình yêu của Chúa Cha. Sự hiện diện của Thầy, cũng là sự hiện diện đầy yêu thương của Thánh Thần: gìn giữ, soi sáng, hướng dẫn, giúp mọi người sống đúng, sống đẹp thánh ý Chúa Cha. Hãy giữ lấy tình yêu, dù chưa hiểu được tác động của Thánh Thần, dù chưa hiểu lời Thầy dạy: các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, …”, bạn hãy giữ sự ngọt ngào đó trong tim mình, còn khổ đau, hãy gởi chúng cho thời gian.
Hãy giữ lấy tình yêu, tình người, tình Chúa, đều đẹp, và chỉ xứng hợp khi có tác động của Thánh Thần, chỉ bình an và hạnh phúc, khi đã rộng lòng thưa vâng: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Mọi người đều có thể và đang chung bước chung đường với ta, nhưng sẽ chẳng ai bước đi thay ta. Đấng phục sinh trao ban bình an, trao ban Thánh Thần, còn việc giữ và sống đúng, sống đẹp thánh ý Chúa thuộc về việc sống niềm tin của ta. Thánh Thần tình yêu được trao ban, sứ mạng cầm buộc và tháo gỡ được gởi tới các môn đệ, đến với từng tâm hồn người tín hữu, hẳn là để nhắc nhớ tình yêu Đấng phục sinh sẽ còn ở với nhân loại cho đến tận thế. Chúng ta được yêu thương, đâu phải vì ta đạo đức, tốt lành, mà vì tình yêu của Đấng cứu thế phải được trổ sinh bông hạt trong các tương quan nơi chúng ta.
Hãy giữ lấy tình yêu, mãi mãi là sự tự do của mỗi người, là sự mới mẻ của hành động, dù mến Chúa yêu người, tình yêu Thánh Thần cũng là tình yêu của Chúa Cha và Chúa con. “Bình an cho các con, tình yêu của Thầy sẽ ở mãi nơi các con, khi nói điều đó, Người cho các ông xem chân, tay, và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa”. Tình yêu thì không thay đổi, nhưng sự hiện diện của tình yêu, vẫn đầy phức tạp, do đó có người trở nên vĩ đại nhờ được yêu và có người trở nên nhỏ bé tầm thường, vì không nhận ra tác động của tình yêu Thánh Thần. Hãy giữ lấy tình yêu mà Đấng phục ban tặng, vì chưng, yếu đuối, tội lỗi, phản bội, chính là lý do Chúa đến thế gian để cứu chúng ta. Hãy giữ lấy tình yêu, hãy can đảm, những sai lầm, vấp váp, luôn dạy ta những bài học quý, đó gọi là kinh nghiệm, là tình Chúa, tình người yêu thương trước tác động của Thánh Thần. Amen.
THÁNH THẦN CHÚA
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, Đức Giêsu đến giữa các ông, trao ban bình an và Thánh Thần cho các ông. Các môn đệ rất đỗi vui mừng vì được gặp lại Thầy của mình (x. Ga 20, 19-23).
Trong những ngày ấy, sau biến cố Thầy Giêsu chết treo trên thánh giá, các môn đệ sống trong đêm tối mịt mù. Dường như mọi thứ chung quanh được khoác lên một màu xám buồn. Người xưa có câu: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” quả không sai. Những ngày ấy trôi thật chậm. Bước chân của các môn đệ có lúc nặng nề, có lúc nhanh. Nặng nề bởi ai cũng có nỗi buồn, ray rứt trong lòng . Người này chối Chúa, kẻ kia bỏ Chúa mà chạy. Cái nặng nề mang thêm nỗi sợ hãi. Sợ người Do-thái. Sợ nên chạy nhanh hơn. Họ sợ sớm muộn gì thì họ cũng sẽ có kết cục như Thầy. Cuối cùng, tất cả sống chui lủi trong một căn nhà, cửa đóng then cài. Thật khó để thoát ra cái mịt mù đêm đen ấy.
Trong màu xám buồn của những ngày ấy, khi các môn đệ chỉ biết nương tựa nhau mà sống, khi cửa hãy còn đóng then vẫn còn cài, Đức Giêsu Phục sinh đến, đứng giữa các ông, trao ban bình an cho các ông. Một “Luồng Gió Mới” được thổi vào. Luồng Gió Mới chính là Thánh Thần. Gặp lại Thầy hãy còn sống, các ông rất đỗi vui mừng. Dường như cảnh vật chung quanh tươi tỉnh hơn bởi lòng người được giải gỡ. Bình an là điều đầu tiên Đức Giêsu phục sinh trao ban cho các môn đệ. Bởi hơn ai hết, Người biết các môn đệ cần có được bình an. Cánh cửa đóng lại bấy lâu nay được mở ra. Người giúp các ông mở cửa để đi ra. Giờ đây, với Thánh Thần và bình an của Chúa, các môn đệ mạnh dạn đi ra, làm chứng cho Chúa. Thật vậy, không có Thánh Thần, các môn đệ chỉ như các khối kim loại không có dòng điện, nằm im lìm một chỗ và không hoạt động. Có Chúa Thánh Thần, các môn đệ như những khối kim loại có dòng điện chạy qua hoạt động hết công suất. Đọc lại sách Công vụ Tông đồ chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Một Phêrô ít học, nhát đảm, chối Chúa, nay với Thánh Thần của Đấng phục sinh đã mạnh dạn đứng ra ra giảng Tin mừng phục sinh cho dân chúng, đối đáp cách khôn ngoan với giới lãnh đạo. Các môn đệ khác cũng mạnh dạn đi ra giảng dạy cho dân chúng, chữa lành bệnh tật… Có Chúa Thánh Thần, các môn đệ trở thành tay, chân, mắt, miệng, con tim của Chúa để ra đi, đến với muôn người, trao ban bình an và ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Cho đến nay, Thánh Thần vẫn được ban cho Giáo hội. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được nhận lãnh Thánh Thần của Chúa. Đặc biệt là khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, chúng ta được Chúa Thánh Thần thêm sức, củng cố đức tin cho ta và giúp ta lớn lên trên hành trình đức tin. Nhờ Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta có thể bước đi trong ánh sáng của Chúa, không mất niềm tin tưởng và hy vọng. Khi khởi sự thực hiện một việc gì, qua việc xin ơn Thánh Thần soi sáng, chúng ta luôn được mời gọi ý thức sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong từng công việc ta đảm trách. Chúa Thánh Thần đồng hành và liên kết chúng ta với nhau và với Chúa. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, chúng ta là chi thể được liên kết với nhau nhờ Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta được nên một với Đức Kitô là Đầu của Hội thánh. Nơi đâu có hiệp thông, yêu thương, huynh đệ nơi đó có Chúa Thánh Thần hiện diện và hoạt động. Người khơi gợi trong lòng chúng ta ý muốn được nên một với Chúa, và với nhau. Người giúp chúng ta mở lòng đón nhận, yêu thương, tha thứ cho nhau. Người cũng thánh hóa chúng ta để chúng ta được gần với Chúa hơn. Người luôn là Đầng Bảo Trợ của mỗi chúng ta và của Hội thánh.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục sinh! Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng con. Mặc dù chúng con không thể nhìn thấy Ngài nhưng qua các dấu chỉ và qua hoa trái chúng con có được, chúng con tin chắc vào sự hiện diện và hoạt động của Ngài. Không có Ngài trợ giúp, chúng con sẽ chẳng thể nhận biết Chúa là Đấng yêu thương. Không có ngài trợ giúp, chúng con sẽ chẳng thể mở lòng đón nhận nhau và chẳng thể nhìn thấy sự hiện diện của Chúa nơi người anh chị em bên cạnh. Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn ở cùng chúng con và yêu thương chúng con. Xin giúp chúng con biết ngoan ngùy trong sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa để chúng con trở nên những cục đất sét trong tay thợ gốm là chính Chúa. Nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một câu chuyện vui kể lại, có anh thanh niên đang học giáo lý dự tòng, khi học kinh Chúa Thánh Thần, anh học mãi mà không thuộc. Khó nhất là nhiều lần cứ lặp đi lặp lại “Chúa Thánh Thần xuống… Chúa Thánh Thần lại xuống….”. Anh sốt ruột nói với bà sơ dạy giáo lý: “Sao không thấy Chúa Thánh Thần lên mà thấy cứ xuống hoài ?”. Bà sơ trả lời: “Nếu Chúa Thánh Thần mà lên thì thế giới này sẽ bị hủy diệt còn ghê gớm hơn là bom nguyên tử!”
Kinh “Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần…” mà chúng ta thường đọc mỗi khi khởi đầu giờ cầu nguyện, nhắc lại một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ: đó là ngày lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần đến để canh tân Giáo Hội. Kể từ ngày ấy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện để nâng đỡ và bảo trợ Giáo Hội. Sở dĩ người tín hữu cầu xin Chúa Thánh Thần, vì họ xác tín rằng, mọi hành vi và mọi dự tính, nếu muốn thành công, cần có ơn của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Đấng Bảo trợ đến từ nơi Chúa Cha.
“Thày sẽ sai Đấng Bảo trợ đến với anh em” (x.Ga 16, 7). Chúa Thánh Thần đã đến để quy tụ nhóm các môn đệ đang hoang mang sợ hãi, biến đổi lòng họ và làm cho họ trở thành những nhân chứng trung kiên của Đấng Phục Sinh. Bài trích Sách Tông đồ Công vụ đã minh chứng điều đó. Phêrô là một người dân chài chất phác và ít học. Tuy vậy, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, ông đã trở nên một con người hoàn toàn mới: can đảm, uyên bác, mạnh mẽ và khôn ngoan. Lời giảng của ông có sức thuyết phục đến nỗi trong ngày đầu tiên này, có tới ba ngàn người gia nhập Đạo.
Lịch sử Giáo Hội nói chung, cụ thể nhất là ở miền Bắc Việt Nam, cho thấy sức mạnh kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Trong những năm tháng khó khăn, thiếu vắng linh mục, không có lớp giáo lý, không có những hoạt động tông đồ, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm hoạt động. Ngài tác động nơi những ông trùm, bà quản, văn hóa rất khiêm tốn, nhưng lại mạnh mẽ lạ thường. Lý lẽ của họ rất đơn giản mà đã thuyết phục được nhiều người, cả những người lương dân và những người có chức quyền trong xã hội. Kiến thức của họ rất sơ sài mà lại là nền tảng cho một đức tin chắc chắn. Có những cụ ông cụ bà đạo đức thánh thiện truyền lại đức tin cho con cháu chỉ bằng những lời kinh đơn sơ. Nhờ những “chứng nhân đức tin” này mà biết bao ngôi thánh đường được gìn giữ, biết bao cộng đoàn đức tin được duy trì, tồn tại …. . Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người tín hữu và ban cho họ sức mạnh, soi sáng cho họ biết những gì cần phải làm. Giáo Hội tồn tại là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thông qua những con người bình dân và trung tín ấy. Là Đấng Bảo trợ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hướng dẫn và làm cho Giáo Hội phát triển.
Và hôm nay, hai mươi thế kỷ sau sự kiện Ngũ Tuần, Ngôi Ba Thiên Chúa vẫn đang từng giờ từng phút bảo trợ Giáo Hội và làm cho Giáo Hội sống. Cũng như Chúa Thánh Thần luôn làm cho vũ trụ được sống, Ngài cũng luôn luôn thông truyền sức sống siêu nhiên cho Giáo Hội “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Nếu một ngày nào đó, không có ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, vũ trụ sẽ trở về thời kỳ hỗn mang và Giáo Hội sẽ trở thành một cái xác không hồn. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội của Chúa Kitô lan tỏa một vẻ đẹp diệu kỳ. Vẻ đẹp ấy thể hiện qua tình hiệp nhất giữa các tín hữu, qua sức mạnh của đức tin, qua tính linh thiêng của những nghi thức phụng vụ. Chúa Thánh Thần còn làm cho vẻ đẹp Giáo Hội rạng ngời nơi khuôn mặt và cuộc đời các tín hữu, giúp họ dấn thân hy sinh, kiên vững trung thành sống chết vì Chúa.
Sách Giáo lý của Giáo Hội công giáo đã liệt kê những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần như: nước, sự xức dầu, lửa, áng mây và ánh sáng, dấu ấn, bàn tay, ngón tay, chim bồ câu. Tất cả những biểu tượng trên diễn tả những nhu cầu cần thiết để con người có thể sống và đạt được hạnh phúc trên trần gian.
Ca Tiếp liên của phụng vụ hôm nay diễn tả những hoạt động đa dạng của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài luôn thực thi sứ mạng “bảo trợ” trong suốt đời sống con người và đời sống đức tin “Nếu không có Chúa hộ phù, trong con người còn chi thanh khiết?”.
Nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần mà các tín hữu được liên kết với nhau trong tình hiệp thông. “Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, nên một cách nào đó chúng ta được kết hợp với nhau và với Thiên Chúa. Mặc dầu chúng ta nhiều người và mặc dầu Đức Kitô đã làm cho Thần Khí của chúa Cha và của Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta” (thánh Cyrillô thành Alexandria). Bài đọc I và bài đọc II trong Phụng vụ đều diễn tả vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng liên kết mọi tín hữu nên một. Lễ Ngũ Tuần hàn gắn những chia rẽ đổ vỡ của thời Baben trong Cựu ước. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sống động như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau, nhưng cùng chung một sức sống (Bài đọc II).
Chúa Thánh Thần là quà tặng của Đấng Phục sinh cho các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu ban cho các ông sự bình an. Chúa Thánh Thần và ơn bình an đi liền với nhau. Nói cách khác, bình an là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và bình an cũng chính là Chúa Thánh Thần. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đấng Phục sinh và các tông đồ, Người cũng ủy thác cho các ông quyền tháo cởi và cầm buộc. Không chỉ quyền cầm buộc và tháo cởi, Chúa còn ban cho các ông biết bao quyền năng khác, đến nỗi các ông có thể làm được phép lạ, như chính Chúa Giêsu đã làm. Khi chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ thực hiện được những “phép lạ” trong cuộc sống, đó là vượt lên sự chết, canh tân đổi mới cuộc đời để sống cuộc sống mới.
Với lễ Hiện Xuống, mùa Phục Sinh được khép lại. Tuy vậy, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện ấy, đồng thời thêm sức cho chúng ta đủ can đảm để loan báo Đấng Phục Sinh cho mọi người.
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
- Tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Luca viết : “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng một cơn gió mạnh từ trờiùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang họp” (Cv 2,1-2). Xem ra đây chỉ là một câu văn bình thường, không đáng quan tâm, nhưng nếu đối chiếu với câu đầu tiên trong sách Sáng Thế thì người đọc sẽ khám phá nội dung hết sức quan trọng. Ngay những dòng đầu tiên của bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế viết : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1-2). Bản tiếng Việt dịch là “thần khí Thiên Chúa”, trong bản Do Thái là ruah, có nghĩa là khí, gió, hơi thở. Đây cũng là từ được thánh Luca sử dụng khi tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống : “một cơn gió mạnh từ trời (ruah, pneuma)”.
Như thế, thánh Luca muốn nói biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống là khởi đầu công trình tạo dựng mới. Cũng vì thế trong phần đáp ca sau bài đọc 1 hôm nay, cộng đoàn phụng vụ hát lên : “Lạy Chúa, xin gửi thần khí tới để đổi mới bộ mặt trái đất”. Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới bộ mặt trái đất.
- Hội Thánh cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 2020 trong bối cảnh chưa từng có : đại dịch Covid-19 gây ra những thiệt hại hết sức nặng nề, không những về số người bị nhiễm virus và số tử vong rất lớn, mà còn phải kể đến những hậu quả lâu dài về mọi mặt trong đời sống xã hội, không chỉ riêng ở một quốc gia nào nhưng trên toàn thế giới. Chính vì thế, cùng với những nỗ lực ngăn chặn sự lây lan virus, bảo vệ mạng sống người dân, bắt đầu nổi lên nhiều lời kêu gọi đổi mới : thế giới không thể tiếp tục như cũ, phải đổi mới, đổi mới vận hành kinh tế, đổi mới tổ chức xã hội, đổi mới chính trị. Cũng từ đó, câu hỏi quan trọng xuất hiện : Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới bộ mặt trái đất, vậy Ngài đổi mới cái gì, đổi mới thế nào? Người tin Chúa có thể góp phần ra sao vào công cuộc đổi mới của Chúa Thánh Thần?
Lời Chúa không giới thiệu bất cứ kế hoạch đổi mới nào nhưng chỉ cho thấy công trình đổi mới của Chúa Thánh Thần là đổi mới từ bên trên và từ bên trong.
Đổi mới từ bên trên : khi kể về công trình tạo dựng thưở ban đầu, sách Sáng Thế viết, “Thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước”(St 1,2); và khi tường thuật biến cố Hiện Xuống, sách Công Vụ mô tả, “Gió mạnh từ trời ùa vào nhà” (Cv 2,1). Cả hai bản văn đều diễn tả tác động từ bên trên, từ Thiên Chúa, vì chính Chúa là chủ thể đổi mới trái đất theo định hướng từ thưở ban đầu, tức là một thế giới trong đó con người sống hài hòa với Đấng Tạo Hóa, với nhau, với thiên nhiên vạn vật.
Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều nỗ lực đổi mới xã hội, tiếc thay chỉ là những nỗ lực từ bên dưới, hành động phát xuất từ căm thù và bạo lực, thế nên người ta nhân danh đổi mới, xây dựng nhân loại mới để tiến hành những cuộc chiến tranh đẫm máu, hủy diệt lẫn nhau. Cuối cùng, đổi mới chỉ có nghĩa là một cuộc đổi ngôi : giai cấp bị trị trở thành giai cấp thống trị mới và tình hình cũng không sáng sủa gì hơn, có khi còn tệ hại hơn trước.
Đổi mới từ bên trong : bài Tin Mừng theo thánh Gioan kể rằng : “Chúa thổi hơi vào các ông và bảo, anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Hành động này của Chúa Kitô Phục sinh nhắc chúng ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người đầu tiên : “Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và nắm đất trở nên một sinh vật” (St 2,7). Thổi hơi luôn luôn là thổi hơi vào bên trong, hơi thở rất nhẹ, nhưng làm nên sự sống và chính là nguồn sống, hết thở là hết sống. Công trình đổi mới của Chúa Thánh Thần là đổi mới từ bên trong chứ không phải chỉ ở bên ngoài, nghĩa là đổi mới từ trong tâm hồn, cách nhìn, cách nghĩ, rồi tác động lên cách sống, cách thiết lập những tương quan xã hội.
Lịch sử thế giới cũng ghi lại rất nhiều cuộc cách mạng để xây dựng cơ cấu xã hội mới, nhưng vì chỉ đổi mới cơ cấu bên ngoài mà tâm hồn không đổi mới nên cuối cùng chính con người lại biến xã hội mới đó thành cơ chế áp bức, có khi còn tệ hại hơn trước.
- Con người là hữu thể có ý chí tự do và Chúa Thánh Thần tôn trọng tự do của chúng ta, vì thế Kitô hữu được mời gọi sử dụng tự do của mình mà cộng tác với Ngài trong công cuộc đổi mới.
Vì Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trên, nên chúng ta phải cầu nguyện để đón nhận ơn ban, xin ơn khôn ngoan để phân định đâu là thánh ý Thiên Chúa, xin ơn can đảm để sống và làm theo Thánh Ý.
Vì Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trong, nên chúng ta phải cộng tác với Ngài để thanh tẩy tâm hồn, làm phát sinh những hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô nói : “Hoa quả của Thần khí là bác ái, vui tươi, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal 5,22).
Hãy bắt đầu từ chính bản thân mình. Chỉ đòi hỏi người khác và xã hội đổi mới mà chính mình không chịu đổi mới, e rằng chỉ là ngụy biện và giả hình. Vì thế, hãy xin Chúa Thánh Thần ngự đến đổi mới tâm hồn và con người chúng ta, và biến chúng ta thành khí cụ của Ngài trong công trình đổi mới thế giới. Amen.
L.m Giuse Hoàng Kim Toan
Chúa Thánh Thần biểu tượng nước, không khí, hơi thở, bồ câu, lửa… Các biểu tượng ấy nói lên sự đa dạng va phong nhiêu của Chúa Thánh Thần. Với Chúa Thánh Thần trong bí tích thanh tẩy, chúng ta cùng nhìn lại bí tích rửa tội đã được lãnh nhận.
Người Kitô hữu được mời gọi suốt hành trình là sống bí tích rửa tội.
Chúa Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn người tín hữu. Đối với trẻ sơ sinh, Chúa Thánh Thần ban sự sống thần linh trong sự sống thân xác của trẻ, Đấng thanh tẩy tội tổ tông, một tội lưu truyền trong nhân loại, là một tội gốc, thời Covid người ta gọi đó là ca nhiễm số 0. Nhiều người nói tội của trẻ mới sinh có tội gì đâu mà rửa tội? Một sự liên đới trong tội cũng liên đới trong ân sủng. Cũng giống như mỗi người sinh ra đều thừa hưởng cả cái xấu cái tốt của người đi trước.
Thanh tẩy có nghĩa là sinh lại mới hoàn toàn. Chúa Thánh Thần có quyền năng tha tội, đưa người tín hữu sinh lại trong sự sống tinh tuyền. Dù đã được thanh tẩy mọi tội lỗi khi chịu bí tích thanh tẩy, nhưng con người Kitô vẫn sống trong sự yếu đuối mỏng giòn vẫn cần sinh lại luôn trong Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thân xác con người không còn là nơi chứa chất tội lỗi, để là nơi Đền Thờ của Thiên Chúa cư ngụ và sống trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Trong thư Thánh Phêrô tông đồ, người đã chia sẻ về đời sống thần linh của mình khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống: “Bởi chưng quyền năng thần linh của Ngài đã thí ban cho ta tất cả những gì cần cho sự sống và đạo hạnh, nhờ ở trí tri về Ðấng đã kêu gọi ta do bởi vinh quang uy đức của Ngài. Nhờ đó những lời hứa vĩ đại đã được ban xuống cho ta, ngõ hầu nhờ vậy anh em được thông chia cùng một bản tính thần linh, thoát cảnh đồi bại do bởi đam mê thế tục.” (2 Pet 1, 3 – 4).
Đời sống đạo hạnh là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong đời sống người Kitô hữu: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gal 5,22-23). Những đức tính này giúp cho người Kitô hữu sống trong tự do đích thật, và luôn ý thức Chúa sống trong họ, như Thánh Phaolô quả quyết: “Tôi sống không phải tôi sống mà la Chúa sống trong tôi” (Gal 2, 20). Đời sống như thế không dựa vào điều gì khác để có thể tự hào về những gì mình có thuộc về trần gian, vì tất cả Chúa là gia nghiệp đời tôi.
Chúa Thánh Thần làm cho người Kitô hữu càng ngày càng nhận biết Chúa hơn đang sống trong mình. Sự hiểu biết không hoàn toàn đến từ sự cố gắng của con người, nhờ Chúa thánh thần soi sáng, giáo huấn, trợ giúp, con người tiệm tiến trong sự nhận biết Thiên Chúa.
Thánh Augustine cầu nguyện xin Chúa “Biết Chúa để con biết con”. Nhờ Chúa Thánh Thần, biết con là một phàm nhân, biết con là người là một tội nhân. Cái “biết” quan trọng này là sự nhận biết: “Người đã yêu thương tôi, và phó nộp minh vì tôi” (Ga 2, 20). Xác tín thật rõ ràng, không còn mông lung, đại chúng. Chính vì tôi, yêu thương tôi, và phó nộp vì tôi. Kinh nghiệm biết Chúa về chiều sâu của tâm hồn, của kinh nghiệm xuyên qua từng ngày sống và ngay cả những lầm lỗi của chính mình, nhận biết Chúa yêu thương tôi.
Chúa Giêsu phán bảo: “Hãy xin sẽ được, hãy gõ sẽ mở cho…Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (lc 11, 9 – 13).
Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, giúp chúng con sống hoàn thành ơn gọi trong bí tích rửa tội.
LỄ NGŨ TUẦN-CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG ĐƯỢC THÀNH LẬP
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Lần giở lại sách Tông đồ công vụ chúng ta thấy: Vào ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, tức thì các ngài bắt đầu nói các thứ ngôn ngữ khác để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân đến từ khắp các nước trong thiên hạ. Ai cũng hiểu theo ngôn ngữ của mình. Ai cũng có thể đón nhận Tin mừng của các tông đồ rao giảng. Cốt lõi của tin mừng không dừng lại ở nói tiếng lạ mà là việc các tông đồ thiết lập một cộng đoàn yêu thương sau lời rao giảng của các ngài.
Theo sách Tông đồ công vụ 2, 45: “Họ bán gia tài mà phân phát cho nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người”. Mỗi người tín hữu theo Chúa Ky-tô thì đều coi anh em như chính mình vậy. Họ coi nhu cầu của anh em là nhu cầu của tôi. Khi anh chị em cần thì tôi vui lòng cho họ để thỏa mãn nhu cầu của họ. Đây là hoa trái của Chúa Thánh Thần đã làm cho Hội Thánh. Chính Ngài đã làm cho mọi người đồng tâm nhất chí với nhau để rồi luôn bao bọc chia sẻ cho nhau trong khả năng của mình. Có thể nói, hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự hiệp nhất yêu thương đến nỗi coi người lân cận như chính mình.
Tình yêu thương tha nhân như chính mình đòi hỏi con người không thể yêu nhau bằng lời nói suông mà còn phải cả sự dấn thân chia sẻ cho nhau. Bởi vì, nếu chúng ta được liên kết với nhau bởi quyền năng của Thánh Thần, thì bất cứ việc gì ảnh hưởng đến anh cũng ảnh hưởng đến tôi. Trongtình yêu không thể nhìn thấy một người đói lả chỉ được chúng ta dừng lại và nói “thật tội nghiệp”, hay trên đường đi chúng ta bắt gặp một người anh em bị tai nạn và dừng lại an ủi rằng: “Tội nghiệp quá! Tôi sẽ cầu nguyện cho anh.” Rồi tôi cứ tiếp tục công việc của tôi, tôi quên đi chuyện của anh. Nếu chỉ nói thế thôi thì chúng ta chưa coi tha nhân “như là chính mình”?
Cám ơn Chúa nơi Giáo hội vẫn còn những cộng đoàn yêu thương nhau hết lòng. Họ đã coi tha nhân như là chính mình để rồi luôn hướng tới những con người khổ đau trong hoạn nạn. Trong đại dịch Covid 19 ta thấy nhiều giáo xứ đã phát khẩu trang miễn phí cho cộng đoàn khi tham dự thánh lễ. Họ không để ai trong giáo xứ của mình phải thiếu thốn nhưng luôn đủ gạo đủ tình thương cho anh chị em của mình. Và khi tình hình phải cách ly ta vẫn thấy nhiều giáo xứ vẫn phát gạo, phát cơm cho những anh chị em công nhân mất việc, cho những người bán vé số , đánh giày, lượm lặt ve chai . . . để không ai bị đói trong khu vực của mình.
Theo Giáo huấn của Hội thánh thì chúng ta được liên kết với nhau nên một thân thể duy nhất của Đức Ky-tô là nhờ Chúa Thánh Thần. Mà trong một thân thể thì một ngón tay đau , một ngón chân đau thì cả thân thể đều chia sẻ với nỗi đau của nhau. Đó là lý do người Công giáo phải luôn sống tình yêu với người lân cận trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Chúa Giê-su đã đồng hoá mình với tất cả anh chị em khổ đau , cũng là để mời gọi chúng ta nên một với Ngài trong tình yêu với người khổ đau. Xin cho mỗi người chúng ta đã được nên một với Đức Ky-tô nhờ Chúa Thánh Thần cũng biết sống yêu thương người lân cận như chính mình. Và khi chúng ta biết sống yêu thương người lân cận là chúng ta đang sống cho Chúa và làm chứng nhân cho Ngài.
Nguyện xin Thánh Thần đến uốn nắn và dạy chúng ta biết sống tình thân với Chúa, trong giáo hội và dấn thân chia sẻ đức ái với anh em.Xin cho cộng đoàn đức tin nơi các giáo xứ mãi mãi là dấu chỉ của Hội Thánh Chúa khi biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Amen
Bông hồng nhỏ
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Thầy Giêsu đã chết, các ông rơi vào nỗi sợ hãi kinh hoàng: người Do thái sẽ tìm bắt và giết các ông như cách họ đã làm với Thầy Giêsu. Mất Thầy, cuộc đời các ông rơi vào tăm tối, lòng các ông tràn ngập ưu phiền, đầy xao xuyến và sợ hãi.
Giữa lúc ấy, Chúa Giêsu phục sinh đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Sự xuất hiện bất ngờ của Thầy khiến lòng các ông vui sướng, các ông mừng rỡ vì có Thầy ở bên. Ở bên Thầy, lòng các ông được bình an. Các ông được xem thấy và đụng chạm vào đôi tay và cạnh sườn của Thầy. Các dấu đinh trên tay và dấu đòng đâm thâu nơi cạnh sườn của Thầy nhắc các ông về tình thương bao la của Thầy, nó cho các ông nhìn thấy chính mình, về sự phản bội, sự nhát đảm và cả về nỗi sợ hãi mà các ông đã phải đối diện, nhất là các ông hiểu rằng mình cần Chúa biết bao. Thầy vẫn như ngày nào, gần gũi và yêu thương từng người cách trìu mến. Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Hơi thở là sự sống, hơi thở của Thầy còn là sự sống thần linh, là chính Chúa Thánh Thần. Đón nhận Chúa Thánh Thần là các ông đón nhận sự sống mới, để đổi mới tâm hồn và đón nhận sự bình an sâu thẳm mà chính Chúa Giêsu ban tặng.
Mỗi ngày, ta vẫn được đón nhận Chúa Thánh Thần. Ngài luôn hiện diện bên ta, ngay trong lòng ta cách âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Ngài là Thánh Thần lửa mến, đốt lòng ta yêu mến Chúa, chọn Chúa trên hết mọi sự. Ngài là Thánh Thần tình yêu, đốt cháy nơi tâm hồn ta một ngọn lửa yêu thương mãnh liệt, để ngay cả những khi ta tưởng mình không thể yêu thương ai đó thì chỉ cần biết buông mình cho Ngài thì chính Ngài sẽ yêu thương trong ta. Ta có thể cảm nhận được tình yêu của Ngài ngay trong nhịp sống đời thường, giữa những biến cố và trong những phút giây lặng lẽ của cuộc đời. Tình yêu sẽ hóa giải những khúc mắc trong cuộc sống giữa ta và người anh chị em, hãy kiên nhẫn để Chúa Thánh Thần làm việc. Chúa Giêsu đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, đồng thời Ngài ban lệnh truyền yêu thương này: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Tình yêu dẫn đến sự tha thứ và hòa giải, ta sẽ trở nên sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Hãy bắt đầu kiến tạo hòa bình ngay trong chính tâm hồn ta bằng việc thiết lập mối tương quan cá vị với Chúa Giêsu cách mật thiết, chính Ngài sẽ đổ tràn Thánh Thần Tình yêu trên ta.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã muốn ban Thánh Thần của Ngài cho con để cuộc đời con được đổi mới. Mỗi ngày, xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn con lòng khao khát được đón nhận Thánh Thần và biết nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống con, ngay trong chính tâm hồn con và giữa anh chị em con. Amen.
Anna Cỏ May
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, trong căn phòng, các cửa đều đóng kín, các môn đệ quy tụ lại với nhau trong tâm trạng sợ hãi người Do thái. Họ không dám đi đâu hay xuất hiện ở bất cứ nơi nào, cũng không dám đối diện với những ánh mắt, cử chỉ và thái độ khinh chê của dân Do thái sau khi Thầy đã bị đóng đinh. Nhưng sau ngày đó, họ đã bước ra được khỏi căn phòng bóng tối ấy và ra đi rao giảng tất cả những gì đã lãnh nhận từ Thầy Giêsu. Nhờ đâu mà các Tông đồ được như vậy?
Trong lúc các môn đệ chìm trong nỗi sợ hãi, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Ngài trao ban bình an và thổi hơi vào các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha ban cho các môn đệ. Ngài sống với Chúa Cha trong tâm tình con thảo nên dầu làm việc gì Ngài cũng thân thưa cùng với Chúa Cha. Vì vậy, việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ cũng không là ý của riêng Ngài. Các môn đệ sẽ được hưởng sự sống trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng biến đổi các ông, để các ông không còn sợ hãi trước người Do thái hay lo lắng gì cho tương lai. Thay vào đó, các ông trở nên những con người tràn đầy bình an, lòng can đảm, ơn thông minh và hiểu biết (x. Ga 14,26). Ngoài ra, các ông còn được Chúa Thánh Thần trao ban sự khôn ngoan của Thiên Chúa, lòng kết hiệp với Thiên Chúa qua việc trung thành với sứ mạng chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa (x. Cv 6,4). Chúa Thánh Thần giúp các ông được thông dự vào quyền năng của Thiên Chúa: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Thánh Giám mục Syrilô đã viết: “Thánh Thần ngự trong ai thì Người biến đổi kẻ ấy để họ sống một nếp sống khác và phục hồi trong cuộc sống mới” (Kinh Sách). Như vậy, nhờ Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã được biến đổi và sống một cuộc sống mới, ra đi đến với mọi người, làm cho muôn người yêu mến Chúa và trở thành môn đệ của Chúa, cùng làm vinh danh Chúa Cha.
Mỗi người kitô hữu chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vì chúng ta là những con người yếu đuối và giới hạn, không thể hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần ngự đến soi sáng, nâng đỡ đức tin cho chúng ta. Nhưng chúng ta có nhớ đến Ngài không? Chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban không? Hay chúng ta đã lãng quên và khước từ Ngài? Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy tỏ lòng sám hối và cầu xin Ngài đến ngự trong chúng ta, biến đổi và trợ giúp chúng ta bước đi trên con đường về quê trời. Ngài chính là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta trên cuộc đời lữ hành (x.Ga 14,16).
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin cử Thánh Thần ngự đến trong tâm hồn chúng con, để biến chúng con thành môn đệ của Chúa. Xin khơi dậy nơi tâm hồn chúng con lòng khao khát được Chúa Thánh Thần ngự đến, vì chúng con đã bao lần lãng quên hay khước từ Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG.
Jorathe Nắng Tím
Khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào “ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh uà vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Họ đây là nhóm các Tông Đồ. “Tất cả đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện” (Cv 1,14), và vừa rút thăm trúng ông Mátthia, người “được kể thêm vào số mười một Tông Đồ” (Cv 1,26).
Thực vậy, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống đã hoàn thành mỹ mãn lịch sử của Israel, dân riêng Thiên Chúa, và từ nay mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo Hội mà Đức Giêsu đã thiết lập trên nền móng các Tông Đồ: “Anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…” (Mt 16,18).
Đây là mấu chốt quan trọng trong lịch sử cứu độ nhân loại của Thiên Chúa, với sự ra đi rao giảng Đức Giêsu chịu đóng đinh đã sống lại dưới sự hướng dẫn và phù trợ của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Đức Giêsu đã hứa xin Chúa Cha ban cho các Tông Đồ trước khi chịu khổ hình và tử nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17), “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
- Chúa Thánh Thần huớng dẫn Giáo Hội đến Hiệp Nhất trong sự tôn trọng các khác biệt:
Khi ban cho các Tông Đồ ơn nói các tiếng lạ, Chúa Thánh Thần muốn Giáo Hội Đức Giêsu hiệp nhất trong sự tôn trọng các khác biệt của mọi thành phần trong Giáo Hội: một Giáo Hội được sai đến với muôn dân, nói với mọi dân tộc bằng mọi ngôn ngữ, một Giáo Hội lên đường đi khắp nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm để loan báo Tin Mừng, một Giáo Hội không xây riêng cho mình pháo đài và khép kín để kiêu căng như ước mơ của những người xây tháp Babel trong Cựu Ước: “Thuở ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau. Trong khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sinai và định cư tại đó. Họ bảo nhau: Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên mặt đất” (St 11,1-4).
Hình ảnh các Tông Đồ ai nấy nhận lưỡi lửa của Thánh Thần, và “bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,4) đã nói lên tính hiệp nhất nhưng không đồng nhất, khi cùng nhận từ một Thánh Thần duy nhất những đặc sủng, khả năng khác nhau, và hoàn toàn khác với số phận của những người xây tháp Babel với tham vọng “hiệp nhất nhưng đồng nhất » đã bị Đức Chúa “làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa” (St 11,7), và kế hoạch kiêu căng của chúng đã đổ vỡ khi “Đức Chúa phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất” (St 11,9).
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đã khai trương một Giáo Hội đến với muôn dân, nói với mọi dân tộc, hợp nhất mọi người với mọi khác biệt trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
- Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hoạt động trong tâm hồn người đi theo Đức Giêsu:
Cảnh tượng “bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ tập” (Cv 2,2), nhắc nhớ hình ảnh “sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi… Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh” (Xh 19,16.18), khi Thiên Chúa ban giao ước cho dân riêng của Ngài.
“Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy…” (Xh 20,18), và Mười Điều Răn được khắc trên bia đá.
Khác với cảnh tượng dân riêng nhận Giao Ước ở Xinai, Chúa Thánh Thần hiện xuống, tuy có “tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào”, nhưng không làm các Tông Đồ sợ, trái lại, “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần”. Đó là các ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, ơn kính sợ Thiên Chúa, kèm theo các đặc sủng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh.
Cũng thế, khác với Mười Điều Răn đã được khắc vào đá, Chúa Thánh Thần hiện xuống đã ghi Luật Tình Yêu của Đức Giêsu vào trái tim mỗi người, và làm hoan lạc tâm hồn bằng hoa trái ngon ngọt của Tình Yêu là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,4-6).
Nhờ thế, các Tông Đồ đã mạnh dạn, hân hoan lên đường rao giảng, làm chứng Đức Giêsu bất chấp mọi gian truân, thử thách, bách hại.
- Chúa Thánh Thần hồi sinh và đổi mới thế giới:
Thánh Thần là Đấng đã bay là là trên nước khi thế giới được tạo dựng cũng là Đấng sẽ hồi sinh thế giới đã chết bằng một tạo dựng mới, ở đó Ngài ban cho dân Chúa niềm hy vọng và sự sống như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm: “Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa” (Ed 37,4-6).
Chính Thánh Thần làm cho “người chết được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể” (Ed 37,10), một hình ảnh của dân Chúa, như Ítraen đã được Ngài mở huyệt, hồi sinh và đưa về lại đất hứa, dù họ đã như những xương cốt đã khô, và niềm hy vọng đã tàn rụi, tiêu tan (x. Ed 37,11-14).
Với lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần làm cho mọi thụ tạo được sống, ban lại sự sống cho những tâm hồn đã chết, và hồi sinh những trái tim đã héo úa, tuyệt vọng. Là Đấng ban sự sống, Ngài làm sống Giáo Hội, đổi mới đời sống người tín hữu và làm cho mọi sự nên mới để có một “trời mới, đất mới”, như ngôn sứ Giôen đã tuyên sấm: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên được thị kiến” (Ge 3,1). Chính tông đồ trưởng Phêrô đã khẳng định lại điều này khi ngài giảng cho dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Hiện Xuống (Cv 2,14-21).
- Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa:
Thánh Phaolô qủa quyết: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!”; cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” ( 1 Cr 12,3).
Cũng vậy, chính Thần Khí làm cho chúng ta được trở nên con cái, mà “không còn phải là nô lệ nữa” (Gl 4,7) như thánh tông đồ dân ngoại viết cho giáo đoàn Galát: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi’!” (Gl 4,6).
“Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
- Chúa Thánh Thần cùng với Giáo Hội lên đường truyền giáo:
Giáo Hội không thể là Giáo Hội truyền giáo, nếu không có Chúa Thánh Thần, và nhà truyền giáo không thể loan báo Tin Mừng, làm chứng Đức Giêsu, nếu không có Chúa Thánh Thần ở cùng, bởi chính Đức Giêsu phục sinh, khi hiện ra với Nhóm Mười Một, sau khi ban Bình An cho các ông đã nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thở hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).
Có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội an tâm lên đường, hăng say rao giảng, kiên gan làm chứng. Có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn tràn đầy sức sống, tình yêu, bình an, và hy vọng trên đường đến với muôn dân như ý muốn của Đức Giêsu. Và với ơn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sẽ trung thành và hoàn thành sứ vụ được trao phó.
Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đốt nóng tâm hồn nguội lạnh của chúng con, như đã cho “lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” trong ngày lễ Hiện Xuống. Xin hồi sinh và thánh hoá chúng con để chúng con được trở nên nghiã tử của Thiên Chúa, để cùng với tất cả những người được Chúa kêu gọi là Giáo Hội, chúng con phấn khởi lên đường loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương nhân loại” dưới sự hướng dẫn và ơn trợ giúp của Thánh Thần Tình Yêu.
Trầm Thiên Thu
Thánh Thần Hiện Xuống Canh Tân Thế Giới
Thần Khí Trao Ban Đổi Mới Tâm Hồn
Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ nên con người biến đổi hoàn toàn, không chỉ khác thường mà rất lạ lùng, vì họ thông minh đột xuất. Thật vậy, khi thấy một số người “nói tiếng lạ,” người ta bàn tán: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13) Có nhiều dạng say, nhưng khi nói say thì người ta thường nghĩ tới dạng say men rượu hoặc bia. Say là trạng thái “không bình thường” ở một con người, khiến người ta suy yếu. Tinh thần và thể lý khác nhau nhưng vẫn liên quan với nhau.
Say là một dạng điên nhẹ, say rượu bia là một dạng điên khùng, say tình là si tình – và chắc chắn không ai si tình bằng Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu chết cho những người tội lỗi và ghét Ngài. Văn hào William Shakespeare ví von: “Một chút ái tình cũng như một chút rượu mạnh, cái gì quá cũng làm người ta mắc bệnh.” Si tình thì mới hóa tương tư – loại bệnh không ai trị được, chỉ có “đối tác” mà thôi.
Lợi và hại là hai thứ trái ngược, và thường thì “được nọ, mất kia.” Samuel Johnson xác định: “Một trong những bất lợi của rượu là nó khiến người ta nhầm lẫn ngôn từ với tư duy.” Ngày Lễ Ngũ Tuần, những người “nói tiếng lạ” mà không bất lợi, hoàn toàn hữu ích: Nói về Chúa và nói với Chúa. Họ “say” thật, say tới bến chứ chẳng ngà ngà hoặc là đà, thế nhưng chắc chắn không gì tuyệt vời hơn dạng “say Chúa” như vậy!
Chính Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ trước khi vì “say tình” mà chấp nhận đau khổ và cái chết: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14:16-17a) Chúa hứa thì chắc chắn Chúa ban, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!” Và tín nhân sẽ tràn đầy hạnh phúc khi “say” Thần Khí.
Là tín nhân Kitô giáo – cách riêng là tín nhân Công giáo, ai cũng được biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua hình chim bồ câu, lửa, nước, và gió. Riêng về gió rất kỳ lạ, có mà không ai thấy, chỉ “thấy” gió qua vật khác – cây, mây, vải,… Chúng ta có thể cảm nhận mà không thể đụng chạm.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống. Ngài quan trọng đến nỗi mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.” (Mc 3:29; Lc 12:10) Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “tội cố chấp.” Không chịu nhận mình sai mà sám hối thì ai giúp được gì?
Như chúng ta đã biết rõ, khi đề cập Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. (x. 1 Cr 3:16) Chúa Giêsu đã về trời để Chúa Thánh Thần đến ở với chúng ta cho đến tận thế, và Ngài không ngừng hoạt động.
Mặc dù Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, thế nhưng chúng ta lại thường xuyên quên lãng Ngài. Như lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Ý Chúa, bắt đầu các giờ kinh đều cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba.
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, đúng như lời Đức Kitô đã hứa trước khi về trời, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2:1-4) Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng – người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, không ai bất tài vô dụng như người ta quan niệm. Tài năng riêng của mỗi người chính là ơn của Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để giữ riêng cho mình rồi chảnh, ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa. Của Chúa thì phải trả lại Ngài, đó là công bằng mà thôi.
Hồi đó ở Giêrusalem có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ,” nhưng ai cũng hiểu. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Mèn ơi, vô cùng lạ lùng, ngoài sức tư tưởng của phàm nhân chúng ta.
Ngay lúc đó của ngày hôm đó, các tông đồ “nói tiếng lạ” không phải để lòe bịp, khoe khoang hoặc ý đồ gì khác, mà chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11) Tận mắt chứng kiến và nghe rõ ràng như vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo rằng các tông đồ “say” thật rồi. (Cv 2:13)
Tương tự, ngày nay khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc, vì “cái tôi” của con người vừa to vừa lớn, choán hết chỗ của những thứ khác, cụ thể là nó “che” tầm nhìn của mình nên chỉ thấy chính mình mà thôi. Thật đáng quan ngại!
Với ít nhiều kinh nghiệm để nhận biết rằng Ơn Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, thế nhưng khi cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta cứ tưởng Chúa không ban, thật ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn so với điều chúng ta muốn, bởi vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự.” (1 Ga 3:20) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người.” (1 Cr 1:24-25) Chắc chắn rằng “tất cả đều là hồng ân,” thế nên chúng ta phải biết tạ ơn, chân thành tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1) Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Thật là khôn ngoan nếu biết “Fiat voluntas Dei – Xin vâng Ý Chúa” theo tâm nguyện của Lm Leo Dehon – thời Công Đồng Vatican I, vị sáng lập Dòng Hiến Sĩ Thánh Tâm, tức là Dòng Linh Mục Thánh Tâm (Oblates of Sacred Heart, Priests of Sacred Heart, tức là SCJ – Prêtres du Sacré Cœur de Jésus.) Đặc sủng của dòng này là các linh mục như nạn nhân của Chúa và sống tinh thần đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Vịnh gia minh định: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.” (Tv 104:24) Không có Ngài, chúng ta chẳng làm được trò trống gì, dù là việc nhỏ nhoi, mà thậm chí là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ,” nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan.” (Tv 104:29-31)
Là những người Công giáo, ai trong chúng ta cũng mong được nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa.” (Tv 104:34) Chỉ có vậy mới an tâm và thẳng tiến về hướng Trời cao – Quê Hương Vĩnh Hằng.
Ngày xưa, các tông đồ là những người nhát đảm, sợ sệt, đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin,” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28) nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất. Thật vậy, một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và nhiệt thành rao truyền Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh-và-phục-sinh sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều vị thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy rõ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài. Cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba cũng biến đổi mọi người – đặc biệt là biến đổi những người vô thần để họ sớm trở về với một Chúa duy nhất.
Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô chia sẻ: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 2:3-7) Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,… Thật tuyệt vời!
Và rồi Thánh Phaolô căn dặn: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí.” (1 Cr 2:12-13)
Chắc chắn đúng như vậy và tuyệt đối như thế, bởi vì Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chúng ta cùng nhau hiệp ý cầu xin với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…” Và Ngài đã đến, đang đến và sẽ đến, để không ai phải mồ côi hoặc cô độc.
Quả thật, Ca Tiếp Liên xác định: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội.” Vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.”
Thực sự được như thế thì vô cùng diễm phúc, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu, mà được Thiên Chúa ân cần săn sóc. Thảo nào ma quỷ ghen tức với chúng ta nên chúng dàn quân cám dỗ mọi nơi, mọi lúc. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền – nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Nguồn Mạch Thương Xót nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. (Ga 14:3) Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc nữa. Deo gratias!
Chính Chúa Giêsu cho biết rằng Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta, (Ga 14:2) vì ích lợi của chúng ta, (Ga 16:7) nhưng vì quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài sợ chúng ta mồ côi, (Ga 14:18) thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta, (Ga 14:16) và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày. Và lúc nào cũng là Lễ Ngũ Tuần đối với tín nhân chúng ta nếu biết mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần, để cho Ngài biến đổi.
Thánh Gioan cho biết: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19) Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ôi, không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Ngài tiên báo. Cứ tưởng Thầy chết là “chấm hết,” nào ngờ Thầy vẫn “nguyên si.” Thật là sung sướng quá chừng luôn!
Chắc hẳn lúc đó các ông sướng rơn nên không biết nói gì. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng thật, nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác. Đó là công bình và hiệp nhất.
Chúa Giêsu vừa dứt lời thì thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:22-23) Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu nên Ngài dạy phải sống bao dung chứ đừng “bung dao,” phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình.” (Mt 5:44) Như thế mới là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha.” (Mt 5:45) Nếu không, chúng ta chẳng đáng công chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo. (Mt 5:46-48)
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Ngài ngự đến. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được. (Ga 15:5) Chúng ta chỉ vô dụng nếu không có Chúa Thánh Thần.
Mọi tín nhân đều là những người được Chúa Giêsu sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16), tức là cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô vừa cảnh báo vừa căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Nhìn vào mặt trời rất chói mắt, những ai theo Đức Kitô đều bị ma quỷ tìm cách phá – rõ ràng và cụ thể là luôn có bách hại Kitô giáo, càng ngày càng tinh vi hơn.
Thật thú vị với các biểu tượng về Chúa Thánh Thần: Bồ câu hiền lành và thân thiện với mọi người, tượng trưng hòa bình (bình an, an bình); Lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương); Nước có tính “hàn” (lạnh, âm), âm dương hòa quyện Đất Trời; Gió làm hạ nhiệt, gió từ quạt máy không thể so với làn gió nhẹ từ thiên nhiên. Lửa, Gió và Nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể “cắt đứt” chúng. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạ ơn Ngài đã cho chúng con được làm người và làm con cái của Ngài. Xin ban Thần Khí để chúng con được sống dồi dào và đủ sức hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó chúng con có thể can đảm làm nhân chứng nhân sống động và hiệu quả. Xin cho chúng con được say Tình Ngài, trở nên khí cụ bình an của Ngài, xin Lửa Thánh Thần “thiêu đốt” và “uốn nắn” chúng con nên mới mỗi ngày một hơn, đồng thời luôn bảo vệ chân lý của Ngài.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, tạ ơn Ngài đã thương Việt Nam cách riêng trong cơn đại dịch Corona, không để chúng con chịu thiệt thòi như những quốc gia khác. Xin Chúa tiêu diệt virus ở những nơi khác, nhất là những nơi tâm dịch. Xin Chúa thêm sức cho mọi người, và xin cho những người thiệt mạng vì đại dịch được về hưởng Thánh Nhan Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
Cách đây 50 ngày, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, và Chúa Nhật tuần trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và cũng là thánh lễ kết thúc Mùa Phục Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, cộng đoàn chúng ta suy ngắm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn cứu độ, và sự hiện diện hoạt động của Ngài nơi các Tông đồ và trong Giáo hội để chúng ta biết sống niềm tin theo sự hướng dẫn của Ngài.
- Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ
Chúng ta không thể tìm trong Cựu ước Mạc khải trọn vẹn về Chúa Thánh Thần như trong Tân ước, nhưng chúng ta có thể tìm trong đó rất nhiều tư tưởng phong phú và nhiều màu sắc về thực tại được gọi là Thánh Thần Thiên Chúa.
Trước hết, trong sách Sáng thế, câu đầu tiên ghi: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (St 1,2)
Như vậy, sự hiện diện của “Thần Khí Thiên Chúa” bay là là trên mặt nước là một cách diễn tả quyền năng của Thiên Chúa biến đổi hư vô, tối tăm và sự chết thành sự hữu, ánh sáng và sự sống. Và qua Lời Thiên Chúa phán mọi sự được tạo dựng: Ánh sáng, trời đất, tinh tú, cỏ cây, súc vật…
Còn khi tạo dựng sự sống con người-biến xác thể bùn đất thành thân thể sinh động-Thiên Chúa trao ban hơi thở, Thần Khí của Ngài cho con người để con người có sự sống: “Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người hà hơi vào mũi nó và người đã thành mạng sống” (x.St 2,7)
Như thế “thổi hơi” gợi lại công trình sáng thế, đặc biệt với con người. Và qua lời tiên báo về việc tái tạo Israel của ngôn sứ Ezechiel (x.Ed 37,9), ngôn sứ cũng nói về việc Thiên Chúa trao ban Thần khí mới, quả tim mới cho con người. Như thế, Thần Khí Thiên Chúa đã thực hiện việc tạo dựng mới.
Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí, hơi thở của Thiên Chúa luôn hiện diện từ khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh.
Mở đầu sứ vụ, Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa Thánh hiến và sai đi loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trên bước đường truyền giáo, Ngài đã rao giảng về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, luôn rộng lượng thứ tha cho người tội lỗi ăn năn hối cải để được ơn tha tội.
Trong ngày Phục sinh, Chúa Kitô sống lại hiện ra với các Tông đồ, Thánh Gioan nhấn mạnh: “Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thần Khí nơi Chúa Kitô Phục sinh làm cho các Tông đồ nên những con người mới: từ sợ hãi nên vui mừng hân hoan. Thần Khí đã tác động và biến đổi các Tông đồ kể từ lễ Ngũ Tuần sau Phục sinh, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, dù bị tù đày để loan báo Tin Mừng (x.Cv 2,28)
- Chúa Thánh Thần, sức mạnh các hoạt động Tông đồ:
Biến cố Ngũ tuần cũng gọi là lễ Hiện Xuống là bước khởi đầu cho những hoạt động kế tiếp mà Thánh Thần thực hiện trên toàn thế giới và trong cuộc sống con người.
Sách Công vụ Tông đồ mô tả sự kiên này một cách thi vị và theo trình tự thời gian: 40 ngày sau khi sống lại, 10 ngày sau khi lên trời: “Chúa Thánh Thần ngự đến trong khung cảnh tiếng động, gió mạnh và lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người và ai nấy được đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,1-4).
Còn bài Tin mừng thánh lễ hôm nay (Ga 20,19-22), Thánh Gioan tường thuật lại Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa các Tông đồ và nói rằng: “Bình an cho anh em. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em… Hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Như thế trước lúc về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rao giảng sự thống hối và làm phép rửa cho muôn dân được tha tội và được ơn cứu độ.
Vì thế, sứ vụ chính yếu của Người Tông đồ là rao giảng sự thống hối và cầu bình an cho mọi người. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã quả quyết: “mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng đã giảng hoà ta lại với chính mình Người nhờ Đức Kitô và đã ban cho chúng tôi được giúp việc giảng hòa” (2Cr 5,18). Nhưng chỉ trong sức mạnh của Thánh Thần, người Tông đồ mới đảm nhận được sứ vụ cao cả ấy. Chính Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được những hoa trái phát sinh khi có Thánh Thần trong mình, Ngài nói: “Hoa trái của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”.
Ngày xưa, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến, Ngài mở ra cho các môn đệ một chân trời mới của cuộc sống mới. Các môn đệ đã mạnh dạn đi vào thế giới, mang tin vui đến cho mọi người, dù hoàn cảnh có thuận buồm xuôi gió hay gặp những trắc trở gian nan. Ngày nay, người Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần, để có thể đi ra khỏi cánh cửa khép kín vì sợ hãi, mà mở rộng cõi lòng đón nhận và đến với tha nhân với vòng tay nối kết mang nguồn vui ơn cứu độ của Chúa đến cho con người. Do đó, lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà lễ Hiện xuống vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội, để canh tân thế giới ngày nay.
- Vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu:
Ngày nay trước viễn cảnh một thế giới ngập tràn bạo lực và khủng bố, chỉ dựa vào những giải pháp trần thế nhân loại không thể đẩy lùi được bao lực và khủng bố, bởi vì “oán không bao giờ diệt được oán”. Vậy chỉ có tình thương tha thứ “dĩ hòa vi quý” mới là giải pháp tối ưu giải quyết tận căn của chủ nghĩa bạo lực và khủng bố.
Do đó, điều quan trong trong công việc: “Tông đồ giáo dân” người Kitô hữu phải trở nên “khí cụ bình an của Chúa” (Mt 10,12; Rm 12,18) phải cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở trong mình và biết chia sẻ tình yêu đó với mọi người xung quanh (1Tx 2,8). Để thực thi được sứ mạng đó, Giáo hội phải truyền giáo, nhất là: “Giáo hội tại Châu Á phải là một Giáo hội truyền giáo. Theo ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay rất ít người Châu Á biết Chúa và tin theo Chúa”. Quả thật Châu Á, trong đó có Việt Nam, có số dân đông nhất năm châu, mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi thao thức của Người Kitô hữu trong Giáo hội.
Vì thế, hơn bao giờ hết, người tín hữu cần ý thức vai trò quan trọng thiết yếu của Chúa Thánh Thần, vì Ngài chính là căn nguyên sự sống và hoạt động của Giáo hội. Không có Thánh Thần thì cũng chẳng có điều chi thành tựu. Ngài đến để thông ban sự sống, để thánh hóa, để canh tân, để khai mở một cộng đoàn gia đình nhân loại mới trong Đức Kitô. Là Thần Chân Lý, Ngài đến để soi sáng cho mọi người biết điều hay lẽ phải, thúc giục người tội lỗi trở về nẻo chính đường ngay, hướng dẫn và đổi mới tâm tư nên người thánh thiện, biến đổi thế giới nên công bình bác ái.
Vậy cộng đoàn phụng vụ hãy mở rộng cõi lòng để đón Chúa Thánh Thần. Xin Người ban lửa thiêng để tấm lòng được ấm áp và lộ trình cuộc đời được soi sáng, tránh xa u mê lầm lạc, luôn biết đi theo và đi đúng con đường Ngài chỉ dẫn.
Hãy canh tân và đổi mới tâm hồn ngõ hầu người tín hữu trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hãy làm điều gì cho Chúa, cho Hội Thánh và có ích cho anh chị em mình. Cụ thể như tận tình yêu thương, kính trọng phẩm giá của những người bất hạnh, nghèo khổ…
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” lệnh truyền đó của Chúa Giêsu hôm nay cũng được chuyển đạt đến người Kitô hữu chúng ta, để chúng ta lên đường với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhiệt tâm làm chứng cho sự thật, cho Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa trong thời đại hôm nay như các Tông đồ ngày xưa.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Muốn tìm hiểu một nhà văn, người ta cần đọc các tác phẩm của nhà văn đó; muốn biết rõ tài nghệ một kiến trúc sư, người ta cần nhìn xem công trình xây dựng của ông ta. Tương tự như thế, muốn hiểu thêm về Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn xem kiệt tác của Ngài là thánh Phao-lô.
Phao-lô tàn phá Hội Thánh
Ban đầu, Phao-lô là một thanh niên nhiệt thành trong đạo Do Thái. Anh có ác cảm với Chúa Giê-su và môn đệ của Ngài. Thế là anh tìm mọi cách bắt bớ những người theo Chúa Giê-su và rắp tâm tiêu diệt Hội thánh non trẻ của Ngài bằng mọi giá (Gal 1,13).
“Anh đến gặp các thượng tế, xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy người nào theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem” để trừng trị (Cv 9,1-2).
Phao-lô xây dựng Hội Thánh
Thế rồi, sau biến cố ngã ngựa trên đường vào thành Đa-mát để bắt bớ các Ki-tô hữu, Phao-lô đột nhiên chuyển hướng 180 độ và đổi đời cách lạ lùng. Từ một người “hằm hằm đe dọa giết các môn đệ Chúa[1]”, Phao-lô trở nên người hăng say, nhiệt thành, dốc hết tâm lực xây dựng Hội thánh Chúa bất chấp gian khổ, đói khát, ngục tù xiềng xích và cái chết. Ngài viết về đời tông đồ của mình như sau:
Trong công cuộc loan báo Tin mừng, tôi đã vượt lên những người khác, “hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn và bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Ngoài ra, nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2C 11, 23- 29).
Và khi từ giã các vị kỳ mục trong giáo đoàn Ê-phê-sô để lên Giê-ru-sa-lem, thánh Phao-lô nói với các ông rằng: “Giờ đây, do Thánh thần thúc đẩy, tôi đi Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó… Khi tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy cho hết chặng đường, chu toàn nhiệm vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin mừng về ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20, 22-24).
Như thế, thánh Phao-lô vui lòng chịu đựng tất cả mọi gian lao khốn khó và sẵn sàng chịu chết, miễn sao hoàn thành sứ mạng cao quý mà Chúa Giê-su đã giao phó cho ngài.
Đến đây, một câu hỏi lớn chợt đến với chúng ta: Bởi đâu một thanh niên trước đây căm ghét đạo thánh Chúa, bắt bớ các tín hữu, rắp tâm tiêu diệt Đạo Chúa cho bằng được… bỗng dưng lại trở thành một tông đồ hăng say, nhiệt thành, sẵn sàng hy sinh mạng sống và dốc hết tâm lực để xây dựng Hội thánh mà trước đây anh quyết tâm đạp đổ?
Thánh Phao-lô cho ta câu trả lời chính xác: Nhờ Chúa Thánh Thần.
Chính Chúa Thánh Thần soi sáng dạy dỗ cho Phao-lô am hiểu tường tận giáo lý Chúa Giê-su, đã tuyển chọn thánh Phao-lô và Barnaba làm tông đồ cho dân ngoại, đã bắt buộc Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem chịu nhiều khốn khổ để làm chứng cho Chúa Giê-su[2], đã ban sức mạnh và lòng nhiệt thành cho Phao-lô để sống chết vì Chúa Giê-su.
Như thế, ta có thể quả quyết rằng: Thánh Phao-lô là “kiệt tác” của Chúa Thánh Thần.
Nhìn vào “tác phẩm” tuyệt vời này, ta biết Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mạnh mẽ trong Giáo hội, đã đào tạo một tên đồ tể giết hại tín hữu Chúa trở nên một tông đồ nhiệt thành, dốc hết tài năng, trí tuệ và tâm huyết của mình để phụng sự Hội thánh Chúa Ki-tô.
Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn tác động nhiều cách khác nhau để giúp cho nhận loại nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa đã đào tạo hung thần Phao-lô, người bắt đạo năm xưa, trở nên vị tông đồ số một, thì xin Chúa cũng đoái nhìn đến chúng con và đào tạo chúng con nên những tông đồ nhiệt thành trong xã hội hôm nay, để chúng con nối gót thánh Phao-lô, không ngại gian nguy khó nhọc, kiên tâm bền chí giới thiệu Chúa cho bao người chung quanh. Amen.
Jos. Hồng Ân
Chúa Giêsu về trời thực hiện lời Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần (x. Ga 14, 16) để củng cố niềm tin của các môn đệ và tăng cường sức mạnh giúp các ông can đảm, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và đi ra rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Chúa Thánh Thần hiện xuống tuôn đổ muôn ơn của Ngài trên các môn đệ. Chúa Thánh Thần nhắc lại và giúp các môn đệ hiểu rõ hơn những điều Chúa Giêsu đã dạy khi còn tại thế, nhất là về thân thế sự nghiệp của Chúa Giêsu, về cái chết ô nhục trên thập giá và sống lại vinh quang của Người: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26).
Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc biến đổi kỳ diệu: bộ mặt trái đất được canh tân; chỗ trật đường lạc lối được chỉnh đốn lại; điều cứng cỏi được uốn nắn; chỗ lạnh lùng được sưởi ấm; chỗ khô khan được tưới gội; nơi thương tích được chữa cho lành, nơi sầu khổ được ủi an… Chúa Thánh Thần hiện xuống đem lại cho các môn đệ nguồn sống mới, niềm vui mới, biến đổi các ông từ những con người yếu đuối, hèn nhát, không dám công khai đi lại, không dám họp nhau cầu nguyện, trở thành những con người can trường rao giảng sứ điệp của Tin mừng. Khi chưa nhận được Chúa Thánh Thần, các ông ẩn trốn ở trong nhà với cửa đóng then cài, vì sợ người Do-thái: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái” (Ga 20, 19). Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ông đã trở thành những con người mạnh mẽ trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, nồng nàn trong đức mến. Các ông đã cam đảm, mở cửa, công khai đi lại, hăng hái rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại hiển vinh, bất chấp mọi cấm cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa. Các ông còn dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần biến đổi các môn đệ từ những con người quê mùa, ít học, trở thành những con người thông thái, nói những điều chưa hề được nghe nói bao giờ: nói được các thứ tiếng mới lạ, nói tiên tri… làm được những việc lạ lùng, mà sức con người không thể làm được: trừ quỷ, chữa bệnh… “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 4). Người nghe ai cũng ngạc nhiên “Họ sửng sốt, thán phục và nói: những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?” (Cv 2, 7-8).
Khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giêsu chúc bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 19, 21). Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần còn có mục đích quan trọng là để làm công việc của Thiên Chúa. Sách Công Vụ Tông Ðồ kể lại, ngay sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ lập tức làm việc cho Thiên Chúa, rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Thánh Thần được ban xuống trên những ai xứng đáng lãnh nhận ơn của Ngài với năng lực kèm theo, không phải để phục vụ cho lợi ích của riêng mình hay phục vụ vì lợi ích của một nhóm người, hoặc một đảng phái nào đó…, mà phục vụ vì lợi ích chung của nhân loại, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt chủng tộc: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1Cr 12, 7). Vì thế, những ai lãnh nhận được ơn của Thánh Thần phải dùng ơn ấy để phục vụ mọi người, nhất là để loan báo Tin Mừng, giúp cho con người được thăng tiến về đời sống vật chất cũng như tinh thần, giúp cho phẩm giá của mọi người được tôn trọng, nhất là thăng tiến về đời sống tâm linh, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để canh tân Giáo Hội, xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
Chúa Thánh Thần ban ơn để biến đổi và thánh hóa chúng ta từ những con người yếu đuối, hèn kém, trở nên những con người mạnh mẽ, can đảm, để chúng ta làm việc cho Nước Chúa, nói về Chúa cho muôn dân, làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Chúng ta phải trung thành với ơn Chúa, phải dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa, và mưu ích cho đồng loại. Như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu” (Gl 2, 21). Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, hãy sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô đã khuyên: “Anh em hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí” (Gl 5, 16-17).
Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đổi mới chúng ta, để ta nhận được hoa trái của Thần Khí là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23). Với những ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ trở thành những “chiến sĩ Phúc Âm”, ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân nước, can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt thiên hạ, thà chết chẳng thà bỏ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa của ma quỷ; của thế gian; của kẻ vô thần; của tà thần… Chúng ta không chỉ tuyên xưng đức tin trên môi miệng mà còn phải tuyên xưng bằng việc làm cụ thể. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.
CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA-LỄ HIỆN XUỐNG
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau việc Chúa Con đến trên trần gian mà chúng ta tưởng niệm từ mầu nhiệm Nhập Thể đến Thăng Thiên, Phụng Vụ hôm nay cử hành Chúa Thánh Thần, Đấng tỏ mình ra vào lễ Ngũ Tuần, làm Giáo Hội tăng trưởng và Ơn Cứu Độ được sinh hoa kết trái.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giêsu, khi họ cùng nhau tề tựu trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này rất gần với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng những đặc sủng khác nhau làm chứng tác động của Chúa Thánh Thần. Những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy đón nhận những ân ban Thánh Thần. Vì chỉ có một Thánh Thần để hình thành nên một thân thể.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật việc Đức Giê-su trao ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay khi Ngài sống lại. Vào buổi chiều Phục Sinh, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ của Ngài, thổi hơi trên họ và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Chắc hẳn những ân ban Thánh Thần chỉ bày tỏ sau nầy. Tuy nhiên, thánh Gioan nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên của cuộc Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11):
Sau khi đã chứng kiến Chúa Giê-su về trời, các Tông Đồ quay trở về Giê-ru-sa-lem tuân theo lời dặn của Đức Giê-su trước khi Ngài chia tay với các ông: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi họ tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Có lẽ là phòng Tiệc Ly, nơi Đức Giê-su đã đồng bàn lần cuối cùng với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể: đó cũng là căn phòng cửa đóng then cài mà Đức Giê-su đã hiện ra vào buổi chiều Phục Sinh, đó cũng là căn phòng mà Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông vào ngày lễ Ngũ Tuần.
- Mọi người đang tề tựu một nơi:
Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu” như “buổi họp mặt của một trăm hai mươi người” vài ngày trước đây để chọn ông Mát-thi-a làm Tông Đồ thay thế ông Giu-đa (Cv 1:15). Đúng hơn là một nhóm người hạn định hơn được thánh Lu-ca mô tả ở 1: 13-14: các Tông Đồ, vài người phụ nữ, Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su và anh em của Đức Giê-su.
Họ tề tựu một nơi, trầm tư và cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên. Để tỏ mình ra, Chúa Thánh Thần chọn ngày Đại Lễ Do thái được gọi là “Lễ Ngũ Tuần”, ngày lễ dân Do thái tưởng niệm biến cố Thiên Chúa ký kết Giao Ước với dân Ngài trên núi Xi-nai trong tiếng sấm chớp và dưới dấu chỉ của lửa. Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được bày tỏ kín đáo hơn, nhưng tương tự : “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.
- Lễ Ngũ Tuần:
Lễ Ngũ Tuần được xác định vào ngày thứ năm mươi sau bảy tuần lễ Vượt Qua, bởi vì bảy tuần (7 x 7) là dấu chỉ của sự viên mãn, vì thế lễ nầy còn được gọi là “lễ Các Tuần”, ngày cuối cùng là ngày thứ năm mươi, ngày cử hành Đại Lễ. Chữ “tuần” được kể ra ở đây không là một tuần lễ gồm bảy ngày, nhưng là một “tuần trăng”. Người Do thái theo âm lịch, vì thế mỗi tuần trăng gồm mười ngày: thượng tuần, trung tuần và hạ tuần (5 x 10 = 50).
Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc đã không tưởng niệm Giao Ước Xi-nai, nhưng là lễ Mùa, lễ kết thúc thời kỳ Vượt Qua được khai mạc bởi việc dâng tiến bó lúa đầu tiên (Đnl 16: 9-10). Tuy nhiên, các lễ hội của Ít-ra-en đều đã trải qua một tiến trình tinh thần hóa: từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử Thánh, bởi vì Lịch Sử đối với dân Chúa chọn cốt thiết là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua trở thành lễ tưởng niệm cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Lều (lễ thu hoạch trái cây) ghi nhớ cuộc hành trình trong hoang địa. Sau cùng, lễ Ngũ Tuần, dù tương đối muộn thời, được nối kết với những biến cố Xuất Hành. Khi Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Ngũ Tuần cử hành sinh nhật của cuộc giải thoát nầy. Vào thời kỳ tiếp cận với kỷ nguyên Kitô giáo, lễ Ngũ Tuần còn hơn ngày lễ tưởng niệm, nó là dấu chỉ hằng năm làm mới lại giao ước. Vào ngày lễ này, dân Chúa lập lại lời thề hứa trung thành với Đức Chúa.
- Xi-nai và Tiệc Ly:
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật đã được cử hành đặc biệt long trọng, mà tác giả Kinh Thánh mô tả theo lối hành văn gần với ngoa dụ. Những biểu tượng được mượn phần lớn trong các tôn giáo như giông tố kèm theo những cuộc thần hiển. Trong Do Thái giáo, có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối tất cả mọi hình ảnh về Ngài, chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây rực sáng) và gió (cuồng phong hay cơn gió thoảng) gần với hơi thở, đồng nghĩa với “thần khí”. Đây là những hình ảnh phi vật chất nhất diễn tả vừa tính siêu việt của Thiên Chúa vừa sự gần gũi thân cận của Ngài. Khác với người Hy-lạp, người Do thái không suy tư cao siêu về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng siêu việt, nhưng cũng là Đấng rất gần gũi. Đây là hai mặt bất khả phân ly của một thực tại về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Cựu Ước.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo những cuộc thần hiển Cựu Ước. Hơn nữa, những hình ảnh truyền thống nầy trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương Khải Huyền. Trận cuồng phong loan báo cuộc tụ họp muôn dân vào ngày Chung Thẩm. Những lưỡi lửa thuộc vào cũng một hình tượng của thời chung cuộc nầy. Thánh Lu-ca nối kết chúng trực tiếp vào ân ban ngôn ngữ mà các Tông Đồ đón nhận. Rõ ràng kỷ nguyên Ki-tô giáo được loan báo bởi cùng những dấu chỉ thời cánh chung.
Cuối cùng truyền thống Kinh Sư suy niệm biến cố Xi-nai đã khai triển những hàm chứa của biến cố nầy. Như là tiếng của ông Mô-sê được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngỏ hầu tất cả mọi dân tộc đều có thể nghe hiểu. Ngoài ra, làm thế nào không gợi ra lời nguyện ước của ông Mô-sê : “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11: 29).
Như vậy, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tân Ước đáp trả cho một sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai Tông Đồ có mặt ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Đức Ki-tô. Nhưng những khác biệt thì sâu xa.
- Phép rửa trong Thánh Thần:
“Và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo trước: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Tất cả các Tông Đồ đã lãnh nhận phép rửa không trong nước nhưng “trong Thánh Thần và lửa”. Giáo Hội khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo.
Những biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật trong khi những biến cố Tiệc Ly khai mạc kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất làm đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, mọi người đều được mời gọi dự phần vào cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ân ban Thánh Thần đầu tiên là ân ban ngôn ngữ, ân ban cho phép các Tông Đồ ngỏ lời với đám đông thính giả dù sinh trưởng ở đâu cũng đều nghe các Tông Đồ dùng tiếng nói của họ mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa. Khi kể ra một danh sách dài về nguồn gốc khác nhau của họ, thánh Lu-ca nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), theo đó việc ngôn ngữ khác nhau và việc muôn dân bị phân tán ra khắp nơi như một án phạt; giờ đây, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại khả năng hiệp nhất.
Một ân ban Thánh Thần khác, có thể hiểu biết ngay tức khắc, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được tràn đầy Thánh Thần, các Tông Đồ mở tung cửa căn phòng trước đây vẫn còn cửa đóng then cài và cất cao giọng loan báo Tin Mừng trên công trường. Chỉ sau vài tuần xảy ra biến cố bi thảm của đồi Sọ, họ dạn dĩ phục hồi quyền Đấng chịu đóng đinh và làm chứng về sự Phục Sinh của Ngài.
- Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a:
Như chúng ta đã ghi nhận trước đây, diễn ngữ: “mọi người đang tề tựu một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a và vài phụ nữ. Đức Ma-ri-a phải có mặt vào ngày Giáo Hội được khai sinh trong Thánh Thần: thân mẫu của Đức Giê-su đã được nối kết với Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ trong căn phòng Na-da-rét thầm lặng kín đáo, trong đó Thiên Chúa lặng lẽ đến ở giữa nhân loại. Giờ đây là tình mẫu tử khác, tình mẫu tử Thân Thể mầu nhiệm của Con Mẹ mà Đức Ma-ri-a từ nay đảm nhận.
Vài phụ nữ khác, chắc hẳn có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng đón nhận Thánh Thần. Những người phụ nữ nầy sẽ không phải dãi dầu sương gió rong ruổi dặm trường để làm chứng cho Đức Giê-su Phục Sinh. Các bà sẽ không chịu cảnh bắt bớ tù đày như các Tông Đồ, nhưng các bà làm chứng theo cách khác. Các bà hoạt động nhiều đến nổi truyền thống sẽ gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là Tông Đồ tuyệt hảo nhất.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-xô, có lẽ vào mùa xuân 55, gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đây, vào khoảng những năm 50-52.
Đây là một cộng đoàn năng động nhưng cũng gặp phải nhiều bất đồng nội bộ đã khiến cho thánh nhân bận lòng không ít. Đó là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, một cộng đoàn sống giữa thế giới ngoại giáo và trong một thành phố rộng mở cho những ảnh hưởng ngoại lai, nhất là những thần bí Đông Phương vào lúc đó đang sôi động. Những trào lưu nầy không phải không gây nên vài nguy hiểm đối với cách sống của các Ki-tô hữu.
Ngoài ra, và đây là nét chung không riêng gì cho cộng đoàn Cô-rin-tô, trong những năm khởi đầu của mình, những cộng đoàn tín hữu thiếu cơ cấu, chưa được tổ chức chặt chẻ, khuôn mẫu thì yếu và chưa đủ. Ở Cô-rin-tô, ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê không thường xuyên hiện diện. Các tín hữu ngẫu hứng tùy tiện. Ân ban Thánh Thần được bổ sung vào những thiếu thốn ban đầu. Quả thật, ơn đặc sủng thì nhiều, sau đó càng lúc càng hiếm.
Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho những đặc sủng khác nhau, thường gây xôn xao dư luận hay phô trương. Vì thế, thánh nhân đòi hỏi họ trước tiên phải hiểu căn nguyên của những đặc sủng nầy.
- Căn nguyên duy nhất của các đặc sủng: Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phải lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và hoạt động Ki-tô hữu dưới dấu chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đầu là Chúa Thánh Thần:
– Những đặc sủng thì đa dạng, nhưng luôn luôn chỉ có một Thánh Thần.
– Nhiều thừa tác vụ khác nhau trong Giáo Hội, nhưng luôn luôn chỉ có một Đức Chúa (Đức Kitô).
– Nhiều họat động khác nhau, nhưng luôn luôn có một Thiên Chúa (Chúa Cha), Đấng họat động trong mọi người.
- Mục đích duy nhất của các đặc sủng: vì lợi ích chung.
Thánh nhân đưa ra “luật vàng”: tiêu chuẩn của các đặc sủng phải là vì lợi ích của cộng đoàn, nghĩa là nếu không vì ích lợi của cộng đoàn thì những đặc sủng chỉ là giả hiệu. Tiếp theo là sự so sánh nổi tiếng về một thân thể duy nhất với nhiều bộ phận: một Đức Ki-tô, một Giáo Hội, bất chấp nhiều bộ phận khác nhau.
Nguyên tắc của sự duy nhất chính là Thánh Thần, Đấng duy nhất và từ Ngài mọi đặc sủng được ban cho tất cả mọi tín hữu. Sức sống của Chúa Thánh Thần trào dâng trong chúng ta như nguồn nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Phụng Vụ hôm nay đề nghị cho chúng ta Tin Mừng Gioan trong viễn cảnh lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy thường được gọi lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Chúng ta sẽ thấy lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan không mâu thuẫn với lễ Ngũ Tuần được tường thuật trong sách Công Vụ, nhưng bổ túc cho nhau: “Giáo Hội được khai sinh kể từ biến cố Phục Sinh” ngay cả nếu những ân ban Thánh Thần sẽ được bày tỏ sau nầy.
Vài nét đặc trưng của đoạn Tin Mừng hôm nay đáng được nhấn mạnh hay ghi nhớ.
- Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi:
Vào ngày này, cộng đoàn nhỏ bé nầy hình thành nên Giáo Hội của Đức Giê-su. Chính Đức Giê-su Phục Sinh đã ủy thác cho họ sứ mạng tiếp tục sự nghiệp của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, và Ngài thổi hơi trên các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những lời dạy cốt yếu của bản văn Tin Mừng nầy.
- Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su thổi hơi trên họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Đấng làm sinh động con người bằng cách thổi hơi sự sống của chính mình vào con người. Động từ được thánh Gioan sử dụng ở đây chúng ta không gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng đích thật động từ của sách Sáng Thế để chỉ hành động của Đấng Sáng Tạo trong việc tạo dựng con người đầu tiên (St 2: 7).
Đây cũng là động từ mô tả những bộ xương khô được hồi sinh trong một thị kiến nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy nói với thần khí: Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, động từ này cốt yếu đánh dấu “một cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới được khai sinh. Đức Giê-su làm cho các môn đệ của Ngài trở thành nhân tố của nhân loại được tái sinh. Để làm như vậy, Ngài tái tạo họ và tăng cường họ bằng cách thổi Thần Khí của Ngài trên họ, Ngài ban cho họ quyền tha thứ cho anh em của mình mà Ngài đã hứa với họ: máu của Ngài đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
- Biến cố Ngũ Tuần và biến cố Vượt Qua:
Thánh Gioan thường hằng nhắm đến biến cố tuôn đổ Thánh Thần như được nối kết với biến cố Vượt Qua. Thánh nhân đã diễn tả tư tưởng nầy ở nơi lời công bố của Đức Giê-su khi Ngài nói về chính mình là “dòng nước hằng sống”, được chính thánh nhân giải thích : “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần kín đáo và thân tình nầy mà Tin Mừng Gioan giữ lại, chỉ là khúc dạo đầu của lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động Thần Khí sẽ biến đổi ngay tức khắc các môn đệ. Tuy nhiên, khi đặt biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần một cách nào đó bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự duy nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày đại lễ được nối kết rồi trong Do thái giáo. Đến phiên mình, thánh Gioan khẳng định sự bền vững của chúng trong viễn cảnh mới.
Lm. Jos DĐH.
Khi nói tới sức mạnh, khuynh hướng chung vẫn được nhắc tới là sức mạnh đồng tiền, sức mạnh quen biết: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế. Khi sử dụng ngôn ngữ diễn tả sự việc, người ta thường nói bằng: ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân, dù sao thì hiểu, biết, và cùng nhau hành động, đó mới là cùng đích của mỗi người nơi cuộc sống này. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, sẽ không còn phải là phát hiện mới, khi mà xã hội loài người từ lâu đã biết chú ý đến cái đẹp hình thức và nội dung, cái đẹp toàn tiện nơi một người lý tưởng. Món quà học trò mơ ước nơi người thầy của mình là tiếp thu được kiến thức, niềm vui cha mẹ mong đợi ở con cháu là nên người tài đức, và đích đến của mỗi người nơi trần thế phải là hạnh phúc.
Bằng ngôn ngữ của tình yêu, hồng ân được ban cho các môn đệ chẳng phải là sự hiểu biết thông thường, cũng không phải là sức mạnh tiền của, quyền lực, hay sự thông thái toàn diện, hạnh phúc thế trần. Đấng phục sinh ban tặng học trò món quà mà các ông chưa bao giờ nghĩ tới: bình an cho các con. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các môn đệ chiều hôm đó không được Thầy cho quyền lựa chọn quà vật chất hay tinh thần, các ông còn được thôi thúc mở lòng đón nhận hồng ân: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Hãy lãnh nhận hồng ân Thánh Thần, hiện vẫn còn sống động và tự do nơi người tín hữu theo Đức Kitô, vì chưng, sức mạnh của tình yêu, hay ngôn ngữ của hiệp thông, đều khởi đi từ mầu nhiệm cứu độ giữa tình Chúa và tình người trong Đấng phục sinh.
Sống trên đời, khổ đau túng thiếu vật chất, cần được bổ túc giúp đỡ, tài giỏi giầu có, cần khôn ngoan chia sẻ, biết sử dụng số vốn mình đang sở hữu. Niềm tin kitô giáo chỉ có ý nghĩa khi tình hiệp thông liên đới với Đấng là Đầu, là Thân, và mọi phần tử được chuyển thông sức sống, hầu sinh hoa trái thánh thiện. Đấng phục sinh chiến thắng thế gian và sự chết là vì yêu thương, là muốn cứu tất cả nhân loại khỏi trầm luân, do đó, quà tặng hay ơn ban không những cần được linh hoạt, mà người nhận lãnh phải hết sức khôn ngoan, biết sử dụng món quà đặc biệt đó theo ý Đấng ban tặng. Kinh nghiệm cho thấy: sở hữu được tri thức ở đời, ai cũng phải chăm chỉ, nỗ lực học hỏi, có được bình an hạnh phúc nơi tâm hồn, tưởng chừng hết sức đơn giản, đó là bạn biết sử dụng, biết chia sẻ vốn tài nguyên mà mình đang có.
Để trở nên thành toàn cho cuộc sống mình, ai cũng cần có vốn, cần biết đầu tư công sức: khi nghèo ta phải ra ngoài tìm việc, kiếm sống, ít có thời gian ở nhà với gia đình, người thân. Đủ sống, đủ giầu, ta có của ăn của để rồi, ở nhà với gia đình, hạn chế ra ngoài giao du, đó là nghệ thuật sống, đó là khôn ngoan thế gian. Hồng ân mà Đấng phục sinh trao ban cho các tông đồ là gì, quà tặng vô cùng cao quý, học trò Thầy Giêsu và chúng ta hôm nay đã và đang thực hành thế nào ? Món quà Đấng phục sinh thông ban không phải là vật chất, đôi mắt tinh tế và đầu óc thông thái, cũng vô ích, trước hồng ân rất trọng đại. Chỉ những ai là học trò, là môn đệ, mắt đức tin và trí lòng mới đủ cảm nhận: ơn bình an, tình yêu phục vụ, thực sự phát huy niềm vui sự sống. Đúng như lời Thầy Giêsu đã từng cầu nguyện cho các môn đệ: “không ai biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho”. (Mt 11, 27)
Người ta có chia sẻ câu chuyện về “quà tặng cuộc sống” như sau: người cha già trước khi từ giã cuộc đời, ông gọi đứa con trai duy nhất đến và nói đôi lời trần tình với con. Ta xin lỗi con vì không để được cơ nghiệp vật chất nào cả, nhưng ta tự hào vì con trai ta đã khôn lớn như hôm nay. Hy vọng rằng sau khi ta về với cội nguồn, con trai ta sẽ phát hiện được hồng ân cao trọng nơi tổ tiên dòng tộc nhà mình. Người con trai lặng thinh, đầy ắp kỷ niệm trước cảnh bắt buộc phải chia tay lúc này. Phận làm con, có bao giờ ta đã suy nghĩ gì về món quà mà hiện tại cha mẹ để lại cho mình không ?
Các môn đệ năm xưa không ai ý kiến, kèo nài, thắc mắc,… các ông thinh lặng “như thể” đã hiểu “tài sản quí”, “quà tặng thiết thực”, Thầy ban tặng: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần,….”. Có phải tình yêu đã thay lời muốn nói, có phải giá trị tinh thần thiết thực hơn cho tương lai phía trước đối với tình cha con, thầy trò ? Quà tặng cuộc sống là lời hay ý đẹp, là kiến thức để hiểu, để biết và để sống ở đời này. Tài sản vật chất tiền của, là nhu cầu nuôi sống thân xác qua ngày tháng năm. Đấng phục sinh đã nói với các môn đệ, và đang nói với ta “nhận lấy hồng ân” nào ? Có phải là “hồng ân Thánh Thần, hồng ân sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa”, sẽ hoạt động trong tương quan yêu thương không ? Amen.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày sinh nhật của Giáo Hội. Phụng vụ Lời Chúa nói nhiều đến Chúa Thánh Thần. Có lẽ trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Đấng thường bị quên lãng, ít được biết đến. Hơn nữa, nói về Chúa Thánh Thần là một điều gì đó rất khó khăn. Bởi lẽ, Người là Đấng thiêng liêng sáng láng vô cùng, một khuôn mặt bí nhiệm và ẩn dấu nhất trong Thiên Chúa. Để giúp chúng ta hiểu điều gì đó về Người, tôi mời gọi anh chị em suy niệm về Chúa Thánh Thần là ai và Người có vai trò gì qua tước hiệu Đấng Bảo Trợ?
1- Đấng Bảo Trợ là ai?
Như chúng ta biết, mạc khải về Chúa Thánh Thần là một mạc khải tiệm tiến.
Trong Cựu Ước, Thánh Thần được đề cập đến rất nhiều lần qua các hình ảnh như hơi thở, gió, nước, lửa…, nhưng chưa được quan niệm như một vị Thiên Chúa, chỉ là một hành động, một sức mạnh thần linh, là nguyên lý, hay sự sống đến từ Thiên Chúa. Bởi vì, Cựu Ước chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất, nghĩa là niềm tin độc thần. Phải đợi đến mạc khải Tân Ước, chúng ta mới biết rõ hơn về Người.
Chúa Giêsu đến mang đến cho chúng ta một sự mới mẻ về mầu nhiệm Thiên Chúa, theo đó, Thiên Chúa không phải là một vị Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa có Ba Ngôi, một cộng đoàn: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hiệp nhất và yêu thương.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về ngôi vị tính và thần tính của Chúa Thánh Thần qua danh hiệu Đấng Bảo Trợ (Paracletus): “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha” (Ga 15, 26).
Ở đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết: Chúa Thánh Thần không còn là một hành động, nhưng là một chủ thể, không phải là một cái gì, nhưng là một ngôi vị, không phải là một thụ tạo, như một số lạc giáo chủ trương, nhưng là Tạo Hóa. Người phát xuất từ Chúa Cha, nên Người ngang hàng với Chúa Cha và Chúa Con. Người là Thiên Chúa Ngôi Ba. Vì thế, chúng ta phải phụng thờ và tôn vinh Người như là Thiên Chúa cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Đó là niềm tin mà Giáo Hội tuyên xưng qua hàng thế kỷ, được Công Đồng Constantinople I (431) định tín: Chúng tôi tin Chúa Thánh Thần là Đức Chúa và là Đấng Ban Sự Sống.
2- Vậy Người có vai trò gì đối với mỗi người chúng ta?
Được sai đến với tư cách là Đấng Bảo Trợ khác, Thánh Thần đóng vai trò thay thế cho Chúa Kitô, để hướng dẫn, bảo vệ và đồng hành với các môn đệ và mỗi người chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những việc cụ thể Người làm: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-13). Quả thật, Chúa Thánh Thần đến không thực hiện một chương trình cứu độ khác, nhưng Người tiếp tục và hoàn tất công trình cứu độ mà Chúa Kitô đã thực hiện. Thánh Thần nhắc lại cho họ những gì Chúa dạy, soi sáng cho họ hiểu lời nói và việc làm của Chúa Kitô. Người hướng dẫn họ đến với Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết tất cả những điều này. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì không ai có thể nói rằng “Đức Giêsu là Chúa” (1 Cr 12, 3).
Bằng chứng rõ ràng về vai trò của Chúa Thánh Thần qua biến cố Hiện Xuống: Trước đó, dầu các môn đệ sống gần gũi bên Chúa Giêsu, diện đối diện với Người, nhưng họ chưa có thể nhận biết Người là ai, vì họ chưa đón nhận sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Sau khi Chúa chết, các môn đệ đều thất vọng, hoang mang và sợ sệt, luôn nhốt mình ở trong phòng kín, nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh, nói được tiếng lạ, chữa lành các bệnh tật và trừ quỷ.
Vì thế, các giáo phụ gọi Chúa Thánh Thần là “sự thông hiểu các mầu nhiệm Thiên Chúa.” Thánh Basiliô Cả có một tóm tắt rất ý nghĩa: “Con đường để hiểu biết Thiên Chúa đi lên từ Ngôi Thánh Thần qua Ngôi Con tới Ngôi Cha. Ngược lại, sự tốt lành, sự thánh thiện và sự cao trọng Thiên Chúa đến từ Chúa Cha, qua Con Một yêu dấu tới Chúa Thánh Thần.”
3- Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Chúa Thánh Thần là quà tặng của Đấng Phục Sinh ban cho Giáo Hội và cho mỗi người chúng ta, như là Đấng Bảo Trợ. Người không phải là Thiên Chúa ở trên, nhưng là Thiên Chúa ở trong chúng ta. Người ngự trong lòng mỗi người chúng ta vì chúng ta là đền thờ của Người. Người hiện diện và đồng hành với mỗi người chúng ta để ban sức sống, soi sáng và hướng dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn là Chúa Kitô. Để được Người hướng dẫn, tôi mời gọi chúng ta thực hành ba việc sau đây:
1) Mỗi ngày chúng ta hãy nhớ đến Người, ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Người, nhất là hãy nhạy bén với hoạt động của Chúa Thánh Thần, và để cho Người hướng dẫn chúng ta qua ước muốn, suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta.
2) Trước khi làm gì, chúng ta hãy cầu nguyện xin Người hướng dẫn và soi sáng cho chúng ta.
3) Mỗi sáng thức dậy, chúng ta hãy nhớ ngay đến Chúa Thánh Thần và thầm nguyện với Người, xin Người là Đấng Bảo Trợ của con trong ngày mới. Amen!
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Sau ngày Chúa Kitô bị giết, kể cả sau khi Người sống lại, các môn đệ của Chúa Kitô rất sợ hãi. Họ trở thành những kẻ bạc nhược, mất hết can đảm, mất hết ý chí vươn lên. Ngay cả khi ở trong nhà, họ vẫn đóng kín cửa. Thánh Gioan nói rõ, “họ đóng kín cửa nhà vì sợ người Dothái” (Ga 20, 20).
Vậy mà ngày lễ Ngũ tuần năm ấy, mọi sự khác hẳn. Đó chính là ngày Chúa Thánh Thần ngự đến trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Từ đây, đánh dấu thời điểm các tông đồ không còn biết sợ, nhưng mở bung cửa nhà, lên tiếng tuyên xưng đức tin Chúa Kitô Phục sinh và thi nhau rao giảng ơn cứu độ của Chúa Kitô ngay lập tức bằng mọi ngôn ngữ, không một chút sợ hãi….
Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Hình lưỡi có ý nhấn mạnh công tác truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô. Bởi khi thực hành công tác truyền giáo, các môn đệ nối tiếp sứ mạng của Chúa Kitô trong sự trợ lực và nâng đỡ lớn lao của Chúa Thánh Thần.
Còn lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Các môn đệ Chúa Kitô sẽ là những người mang trong mình tình yêu của Thiên Chúa, họ hãy nhiệt thành suốt đời truyền bá Tin Mừng tình yêu của Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần là nguồn tác sinh tình yêu và lòng nhiệt thành này nơi các môn đệ của Chúa Kitô, để càng ngày các môn đệ càng hăng hái hơn trong trách vụ loan báo Tin Mừng của mình. Như vậy, hình lưỡi lửa trong ngày lễ Hiện Xuống, chính là hình ảnh của Chúa Thánh Thần gắn liền công tác truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô.
Lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần ngay trong ngày Người ngự đến, lòng các tông đồ được biến đổi nên dũng cảm phi thường. Từ những kẻ chỉ biết sợ, từ đây, các tông đồ quyết tâm sống chết cho Tin Mừng mà mình lãnh nhận. Không chỉ mở bung cửa nhà tiệc ly, họ còn tỏa ra khắp thế giới làm cho niềm tin vào Chúa Phục sinh lan rộng không ngừng.
Chính ngày Chúa Thánh Thần ngự đến là cột mốc đánh dấu thời gian lòng can đảm bùng lên mạnh mẽ nơi Hội Thánh Chúa Kitô.
Lòng can đảm đó cần thiết cho mỗi chúng ta là những Kitô hữu khi nối tiếp sứ mạng các tông đồ. Chúng ta cũng phải lên đường truyền giáo. Cuộc lên đường của chúng ta là đời sống mỗi ngày trong trách nhiệm sống đức tin, sống tình yêu thương, sống ơn hiệp nhất để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa.
Lòng can đảm đó càng cần thiết khi ta quyết giữ lòng mình sốt sắng, mến yêu Chúa, lo tuân giữ luật Chúa giữa một thế giới nhiều cám dỗ, nhiều đau khổ mà nhân loại gây ra cho nhau.
Như các tông đồ xưa, ta sốt sắng cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần, mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần, xin Người ban cho ta lòng can đảm, để ta dấn thân cho Tin Mừng suốt đời ta.
Sách Công vụ Tông đồ từng ghi nhận sự hiện diện của Đức Maria nơi tông đồ đoàn khi họ cầu nguyện tại nhà tiệc ly, sau khi Chúa Kitô về trời.
Chúng ta cũng hãy cậy nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ để làm phát sinh hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình. Cậy nhờ Đức Mẹ, không chỉ vì Đức Mẹ xứng đáng dâng lời cầu nguyện hơn ta, mà còn vì Đức Mẹ cảm nghiệm thâm sâu về Chúa Thánh Thần qua cả một chiều dài của đời sống kết hiệp cùng Chúa Kitô trong suốt cuộc đời của Mẹ. Hơn nữa, Mẹ đã nhận được chính Chúa Thánh Thần là quà tặng của Thiên Chúa trao ban, để từ nơi Mẹ, Chúa Kitô nhập thể làm người.
Với vai trò thật lớn lao của Đức Mẹ như thế, càng khiến chúng ta phó thác cho lời chuyển cầu của Đức Mẹ trong việc hưởng nhờ hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần trong suốt đời ta. Như vậy sự cầu nguyện của ta và công nghiệp của Đức Mẹ sẽ là bí quyết chắc chắn dẫn ta đến cùng Thiên Chúa, hưởng nhờ hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần và ngày càng xứng đáng là Con Thiên Chúa.
THÁNH THẦN – QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Khi tặng cho nhau một món quà, người ta thể hiện sự trân trọng và quan tâm đến người khác. Trước lúc chia ly với các môn đệ, Chúa Giêsu không hứa ban cho các ông một món quà vật chất, mà đó là món quà thiêng liêng. Món quà này là chính Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Trước đó, Người cũng nhiều lần nói tới sứ mạng và vai trò của Chúa Thánh Thần: Đấng Bảo trợ, Thần Chân lý. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các môn đệ hiểu rõ giáo lý mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Nếu Chúa Giêsu, Đấng thành lập Giáo Hội, đã hứa sẽ ở với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế, thì Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành với Giáo Hội mọi nơi mọi thời, hầu làm cho cộng đoàn tín hữu mà Chúa Giêsu đã quy tụ được lớn mạnh phát triển không ngừng.
Lời hứa tặng quà đã được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần, một ngày hành hương quan trọng của người Do Thái và của các sắc dân khác về Giêrusalem. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại sự kiện này (Bài đọc I). Chính các tông đồ cũng ngỡ ngàng khi thấy lưỡi lửa đậu xuống trên đầu mỗi người. Ân ban đầu tiên mà Chúa Thánh Thần ban cho các ông, đó là ơn lợi khẩu và ơn can đảm. Trước đó, các ông là những người nhút nhát sợ sệt, phải đóng kín cửa phòng vì sợ người Do Thái. Từ khi nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã mở tung cánh cửa. Nỗi sợ đã biến tan. Phêrô, một người dân chài ít học, bỗng trở thành nhà giảng thuyết hùng hồn. Lời giảng của ông có tính thuyết phục mạnh mẽ lạ lùng. Ngày đầu tiên đã có ba ngàn người xin theo Đạo. Chúa Thánh Thần đến quy tụ muôn người nên một, để làm thành dân Israen mới. Đây là dân hợp nhất trong tình mến, mặc dù khác biệt đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ. Nếu ngày xưa, tháp Baben là nguyên nhân của ly tán, thì nay, lễ Ngũ tuần là nguyên lý quy tụ. Sách Tông đồ Công vụ kể lại với chúng ta về sự hiệp nhất của cộng đoàn đức tin tiên khởi. Mọi người yêu thương đến nỗi nên một, chuyên tâm nghe Lời Chúa, cầu nguyện và thực thi bác ái.
Tiếp nối ý tưởng quy tụ và hiệp nhất, thánh Phaolô đã so sánh Giáo Hội với một thân thể. Dù gồm nhiều chi thể, nhưng chỉ là một thân thể duy nhất, luôn hiệp nhất với nhau và góp phần làm cho thân thể nên vững mạnh (Bài đọc II). Chính Chúa Thánh Thần là hơi thở làm cho thân thể Giáo Hội sống động. Chúa Thánh Thần cũng là điểm nối kết, giúp cho tình hiệp thông của thân thể Giáo Hội ngày càng chặt chẽ và keo sơn. Như thế, những ai sống trong chia rẽ là đi ngược lại với ơn của Chúa Thánh Thần, thậm chí chống lại tác động của Ngài. Bởi lẽ Ngài là Đấng kết nối và duy trì tình hiệp thông. Chính sự hiệp thông kỳ diệu này làm nên sức mạnh của Giáo Hội và làm cho Giáo Hội tỏa sáng giữa lòng thế giới.
Theo tác giả Tin Mừng Thánh Gioan (Bài Tin Mừng), Chúa Giêsu Phục sinh ban tặng Chúa Thánh Thần ngay vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Người từ cõi chết sống lại. Cùng với quà tặng là Chúa Thánh Thần, Đấng Phục sinh còn ban cho các ông sự bình an và quyền điều hành Giáo Hội, thường được gọi là quyền tháo cởi và ràng buộc. Như thế, ba món quà (Chúa Thánh Thần, ơn bình an và quyền điều hành) đi liền với nhau, tạo cho Giáo Hội sức mạnh và làm cho Giáo Hội luôn vững vàng trường tồn. Hai ngàn năm đã qua, được khích lệ bằng sự bình an của Đấng Phục sinh, Giáo Hội thi hành sứ mạng của mình, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, mà Giáo Hội không giống một thể chế chính trị trần gian. Những thể chế này, có những lúc hùng mạnh vô địch, nhưng sự hùng mạnh đó không được bền lâu, vì cũng đến lúc suy tàn.
Với lễ Hiện xuống, Mùa Phục sinh khép lại. Tuy vậy, Đấng Phục sinh vẫn ở với chúng ta. Cùng với Người, Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu độ con người. Vì vậy, các nhà thần học gọi thời hiện tại là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Chúng ta hãy cộng tác với Ngài, làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu được loan truyền khắp thế giới.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội kỷ niệm ngày mình được sinh ra. Giáo Hội cũng nhắc nhớ mọi tín hữu hãy đón nhận Chúa Thánh Thần là quà tặng của Chúa Giêsu Phục sinh, đồng thời ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày, để luôn biết kêu cầu ơn phù trợ của Ngài. Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho chúng ta những ơn cần thiết trong đời sống. Nhờ Ngài mà chúng ta vững vàng tiến bước trong hành trình nên thánh. Chân thành lắng nghe và thiện chí thực hiện những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được bình an thư thái và niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời.
.
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
- Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
- Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
.
“CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN…”
Gm. Nguyễn Văn Khảm.
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”
.
CHÚA THÁNH THẦN LÀM CHỦ THẾ GIAN
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Trong đợt thường huấn ngày 16/5/2017 của linh mục đoàn Giáo phận Xuân lộc được nghe các cha phụ trách giới trẻ các Giáo Hạt báo cáo về tình hình giới trẻ và các hoạt động dành cho giới trẻ.
Tất cả các báo cáo đều cho rằng giới trẻ xuống cấp về tinh thần, về đạo đức, về dấn thân. . . Và các hoạt động cho giới trẻ đều không được giới trẻ hưởng ứng bao nhiêu!
Ngồi bên tôi có một cha nói nhỏ rằng: như vậy giáo dục đức tin của mình từ nhỏ cho thiếu nhi vất đi hết rồi sao? Chẳng lẽ việc giáo dục của thế hệ trước không mang lại thành quả nào cho thế hệ hôm nay?
Thực ra, ở thời điểm nào cũng có cái ưu và cái khuyết. Thế hệ nào cũng có điểm mạnh và điểm yếu. Cuộc sống vốn dĩ không trọn vẹn. Nhưng con người lại chỉ nhìn thấy bất toàn nơi tha nhân mà không nhìn thấy nơi chính mình. Họ chỉ thấy rác nơi người khác mà không thấy cái đà nơi bản thân. Họ luôn đòi người khác canh tân mà không nghĩ đến việc mình phải canh tân.
Điều quan yếu là hãy nhìn đến sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong chính bối cảnh lịch sử. Chúa Thánh Thần thời nào cũng làm chủ lịch sử. Chúa Thánh Thần vẫn dẫn dắt Giáo hội, dẫn dắt thế giới. Dù con người có phản loạn, chống đối hay phá hủy đường lối Thiên Chúa nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần vẫn chiến thắng thế gian. Ngài vẫn dẫn dắt thế gian đi đến sự viên mãn theo thánh ý Chúa.
Vì vậy, hãy đọc ra được lời mạc khải của Chúa Thánh Thần qua thời đại hôm nay. Đừng lấy thời đại của thế kỷ 20 mà so với thế kỷ 21. Mỗi thời đại con người có những thay đổi, những xu hướng thích nghi mang tính đặc trưng của thời đại.
Cụ thể nơi giới trẻ ngày nay ta thấy họ năng động hơn. Họ hoạt động theo nhóm hiệu quả hơn. Họ dám nghĩ dám làm đôi khi không cần sự dẫn dắt của người lớn kể cả linh mục.
Ở vùng Hố Nai ta vẫn thấy các nhóm trẻ hoạt động trong nghệ thuật như nhóm Tin yêu, nhóm Muối Men cho đời. Về lãnh vực bác ái ta vẫn thấy nhóm Ve chai, nhóm Khát Vọng, nhóm Nụ cười . . .
Đây là những nhóm đều xuất phát từ một số bạn trẻ cùng khao khát xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Họ đã liên đới với nhau để cùng nhau làm cho ý tưởng của mình được thực hiện. Có những nhóm cũng mời gọi được các linh mục đồng hành, linh hướng. Có những nhóm họ vẫn hoạt động tự lập nhưng vẫn mang lại tiếng vang tốt trong lý tưởng dấn thân của họ.
Đây là những nhân tố là muối, là men cho đời. Họ dám sống và làm việc cho ý tưởng tốt đẹp của mình là mang tình yêu Chúa đến thế giới qua những hoạt động xây dựng xã hội tốt đẹp và giầu tình thân ái hơn. Họ dấn thân một cách vô vị lợi và đầy lòng quảng đại. Họ là nhân chứng cho thế gian. Mặc dầu con người ngày nay sống dửng dưng trước anh em thì họ lại dấn thân vì tha nhân. Mặc dầu con người ngày nay sống chỉ tìm kiếm hưởng thụ cho bản thân thì họ lại sống hết mình vì tha nhân. Thế nên, hãy nhìn Chúa Thánh thần vẫn đang hoạt động trong giới trẻ theo nhu cầu của thời đại hôm nay.
Lần giở lại Kinh Thánh ta thấy: trong công trình tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Trong việc khai sinh Hội Thánh cũng nhờ Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ nên một con người mới, có khả năng canh tân thế giới. Chính nhờ Chúa Thánh Thần đã thổi tan những sợ hãi nơi các tông đồ để các ngài dấn thân rao giảng Tin mừng. Nhờ Chúa Thánh Thần đã làm mới suy nghĩ nơi các tông đồ để các ngài dấn thân đem tin mừng của Chúa đến tận cùng thế giới.
Hôm nay, mừng kính Chúa Thánh Thần là dịp nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trong thế giới. Ngài tiếp tục tác động để chương trình của Chúa được thực hiện nơi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy biết mở rộng lòng đón nhận Chúa Thánh Thần. Hãy để Chúa Thánh Thần canh tân đổi mới cuộc đời chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng canh tân bộ mặt trái đất. Hãy cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để đổi mới trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta đều được Chúa Thánh Thần thánh hóa thành con cái Chúa thì cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy ra đi loan báo tin mừng. Ước gì chúng ta cũng trở thành chứng nhân cho thế giới về tình yêu, sự hiệp nhất, bình an mà Chúa Thánh Thần sẽ mang đến cho trần gian. Amen.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Thomas Hermon, một phi công tài giỏi người Mỹ. Anh được sai đi ném bom vùng nhiệt đới nước Brasil, trong trận thế chiến lần thứ II. Máy bay trục trặc, anh nhảy dù ra ngoài thoát nạn. Anh rơi xuống khu rừng rậm đầy gai góc và thú dữ. Anh phải xoay sở hơn một tháng trời mới ra khỏi khu rừng, tìm đường về nhà. Khi được hỏi làm thế nào anh thoát nạn? Anh trả lời:
– Tôi thoát nạn là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Qua bí tích thêm sức tôi đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Tôi xin Ngài hướng dẫn, dìu dắt tôi về nhà bình an.
Như Thomas Harmon, chúng ta cũng đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức. Hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn dìu dắt ta, ban dồi dào ơn cho ta.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc chúng ta nhớ lại biến cố Chúa hiện xuống với các tông đồ trong nhà tiệc ly cách đây gần 2000 năm. Cách đây 10, 20, 30 hay 40 năm, Chúa Thánh Thần cũng hiện xuống với mỗi người qua bí tích Thêm Sức. Việc làm đó của mỗi người không phải đã xong, hay đã xưa rồi, mà còn cần làm sống lại ơn Chúa Thánh Thần mãi trong đời.
Như Harmon, mỗi người chúng ta đang lúng túng trong rừng rậm trần gian, không biết đường nào đem lại ơn cứu thoát. Chúa Thánh Thần là ánh sáng giữa tối tăm, là Đấng an ủi lúc âu sầu, là chốn nghỉ ngơi trong lao nhọc, là cơn gió mát trong nóng bức, là sự sấm áp trong giá lạnh, là sức mạnh cho tâm hồn yếu đuối, là chân lý cho kẻ lầm đường lạc bước.
Dù môi 4người đã lãnh nhận bí tích Thêm Sức rồi, nhung trong thánh lễ hom nay, và trong những cơn gian nan thử thách, hãy cầu khẩn cùng Ngài, xin Ngài ban cho chúng ta những ơn cần thiết.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu : “Thưa ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được gì vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God We Trust) trên tờ đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.
Chúa Thánh Thần là ai?
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng : “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời Thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.
Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa : “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).
Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần
Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là ‘Gió’ hay ‘Hơi thở’, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘L’Esprit Sainte’ trong tiếng Pháp, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách Khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng, qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.
Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của Đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống… Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).
Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.
Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh biểu thị về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.
Kết luận
Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
.
SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG Ý THỨC TRUYỀN GIÁO
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, sự bất hạnh? Bạn và tôi, khi sống trong cuộc đời này, lại không có những lần đức tin bị thử thách?
Chẳng hạn khi ta phải bước đi trong lầm lũi, đi trong thất bại và chán nản: Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc… Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau… Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?
Suy nghĩ về tính bấp bênh của thân phận, ta sẽ nhận ra ơn Chúa Thánh Thần là một mãnh lực lớn biết bao nhiêu giúp ta vượt qua và tin vững vàng.
Nhất là những lúc ta phải sống chứng nhân cho Tin mừng của Chúa Kitô, dẫu là đang trong hạnh phúc hay khi rơi vào nỗi ô nhục, chán chường.
Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng: CHÚA THÁNH THẦN LÀ SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG CHÍNH Ý THỨC TRUYỀN GIÁO NƠI MỖI NGƯỜI.
Ngày xưa, các thánh tông đồ cũng thế. Chúa Thánh thần đã nâng đỡ đức tin các thánh tông đồ nhiều lắm. Người đã từng hiện diện với các ông trong từng bước chân truyền giáo. Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho kết quả của ơn gọi truyền giáo mà các thánh tông đồ nói riêng, các môn đệ Chúa Kitô nói chung, thực hiện trở thành một kết quả lớn lao, không phải chỉ một nơi chốn hay một khoảnh khắc nào, nhưng lan tỏa khắp thế giới, qua mọi thời, mọi thế hệ…
Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin cần được tôi luyện. Các thánh tông đồ đã được tôi luyện như thế: Chúa Giêsu, người mà thánh Phêrô đã từng đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như “Đấng có uy quyền” trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Có ai có thể tưởng tượng nổi một Giêsu mà mình muốn đặt hết hy vọng vào đó như một cứu chúa, một nhà giải phóng để đưa dân tộc Do thái thoát khỏi bàn tay đô hộ của đế quốc La mã, bây giờ lại bị chính quyền kết án, bị các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái treo lên thập giá, phơi thây giữa trời giữa đất, xuống không nổi. Trong hoàn cảnh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụn dần. Có lẽ trong lòng các môn đệ của Chúa Giêsu lúc đó chỉ còn có thể réo lên ba tiếng “Mất tất cả!”.
Bài Tin Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chứng minh điều đó. Thánh Gioan kể lại: Một buổi chiều Chúa nhật, các thánh tông đồ tụ họp và “đóng kín” cửa lại – tôi xin nhấn mạnh động từ “đóng kín”. Vì các thánh tông đồ không “đóng kín” để tránh sự ồn ào, không “đóng kín” để tạm quyên đi những lo toan đời thường, không “đóng kín” để gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng “đóng kín” vì “sợ người Do thái”. Và bởi “sợ”, nên dù “đóng kín”, các ngài vẫn ở trong tâm trạng rối bời.
Nhưng khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin của các thánh tông đồ trở nên mạnh mẽ. Chính Chúa Thánh Thần đã phá vỡ tâm trạng rối bời này. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của các ngài, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãng ấy. Như vậy Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.
Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy sắm cho mình một ý thức truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của một linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh… Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, chào hỏi những người ta quen biết…
Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.
Tôi muốn dừng lại ở đây bằng chính lời của Đấng Phục sinh nói với chúng ta: “Bình an cho anh em”. Nguyện xin Chúa Kitô ban ơn bình an ấy cho ta. Nhưng Chúa Thánh Thần chính là Nguồn Bình an. Bởi thế, xin Chúa Kitô ban ơn bình cũng có nghĩa là xin Người ban Chúa Thánh Thần cho ta.
Ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo, ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin, và là Nguồn Bình an vô giá.
.
CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG TÁC SINH
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo liệu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa…
Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.
- Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc
Khởi đi từ bài đọc I trích trong sách Cv 2, 1-11, tác giả cho thấy: đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và, đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.
Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.
Sang bài đọc II, 1Cr 12,3b-7.12-13, thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu.
Qua bài đọc này, thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luôn hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm thân thể Ngài là Hội Thánh.
Sang bài Tin Mừng, Ga 20,19-23, thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.
Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế? Thưa! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.
Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.
Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa.
- Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.
Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như:“bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23).
Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
THÁNH LINH HIỆN XUỐNG TRAO BAN ƠN THÁNH
NHÂN THẾ VUI MỪNG ĐÓN NHẬN BÌNH AN
Kinh Thánh cho biết hiệu quả khi có Chúa Thánh Thần: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:4). Muốn đầy tràn ơn thánh của Chúa Thánh Thần, người ta phải chân thành cầu xin.
Cầu nguyện là động thái cần thiết bởi vì cầu nguyện là hơi thở của Kitô hữu, là sinh khí tâm linh của chúng ta, đặc biệt là việc cầu nguyện liên quan Chúa Thánh Thần. Thánh Ephraem (người Syria) nói: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện. Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ. Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng”. Còn Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Trong lòng mỗi chúng ta đều có ghi khắc luật đức ái của Chúa Thánh Thần, luật này là căn nguyên hành sự suốt đời chúng ta”.
Biết cũng tới lúc phải chia tay các môn đệ, Chúa Giêsu đã hứa với họ trước khi Ngài chịu khổ nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14:16-17a). Ngài hứa gì thì chắc chắn có, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.
Là Kitô hữu, chắc chắn ai cũng biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba – Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, và được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua các hình dạng: chim bồ câu, lửa, nước, và gió.
Và như chúng ta đã biết, Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống, thế nhưng chúng ta thừng xuyên “quên” Ngài, nhưng không vì vậy mà Ngài “quên” chúng ta. Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng, Ngài quan trọng đến nỗi mà chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3:29; Lc 12:10). Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “mắc tội đời đời” – và cũng có nghĩa là không được vào Nước Trời.
Nmỗi khi đề cập ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu, chứ Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó mà thôi, mà còn vô số các ơn khác. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 3:16).
Chúng ta lại thường xuyên quên lãng Chúa Thánh Thần. Thế nên như một lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Thánh Ý của Thiên Chúa.
Và theo lời Đức Kitô đã hứa trước khi Ngài về trời, khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, lúc mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2:1-4). Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng theo 7 tặng phẩm của Thiên Chúa (Rm 12:6-8; x. 1 Cr 12:4-11). Ai cũng có tặng phẩm riêng, người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, và không ai là bất tài vô dụng. Đó là ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa, và vì công ích: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:7).
Ngày xưa, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ”, nhưng ai cũng hiểu như tiếng bản xứ của mình, mặc dù chính họ thực sự nghe người khác nói bằng “ngoại ngữ”. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải nghe ai nói lại hoặc nghe đồn. Lạ quá chừng luôn nghen!
Chính các tông đồ “nói tiếng lạ” nhưng không phải để lòe bịp, khoe khoang, “nổ” hoặc “chảnh” với ý đồ gì khác, mà họ hoàn toàn chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Thấy và nghe vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Loại người chê người khác như thế mới là “chảnh”, thấy người khác hơn thì tìm cách “thọc gậy bánh xe”. Đó là động thái của những kẻ hèn nhát và đê tiện!
Những dạng người như vậy vẫn xuất hiện nhan nhản trong xã hội ngày nay. Khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc. Đúng là “giàu có bị ghét, đói rét bị khinh, thông minh bị triệt, ngu dốt bị đì”. Đối với loài người thì cỡ nào cũng… chết!
Hồng Ân của Thiên Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, chúng ta cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta tưởng Chúa không ban, nhưng thực ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn, vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1 Cr 1:24 -25). Tất cả đều là hồng ân, do đó mà chúng ta phải biết tạ ơn, tự nhủ và thân thưa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Cảm nhận sâu sắc, Thánh Vịnh gia đã xác nhận: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Qủa thật, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì (Ga 15:5), thậm chí có thể là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ”, nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:29-31).
Với ý hướng chân thành, ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Ngày xưa, các tông đồ chỉ là những con người yếu đuối, nhát đảm, sợ sệt, cũng đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28), nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô. Một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và rồi trở nên nhiệt thành rao truyền Đức Kitô sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều các thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài.
Tâm sự với giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phaolô bộc bạch: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 12:3-7). Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,…
Lời căn dặn của Thánh Phaolô dành cho dân Cô-rin-tô và cũng chính là lời khuyên nhủ đối với mỗi chúng ta ngày nay: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr 12:12-13).
Đúng như vậy, Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Hôm nay là cơ hội tốt để chúng ta hiệp ý cầu xin cùng với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…”.
Chắc chắn rằng “nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội”, vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời” (Ca Tiếp Liên).
Nếu thực sự được như thế thì thật diễm phúc cho chúng ta, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Ngồn Mạch Lòng Thương Xót từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó (Ga 14:3). Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc!
Đúng như lời đã được cho biết trước, Chúa Giêsu về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14:2), vì ích lợi của chúng ta (Ga 16:7), nhưng vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài không muốn chúng ta sống trong cảnh mồ côi (Ga 14:18), thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta (Ga 14:16), và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày.
Theo lời kể của Thánh sử Gioan, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Thầy đã nói trước. Họ tưởng Thầy chết là “chấm hết”, có người còn bỏ về quê vì cảm thấy “vỡ mộng” thật rồi, thế nhưng đâu ngờ Thầy vẫn “nguyên si”. Thật là sung sướng quá chừng luôn, đúng là trên cả tuyệt vời!
Chắc hẳn là các ông sướng rơn nên không thể nói nên lời, và cũng chẳng biết thể hiện ra sao nữa. Bối rối quá chừng! Và rồi Ngài lại nói trấn an các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21). Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác.
Dứt lời, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22). Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu, nên Ngài dạy chúng ta bao dung chứ đừng “bung dao”, phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình” (Mt 5:44). Như thế mới thực sự là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha” (Mt 5:45), nếu không thì chúng ta chẳng có công cán chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo (Mt 5:46-48).
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần tác động không ngừng. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã nói rõ: “Không có Thầy, có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta có thể làm được nhiều thứ ngoài khả năng của mình – nếu chúng ta thực sự có Thiên Chúa.
Mỗi người trong chúng ta đều được sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế chúng ta phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16) – nhất là trong xã hội ngày nay, tức là chúng ta rất cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô đã căn dặn tất cả chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Mưu ma chước quỷ rất tinh vi, lơ đãng một chút là “tiêu tùng” ngay thôi!
Chim bồ câu là loài chim hiền lành và thân thiện với mọi người, là biểu tượng hòa bình (an bình hoặc bình an), và cũng là biểu tượng Chúa Thánh Thần. Chúng ta biết rằng lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương), nước có tính “hàn” (lạnh, âm). Âm dương hòa quyện Đất Trời. Gió làm hạ nhiệt. Lửa, gió và nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể cắt đứt được. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!
Để chúng ta không quên lãng Chúa Thánh Thần, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Chúng ta thật hạnh phúc biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin thương tuôn tràn Nguồn Hồng Ân của Chúa Thánh Thần để con đủ sức phấn đấu trở nên hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó mà con mới có thể sống dồi dào, sống chứng nhân sống động và hiệu quả theo khả năng Ngài ban. Xin Ngài ban Thần Khí để biến đổi con trở nên khí cụ bình an của Ngài – mọi nơi và mọi lúc, xin ban Lửa Thánh Thần để “thiêu đốt” và “uốn nắn” con theo Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
PHỤ LỤC
+ CHÚA THÁNH THẦN trong ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
https://tramthienthu.blogspot.com/2017/05/chua-thanh-than-trong-oi-song-giao-hoi.html
+ XIN GỞI THẦN KHÍ (Tv 103): https://www.youtube.com/watch?v=XjfGdJ1J00w
+ Karaoke: https://www.youtube.com/watch?v=S-okDLfd2oo
.
LẠY CHÚA THÁNH THẦN, XIN NGÀI NGỰ ĐẾN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
H. Khỏi 40 ngày ấy Đức Chúa Giêsu đi đâu?
T. Đức Chúa Giêsu lên trời.
Vâng kính thưa cộng đoàn, 40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến Giáo hội làm Tuần Cửu Nhật và thiết tha cầu xin : “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến…”.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì ? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên). Vậy chúng ta hãy trở nên những người trong sạch hơn, sốt sáng hơn, dễ bảo hơn…để Chúa Thánh Thần đỡ vất vả về vấn đề này, còn dạy dỗ chúng ta điều khác.
H. Đức Chúa Giêsu lên trời có bỏ chúng ta mồ côi không?
T. Không, Đức Chúa Giêsu lên trời đoạn, khỏi 10 ngày đã sai Đức Chúa Thánh Thần xuống trên các thánh tông đồ để ở lại với Hội Thánh mãi cho đến tận thế.
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ và hiện diện trong lịch sử Giáo hội, hành động không biết mệt mỏi.
Nếu như khi xưa Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người cùng ban đầy đủ các ơn với các sự kiện bên ngoài, thì hôm nay chúng ta tin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta cách đặc biệt trong ngày lễ của Ngài.
Quả thật, ơn Chúa Thánh Thần đang hiển hiện trước chúng ta đây. Ngài đang ở với chúng ta qua các bài đọc Kinh Thánh mà chúng ta vừa nghe, vì Ngài là tác tác giả thần linh. Cộng đoàn vừa lắng nghe rất sốt sáng với lòng khao khát được gặp gỡ Ngài, tiếp xúc với Ngài, được Ngài dạy dỗ, soi sáng và hướng dẫn nữa. Chúa Thánh Thần đang đến với chúng ta qua những lời cầu nguyện của Giáo Hội và của từng người trong chúng ta. Mọi người hát kinh Vinh Danh sốt sáng lắm, hẳn phải có Chúa Thánh Thần. Ngài khơi dậy sự cầu nguyện với những tâm tình đạo đức nơi chúng ta; Ngài đốt lửa kính mến Chúa nơi chúng ta. Nếu không có ơn Chúa Thánh Thần thì chúng ta chẳng đến đây làm gì, và có đến thì cũng chỉ ngồi yên thôi.
Chúa Thánh Thần còn đến với chúng ta qua lời giảng dạy của Giáo Hội, Ngài khơi dậy đức tin nơi chúng ta. Ngài dạy ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, lát nữa đây chúng ta sẽ tuyên xưng khi đọc kinh Tin Kính. Ngoài ơn đức tin là hồng ân trọng đại, Chúa Thánh Thần còn ban cho Giáo Hội rất nhiều ân sủng khác, mỗi người một kiểu một cách, không ai thiếu ân sủng của Ngài, để mỗi người chúng ta dùng những ơn đó mà xây dựng ích chung cho Giáo Hội như : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… mỗi người mỗi ơn rất phong phú và đa dạng.
H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
T. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba. Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa Thật, cùng uy quyền và vinh quang như Chúa Cha và Chúa Con.
H. Chúa Thánh Thần còn được gọi bằng những danh hiệu nào?
T. Ngài thường được gọi là Thần khí của Thiên Chúa,là Thần khí của sự thật,là Đấng an ủi và là Đấng ban sự sống.
Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, là Bình An, là Niềm Vui, là Sự Sống.
Chúa Thánh Thần là Ơn Bình An mà Chúa Kitô Phục Sinh mang đến, khi hiện ra với các Tông Đồ, khi đến với Giáo Hội, đến với Cộng đoàn phụng vụ chúng ta. Ngài là Sự Bình An mà thế gian không thể ban tặng như Chúa Giêsu đã nói. Có Chúa Thánh Thần, lòng chúng ta sẽ được bình an, một sự bình an kỳ diệu, đồng nghĩa với hạnh phúc, với ơn cứu độ và sự sống đời đời.
Chúa Thánh Thần là Niềm Vui, mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho ta, một niềm vui khôn tả. Các môn đệ ngày xưa vui mừng vì được thấy Chúa Phục Sinh, chúng ta ngày hôm nay không nhìn thấy Chúa bằng giác quan, nhưng thấy Chúa bằng đức tin, thấy Chúa trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Niềm Hoan Lạc ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi, là Niềm Vui mà Chúa Kitô Phục Sinh chia sẻ cho chúng ta, để chúng ta thông phần hạnh phúc của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần là Sự Sống, là Thần Khí, là Hơi Thở mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho Giáo Hội, khi Người thổi hơi vào các thánh Tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 23). Chúng ta nghe nói nhiều đến ơn cứu độ, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa am hiểu và còn cảm thấy trừu tượng, xa vời. Theo đoạn Tin mừng Gioan hôm nay, ơn cứu độ, chính là Thần Khí Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ đó mà mọi người được Thiên Chúa vừa ban cho ơn tha tội, vừa ban cho sự sống mới, thông phần Sự Sống Lại của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Vào năm 1976, trong xóm tôi có một em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên cho hạ bức hoành phi cũ kỹ có mấy chữ lớn mạ vàng xuống, để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá nầy. Bà chủ nhà cho rằng bức hoành nầy chỉ có mấy chữ lớn mạ vàng rẻ tiền, chẳng có giá trị là bao, nên bà trao bức hoành cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng.
Thế là cô gái đem bức hoành về cho mấy đứa em làm đồ chơi. Chơi chán, bọn trẻ phá nát bức hoành, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải ra công quét dọn và đem đi đốt.
Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa. Hoá ra những dòng chữ này lại bằng vàng thật dát mỏng chứ không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được cả lượng vàng! Cả nhà vui mừng khôn xiết, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng số độc đắc.
Thế là, nhờ ngọn lửa cháy lên, người ta mới phát hiện ra những dòng chữ bằng vàng quý báu!
Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giê-su trao tận tay một cuốn Tin mừng, là cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian. Đây là một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giê-su và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, nhiều người đón nhận cuốn Tin mừng nầy cách hờ hững, xem đó là một tác phẩm khô khan, vô bổ, chứa đựng những dòng chữ vô hồn.
Sở dĩ kho tàng Tin mừng của Chúa Giê-su không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ của cuốn sách nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: “Nếu Hội thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giê-su trở thành một huyền thoại và Phúc âm của Ngài chỉ là một mớ chữ không hồn.”
Quả vậy, vì không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng nên lời dạy của Chúa Giê-su như: “Những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta” (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người. Tuy nhiên, đối với mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giê-su nơi những con người bất hạnh và đau thương.
Cũng vì không có lửa của Thánh Linh soi chiếu nên những lời nhắc nhở như: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì” (Mt 16, 26) được xem như những lời vô nghĩa. Tuy vậy, đối với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị để dấn thân vào những miền đất xa lạ, đem ơn cứu độ đến cho nhiều dân tộc Á châu.
Không có Chúa Thánh Thần soi sáng, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su.
Không có ánh sáng của Chúa Thánh Thần chiếu soi, những trang Tin mừng chỉ là những dòng chữ chết.
Không có Chúa Thánh Thần dạy dỗ, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là một trong những ngày lễ cổ xưa nhất của Giáo hội được đề cập trong Cv 20,16 và 1 Cor 16, 8. Chúa Nhật Hiện Xuống diễn ra sau lễ Phục Sinh 50 ngày. Ngày lễ này thế chỗ cho Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái. Người Do Thái cũng tổ chức mừng Lễ Ngũ Tuần, nhưng nó không giống với các Kitô hữu. Họ mừng Lễ Ngũ Tuần để kỷ niệm việc Thiên Chúa ban 10 điều răn trên núi Sinai, 50 ngày sau khi họ thoát khỏi ách nô lệ. Theo truyền thống của người Do Thái, họ tổ chức lễ Ngũ Tuần sau Lễ Vượt Qua 50 ngày.
Nguồn gốc Lễ Ngũ Tuần được kể trong sách Tông đồ Công vụ: “Trong ngày đó, người Do Thái từ khắp nơi đã tụ tập tại Giêrusalem để mừng lễ của họ. Hôm đó cũng là ngày chủ nhật, tức là mười ngày sau khi Chúa Giêsu đã về trời, các Tông đồ và Đức Maria tụ họp nhau trong nhà Tiệc Ly, nơi mà họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu sau sự Phục Sinh của Ngài: “bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,2-4).
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các Tông đồ rằng Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến với họ. Chính ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ đã được những ơn của Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu rao giảng Tin Mừng trong tất cả các ngôn ngữ nơi mà những người Do Thái đã tụ tập nghe họ giảng. Khoảng ba ngàn người đã trở lại ngay ngày hôm đó.Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội”. Vào ngày này, việc Chúa Thánh Thần ngự xuống đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện.
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Với sức mạnh của Thánh Thần, Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Trong mọi thời đại, bằng mọi ngôn ngữ, Giáo Hội khắp thế giới tiếp tục tuyên xưng những kỳ công Thiên Chúa và kêu gọi các dân tộc, các quốc gia tiến đến với đức tin, hy vọng và cuộc sống mới trong Đức Kitô.
- Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần
Chúa Giêsu nói đến sứ vụ làm chứng của Chúa Thánh Thần: “ Là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em từng ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Làm chứng cho Chúa Giêsu chỉ có thể thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không thể chỉ bằng sức lực của con người.
Chúa Giêsu là Người Con có kinh nghiệm trọn vẹn về tình yêu của Chúa Cha, biết rõ ý muốn của Chúa Cha, biết rõ chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài là chứng nhân trung thành của Chúa Cha, chỉ nói những điều Chúa Cha muốn, thi hành những điều Chúa Cha truyền dạy.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng chứng tá của Chúa Giêsu, cùng với Giáo hội và trong lòng Giáo hội.
Sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với và trong Chúa Thánh Thần. Giáo hội đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi vào và trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội đã luôn nổ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài suốt hai nghìn năm lịch sử, trải qua những thăng trầm những phong ba bão táp của trần thế.
- Sứ mạng làm chứng của người kitô hữu:
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.
Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
- Làm chứng cho Thiên Chúa Tuyệt Mỹ
Chúa là Chân Thiện Mỹ, nên sức mạnh của Chân Thiện Mỹ là “Thần Lực” của chính Chúa. Muốn làm chứng cho Chúa là Chân Thiện Mỹ, phải có Thần lực của Chúa. Có sức mạnh ơn thánh, chúng ta có thể làm chứng cho Thiên Chúa cội nguồn của Chân Thiện Mỹ.
Có thể diễn tả nét đặc trưng: các Giám mục, Linh mục là những chứng nhân cho chân lý; những người làm việc bác ái xã hội làm chứng cho sự thiện; Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho cái đẹp.
Chiêm ngắm và diễn tả vẻ đẹp thần linh có tác dụng làm cho con người say mê. Những nghệ sĩ chân chính như các nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư hay cả những biên đạo múa…đều là những người phục vụ cho cái đẹp, cũng là những chứng nhân rất cần thiết cho thế giới. Dĩ nhiên trong thế giới nghệ thuật, cũng như trong mọi lãnh vực khác của cuộc sống, vẫn có những phản chứng từ, có thể có tác dụng huỷ hoại tâm linh con người, như những thứ âm nhạc kích thích lòng tà dâm, những phim đồi truỵ, các thứ phim ảnh bạo lực…
Khi yêu những bông hoa, dòng suối, núi non, biển cả, chúng ta chìm vào trong thiên nhiên, ca hát ngợi khen Thiên Chúa cùng với các tiếng nói đa dạng của thiên nhiên, đó là làm chứng cho Thiên Chúa Đấng Tuyệt Mỹ.
Nhạc sĩ là chứng nhân cho vẻ đẹp thần linh. Nhạc sĩ viết thánh ca phụng vụ cùng chung mục đích với phụng vụ là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người.
Thánh nhạc phải thánh thiện vì nó có nguồn gốc là thánh, kèm theo lời ca của phụng vụ thánh, kèm theo những tác động thánh của phụng vụ và vì đó là lời cầu nguyện của Dân Chúa.Thánh nhạc được viết vì phụng vụ.Nhạc sĩ viết thánh ca để giúp người khác cầu nguyện. Lời của những bài thánh ca sử dụng chính thức trong phụng vụ luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội. Như vậy người sáng tác thánh ca phải cầu nguyện mà sáng tác ra. Nếu như Linh mục cầu nguyện để soạn bài giảng thì Nhạc sĩ cầu nguyện để viết thánh ca. Một bài thánh ca hay được tạo ra bởi 2 lần cầu nguyện: người sáng tác cầu nguyện và người hát cầu nguyện, đựơc như vậy thì hát hay là cầu nguyện 2 lần.
Ca đoàn hát lễ cũng hát trong cung cách cầu nguyện. ĐGH Urbanô nói rằng: Nhạc là vì lễ chứ không phải lễ vì nhạc.Trong thông điệp “ Đấng Trung Gian”, ĐGH Piô XII đã viết “Ước gì tiếng hát toàn dân vang lên tới trời”. Giáo hội muốn giáo dân tham dự tích vào phụng vụ và thánh ca là lời cầu nguyện của Dân Chúa.
“Hiến Chế Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ” số 121, nói đến vai trò các nhạc sĩ Công Giáo. Ngoài kiến thức chuyên môn, Giáo hội đòi hỏi các nhạc sĩ những tiêu chuẩn cơ bản là nhạc sĩ phải có đời sống Kitô hữu đích thực thể hiện qua đức tin mạnh mẽ, đời sống đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Nhạc sĩ sáng tác trong lúc cầu nguyện, không chỉ trong nhà thờ mà mọi nơi mọi lúc, nhạc sĩ chân chính có thể cầu nguyện để viết thánh ca.
ĐGH Piô X cũng dạy rằng: Thánh nhạc phải thánh, phải loại bỏ những gì là phàm tục không phải chỉ nơi bản chất thánh nhạc mà cả nơi người sáng tác và cách thể hiện.
Thánh nhạc đòi hỏi rất nhiều nơi các nhạc sĩ. Nhưng thực tế của cuộc sống với biết bao khó khăn. Phải bôn ba để nuôi sống gia đình, ít khi được quan tâm. Nhạc sĩ làm việc âm thầm vì Chúa vì Giáo hội. Đổi lại sự lao nhọc trong công việc, nhạc sĩ có nhiều niềm vui và hạnh phúc nơi các đứa con tinh thần của mình. Nhiều người đón nhận, nhiều Nhà thờ, nhiều cộng đoàn hát thánh ca của mình để tôn vinh Thiên Chúa, ca ngợi Đức Mẹ, các Thánh, đó là phần thưởng lớn lao cho nhạc sĩ sáng tác.
Nếu như cách loan báo Tin mừng Tình yêu hay nhất và hữu hiệu nhất của người Kitô hữu là loan báo bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ thì Nhạc sĩ loan báo Tin mừng bằng những bài thánh ca đựơc viết khi cầu nguyện; dấn thân phục vụ trên con đường nghệ thuật cao quý. Nhạc sĩ làm chứng nhân cho cái đẹp thánh thiện nâng tâm hồn con người lên với Thiên Chúa Tuyệt Mỹ.
“Nhà Xanh” là chỗ cư ngụ của tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, đồng thời là địa điểm đặt các văn phòng tổng thống và nơi đón tiếp các quốc trưởng đến thăm Hàn Quốc. Như một tín hữu Công giáo tốt lành, tân tổng thống đã nghĩ đến việc làm phép nơi ở mới. Ngày 13.5.2017, cha Phaolô Ryu Jong-man đang coi sóc giáo xứ Chúa Ba Ngôi ở vùng phụ cận Hongje-dong (Seoul), được mời đến đến làm phép cho ngôi nhà và các đồ vật. Cha Phaolô đã đặt tay trên tổng thống và cầu nguyện cho ông được “khôn ngoan như Vua Solomon”. Cha cũng nói với tổng thống: “Trước khi quyết định về vấn đề của đất nước, hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ đến ban ánh sáng và sức mạnh của Người”.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ“. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Các Nhạc sĩ, Ca sĩ sống chứng nhân cho cái đẹp, loan báo Tin Mừng Phục Sinh.Các Chính khách làm chứng cho sự thật công lý và hòa bình. Mọi tín hữu đều có trách nhiệm làm chứng nhân trên mọi nẻo đường phục vụ.
.
THÁNH THẦN – ĐẤNG THÚC ĐẨY GIÁO HỘI ĐI ĐẾN VỚI MUÔN DÂN
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bước vào ngàn năm thứ ba, chúng ta có thể thấy, Chúa Thánh Thần đã hoạt động một cách mạnh mẽ và cụ thể trong Giáo Hội qua các vị chủ chăn. Đức Thánh Giáo hoàng JP II là một vị Giáo hoàng bôn ba khắp thế giới để xây dựng đời sống đức tin nơi các tín hữu, nối kết mọi dân tộc, thúc đẩy hòa bình. Ngài là vị Giáo hoàng có số lần thăm viếng mục vụ ngoài Italia nhiều nhất từ trước đến nay, bất chấp sự đe dọa từ các tổ chức chính trị xã hội. Ngài mở ra cho Giáo Hội một hướng đi đối thoại với mọi thành phần, và mạnh dạn xin lỗi cả thế giới vì lỗi lầm của Giáo Hội. Kế vị Ngài là Đức Giáo hoàng Benedicto 16, một con người giỏi giang, uyên bác, Ngài đã đem đến cho Giáo Hội một sự cải cách mạnh mẽ, làm sáng tỏ nhiều vấn đề giáo lý và thay đổi những lối suy nghĩ bảo thủ. Ngài còn được coi là vị Giáo Hoàng đơn sơ khiêm nhường xin sự cầu nguyện và giúp đỡ của mọi thành phần Giáo Hội. Với việc Ngài từ nhiệm để sống một cuộc sống ẩn dật, cầu nguyện cho Giáo Hội, đã trở thành một tấm gương lớn về sự khiêm nhường và từ bỏ. Kế vị Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 là đương kim Giáo hoàng Phanxicô, Ngài đã tạo nên một hình ảnh Giáo Hội gần gũi, đơn sơ và phục vụ người nghèo khổ, qua việc Ngài dễ dàng tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội. Cũng chính Đức Phanxicô đã lên tiếng mời gọi mọi thành phần Giáo Hội phải “đi ra” để gặp gỡ, cảm thông, sẻ chia.
Một vài ví dụ như trên để cho thấy Chúa Thánh Thần, kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần năm xưa đã hiện xuống trên các tông đồ, vẫn đang hiện diện và hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta hôm nay. Ngài canh tân biến đổi Giáo Hội và thúc đẩy Giáo Hội ra khơi để loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như là ngày khai trương Giáo Hội, ngày Giáo Hội chính thức xuất hiện với thế giới. Mặc dù Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các tông đồ và trao phó cho Phêrô vai trò thủ lãnh trong anh em, nhưng suốt thời gian Chúa Giêsu còn ở trần gian, Giáo Hội vẫn chỉ là hạt mầm được Chúa Giêsu gieo vào thế giới, âm thầm nảy mầm, bén rễ. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, với sự trợ giúp của Thánh Thần, Giáo Hội đã vươn mình đứng dậy, tỏa bóng mát bao trùm thế giới và trổ sinh những bông hạt đầu tiên.
Sau cái chết của Chúa Giêsu, các tông đồ đã vô cùng sợ hãi, họ trở nên co cụm nhút nhát, tránh né việc xuất hiện công khai. Sau khi đã được gặp Chúa Phục sinh, được củng cố niềm tin rằng Chúa vẫn đang sống, các tông đồ như được hồi sinh để sống một tinh thần mới, một cuộc đời mới. Tuy nhiên, để ban thêm sức mạnh giúp các ông có thể chu toàn được sứ mạng cao cả là đến với muôn loài muôn vật, làm cho họ trở nên mộn đệ của Chúa, các ông cần phải được trợ giúp đặc biệt. Vì thế, Chúa Giêsu đã hẹn các ông: Hãy ở lại Gierusalem để chờ đợi lãnh nhận Chúa Thánh Thần như Chúa đã hứa. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ, đã giới thiệu các ông với thế giới. Mọi người ở Giêrusalem vô cùng ngạc nhiên về sự xuất hiện của những con người này.
Thánh Thần là Đấng canh tân biến đổi – Mọi người ở Gieruslem dịp đó ngạc nhiên về sự thay đổi mau chóng nơi các tông đồ. Nếu như trước đây, các ông chỉ là một đám môn đệ đi theo thầy Giêsu, chẳng được mấy người quan tâm biết đến, thì bây giờ các ông trở nên nhưng con người mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho mọi người. Trước đây, các ông tỏ ra rụt rè, nhút nhát sợ hãi, giờ đây, các ông trở nên can đảm phi thường, nói về Chúa Giêsu không chút sợ hãi. Trước đây, các ông chỉ là những ngư phủ bình dân ít học, vậy mà giờ đây các ông trở thành những người uyên bác không ai có thể tranh luận được với các ông.
Bước ra khỏi nhà tiệc ly, các tông đồ như được lột xác vươn mình đứng dậy như một hạt giống đã ủ mầm nay bung ra những cành lá xum xuê và đơm hoa kết trái. Bài giảng của Phêrô đã khiến cho hàng ngàn người tin vào Chúa Giêsu và xin làm môn đệ của Chúa. Sách Công Vụ kể lại: Thánh Thần đã thực sự quy tụ muôn dân qua chính con người của các tông đồ. Nếu như trước đây với sự kiêu căng thách thức Thiên Chúa của con cháu ông Noe qua biến cố xây tháp Baben đã khiến cho nhân loại chia rẽ nhau, không còn nghe và hiểu nhau nữa, thì nay lời Phêrô rao giảng đã khiến cho mọi dân tộc khác nhau được quy tụ lai và hiểu được tiếng nói của Phêrô. Khi đón nhận những lời rao giảng của các tông đồ, những người nghe cảm thấy họ từ những người xa lạ, nay đã trở nên thân quen, dù khác biệt, nhưng trở nên thân thiết, nhờ tiếng nói của Thánh Thần và của Tin Mừng.
Thánh Thần là Đấng thúc đẩy Giáo Hội lên đường. Ngay từ sau ngày lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã hoàn toàn trút bỏ khỏi sự sợ hãi, co cụm để mạnh dạn tỏa đi khắp muôn phương nói về Chúa Giêsu Phục sinh. Các tông đồ ý thức rằng đã đến lúc các ông phải ra khơi phục vụ Tin Mừng, quăng những mẻ lưới yêu thương để đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Các ông đã khiêm tốn mở rộng tâm hồn như một cánh buồm để cho làn gió của Thánh Thần thổi vào và đưa các ông đi đến tận cùng cõi đất.
Sách Công Vụ Tông đồ đã kể lại cho chúng ta các hoạt động của các tông đồ, đặc biệt là của Phêrô, Gioan, sau này là Phaolô. Các Ngài đã thành lập nên các giáo đoàn ở khắp nơi, hiện diện, đồng hành với các tín hữu sơ khai, giảng dạy, khuyên bảo họ. Các Ngài đã trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, bị bắt bớ, tù đày, roi đòn, nhục mạ… tất cả những khó khăn đó không làm cản bước các ông. Có những người ra đi thật xa, đến tận Ấn Độ và những vùng miền xa xôi đến độ, hầu như các tác giả sách Công Vụ không còn nhận được thông tin từ các Ngài nữa. Chỉ sau này, người ta mới biết đến sự hiện diện của các Ngài nhờ các giáo đoàn mới được nảy sinh.
Tiếp nối bước chân các tông đồ, trải qua hơn 2000 năm, Giáo Hội với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, vẫn không mệt mỏi để đem Tin Mừng của Chúa đến tận cùng ngóc ngách của thế giới. Nhìn lại lịch sử hai ngàn năm, từ mười hai con người đầu tiên tại Giêrusalem đến nay, Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa đã được lan tỏa và đang từng ngày biến đổi bộ mặt thế giới này.
Mỗi người, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đặc biệt trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn phúc, trang bị cho chúng ta những hành trang cần thiết, để thúc đẩy mỗi người tiếp tục lên đường, thành những ngư phủ ra khơi đem các linh hồn về cho Chúa. Đó là trách nhiệm mỗi người buộc phải thi hành, không thể chần chừ hay thoái thác.
Trong thư Corintô, Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: Mỗi người dù là linh mục hay tu sĩ giáo dân, dù là ông bà cha mẹ hay con cái, chúng ta đều được đón nhận ân sủng và được thúc đẩy của Thánh Thần để sống và làm chứng cho Tin Mừng. Các linh mục tu sĩ được mời gọi để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và hoạt động trong đời dâng hiến tu trì. Các giáo dân được thúc đẩy để sống trọn vẹn và đầy tràn ơn gọi của mình trong gia đình, giữa đời thường. Mỗi người đều phải sẵn sàng mở lòng, để cho Thánh Thần tác động, biến đổi và đốt nóng lòng hăng say nhiệt thành, gia tăng lòng yêu mến, để không ngần ngại sống và làm chứng cho Chúa theo bậc sống của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến canh tân, biến đổi tâm hồn, gia đình và cả cộng đoàn chúng con, biến chúng con thành những chiến sĩ, những tông đồ của lòng thương xót Chúa cho anh chị em. Amen.
.
PM. Cao Huy Hoàng,
“Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái”.
Các môn đệ lo sợ, bất an, khi Thầy mình bị giết chết bằng một án tử hình quá kinh khủng. Ít nhiều, các ông cũng hiểu về mình rằng: mình là môn đệ Đức Giêsu, và dĩ nhiên, qua mối liên hệ ấy, công an Do Thái có thể mời lên đồn, hạch hỏi, điều tra và kết cho cái tội liên lụy hay tòng phạm với tên Giêsu mang án tử kia ! Thế là, các ông sợ có thể chuốc họa vào thân, không phải án tử thì cũng dăm ba tháng hoặc vài năm ở tù. Phiền phức ! Rắc rối ! Khổ ! Vì thế, các ông đóng kín tất cả các cửa nhà mình, nhốt mình bên trong, cho được bằng yên ! Nhà mình, mình có quyền đóng cửa và không ai có quyền xông vào. Như thế là bình an ư ? Hay là, cứ tưởng như thế là bình an !?!
Có một điều hay hay là: các ông còn chung với nhau một niềm lo sợ – khi lo sợ cũng còn có nhau, hiệp nhất trong niềm lo sợ, nên một trong nỗi bất an.
Nhưng tiếc một điều là, các ông chưa tìm được cách nào để hóa giải sự bất an ấy hơn là đóng kín cửa nhà mình lại, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Nhưng thử hỏi, cách cùng nhốt mình vào chỗ cầu an ấy có giá trị gì, nếu không phải là chia sẻ với nhau một niềm thất vọng, là ôm nhau đi vào con đường cùng !?! Ngoài kia, sống chết mặc ai. Xin đừng đụng tới trong này, là vui !
Chúa Giêsu thương các môn đệ của mình. Người hiểu rõ sự bất an nội tâm của những con người vốn mang bản tính yếu hèn, tham sống sợ chết. Người thấu suốt nỗi lòng của Thiên Chúa Cha và sứ mệnh còn lại của Người đối với chương trình cứu chuộc: sứ mệnh trao ban Chúa Thánh Thần để nâng đỡ các môn đệ và tiếp tục làm cho Tin Mừng Cứu Thế được loan đi khắp cùng cõi địa cầu.
Vì thế, với quyền năng Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã đi vào nội thất kín kẽ tưởng như là bình an kia, mà không cần cửa mở, cũng không cần phải đạp cửa xông vào.
Trước sự ngỡ ngàng của các ông, Chúa Giêsu nói: “Bình an cho các con !” và “Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.
Lời nói và cử chỉ này có liên quan gì với nhau không. Lời nói là chúc bình an. Cử chỉ là cho xem dấu đinh ở tay và vết cắt ở cạnh sườn. Chúa muốn minh chứng cho các môn đệ biết rằng: Đừng mang tâm trạng bất an lo sợ bởi đau khổ và sự chết nữa, vì Người đã chiến thắng khổ hình và sự chết. Người đã sống lại. Đừng sợ đám công an Do Thái nữa. Đừng sợ nhà nước thế gian nữa. Đừng sợ thế lực bất chính nữa. Đừng sợ oan sai hay bức tử nữa. Nhưng hãy sợ chính cõi lòng nhát đảm, hèn tin và thái độ cầu an của mình.
“Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa”.
Nhưng, Chúa Giêsu biết rõ niềm vui mừng của các ông hẳn là cảm xúc tự nhiên, đường đột, chóng vánh, không hơn. Người muốn các ông có một niềm vui đích thực, vững bền và phải biểu thị niềm vui ấy bằng chính cuộc sống làm chứng rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng đau khổ và sự chết, Chúa Giêsu đã phục sinh, và ai tin vào người cũng sẽ phục sinh với Người.
Vì thế, Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con ! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Đang lúc các ông tìm sự bình an bằng cách nhốt mình trong nội thất, thì Chúa lại bảo “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nghĩa là không được đóng cửa ngồi trong nhà nữa, mà phải đi ra, đi ra khỏi cái lâu đài cầu an của mình, đi ra khỏi cái vỏ ốc thường ngày của mình, đi ra khỏi căn hầm định kiến, sợ sệt, nhát đảm của mình, để đến với mọi con người, mọi thụ tạo. Nhưng, làm sao có thể đi ra được, khi mỗi người còn mang nặng tính xác phàm, luôn nghĩ tới sự an nguy của mình nhiều hơn là nghĩ tới đại cuộc cứu thế ? Làm sao có thể đi ra được, khi ý riêng trong lòng tự phụ kiêu căng của mình luôn luôn là đúng nhất, là cao cả nhất, là đáng trân trọng nhất, là ý của kẻ có quyền. Làm sao có thể đi ra được, nếu không có một thần lực tự bên trong vừa đốt cháy tiêu tan cái phàm tục kia, vừa là thôi thúc dậy lên một khao khát cứu thế ? Chúa Giêsu thấu suốt thân phận người của các ông, vì thế Người ban cho các ông thần lực ấy chính là Thánh Thần.
Và, “nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Các ông đã nhận lấy Thánh Thần. Chúa Thánh Thần vừa là sức mạnh cho người được sai đi, vừa là nguyên lý nền tảng của bình an đích thật:
Bình an trước những làn tên mũi đạn vì lý tưởng Tin Mừng lớn hơn sự chết.
Bình an trước áp bức, cùm gông, xiềng xích, lao tù, vì lý tưởng công lý, lý tưởng cứu thế quan trọng hơn là thương tích, khổ đau.
Chúa Thánh Thần đã làm cho các ông nên những con người mới, những con người đi theo đúng con đường Thập Giá và Chiến Thắng của Đức Giêsu Kitô.
Là Kitô Hữu Công Giáo, mỗi chúng ta cũng đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần với ơn đổi mới con người chúng ta: đổi từ con người cũ nhát đảm ngồi trong lô cốt cầu an, thành con người được sai đi ra ngoài chiến tuyến, không ngại khó, không ngại khổ vì lý tưởng cứu thế. Bình an của tâm hồn là loại bình an khi đã thực hiện trọn vẹn Thánh Ý của Thiên Chúa là cứu rỗi các linh hồn, chứ không phải loại bình an giả tạo theo ý của riêng mình, cho riêng phần mình. Vì thế, không một tín hữu nào có thể làm ngơ hay cầu an trước một thế giới đang bên bờ vực thẳm của sự dữ, của sự chết ngàn thu, của sự xa cách, từ chối hay loại trừ Thiên Chúa.
Có thể ai cũng thấy:
Sự dữ lan tràn khắp nơi, bởi lối sống vô thần và duy vật loại trừ sự hiện diện của Thiên Chúa và tôn vinh những giá trị vật chất chóng vánh lên làm chúa tể. Ngay cả những con người mang danh là có đạo, là Kitô Hữu, cũng bị tiêm nhiễm rồi thẩm thấu lối sống vô thần, duy vật, làm cho sự dữ hoành hành tâm hồn họ và hoành hành luôn cả gia đình, cả cộng đoàn tín hữu. Những gương xấu tham tiền, tham quyền nhan nhản làm hư đốn tinh thần, lý tưởng sống của cả một thế hệ. Những gương xấu cầu an làm tê liệt bao nhiệt huyết đấu tranh cho công bằng, cho công lý. Những gương xấu vô tâm, vô cảm, vô trách nhiệm mở đường cho thế hệ cháu con sống lối sống bầy đàn thú tính.
Và có thể ai cũng nghe:
Tiếng la ó, tiếng gào thét, cùng với đủ loại âm thanh trong các cuộc xuống đường đòi trả lại cho dân quyền sống, không phải là đang muốn phá vỡ cái im lặng của sự bình an giả tạo đang ẩn náu trong lô cốt khóa chặt kia, trong tháp ngà bưng bít kia, trong lâu đài đóng kín kia sao ?
Tiếng kêu khóc của dân oan, tiếng rên rỉ của những bệnh nhân, tiếng nài xin trợ giúp của những người nghèo khổ, tiếng trống gõ đòi công lý, cả những tiếng cầu cứu của những mảnh đời chơi vơi bất hạnh… không phải là đang muốn đánh thức một loại tâm mà chẳng đáng được gọi là lương tâm, một loại tri mà chẳng đáng được gọi là lương tri đấy sao ?
Tôi tin rằng, tất cả những gì đang diễn ra, vì lý tưởng đòi Công Lý, Hòa Bình, đòi Chân, Thiện, Mỹ cho cuộc nhân sinh này, đều có tác động của Chúa Thánh Thần.
Hay nói cách khác, đó là cách mà Chúa Thánh Thần thúc giục những người có trách nhiệm với dân, với nước, hãy mở cửa ra, bước ra khỏi tháp ngà quyền lực châu báu, bước ra khỏi lâu đài hưởng thụ an nhàn, mà xuống tận nơi xem cá chết, xuống tận nơi xem ghe thuyền neo đậu, xuống tận nơi xem kẻ đói người khát, xuống tận nơi xem đất nước bị cướp giật, bị đóng đinh, xem đất nước bị đâm thủng, bị thương tích, xuống tận nơi xem nỗi khổ của dân đen.
Đó là cách mà Chúa Thánh Thần thúc giục tất cả những ai tham nhũng, lạm quyền, lấy cắp của dân, uống máu uống mồ hôi của dân mà no say hạnh phúc, hãy mau mau thực hiện lẽ công bằng mà trả lại cho dân những gì là của dân, thì mới mong có được bình an tâm hồn.
Chúa Thánh Thần đang thúc giục vào tâm trí của nhân loại hãy tìm lại sự lương thiện, tốt lành, để mới mong có được sự bình an đích thực. Chúa Thánh Thần cũng đang thúc giục mỗi người hãy làm tất cả các việc có thể, để tẩy trừ sự dữ, và làm cho sự thánh thiện, sự tốt lành ngự trị trong cuộc nhân sinh hôm nay.
Có câu chuyện đời thường xin kể:
Mới sáng sớm, ông A phát hiện nhà mình mất con chó. Ông buồn vì quý con chó tơ ngoan hiền. Đến chiều, có người rủ ông A xuống phố nhậu thịt cầy. Mồi ngon. Hỏi chủ quán. mới hay, Ông B bên cạnh nhà đánh bả con chó nhà mình, bắt và bán cho quán cầy tơ này với giá một triệu.
Sáng sớm hôm sau. Ông A dậy tập thể dục. Ông B uống trà trước hiên. Ông A chào hỏi ông B: “Anh ngủ ngon không ?” Ông B trả lời: “Cảm ơn anh, ngủ rất ngon”.
Trong lòng ông A thầm nghĩ: Ông ngủ ngon sao ? Đúng là ông có cái tâm mà không đáng được gọi là lương tâm, có cái tri mà không đáng được gọi là lương tri. Gọi thế nào thì ông tự hiểu.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con biết dùng ân sủng của Chúa mà đổi mới con người của chúng con, để chúng con can đảm mà làm chứng cho Nước Thiên Chúa tốt lành, thánh thiện, bình an giữa một thế gian đang đầy tràn sự dữ. Amen.
.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Có thể nói, đa số các Tông đồ bắt đầu đi theo Đức Giêsu đều nhằm mục đích trần thế: Mong muốn Đức Giêsu làm vua thế gian để được làm ông nọ bà kia trong nước của Ngài. Bằng chứng là việc bà mẹ của Gioan và Giacôbê đã có lần xin cho hai con được ngồi một đứa bên hữu một đứa bên tả trong nước của Ngài (x. Mt 20, 20-21). Còn các Tông đồ khác thì lại tranh dành xem ai lớn ai bé? (x. Mc 9,34).
Trong suốt ba năm theo Đức Giêsu, các Tông đồ chưa hiểu thấu những giáo huấn và những phép lạ Ngài làm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu nói với những người Do thái hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xâu dựng lại (x. Ga 2,19). Những người Do thái và chính các Tông đồ không hiểu điều Đức Giêsu nói. Thánh Gioan cho biết: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”(Ga 2,21-22). Khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình, các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài (x. Mc 9,31-32).
Chính vì không hiểu hết về giáo huấn của Đức Giêsu nên các môn đệ khó chấp nhận, đặc biệt là những giáo huấn đó đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ. Cụ thể, Thánh Phêrô đã bị Đức Giêsu mắng cho một trận “đồ Sa-tan,” vì ông dám ngăn cản Ngài bước vào cuộc khổ nạn (x. Mc 8,32-33). Cũng vì không hiểu được ý nghĩa của cuộc khổ nạn Thầy mình phải chịu nên Phê-rô đã chối Thầy ba lần trước một tớ gái (x. Mt 26,69-75). Các Tông đồ còn lại thì bỏ trốn hết. Vì chưa hiểu hết giáo huấn của Đức Giêsu nên khi Đức Giêsu chịu chết, các ông đã vào phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do Thái, sợ mình cũng chung với số phận của Thầy.
Tại sao các Tông đồ lại mê muội, không thấu hiểu hết giáo huấn và phép lạ Đức Giêsu? Vì các ông chưa được ban Chúa Thánh Thần. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-14). Ngài còn cho biết thêm: “Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
Nhưng khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ được biến đổi, trở thành những con người mới, những con người của Tin mừng. Thật vậy, sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và ban Thánh Thần cho các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Đặc biệt, hôm nay trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi mà các môn đệ đang tề tựu một nơi, có cả những người Do thái từ khắp nơi tụ về, một hiện tượng kỳ lạ đã xảy đến như chúng ta vừa nghe sách Công Vụ Tông đồ kể lại: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2,2-4). Đây là một đặc sủng ngôn ngữ: Chúa Thánh Thần tác động trực tiếp trên các Tông đồ để các ông nói được các ngôn ngữ. Bởi vì, chính các thính giả hôm đó làm chứng rằng họ hiểu những gì các Tông đồ nói: “Chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).
Từ khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ hiểu thấu đáo về giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu, nên họ có một cái nhìn khác về Đức Giêsu và về sứ mạng của Ngài. Vì thế, các Tông đồ can đảm thực hành những gì mà Đức Giêsu đã trao phó. Thánh Phê-rô công khai rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã chết và phục sinh. Bài giảng đầu tiên của Ngài đã có khoảng 3000 người xin lãnh nhận Bí tích Rửa Tội (Cv 2,41). Sau đó, các ngài phân chia nhau đi khắp mọi nơi rao giảng Tin mừng và làm chứng về Đức Giêsu. Đi liền với lời rao giảng và làm chứng đó là sự bắt bớ, tù đày. Dẫu bị cấm cách, bắt bớ, tù đày, nhưng các Ngài không sợ hãi. Trái lại, lòng họ còn cảm thấy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su (x. Cv 5, 41). Cuối cùng, các Tông đồ đã can đảm chấp nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.
Nhờ đâu, các Tông đồ làm được như vậy? Đó là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”(Ga 16,13). Chúa Thánh Thần “sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”(Ga 16,8-11). Chúa Thánh Thần còn nói thay cho các Tông đồ, nhất là những khi bị bắt bớ tù đày: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Tóm lại, Chúa Thánh Thần đã làm thay đổi đời sống nơi các Tông đồ. Chúa Thánh Thần giúp các Tông đồ hiểu thấu những giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu đã làm. Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện vai trò đó nơi Giáo hội cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu Phép rửa tội. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận một cách sung mãn với bảy ơn cả Chúa Thánh Thần trong ngày chịu Phép Thêm Sức. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ giúp chúng ta như xưa Ngài đã giúp các Tông đồ. Vì vậy, chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần, nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm để Ngài cũng biến đổi chúng ta trở thành những người của Tin mừng giống như khi xưa Ngài đã biến đổi các Tông đồ.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và canh tân đời sống chúng con. Amen.
.
JM. Lam Thy
Trước khi về trời, đã nhiều lấn Đức Ki-tô nói là Người sẽ ban Ngôi Ba Thiên Chúa cho các môn đệ. Khi thì Người nói thẳng là Thánh Thần, khi thì Người nói là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sự Thật. Và sự thật đã ứng nghiệm: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.” (Cv 2, 1-4). Có nhiều, rất nhiều sự kiện minh hoạ cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, nhưng nổi bật nhất, đặc sắc nhất, kỳ diệu nhất là sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Giáo hội ở giai đoạn tiên khởi và cho đến hiện nay:
Ở giai đoạn tiên khởi thì Thánh Thần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ (các Tông đồ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của mình). Đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe (thính giả) làm chứng: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 7-11). Và cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Ki-tô đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 22-23)?
Tuy rằng sự thực hiển nhiên là thế, nhưng vẫn còn và còn không ít những Tô-ma thời đai. Gọi là Tô-ma thời đại vì Tô-ma tiên khởi ngày xưa “không ở với các ông (các môn đệ) khi Đức Giê-su đến” (Ga 20, 24), còn Tô-ma thời đại ngày nay thì cho dù có biết bao nhiêu sự việc, sự kiện, dấu chỉ minh chứng, mà vẫn cứ hoài nghi, vẫn cứ “tưởng Thầy là ma!”, rồi đi tin vào ma mị quỷ quái và cho là thật. Sự thật thì cho là ảo, nhưng ảo lại tin là thật. Thế đấy! Xét cho cùng, cái “ảo” bao giờ cũng đẹp và quyến rũ hơn cái thật và cũng vì thế nên người ta mới mê “ảo” hơn là thích “thật”. Quả thực “mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt” (Gc 1, 14), và càng gặp thử thách thì lại càng bị những thế lực thù địch ẩn trong thế giới ảo cám dỗ nhiều hơn.
Quan trọng là có đứng vững được trước cơn thử thách và vượt qua được hay không, mà thôi. Vâng, “anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn.” (Gc 1, 2-3). Ấy cũng chỉ vì “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.” (Gc 1, 12). Muốn có được sư khôn ngoan chọn lựa giữa một bên là “quả ngọt” (viên đạn bọc đường) và một bên là “trái đắng” (thử thách nghiệt ngã) để có thể đứng vững và vượt qua sóng gió, thì đừng quên vũ khí lợi hại nhất, đó là cầu nguyện (“Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách. Nhưng người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống. Người ấy đừng tưởng mình sẽ nhận được cái gì của Chúa: họ là kẻ hai lòng, hay thay đổi trong mọi việc họ làm.” – Gc 1, 5-8).
Món quà mà Đấng Cứu Thế ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo hội, rất độc đáo, một món quà vô giá! Chính vì thế, Công Đồng Va-ti-ca-nô II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo hội, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Con Thiên Chúa Giê-su Ki-tô là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là yêu thương phục vụ. Do đó những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chia rẽ, ghen tương, đố kỵ, thậm chí dèm pha, hạ bệ lẫn nhau, thù oán, giết hại nhau không bằng gươm giáo… đều là những thể hiện trái ngược với hoạt động của Thánh Thần. Ngoài ra, hoạt động của Chúa Thánh Thần tuy là vô hình, nhưng cũng đã được Giáo hội định tín trong 8 biểu tương sau đây (xc. Giáo Lý HTCG, số 694-701):
694 Nước: Trong bí tích Thánh Tẩy, nước là một biểu tượng đầy ý nghĩa về tác động của Thánh Thần, vì sau khi kêu cầu Thánh Thần, nước trở thành dấu bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: như trong lòng mẹ, chúng ta được cưu mang trong nước; nước rửa tội thực sự nói lên rằng cuộc tái sinh vào đời sống Thiên Chúa được ban trong Thánh Thần. Vì “đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần”, nên chúng ta “đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr 12, 13). Chính Thánh Thần là Nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Ki-tô chịu đóng đinh thập giá (x. Ga 19,34; 1Ga.5,8), và chảy thành sự sống đời đời trong lòng chúng ta (Ga 4, 10.14; 7, 38; Xh 17, 1-6; Is 55, 1; Dcr 14, 8; 1Cr 10, 4; Kh 21, 6; 22, 17).
695 Xức dầu: Biểu tượng xức dầu cũng chỉ về Thánh Thần, đến nỗi trở thành đồng nghĩa với Thánh Thần (1Ga 2, 20.27; 2Cr 1, 21). Trong nghi thức khai tâm Ki-tô giáo, xức dầu là dấu bí tích của phép Thêm Sức; các Giáo Hội Đông Phương gọi là “Xức dầu thánh hiến”. Nhưng muốn hiểu rõ, chúng ta phải trở về với việc xức dầu của Đức Giê-su, việc xức dầu đầu tiên do Chúa Thánh Thần thực hiện. “Ki-tô” (tiếng Hip-ri là “Mê-si-a”) nghĩa là “được Thánh Thần Thiên Chúa xức dầu”. Cựu Ước (Xh 30, 22-32) nói đến những người được Thiên Chúa xức dầu, nổi bật nhất là Vua Đavit (1Sm 16, 13). Nhưng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa xức dầu cách độc nhất vô nhị: nhân tính do Ngôi Con đảm nhận “được Thánh Thần xức dầu” trọn vẹn. Đức Giê-su được Thánh Thần (Lc 4, 18-19; Is 61, 1) đặt làm “Ki-tô”.
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thụ thai Đức Ki-tô nhờ tác động Thánh Thần; khi Ngôi Lời giáng sinh (Lc 2, 11), Thánh Thần dùng các thiên thần loan báo Người là Đức Ki-tô và thúc đẩy ông Xi-mê-on đến đền thờ gặp Đấng Ki-tô Thiên Chúa đã hứa (Lc 2, 26-27). Đức Ki-tô (Lc 4, 1) đầy Thánh Thần, nhờ quyền năng Thánh Thần, Người chữa lành và cứu độ (Lc 6, 19; 8, 46). Cuối cùng chính Thánh Thần làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại (Rm 1, 4; 8, 11). Khi Đức Giê-su trở thành “Ki-tô” trọn vẹn trong nhân tính đã toàn thắng sự chết (Cv 2, 36), Người ban đầy tràn Thánh Thần cho các thánh “để nhờ kết hợp với nhân tính của Người, họ trở thành “Con người hoàn hảo…, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4, 13), thành “Đức Ki-tô toàn diện” theo cách nói của Thánh Au-gus-ti-nô.
696 Lửa: Trong khi nước nói đến việc sinh ra và tính phong phú của Sự Sống được ban trong Thánh Thần, lửa tượng trưng cho năng lực biến đổi do tác động của Thánh Thần. Ngôn sứ Ê-li-a, “xuất hiện như lửa hồng và lời ông như ngọn đuốc” (Hc 48,1); bằng lời cầu nguyện, ông kéo lửa từ trời xuống thiêu cháy hy tế trên núi Cát-minh (1V 18, 38-39). Đây là hình bóng của lửa Thánh Thần sẽ biến đổi tất cả những gì lửa bén tới. Gio-an Tẩy Giả, “người đi trước dọn đường cho Chúa, đầy Thần khí và quyền lực của Ê-li-a” (Lc 1, 17), loan báo Đức Ki-tô là Đấng “sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa” (Lc 3, 16), Đức Giê-su cũng nói về Thánh Thần : “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy bùng cháy lên”(Lc 12,49). Dưới những hình “giống như lưỡi lửa”, Thánh Thần đậu xuống trên các môn đệ sáng ngày lễ Ngũ Tuần và họ được tràn đầy Thánh Thần (Cv 2, 3-4). Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5, 19).
697 Áng mây và ánh sáng: Hai biểu tượng này luôn đi đôi với nhau trong các lần Thánh Thần xuất hiện. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi chói sáng, khi mờ tối, vừa mặc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người – như lúc Mô-sê trên núi Xi-nai (Xh 24, 15-18), trong lều Hội Ngộ (x. Xh 33,9-10) và suốt cuộc hành trình trong hoang địa (Xh 40, 36-38; 1Cr 10,1-2); với Xa-lô-môn dịp cung hiến Đền Thờ (1V 8, 10.12). Những hình bóng này được Đức Ki-tô thể hiện trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Ma-ri-a và “rợp bóng” trên Người, để Người thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su (Lc 1, 35). Trên núi Hiển Dung, chính Thánh Thần đến trong “đám mây bao phủ” Đức Giê-su, Mô-sê và Ê-li-a, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và “từ đám mây có tiếng phán rằng : “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9, 34-35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “che khuất Đức Giê-su” ngày Thăng Thiên (Cv 1, 9) và sẽ mặc khải Người là Con Người trong vinh quang ngày tái lâm (Lc 21, 27).
698 Ấn tín: Ấn tín là biểu tượng gắn liền với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, chính “Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận” (Ga 6, 27) Đức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4, 30). Hình ảnh “ấn tín” đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả “ấn tích” không thể xoá được mà ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh để lại.
699 Bàn tay: Đức Giê-su đặt tay để chữa lành bệnh nhân (Mc 6, 5; 8, 23) và chúc lành cho trẻ nhỏ (Mc 10, 16). Nhân danh Người, các tông đồ cũng làm như vậy (Mc 16, 18; Cv 5, 12; 14, 5). Hơn nữa Thánh Thần được thông ban (Cv 8, 17-19; 13, 3; 19, 6) nhờ việc đặt tay của các tông đồ. Thư Do Thái coi nghi thức đặt tay vào số “các điều căn bản” của giáo huấn của mình. Hội Thánh đã giữ lại việc đặt tay khẩn cầu Thánh Thần trong các bí tích.
700 Ngón tay: Đức Giê-su “nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ” (Lc 11, 20). Nếu ngày xưa “Thiên Chúa lấy ngón tay” ghi lề luật trên bia đá (Xh 31, 18), thì ngày nay Thiên Chúa hằng sống cũng dùng Thánh Thần, để viết “bức thư của Đức Ki-tô” được giao phó cho các tông đồ, “không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3, 3). Thánh thi: “Veni Creator Spiritus” khẩn cầu Thánh Thần như là “ngón tay hữu Chúa Cha”.
701 Chim bồ câu: Cuối lụt hồng thủy (là biểu tượng cho bí tích Thánh Tẩy), chim bồ câu được ông Nô-ê thả ra, khi trở về ngậm một nhánh ô-liu xanh tươi, báo cho biết mặt đất lại có thể ở được (St 8, 8-12). Sau khi Đức Ki-tô nhận Phép Rửa của Gio-an và lên khỏi nước. Thánh Thần, dưới hình chim bồ câu, đáp xuống và ngự trên Người (Mt 3, 16 par). Thánh Thần cũng xuống và ngự trong tâm hồn những người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Trong một số nhà thờ, Thánh Thể được giữ trong một bình bằng kim loại hình bồ câu treo bên trên bàn thờ. Trong các ảnh tượng Ki-tô giáo, hình bồ câu là biểu tượng truyền thống để chỉ Thánh Thần.
Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt giật mình nhớ đến Lời dạy của chính Người đã ban tặng món quà vô giá là Thánh Thần cho Giáo hội: “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 30-32). “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha” ư? Nhưng như thế nào mới là nói phạm đến Thánh Thần? Bí quá, tôi đành mở Giáo Lý HTCG tìm lời giải (Điều 1854-1863: “Tội lỗi: Tội trọng – Tội nhẹ”). Và đây: “Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” (Giáo Lý HTCG, số 1864: “Tội nói phạm đến Thánh Thần”).
Ôi! Lạy Chúa! Xin hãy cứu vớt con, xin “Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con. Lửa tình yêu, lửa huyền siêu Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân. TK: Xin đưa bước con về, tìm chân lý hừng đông chiếu soi. Tìm bóng mát trong tình thương bát ngát, tìm an vui trong bàn tay hiền từ, Chúa dìu đưa.” (Phan-xi-cô – “Hãy chiếu soi” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho ánh huy hoàng rực rỡ của Chúa là chính Ðức Kitô, giãi sáng trên chúng con. Và xin ban sức mạnh của Thánh Thần làm cho tâm hồn con cái Chúa, đã được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy, ngày càng thêm bền vững trung kiên. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, như chúng ta biết sau khi Chúa Giêsu về Trời, thì Chúa Thánh Thần hiện xuống theo Lời Hứa ban Thánh Thần của Chúa Giêsu. Như vậy, Chúa Thánh Thần là ai ?
Vâng, theo sách Tông Đồ Công Vụ ( Cv 2, 1- 11) thì Chúa Thánh Thần chính là sự tác động siêu nhiên bởi Thiên Chúa, hiện tượng hữu hình là “Lưỡi Lửa” và “nói tiếng lạ”. Nhưng, tuy là hiện tượng hữu hình, nhưng, chúng ta thấy sự siêu nhiên xuất hiện trên đó, “Lưỡi Lửa” xuất hiện trên đầu các Tông Đồ, nhưng không bị cháy, đó là một hiện tượng siêu nhiên. Còn tiếng nói bình thường của mỗi người lại được những người nghe dù là các quốc tịch khác nhau vẫn nghe được thổ âm của mình.
Sau đó, các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh, thì chính là mở ra một “ Kỷ Nguyên Thánh Thần”. Bởi vì, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu truyền lại cho các Tông Đồ là : “Hãy đi giảng dạy muôn dân “, nhưng, các Tông Đồ chưa có “dũng khí” để thi hành. Thì đây, “Ngày Lễ Ngũ Tuần”, các ông được đầy tràn Thánh Thần và bắt đầu sứ vụ công khai. Như vậy, sách Tông Đồ Công Vụ là sách “khai nguyên giáo hội công giáo”, trang sử đầu tiên của sứ mạng Kitô giáo dưới sự điều khiển của Chúa Thánh Thần. Như vậy, rõ ràng người ta nói thời kỳ bắt đầu khai nguyên Kitô giáo cho đến tận thế là “Thời đại của Chúa Thánh Thần”.
Như vậy, Ngôi Hai Nhập Thể và cứu chuộc nhân loại, thiết lập nền tảng Kitô giáo, hành trình Nhập Thể và Nhập Thế, Tử Nạn và Phục sinh, lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, thời gian chỉ có 33 năm, một thời gian hữu hình. Vì vậy, thời đại hiện hữu của Chúa Thánh Thần là vô cùng, vô hạn.
Qua trang Tin Mừng ( Ga 20, 19 -23) hôm nay, chúng ta thấy, Chúa Giêsu ban “Bình an“ và ơn “tha tội”, chính là ban “Thánh Thần” ( c 22). Có thể hiểu, ơn “Bình An “ là ơn “Thiên Sai”, còn ơn “Thánh Thần” là ơn “tha tội”.
Vậy, Thánh Thần là Thần Lực siêu nhiên, là ơn “Bình An và Tha Tội”, theo đó, ơn “ tha tội” thật quan trọng biết bao, ơn “tha tội” là ơn Thánh Thần. Ngày nay, được trao cho tất cả mọi linh mục , còn ơn “ Bình An” là ơn “sai đi”, được trao cho các Giám mục là những người kế vị các Tông Đồ. Như vậy, theo đó, các Giám mục, hoặc bề trên đại diện giám mục, mới được quyền “sai đi”, vì giám mục là “nhất phẩm”, còn linh mục là “ nhị phẩm”. như vậy, ơn “Thánh Thần “ phổ cập hơn , vì là ơn “tha tội”, nhưng, để ban “Thánh Thần”, tức ơn “Bình An” thì phải dành cho chức “nhất phẩm”, tức giám mục.
Theo đó, chúng ta hiểu rõ được Chúa Thánh Thần là ai. Vậy, Chúa Thánh Thần chính là : “Lời Hằng sống trong Tân Ứơc”, Đấng hiện diện siêu nhiên trong chân lý và bình an của Đức Giêsu- Kitô. Vì vậy, có thể nói : “Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội”. Bởi vì, bình an và Thánh Thần là nguồn mạch chân lý, sức mạnh và tình yêu duy nhất nơi Thiên Chúa là Cha, được ban qua giáo hội của Đức Giêsu- Kitô.
Bài đọc II , theo thánh Phaolo ( 1Cr 12, 3b -7 ; 12 -13), như vậy , Trong cùng một thân thể , nhưng có nhiều bộ phận khác nhau, nhiều đặc sủng nhưng chỉ có một Thần Khí. Và không ai tuyên xưng Đức Giêsu- Kitô là Chúa mà không do bởi Thánh Thần.
Vâng , thật vậy, Chúa Thánh Thần là “Nguồn mạch dồi dào ơn cứu độ”, bởi vì, Chúa Thánh Thần không đến, ơn cứu độ nơi Đức Kitô không thể phát sinh hoa trái, bởi vì như Chúa Giêsu nói : “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác, để ở cùng anh em luôn mãi” ( Ga 14, 16).
Căn cứ vào Lời “hứa” ban Thánh Thần của Chúa Giêsu- Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, chúng ta biết được ơn Thần Khí của Thiên Chúa quan trọng biết bao ! Vì chính Chúa Giêsu nói : “Thầy không để anh em mồ côi …”. Vâng, mồ côi là một sự đơn độc, lẻ loi, không nơi nương tựa, nói chung không có điểm dừng, điểm đến, điểm tựa nương. Mồ côi là một trạng thái đơn độc, một đặc tính cô đơn, nhưng , thấu hiểu nỗi khổ ấy, chính Đức Kitô, một Vị Thiên Chúa Nhập Thể và Nhập Thế “lo lắng” cho các tông đồ và cho chúng ta. Vì thế, Người đã xin với Chúa Cha ban Thánh Thần cho chúng ta với những ý nghĩa trên, và vì vậy bắt nguồn từ nguyên lý ân sủng vì tình yêu, Chúa Thánh Thần đã đến thế gian, Ngài là nguồn cội mọi ân sủng.
- Chúa Thánh Thần là nguồn cội Đức Tin.
Vâng, mọi ân sủng nơi Thiên Chúa ban qua Đức Kitô- Giêsu, nhưng , nếu không có ơn Thánh Thần, thì ánh sáng đức tin không được lan tỏa, không chiếu sáng, vì đức tin là ánh sáng thật. Nhờ đức tin , phàm nhân có thể làm được nhiều điều phi thường. Hệ quả đức tín được đáp trả từ con người nhân loại, phát ra đức tin là Chúa thánh Thần. Đức tin được phát ra và nhận được từ phía người tin và chiếu tỏa muôn phương là các thánh. Vậy, thánh là sự lan tỏa đức tin từ Thánh Thần, vì các thánh là phàm nhân thì không thể tự mình thánh hóa được, nhờ sức mạnh đức tin, các thánh phản chiếu sự lung linh huyền nhiệm từ Thần Khí Thiên Chúa.
- Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu.
Vâng, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa , vì tình yêu đi đôi với sự sống, không ai sống với thù hận và sinh ra từ thù hận. Tình yêu là nguồn mạch sự thánh thiện, tình yêu không bao giờ nằm trong tội. Lạm dụng tình yêu, làm hư hoại tình yêu vì thỏa mãn tình dục mới là tội, còn tình yêu chân thật luôn trong sáng và tạo nên sự sống. Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh và kiện toàn tình yêu, nếu không có Ngài , con người nhân loại không thể nhận biết và yêu mến Đức Kitô- Giêsu được. Bởi vì, sau các tông đồ, chúng ta không thể diện kiến Chúa Giêsu được. Như vậy, nhờ qua tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có đức tin, từ đó, chúng ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng tạo thành và cứu chuộc chúng ta . Như vậy, Chúa Thánh Thần là nhạc Trưởng và là “Đại ân nhân” của nhân loại trong ơn cứu độ.
- Chúa Thánh Thần là “Đại ân nhân“.
Như được chia sẻ, Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho chúng ta nhận biết, yêu mến, tôn thờ và trung tín với Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội mọi ân sủng, vì vậy, Ngài là Vị” Đại ân nhân” của nhân loại. Dù đảm nhận vai trò “thầm lặng”, nhưng vô cùng quan trọng, vì hằng ngày , hằng giờ, nhân loại nhận biết yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa là nhờ Chúa Thánh Thần tác động. Mọi ơn hoán cải, mọi năng lực siêu nhiên, mọi biến cố lạ thường trong cuộc đời từng người bước theo Đức Kitô- Giêsu là nhờ bởi Chúa Thần. Vì thế, chúng ta phải mến yêu và năng suy đến Chúa Thánh Thần trong việc phụng thờ Thiên Chúa. Theo đó, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 20, 19 -23) thì, Chúa Thánh Thần như một “Qủa Kinh Khí Cầu” có Thần Khí của Thiên Chúa, vì chính Chúa Giêsu “ thổi hơi” trên các Tông Đồ có nghĩa là ban “Thánh Thần” vào giáo hội của Người. Như vậy, thánh là những người làm theo Thần Khí hướng dẫn.
Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất, và xin thắp lên ngọn lửa Tình yêu của Chúa trong lòng chúng con hôm nay ./. Amen
.
Anna Cỏ May
Giữa đường phố mùa đông, người người bước chân thật nhanh, có tiếng yếu ớt trẻ con cất lên:
- Mẹ ơi tay con lạnh quá!
- Ừm, con lạnh lắm phải không, đợi mẹ một chút.
Bà mẹ liền đặt đứa con xuống, nắm lấy hai tay nhỏ xinh tím ngắt của con. Bà lấy hơi ấm của mình sưởi ấm bàn tay cho con bằng cách thổi hơi vào tay con và xoa xoa. Bà làm nhiều lần như vậy, cô bé nhìn mẹ cười và nói:
- Con cám ơn mẹ!
Bà mẹ bế con lên lưng tiếp tục công việc bán rong kiếm sống hằng ngày trên đường phố mùa đông. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh tình mẫu tử. Bà đã làm mọi điều khi con cần đến nỗi quên cả thân mình. Hành động thổi hơi cũng là một phản xạ và nhu cầu của mọi người trong cuộc sống như thổi cho nước nguội, cho lửa cháy lên… Điều đó trở thành hành động quen thuộc của chúng ta.
Chúa Giêsu đã lấy hành động thổi hơi để diễn tả tình yêu của người cha dành cho con. Khi thấy các môn đệ khao khát ơn bình an, niềm an ủi và ơn sức mạnh… Ngài đã đến thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”(x Ga 20, 22-23). Sự thổi hơi của Ngài không đơn thuần là hơi ấm hay sức mạnh tạm thời như chúng ta thường làm, nhưng hơi Ngài thổi là hơi truyền sức sống, hơi sức mạnh,… Tất cả những điều đó có từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng luôn sống và hoạt động cùng Chúa Giêsu. Ngài là Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để thánh hóa và dẫn dắt các ông vững tin tiến bước trên đường sứ mạng. Ngài còn trao cho các ông quyền tha tội cho ai được tha và cầm tội ai bị cầm giữ. Chính lúc các môn đệ được lãnh Chúa Thánh Thần cũng là lúc các ông được hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Giêsu đã trao ban cho các môn đệ tất cả những hành trang cần thiết để đi loan báo Tin Mừng. Điều này cũng chứng thực Chúa Giêsu luôn ở trong các môn đệ và Ngài hiện diện khắp mọi nơi.
Các môn đệ đã truyền lại cho Hội Thánh và Hội Thánh đã ban cho chúng ta ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng đã không ít lần chúng ta đã đánh mất ơn Chúa Thánh Thần. Vì thế, hôm nay mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy mở tâm hồn, trái tim và tâm trí để được gia tăng ơn Chúa Thánh Thần.
Có Đấng Bảo Trợ
Vì tình yêu thương
Đấng đã ngự xuống
Thánh hóa chúng con
Biến đổi mỗi ngày
Dìu dắt bước đi
Trên muôn nẻo đường
Về Cha trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Đấng Bảo Trở là Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con biết đón nhận và cộng tác vào ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, cuộc sống chúng con là bằng chứng cho việc loan báo Tin Mừng. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Chiều hôm nay không giống với những buổi chiều khác. Mặc dù gió vẫn cứ thổi rít qua mang tai, cuốn bụi tung mù mịt, và nắng chiều vẫn nhạt dần rồi nấp mình hẳn sau ngọn núi phía Tây. Thiên nhiên vẫn xoay vần nhịp thời gian mà con người lại mang những nỗi niềm. Chính những nỗi niềm ấy khiến ta thấy cái khác của chiều hôm nay so với mọi chiều khác.
- Buổi chiều lịch sử
Mới chiều hôm nao, các môn đệ sung sướng sánh bước bên Thầy sau một ngày dài mệt mài rảo qua các làng mạc. Thầy chữa bệnh cho bao người và các ông cũng được chung phần vào công việc trọng đại Thầy làm. Được sánh bước bên Thầy, một người danh tiếng lẫy lừng, ai nào chẳng cảm thấy hãnh diện. Dù cho cái nắng ban trưa thiêu đốt, phải làm việc quần quật cho đến chiều tà, có khi chẳng kịp ăn uống gì, mồ hôi thì đẫm vai áo, các môn đệ vẫn không cảm thấy hề hấn gì. Vậy mà chiều hôm nay, các ông nín thinh, “các cửa đều đóng kín bởi các ông sợ người Do thái.” (x. Ga 20,19). Nỗi sợ ập đến và bủa vây, giăng mắc. Các ông như những con chiên giữa bầy sói dữ. Vì sao vậy? Vì Người Mục tử đã bị người ta đóng đinh. Các ông bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt. Rồi đây, những tháng ngày tương lai của các ông sẽ thế nào?
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, các môn đệ đang quây quần bên nhau, không phải để chung chia niềm vui nhưng gần kề bên nhau mong cho nỗi sợ vơi bớt. Người Do thái có thể vẫn đang lùng bắt các ông. Giết được Giêsu, họ nào đâu tha cho các ông, diệt cỏ phải diệt tận gốc. Giữa lúc các ông đang run sợ, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” ( x. Ga 20, 20). Thầy luôn hiểu các ông cần gì. Thầy biết, vắng Thầy là các ông thiếu vắng sự bình an. Thầy chính là bình an mà các ông đang mong đợi. Thầy đến, hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt chứ chẳng phải chỉ là ảo giác của các ông. Các ông không nhìn lầm, tai các ông vừa nghe tiếng nói thân thuộc của Thầy đó thôi. Thầy cho các ông xem tay và cạnh sườn, bàn tay đã chịu đóng đinh và cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu. Chính Thầy đây chứ không phải ai khác. Như trẻ thơ mong chờ mẹ hiền, các ông sung sướng vì được ở bên Thầy.
- Đón nhận sứ mạng
Thầy phục sinh như lời đã hứa. Thầy đã chọn các ông, bên Thầy các ông được dạy dỗ, để các ông nhìn vào cung cách hành xử của Thầy mà sống theo. “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (x. Ga 20, 22). Lời của Thầy khiến các ông hồi hộp. Trước khi nhận lệnh truyền Thầy trao thì lòng các ông sẽ đón nhận bình an đã. Có bình an, các ông sẽ đón nhận lời Thầy như cách Thầy đã đón nhận lời của Cha: vâng phục và yêu mến đến cùng. Thiên Chúa đã dựng nên con người từ bụi đất và thổi sinh khí ban sự sống cho con người. Chiều hôm nay, Thầy cũng thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông để các ông đón nhận sự sống mới. “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữa ai, thì người ấy bị cầm giữ.” ( x. Ga 20, 23). Từ đây, Thánh Thần sẽ hoạt dộng trong tâm hồn các ông, giữa cộng đoàn.
- Thần Khí mới làm cho sống
Ngày hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải chỉ như một biến cố lịch sử nhưng hơn thế, Giáo Hội mở rộng tâm hồn để Thiên Chúa ban tràn đầy Thần Khí. Sứ mạng của Giáo Hội là truyền giáo, muốn thực hiện được sứ mạng ấy, hơn bao giờ hết Giáo Hội luôn cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, để Ngài hoạt động trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội sống nhờ Thần Khí.
Ơn ban “bình an” mà Thánh Thần ban tặng sẽ giúp mỗi người tín hữu bước đi theo Thầy trong tin yêu dù khi gặp những thách đố trong đời sống chứng nhân. Thánh Thần ban “ơn tha tội” để luật yêu thương được trải dài khắp mặt đất và ngự trị trong tâm hồn mỗi người. Có bình an, được quyền tha tội, Giáo Hội “được sai đi” loan báo Tin Mừng muôn nơi. Ơn cứu độ là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, Giáo Hội có sứ mạng sẻ chia món quà ấy cho các anh em của mình.
Lạy Chúa! Trong nỗi sợ hãi trước thế lực bóng tối, xin Chúa ban Thánh Thần Chúa ở cùng chúng con để tâm hồn chúng con được bình an. Sống sứ mạng truyền giáo đòi hỏi mỗi chúng con không ngừng nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa thánh hóa và làm cho sống. Khi sức sống của Chúa tràn ngập trong tâm hồn chúng con, chúng con sẽ không sợ gì nguy khốn. Chúa biết chúng con yếu đuối và bất toàn, xin cho chúng con đầy lửa mến Chúa để ra đi loan báo Tin Mừng cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Cửa nhà đóng kín, tìm nguồn ủi an.
Giê-su xuất hiện sẻ san,
Bình an chúc phúc, Chúa ban ơn lành.
Bàn tay thương tích vết hằn,
Cạnh sườn đâm thủng, dưới vành ngực yêu.
Vui mừng thị kiến mọi điều,
Chết đi sống lại, cao siêu diệu vời.
Thổi hơi nhận lấy lộc trời,
Thánh Thần chân lý, rạng khơi dạt dào.
Bảy ơn nguồn suối ngọt ngào,
Các con tha tội, cao rao tình Người.
Hy sinh chịu chết cứu đời,
Yêu thương tha thứ, cho người trần gian.
Công đầu phúc đức Chúa ban,
Khổ thân chuộc tội, xóa tan hận thù.
Các con cầm tội đền bù,
Tội kia cầm lại, tỉnh tu sửa mình.
Cầu xin ân sủng Thánh Linh,
Soi lòng mở trí, thanh minh tâm hồn.
Henry Maning, một mục sư Anh Giáo, rất nổi tiếng về việc giảng thuyết và viết sách. Một ngày nọ có người bạn thân đến thăm và bình luận về các tác phẩm của mục sư. Ông bạn khen rằng các tác phẩm rất hay, nhưng không có dòng nào nói về Chúa Thánh Thần. Người bạn nghĩ đây là một thiếu xót lớn. Henry để tâm suy nghĩ lời của bạn trong hai năm tiếp theo. Rồi Henry miệt mài học hỏi về Chúa Thánh Thần. Ông đã khám phá ra ánh sáng chân lý. Henry đã trở về với Giáo Hội Công Giáo, chịu chức linh mục và rồi sau trở thành Tổng Giám Mục Westminster, Anh Quốc. Tiếp sau ngài trở thành Hồng Y và tham dự Công Đồng Vatican II.
Chúa Thánh Thần được sai đến trên các Tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Được đầy tràn Thánh Thần, các Tông đồ bắt đầu ra rao giảng làm chứng nhân cho Chúa. Đây là sự khai mở của Giáo Hội đến với muôn dân. Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển Giáo Hội. Thánh Thần ban cho các tông đồ và môn đệ nhiều thứ ân sủng khác nhau. Mỗi ân sủng đều sinh lợi cho đời sống chung của Giáo Hội, người thì nhận ơn nói tiếng lạ, kẻ thì được ơn chữa bệnh, người được ơn làm phép lạ hoặc nói tiên tri. Cùng một Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội với nhiều ân huệ để giúp mang đến lợi ích chung qua mọi thời.
Chúa Thánh Thần tiếp tục thánh hóa và canh tân Giáo Hội. Ngài luôn soi trí mở lòng Giáo Hội để cùng đồng hành với sự phát triển văn minh của nhân loại. Thánh Thần giúp Giáo Hội đi trong sự thật. Chính Ngài là nguồn chân lý. Chúng ta biết rằng chân lý không đến từ quyết định của đám đông, đa số hay dư luận chung, nhưng là do chính Chúa Thánh Thần tác động.
Có nhiều khi chúng ta than van nói rằng sao mà Giáo Hội quá cổ hủ. Không thích ứng với những trào lưu và đòi hỏi của con người thời đại. Giáo Hội qúa ngặt nghèo và khó khăn giải quyết những nhu cầu trong cuộc sống của các tín hữu. Nhiều người đã từ bỏ và chọn con đường dễ dãi hơn.
Hãy tin tưởng rằng Chúa không bỏ chúng ta mồ côi. Thần Chân Lý sẽ hoạt động nơi chúng ta và hướng dẫn chúng con trong sự thật. Chúng ta không sợ lầm lạc trong bóng tối của thế gian. Cầu Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ tìm được sự bình an và chân lý đích thực.
.
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu gặp gỡ các tông đồ, trước ngày Chúa chia tay các ông để về lại với Cha, đấng ngự trên trời. Và cũng là lúc Chúa trao ban Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa ngự đến trên các ông và mọi người.
Chúa thấu suốt lòng các đồ đệ của mình, trong lúc các môn đệ lo sợ, Ngài đã lên tiếng trấn an, nâng đỡ để các ông khỏi xao xuyến khi Ngài không còn hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, chỉ bảo các ông. “Bình an cho anh em “, một lời cầu chúc khiến các ông thật an lòng. Và còn phấn khởi hơn nữa khi Ngài lặp lại lần thứ hai: “Bình an cho anh em “ cùng với việc tin tưởng giao nhiệm vụ mới :”Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em “. Còn gì sung sướng cho bằng những học trò được Thầy mình tín nhiệm, ủy thác. Mà đâu chỉ là những lời dặn dò, ủy thác. Chúa còn trao ban Thần khí của Ngài :”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,; anh em cầm giữ ai , thì người ấy bị cầm giữ “. Chính từ sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa đã đổi mới con người các ông, mà còn đổi mới mặt địa cầu.
Ngày hôm nay, Chúa không hiện diện hữu hình nơi trần gian nữa, nhưng trong lòng tin, dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà biết bao người đã tin theo Chúa. Biết bao các đấng Thánh, khởi đi từ các Tông đồ ngày ấy, cho đến các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ hay giáo dân vì đã tin vào Chúa nên đã thực hiện được những điều Chúa đã từng làm khi còn tại thế: Cứu chữa những người tật bệnh, đói nghèo. . .Đem lại niềm vui cho bao người khốn khổ, thất vọng, ngã lòng . . .Sẵn sàng đổ máu mình để làm bằng chứng cho tình yêu thập giá.
Một Mẹ Tê- rê-xa Can-quýt-Ta Ấn Độ , một Linh mục Mac-xi-mi-li-a Kô Bê người Ba Lan, một Tổng Giám Mục Rô-Mê-Rô người Braxin, hay một người Việt Nam chúng con đây, Đức Hồng Y Phan-Xi-Cô Xa-vi-ê Nguyễn văn Thuận và mới đây nhất hai Đấng Thánh Giáo hòang Yoan XXIII, Yoan –Phao-Lô II cùng biết bao vị khác đã đón nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, nhận bài sai từ Chúa Giêsu, đã làm chứng cho Chúa, đã đưa biết bao người tin nhận Chúa. Giúp xua đi bao khổ đau và đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ.
Xin Chúa Thánh Thần luôn củng cố niềm tin cho chúng con, xin Ngài đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để mỗi người, từng người chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa trong thế giới này.
Xin Thánh Thần Thiên Chúa đốt lên trong con ngọn lửa sốt mến để con biết đáp lại lời “Thầy cũng sai anh em”, biết đem sự bình an của Đức Kitô đến những người còn chưa được đón nhận Tin mừng, góp phần cùng với mọi tín hữu tạo dựng trời mới đất mới ngay từ cuộc sống trần gian và mai ngày con sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trong nước trời . AMEN .
.
AM. Trần Bình An
Năm 1784, chính trị gia nổi tiềng Mỹ Benjamin Franklin đã vẽ ra viễn cảnh về một lực lượng “thiên binh” khi viết: “Liệu có nhà lãnh đạo nào có thể rải quân khắp nơi để bảo vệ đất nước và ngăn chặn hàng chục ngàn binh lính từ trên trời rơi xuống làm loạn trước khi một lực lượng lớn được điều đến để đẩy lui họ?”
Cho đến đầu thế kỷ 19, những chiếc dù sơ khai do con người sáng tạo nên vẫn không phù hợp để thả người từ trên máy bay xuống đất. Rất nhiều tai nạn thương tâm đã xảy ra khi những chiếc dù này, mở ngay tức thì sau khi người nhảy lao ra khỏi máy bay và bị vướng vào cánh quạt. Chính điều đó đã thôi thúc một diễn viên người Nga tên là Gleb Kotelnikov sáng tạo ra một loại dù mới đựng trong ba-lô, cho phép người nhảy có đủ thời gian an toàn để bung dù sau khi nhảy ra khỏi máy bay.
Sau phát minh này của Kotelnikov, chiếc dù cải tiến của ông đã trở thành một thiết bị cứu mạng vô giá cho rất nhiều phi công trên khắp thế giới, và dần dần nó thu hút sự chú ý của giới quân sự nhằm hiện thực hóa ý tưởng về một lực lượng “thiên binh”xuất quỷ nhập thần.
Đầu năm 1917, sĩ quan Winston Churchill, người hồi đó là Tư lệnh quân đội Anh ở Pháp, đã đề xuất thành lập một trung đoàn bộ binh có thể được thả xuống bằng máy bay vào phía sau phòng tuyến địch để phá vỡ thế bế tắc khủng khiếp trên chiến trường mặt trận phía Tây.
Churchill không phải là người duy nhất có ý tưởng này. Tướng Billy Mitchell, chỉ huy lực lượng Không quân Mỹ trong Thế chiến I đã lên kế hoạch trang bị dù cho Sư đoàn Bộ binh số 1 và thả họ bằng máy bay ném bom cải tiến, xuống vùng Mert ở Pháp nhằm phá vỡ phòng tuyến của quân Đức.
Sau Thế Chiến I, quân đội các nước trên thế giới mới bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của lực lượng “thiên binh” và bắt đầu tổ chức các lực lượng lính dù được huấn luyện đặc biệt của mình. Đến những năm 1930, Liên Xô đã xây dựng dựng cho mình một lực lượng lính dù cực lớn.
Năm 1933, Hồng quân Liên Xô thực hiện cuộc diễn tập nhảy dù đầu tiên trong lịch sử với sự tham gia của 62 lính dù. Ba năm sau, một cuộc diễn tập nhảy dù quy mô lớn với hơn 1000 quân tham gia được Hồng quân tổ chức, và họ thậm chí còn thả cả một đơn vị thiết giáp xuống, bằng dù để yểm trợ cho lực lượng “thiên binh”.
Các động thái của Liên Xô được nhiều nước khác trên thế giới quan tâm và theo dõi sát sao. Trong thập niên 1930, các cường quốc như Nhật Bản, Đức và Ý đã đi theo thành công của Liên Xô, để tiên phong xây dựng các lực lượng lính dù chính quy. Quân đội Pháp cũng thành lập các đơn vị lính dù đặc biệt, trong đó có một đại đội gồm 200 lính dù nữ được huấn luyện để làm công tác cứu thương nơi tiền tuyến.(Trí Dũng, Lính dù, những “thiên binh” xuất quỷ nhập thần, khámphá. VN)
Lính dù đem đến sức mạnh phi thường, cũng như “thiên binh.” Vì yếu tố bất ngờ, vì ở sau lưng kẻ địch, vì trang bị võ khí vượt trội, nên được mệnh danh là thiên thần mũ đỏ bách chiến, bách thắng. Hôm nay, các tông đồ được Chúa Thánh Thần tăng lực, đổi mới, bỗng dưng trở nên chiến binh chuyên nghiệp cừ khôi, không hề sợ bất kỳ trở ngại nào, dù quyền lực thế gian bao năm thống trị.
Bình an tâm hồn
“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con!”
Giữa khung cảnh thù địch, các môn đệ thủ thế, cửa đóng then gài, lòng động lòng lo. Vì không sống theo thế gian gian tà, theo bả phù vân, không theo cám dỗ, nên các tông đồ bị thế gian tẩy chay, khai trừ, giết chết. “Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ, chúng sẽ chạy xa anh em.” (Gc 4,7)
Bình an sứ vụ
“Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Không những Đức Giêsu vô tội, còn bị thế gian bêu riếu, mạ lỵ, chống báng, thậm chí bắt bớ, giam cầm, hành hạ, rồi xử oan, đem hành hình, nên các số phận các tông đồ cũng không khác chi. “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bêendêbun, huống chi là người nhà.” (Mt 10, 24-25)
Bình an của Chúa Thánh Thần.
“Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Bình an của Đức Chúa Thánh Thần là một trong 12 hoa quả của Chúa Thánh Linh, dựa theo đoạn văn Gl 5,22-23, được sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo liệt kê lại. Đó là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết.“
Nếu trong lần sáng tạo thứ nhất, Thiên Chúa “thổi hơi” vào Ađam, ông liền có sự sống, thì trong lần sáng tạo thứ hai, Chúa Kitô Phục Sinh “thổi hơi” vào các môn đệ, các ông có sự sống mới của Chúa Thánh Thần. Qua đó, Chúa Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần cho Giáo Hội, nghĩa là ban sự sống mới. Nhờ Thánh Thần, các môn đệ được tha tội và được quyền tha tội, vì tội là nguyên nhân làm cho con người phải chết. (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương, Chúa Thánh Thần, Quà tặng của Đấng Phục Sinh)
Sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban, sẽ soi sáng các dự định của con, sẽ hướng dẫn các chương trình của con, sẽ biến đổi các hành động của con thành giá trị vĩnh cửu, sẽ làm con người con bất tử, trường sinh. (Đường Hy Vọng, số 553)
Lạy Chúa Giêsu phục sinh xin thổi hơi Thánh Thần canh tân, ban cho chúng con được ơn tái sinh, sống trung thành Tin Mừng.
Khấn xin Mẹ ban đầy tràn cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, như ngay khi Mẹ cưu mang Đức Giêsu trong lòng. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Khi nhắc tới chuyện yêu thương, đa số người ta sẽ nghĩ đến tình yêu đôi lứa, vì sự cao đẹp, khỏe mạnh, nồng nhiệt, dễ dàng thuyết phục hơn cho mọi suy tư và thực hành. Khi nói về tình bạn, chúng ta thường nói tới bạn tri kỷ, bạn cùng chí hướng, cùng sở thích ; thực ra thì tình yêu hay tình bạn đều đẹp và đáng trân trọng, nếu chữ tình có tính bền vững. Người xưa lại có câu: cũ người mới ta, ngụ ý cho rằng con người luôn khao khát cái mới và loại trừ cái cũ, hiểu tích cực một chút thì ai cũng có cơ hội để diễn tả ngôn ngữ, cách hành xử của mình thật tinh tế và sống động.
Mỗi một năm, người ta có khuynh hướng bỏ đi những đồ dùng cũ, xua đuổi được nhiều mâu thuẫn bất đồng trong tư tưởng, hàn gắn được nhiều quan hệ gia đình xã hội tốt đẹp, cụ thể một chút, thời gian đang là bạn đồng hành trợ giúp ta trưởng thành hơn trong nhân cách. Không phải chỉ là mơ ước hay đòi hỏi về tính mới mẻ tri thức, nhu cầu tâm linh được an vui, được thấu hiểu về giá trị của cuộc sống luôn cần đến tình yêu thương. Xã hội luôn cần mỗi người hãy nâng cao tinh thần trách nhiệm với tổ quốc, thì gia đình cũng nhắc nhớ mỗi người phải ý thức tới đức công bằng đối với cộng đồng tính nữa. Trong khi các tông đồ đóng cửa vì sợ người Do-thái, Đức Giêsu đến bên các ông để tăng cường sức mạnh thiêng liêng, nhằm củng cố niềm tin, giúp các ông khám phá ra một năng lực mới là Thánh Thần tình yêu.
Dù các học trò đang cần đến uy quyền hay binh lực để thắng sợ hãi, Đấng phục sinh lại trao ban bình an, Ngài muốn các ông phải mở cửa trí lòng đón nhận ơn ban mới. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, năng lực mới, ngôn ngữ mới, tình yêu mới, đó là sức sống, là uy quyền mà các ông đang cần để vượt qua những lo lắng sợ hãi. Điều các học trò đang cần, Đấng phục sinh biết rõ hơn ai hết, đó chính là tình yêu, là ơn ban: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Tính thuyết phục đối với các tông đồ không phải là khiếu nại, hay đòi hỏi lời giải thích, nhưng sự thinh lặng, cầu nguyện, chờ đợi, đó là thứ ngôn ngữ vâng phục đức tin giúp các ông sẽ được hết ơn này đến ơn khác.
Sau lời trấn an, và sau mệnh lệnh làm chứng nhân cho tình yêu, các tông đồ không phải tưởng tượng về những ơn ban nữa, các ông đã cảm nhận rõ dàng hơn về thứ ngôn ngữ mới, dồi dào hồng ân Thánh Thần. Đấng phục sinh đã giúp các học trò mở cửa trí lòng, Ngài cũng giúp các ông mở cửa phòng sợ hãi để ra đi thực hiện lệnh truyền: “các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Tinh thần cao đẹp của người môn đệ sẽ mãi mãi không phải là theo ý riêng của mình, mà tùy thuộc vào thứ ngôn ngữ mới của hành động yêu thương do Thánh Thần soi sáng thúc đẩy.
Nếu quan niệm của dân tộc Do-thái là tự hào vì được gọi là con cháu của Tổ phụ Abraham, hoặc người Việt Nam vẫn tự hào mình là dòng tộc của Rồng-Tiên, chắc hẳn cần phải có niềm tin sống động, mới đủ minh chứng được thế nào là phúc đức. Đấng phục sinh đã vượt qua đau khổ sự chết để biến đổi các học trò và nhân loại tội lỗi chúng ta, Ngài cũng đang dùng tình yêu Thánh Thần để khai mở ngôn ngữ và sức sống mới cho sứ mạng của các học trò của chúng ta. Nếu Đấng phục sinh đã dùng ngôn ngữ của trái tim để bày tỏ nguồn ơn Bí tích cho nhân loại, Ngài cũng đã dùng ngôn ngữ Thánh Thần để biến đổi các môn đệ, củng cố sức mạnh tâm hồn cho những ai tin theo Chúa.
Ngôn ngữ mới mà Thánh Thần khai sinh Giáo hội, cũng là thứ ngôn ngữ yêu thương người trẻ, người cao niên, và tất cả những ai đang sử dụng để đạt đến đích điểm của niềm vui hạnh phúc. Nếu như Xuân Diệu nói: đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một người nào, cha ông chúng ta lại có câu: bán họ hàng xa, mua láng giềng gần, thật là tinh tế. Nếu người quân tử lấy ân nghĩa để sống, kẻ tiểu nhân vẫn dùng thủ đoạn để đạt mục đích, thì hóa ra hạnh phúc ở trần gian này là tùy quan niệm của cá nhân. Ngày hôm nay, Đấng phục sinh hẳn vẫn đang quả quyết: đố ai sống được mà không yêu, đố ai làm môn đệ, làm bạn hữu của Đức Giêsu mà vắng bóng yêu thương, mà không có Thánh Thần. Đố ai hạnh phúc thật mà thiếu ơn Chúa tác động. Hiểu biết và tin tưởng vào ngôn ngữ của Thánh Thần, cũng chính là tự do, là phản ánh của tình yêu Đấng Phục sinh, là cảm nhận mới mẻ trong bình an Thánh Thần dồi dào nơi cuộc đời chúng ta. Amen.
.
THÁNH THẦN GIÚP CHU TOÀN SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 20,19-23
(19) Vào chiều ngày ấy, Ngày Thứ Nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì Người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
- Ý CHÍNH:
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để ban bình an và niềm vui cho các ông, khi ấy đang mang tâm trạng hoang mang sợ hãi (19), chứng minh Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (20). Cuối cùng người còn ra lệnh cho các ông tiếp tục sứ mệnh thừa sai của Người (21b). Để hỗ trợ cho các ông đủ khả năng chu toàn sứ mệnh “được sai đi”, Người đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha thứ hay cầm giữ tội của người ta (22).
- CHÚ THÍCH:
– C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Đức Ki-tô hiện đến trong lúc phòng vẫn đóng kín. Điều này cho thấy thân xác phục sinh của Người có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Đức Giê-su Phục Sinh cũng là Đấng đã bị đóng đinh chân tay vào thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này cho thấy có một sợi dây liên kết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
– C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Chúa Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả các tín hữu. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sinh khí hay sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các Giám Mục, kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
- CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay Hội Thánh chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Ngày Thứ Bảy (Sabát) như đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly đang khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Người sau khi sống lại có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào chúc, Chúa Phục Sinh đến đã đem lại điều gì cho các môn đệ ? 4) Qua việc cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ ai và khi nào ? 6) Tại sao Chúa Giê-su lại thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Chúa Giê-su có quyền tha tội và Người thiết lập bí tích Giải tội để trao quyền tha tội cho Hội Thánh khi nào ?
- HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tin Mừng Gio-an thuật lại rằng: Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Ga 20,22), còn sách Công Vụ lại nói: Thánh Thần xuất hiện dưới dạng một tiếng động như tiếng gió mạnh và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa đậu xuống trên từng người vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-3). Như vậy thực ra Thánh Thần đã hiện xuống trên các Tông Đồ vào lễ Phục Sinh hay lễ Ngũ Tuần ? Thánh Thần đã tác động thế nào trên Cộng Đoàn đầu tiên ?
** ĐÁP:
Thực ra Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các Tông Đồ ngay từ “buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần”. Vì sau khi phục sinh, Người không còn bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nữa, nên đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha và được Chúa Cha tôn vinh, nên Người đã ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay lúc đó rồi (x. Ga 7,39). Nhưng phải chờ tới ngày lễ Ngũ Tuần, tức là 50 ngày sau Phục Sinh, Thánh Thần mới phát huy tác dụng, khi các ông đã chuẩn bị tâm hồn đầy đủ bằng việc nghe lời Chúa Phục Sinh dạy bảo Thánh Kinh và xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người; nhất là sau khi các ông “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14).
Sách Công Vụ đã thuật lại việc Thánh Thần tác động trên Cộng Đoàn đầu tiên như sau: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi. Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy Ơn Thánh Thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
HỎI 2: Tại sao Thánh Thần lại tác động trên các Tông đồ đúng vào lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái, tức 50 ngày sau khi Chúa Giê-su sống lại ? Có liên hệ nào giữa hoạt động của Thánh Thần với ý nghĩa của lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái hay không?
** ĐÁP:
Tuy Đức Giê-su sau khi sống lại đã hiện ra vào chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần, trùng với lễ Vượt Qua của đạo Do thái, nhưng phải đợi đến ngày thứ 50, trùng với lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần mới tác động trên các Tông Đồ vì những lý do như sau:
+ Thiết lập giao ước: Trong Cựu Ước, Lễ Ngũ Tuần ban đầu là ngày lễ của nông dân, tạ ơn Đức Chúa về các hoa màu mùa màng (x. Xh 23,16). Về sau dân Do thái ăn mừng lễ này để kỷ niệm việc Đức Chúa ban Lề Luật và ký kết giao ước Xi-nai với họ. Thời Tân Ước vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã được Đức Giê-su ban cho các Tông Đồ vào chiều ngày phục sinh, giờ đây đã phát huy tác dụng trên các ông, như sách Công vụ thuật lại. Như vậy có thể nói: lễ Hiện Xuống chính là lễ Ngũ Tuần của Tân Ước.
+ Thành lập dân riêng mới: Cũng như trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã ký giao ước Xi-nai và ban Lề Luật vào lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau biến cố Vượt Qua, biến dân Ít-ra-en thành dân riêng của Người, thì đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã hiện xuống vào 50 ngày sau biến cố Phục Sinh, trùng với lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái, để tác động, làm cho Hội Thánh trở thành dân riêng mới của Thiên Chúa.
HỎI 3: Qua các hình dạng được diễn tả trong sách Công Vụ như: “Từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp, và xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,2-4), tác giả Sách Thánh muốn diễn tả điều gì về hoạt động của Chúa Thánh Thần ?
**ĐÁP:
+ Tiếng động như tiếng gió mạnh: Ám chỉ Thánh Thần là Đấng thiêng liêng vô hình, giống như gió mà người ta không thể xem thấy, mà chỉ cảm nhận được hiệu quả của nó mà thôi (x. Ga 3,8). “Gió mạnh” tượng trưng cho sức mạnh của ân sủng và tình yêu của Thánh Thần. Sức mạnh ấy sẽ giúp các môn đệ làm được những việc lớn lao hơn Đức Giê-su, nghĩa là ban cho các ông khả năng loan báo Tin Mừng khắp thế gian cho mọi dân tộc, đang khi Đức Giê-su chỉ mới rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân Do thái tại xứ Pa-lét-tin.
+ Lưỡi lửa: Lưỡi là bộ phận dùng để nói. Lưỡi lửa ám chỉ lời nói của các Tông đồ sẽ có tác dụng như lửa: vừa tẩy sạch tâm trí người nghe khỏi những tư tưởng sai lầm để nghe biết chân lý, vừa hun đúc tâm hồn người nghe để họ tin vào Lời Chúa.
+ Nói các thứ tiếng khác: Là ân huệ đầu tiên của Thánh Thần. Vậy các Tông đồ nói tếng lạ thế nào ? Chắc không phải là thứ tiếng lạ khác thường, vì khi nghe các Tông đồ nói thì “Người ta hiểu được bằng tiếng mẹ đẻ của mình” (Cv 2,6; 1 Cr 14,5). Ở đây, Lu-ca có ý nói rằng: Các Tông đồ được ơn ngôn ngữ, nghĩa là ơn diễn tả về Thiên Chúa cho người khác hiểu được, làm cho người ta trở nên hiệp nhất thay vì chia rẽ nhau như con cái lòai người thời kỳ xây tháp Ba-ben (x. St 11,1-9). Cuối cùng, ơn ngôn ngữ của các Tông đồ còn giúp Hội Thánh mang tính phổ quát nghĩa là rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc (x. Cv 2,9-11).
HỎI 4: Ngày nay, khi chịu phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, Thánh Thần sẽ ban những ơn gì cho các tín hữu ?
** ĐÁP:
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ đến hoạt động trong các tín hữu chúng ta.
+ Thánh Thần sẽ thông ban dồi dào sự sống của Thiên Chúa cho chúng ta, biến đổi chúng ta nên Ki-tô hữu trưởng thành về đức tin, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cho chúng ta hiểu biết đầy đủ về giáo lý của Chúa Giê-su, hầu giúp chúng ta giữ nghĩa cùng Chúa luôn và ngày càng nên hoàn thiện hơn, như lời Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho chúng ta được tham dự vào sứ mệnh của Chúa Giê-su bằng ba việc: rao giảng (Ngôn sứ), thánh hóa (Tư tế), và cai quản dân Chúa (Vương đế). Chúng ta làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói, việc làm và bằng chính đời sống tốt lành của mình, nhờ đó sẽ giúp lương dân nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
+ Thánh Thần sẽ hoạt động trong chúng ta bằng việc ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp chúng ta nên thánh. Đó là các ơn: khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).
- CÂU CHUYỆN:
1) NGƯỜI GIEO TRỒNG CẢ CÁNH RỪNG SỒI:
Vào thập niên 1930, có một thanh niên một mình đi thám hiểu dãy núi AN-PƠ (Alpes) nước Pháp. Anh ta đi ngang qua một dải đất đồi trọc rộng mênh mông. Dải đất này vừa hoang vắng không người lai vãng, lại vừa mấp mô xấu xí và không đáng để người ta quan tâm. Bỗng nhiên anh ta thấy một ông già đang khòm lưng làm việc, trên vai đeo một cái túi khá nặng chứa đầy hạt sồi. Tay ông cầm một khúc ống sắt dài khoảng 1m20. Ông đang dùng ống sắt ấy đâm sâu xuống mặt đất, làm thành những chiếc lỗ cách nhau khoảng 3 mét, Rồi ông thò tay vào túi hạt sồi lấy ra một nắm đặt vào mỗi lỗ một hạt. Khi anh thắc mắc thì ông giải thích như sau: “Nhà tôi ở trong vùng đất hoang vu này. Trước kia tôi cũng có gia đình. Nhưng vợ và 3 đứa con của tôi đã lần lượt bị chết do một dịch bệnh cách đây gần một năm. Sau khi vợ con chết hết, tôi buồn bã chán nản không thiết làm việc trồng tỉa như truớc, mà suốt ngày chỉ đi thơ thẩn khắp vùng này để giải khuây. Một hôm tôi đi ngang qua khu vực đồi trọc rộng bao la này và muốn làm một việc gì đó để đời mình có ý nghĩa. Tôi nảy ra ý định sẽ gieo hạt giống từ cây sồi trong vườn sau nhà, để phủ xanh khu vực đồi trọc này. Tuy biết mình đã lớn tuổi chẳng còn sống được bao năm và không có người thừa kế, nhưng tôi vẫn cố gắng làm việc này với hy vọng sẽ để lại cho thế hệ mai sau một quả đồi đầy những cây sồi. Đến nay, sau một năm miệt mài gieo trồng, tôi ước tính đã gieo được cả trăm ngàn hạt sồi xuống đất. Chỉ cần một phần mười số hạt này mọc lên thôi, thì tôi cũng đã mãn nguyện lắm rồi”.
Hai mươi năm sau, anh thanh niên kia giờ đã trở thành một người trung niên. Một lần, khi đi ngang qua khu vực này. Ông ta sửng sốt khi thấy khu vực đồi trọc hoang vu trước đây hai chục năm giờ đã biến thành một khu rừng sồi rất đẹp, rộng hai dặm và dài khoảng năm dặm. Tại khu rừng sồi này có nhiều lòai chim làm tổ và chạy nhảy trên cành ca hát líu lo. Nhiều loài thú hoang như hươu nai cũng đang nhởn nhơn gặm cỏ. Hoa sồi nở rộ khắp nơi lan tỏa mùi thơm khắp vùng. Toàn cảnh khu vực giống như một địa đàng. Ông nhận định rằng: Sở dĩ có được thành quả tốt đẹp này là do bàn tay của ông lão tốt bụng hai mươi năm trước đã để lại.
Lễ Hiện Xuống cũng là một lời mời gọi các tín hữu chúng ta hành động để góp phần xây dựng và mở rộng Nước Chúa đi khắp hòan cầu. Tuy không có khả năng làm thay đổi thế giới, nhưng chúng ta vẫn có thể biến đổi được phần nào ngay tại môi trường sống của mình, giống như ông lão trong câu chuyện trên đã làm. Mỗi chúng ta đều đã được Chúa ban cho một túi hạt sồi ân sủng và một khúc ống sắt tài năng khi lãnh nhận phép Thêm Sức. Chỉ cần một chút can đảm của ông lão trồng sồi, cùng với ơn Thánh Thần hỗ trợ, chúng ta cũng có thể góp phần làm cho thế giới ngày một an ninh trật tự hơn, công bình nhân ái hơn và tốt đẹp thịnh vượng hơn.
2) THÁNH THẦN SẼ CHO BIẾT Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG:
Có một nhà hiền triết nọ khi đi lang thang trong rừng, đã không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống?
Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối. Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết nghe các loài vật phát biểu tỏ vẻ hốt hoảng và chạy trốn ra khỏi khu rừng để khỏi phải nghe những tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn vẫn chưa được giải quyết ngã ngũ. Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán. Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ Chúa Giê-su đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Nhờ ơn Thánh Thần ban, chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải trên mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để mở ra một chân trời mới hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin, chúng ta sẽ có được một cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, và biết xử dụng chúng để xây dựng một cuộc sống mới.
3) THÁNH THẦN CHÍNH LÀ THẦN KHÍ BAN SỰ SỐNG:
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng. Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng như lần trước.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người đệ tử đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất ngờ, vị linh đạo đã túm lấy anh và cố dìm anh xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lại lên mặt nước. Bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh rằng: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không chút suy nghĩ, anh đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần không khí để thở”. Lúc bấy giờ vị linh đạo liền dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa giống như con cần có khí trời để thở phải không? Nếu con cảm thấy cần như thế, thì con sẽ lập tức gặp được Ngài. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
4) THÁNH THẦN SẼ MANG LẠI BÌNH AN THỰC SỰ CHO TÂM HỒN
Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức mà ông phải chọn lấy một.
Bức tranh thứ nhất vẽ cảnh một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng bay lơ lửng. Mọi người hiện diện đều đánh giá đây là bức tranh diễn tả sự an bình thật sự.
Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi cao nhưng không cây cối và lởm chởm đầy những tảng đá xám xịt. Bầu trời trên cao đang giận dữ đổ mưa lớn kèm theo sấm chớp sáng lòe. Bên vách núi có một dòng thác đổ nước mưa xuống nổi bọt trắng xóa. Bức tranh xem ra chẳng chút bình an. Nhưng khi đến gần quan sát kỹ, nhà vua nhìn thấy phía sau dòng thác có một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang giang rộng đôi cánh ủ ấp mấy chú chim con. Dù giữa dòng thác đang trút nước ầm ầm mà chim mẹ vẫn ấp ủ bảo về lũ con của mình. Điều này đã diễn tả sự an bình nội tâm thực sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Vì sự bình an không chỉ là nơi không có tiếng ồn ào, không gặp khó khăn cực khổ. Bình an tâm hồn chính là : dù đang sống giữa phong ba bão táp, mà người ta vẫn an bình chu toàn bổn phận với tình yêu của mình.
5) ĐỔI MỚI PHƯƠNG CÁCH LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY:
Từ ngày 20.03.2014 đến nay, các phương tiện truyền thông đã nhiều lần nhắc đến tên tuổi của một nữ tu: sơ CRIS-TI-NA SCUC-CI-A, 25 tuổi, thuộc Hội Dòng UR-SU-LINE THÁNH GIA, thành phố Mi-la-no nước Ý. Đơn giản chỉ vì sơ tham gia chương trình The voice of Italy của đài TV RAI 2 mùa giải năm nay và đã vượt qua được những vòng thi đầy hứng thú. Ở vòng giấu mặt, khi nghe sơ hát bài hit “No One” của Alicia Keys, cả 4 giám khảo (2 nam, 2 nữ) đều nhanh chóng quay mặt lại, tròn xoe đôi mắt kinh ngạc từ chăm chú đến thích thú. Trên YouTube, màn trình diễn của sơ chỉ qua ba ngày đã đạt 13 triệu lượt xem. Tính đến nay, số lượt xem đã hơn 49 triệu. Alicia Keys, tác giả bài hát đã bày tỏ sự thán phục bằng chữ “beautiful”. Diễn viên nổi tiếng Whoopi Goldberg, vai chính trong phim “Sister Act” cũng ghi lời tán thưởng. Đặc biệt, Hồng y Gian Franco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa, trên trang Twitter đã khích lệ bằng một câu Kinh Thánh: “Mỗi người hãy dùng ơn Chúa ban để phục vụ người khác (1Pr 4,10)”.
Giải thích về việc tham gia cuộc thi, sơ Cris-ti-na cho biết: “Vì ĐGH Phanxicô kêu gọi hãy mang tiếng nói của Chúa đến với mọi người”. Báo chí dựa vào đây để khẳng định tiếng hát của sơ là cách đem Chúa đến với mọi người trên thế giới hôm nay, nhất là các bạn trẻ vốn gần gũi với ngôn ngữ âm nhạc, đồng thời cũng cho thấy dẫu là môi trường đời hay ngay cả những bài hát đời, nếu trình bày với hết tâm hồn, cũng có thể quy hướng người ta về nguồn chân thiện mỹ là chính Thiên Chúa. ĐGH Phanxicô đã kêu gọi công cuộc truyền giáo mới ngày nay rất cần đến nhiệt tình mới, phương pháp mới và ngôn ngữ mới. Hát chính là một trong những ngôn ngữ hiệu quả rất nên được khai thác và sử dụng khi thi hành sứ vụ truyền giáo. Kinh nghiệm, các chị em cũng biết đó: người ta thuộc lời bài hát hơn là nhớ lời bài giảng!
Sơ Cris-ti-na đã dùng đặc sủng Chúa Thánh Thần ban cho mình để sống chứng nhân cho Chúa như sơ đã phát biểu khi có người thắc mắc lý do nữ tu lại tham gia ca hát như sau: “Tôi có một món quà để trao tặng. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.
- SUY NIỆM:
1) Quyền năng và sức mạnh của Thánh Thần trong lịch sử Hội Thánh:
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì Thánh Thần của Chúa Giê-su vẫn luôn ở cùng Giáo hội. Thánh Thần là Thần Chân Lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Giáo hội luôn được lớn mạnh là nhờ sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa luôn ở trong Giáo hội. Thực vậy, chỉ với vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém học thức và nghị lực lại có thể loan báo Tin mừng của Chúa đi khắp thế gian. Tông đồ Phê-rô đã từng hèn nhát chối Chúa lại có thể can đảm làm chứng cho Chúa và đưa về cho Chúa tới 3 000 người chỉ sau một bài giảng đầu tiên ở Giê-ru-sa-lem. Giáo Hội Chúa Ki-tô dù trải qua bao sóng gió, đàn áp tiêu diệt vẫn ngày một phát triển khắp thế gian. Thực đúng như Téc-tu-ni-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo sẽ làm phát sinh các tín hữu” ? Trong thế kỷ 20, một nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Têrêsa lại trở thành biểu tượng sáng giá cho sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa được cả thế giới ngưỡng mộ… Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Ngày nay, tuy Hội Thánh vẫn còn nhiều khuyết điểm và thậm chí còn có cả tội lỗi nữa nên có thể làm cho nhiều tín hữu cảm thấy thất vọng. Nhưng nếu chúng ta biết rằng Chúa Giê-su vẫn đang ở với Hội Thánh qua Thánh Thần của Người để sẵn sàng bảo vệ, và giúp đỡ Hội Thánh vượt qua những thử thách đen tối… thì chúng ta sẽ không nản lòng, nhưng hãy cầu xin Thánh Thần soi sáng và gia tăng nghi lực để Hội Thánh vượt qua những khó khăn và trung thành đi trên con đường Giê-su. Đó là con đường khiêm hạ nhỏ bé, sẵn sàng chịu thua thiệt để mang lại ơn cứu độ cho đời. Con đường Giê-su đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa lòng đời, để làm cho đời nên tốt hơn.
2) Thánh Thần thánh hóa các tín hữu nhờ sốt sắng lãnh nhận các phép bí tích:
o
Từ khi lãnh nhận phép Rửa Tội, nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Thánh Thần cũng được ban cho các tín hữu. Thánh Thần hiện diện khi các tín hữu họp nhau lắng nghe Lời Chúa. Thánh Thần cũng soi sáng, giúp chúng ta thực hành Lời Chúa giữa đời thường (x. Ga 14,17), giúp ta tuyên xưng “Đức Giê-su là Chúa” (x. 1 Cr 12,3) và gọi Thiên Chúa là “Áp-ba! Ba ơi!” (x. Rm 8,15), giúp chúng ta sống như con Thiên Chúa (x. Rm 8,1). Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta nên công chính, không còn sống theo xác thịt, nhưng sống cuộc đời mới tốt đẹp hơn (x. Rm 8,10-13), giúp ta cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô để cùng được hưởng vinh quang phục sinh với Người (x. Rm 8,17). Chính Thánh Thần làm cho Hội Thánh hiệp nhất qua việc ban nhiều ơn đặc sủng khác nhau để phục vụ lợi ích chung cộng đoàn (1 Cr 12,4-11). Nhất là được ơn nói tiếng khác và nói tiên tri (x. 1 Cr 14,5). Trong Hội Thánh, mỗi tín hữu là một bộ phận thuộc nhiều phẩm trật khác nhau (x.1 Cr 12,27-30). Ngày nay Thánh Thần hiện diện nơi các vị chủ chăn và cộng đoàn mỗi khi khi họp nhau cử hành bí tích Thánh Thể. Trong Thánh Lễ, Thánh Thần soi sáng cho các tín hữu lắng nghe, hiểu biết và sống theo Lời Chúa, biến hóa bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa Giê-su sau lời truyền phép. Thánh Thần chính là linh hồn của Hội Thánh. Nếu không có Thánh Thần thì Hội Thánh cũng chỉ như một xác chết không hồn mà thôi.
3) Thánh Thần hiệp nhất các tín hữu nhờ ban ơn ngôn ngữ tình yêu:
– Câu chuyện về tháp Ba-bel trong Cựu ước: Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: “Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, để tránh bị Đức Chúa cho “Đại Hồng Thủy” tiêu diệt chúng ta”. Trước ý định kiêu căng ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và bỏ đi mỗi người một ngả. Chính tội lỗi nhất là tội kiêu ngạo là nguyên nhân gây sự chia rẽ giữa cộng đoàn.
– Trong lễ Hiện Xuống thời Tân Ước hôm nay, sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại tác động của Chúa Thánh Thần như sau: “Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giê-ru-sa-lem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa”.
Đây chính là một cuộc họp mặt đông đảo kể từ thời tháp Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Nhờ ơn Thánh Thần được tượng trưng qua hình ảnh lưỡi lửa và việc các tông đồ nói bằng nhiều thứ tiếng do Thánh Thần ban để liên kết các dân tộc và giúp họ dễ dàng cảm thông và hiệp nhất với nhau. Nếu không có Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ không có tình yêu, sẽ khó hiểu biết cảm thông với nhau, và dễ dàng làm bùng nổ sự tranh cãi và sự hận thù chiến tranh với nhau.
4) Thánh Thần giúp sống yêu thương để làm chứng cho Chúa:
Cách đây 20 năm ở xứ Long Châu thuộc giáo phận Nam Ninh bên Trung Quốc, ban đầu chỉ mới có một gia đình ông trùm là tin Chúa. Nhưng nhờ gia đình ông động viên nhau nói về Chúa cho dân làng nhận biết Chúa. Kết quả đến nay hầu như cả làng đều đã tin theo Chúa. Hằng năm vào dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh đều có trên dưới 20 người xin chịu phép rửa tội.
Khi được hỏi: Nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông lại mang lại hiệu quả tốt đẹp như thế. Ông trùm trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới gặp rất nhiều khủng hoảng: Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng gia tăng. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn giữ được nề nếp trên thuận dưới hoà: vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em quan tâm đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, nhiều người lương trong làng đã nêu nhận xét về đạo công giáo như sau: “Công giáo là đạo tốt, vì các tín hữu đã có thể bảo vệ giữ gìn được hạnh phúc cho gia đình mình. Nhờ gương sống đạo tốt đẹp của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng đã động viên nhau theo Chúa.
5) Phải làm gì để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa ? :
Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn đang tiếp tục tác động tuy âm thầm, nhưng không kém phần hiệu quả nơi Hội Thánh. Vậy chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng ?
– Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh những lo toan về các nhu cầu như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau.
– Việc thứ hai là hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và năng tham dự lễ nghi Bẻ Bánh, noi gương hai môn đệ làng Em-mau xưa, đi loan báo Tin vui Phục Sinh.
– Việc thứ ba là chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Mẹ Chúa Giê-su và các anh em bà con của Người. Nhờ đón nhận được ơn Thánh Thần, mỗi chúng ta sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn và chu toàn được sứ vụ làm chứng cho Chúa cho người chung quanh và cho mọi người chúng ta có dịp tiếp xúc.
- THẢO LUẬN:
1) Thánh Thần giống và khác với thiên thần thế nào ?
2) Ta phải làm gì để được Thánh Thần ngự đến đổi mới và giúp ta thi hành sứ vụ “được sai đi” giống như các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần khi xưa ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA THÁNH THẦN. Xin hãy đến như cơn gió mát thổi vào tâm hồn chúng con, thổi vào Hội Thánh, thổi vào thế giới hôm nay, để làm tươi mát dịu dàng và ban sự tự do thanh thoát. Xin hãy đến như dòng nước trong lành chảy vào cuộc đời chúng con, chảy vào Hội Thánh, chảy vào thế giới hôm nay, để tẩy sạch mọi tội lỗi nhớp nhơ, làm dịu đi những khô cằn, uốn lại những tấm lòng cứng cỏi, và làm phát sinh những mầm xanh sự sống mới. Xin hãy đến ban ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con, chiếu sáng Hội Thánh, chiếu sáng thế giới hôm nay, để xua đi bóng đêm tội lỗi ra khỏi tâm hồn chúng con, đẩy lùi bóng tối của đam mê thấp hèn ra khỏi môi trường chúng con đang sống, làm cháy lên những ước mơ cao cả, và làm bừng sáng tình yêu khiêm nhường phục vụ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Một trường phái triết học tuy không mới lắm nhưng vẫn mang tính thời sự, đó là “hiện tượng luận”.Theo cái nhìn này, xin được nêu lên một vài hiện tượng như sau: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần năm xưa, khi hiện ra với các môn đệ tại nhà Tiệc ly mà không có ông Tôma ở đó, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ngài và ban Thánh Thần. Hôm ấy các cánh cửa của căn phòng được đóng kín vì các vị sợ người Do Thái hãm hại. Một tuần sau, các vị cũng tề tựu ở đó, có Tôma ở cùng, thế mà các cửa vẫn đóng kín (x.Ga 20,26). Một hiện tượng khác: Các em thiếu niên 13-14 tuổi xét chung đang ngoan ngoãn, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên cần học giáo lý, sau khi được Giám Mục đặt tay ban Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức, thì một số không ít lại trở chứng, ngang bướng, lười tham dự Thánh Lễ và hay bỏ học giáo lý…
Là Kitô hữu Công Giáo, chúng ta tin nhận tính “tại sự” (ex opere operato) theo thần học bí tích. Tuy nhiên tính “tại sự” ấy của bí tích không cấm chúng ta đặt vấn đề rằng cớ sao trong nhiều trường hợp như chiều ngày thứ nhất trong tuần của năm nào tại căn nhà Tiệc Ly, Thánh Thần đã được ban tặng mà hiệu quả dường như chưa thấy? Vấn nạn xem ra tuy khó có lời giải, nhưng dựa vào lời của Đấng Cứu Thế chiều hôm ấy, chúng ta có thể thấy được vấn đề. “Hãy nhận lấy Thánh Thần!” Chúa đã thổi hơi ban Thánh Thần, nhưng các Tông đồ phải biết đón nhận. Mặt trời đã mọc lên nhưng các cánh cửa căn nhà còn đóng kín thì căn nhà vẫn chìm trong bóng tối. Theo toán học thì ngoài điều kiện cần, phải có điều kiện đủ, thì kết quả mới xảy ra. Triết học gọi đó là nguyên nhân và cơ hội, còn thần học thì phân biệt nguyên nhân tác thành hay còn gọi là nguyên nhân đệ nhất và nguyên nhân đệ nhị. Anh em Phật tử lại dùng hai từ nhân và duyên.
Để hồng ân Thánh Thần mà chúng ta được trao ban, phát sinh hoa trái, thiết tưởng không thể thiếu thái độ sẵn sàng đón nhận, vì đây chính là duyên, là nguyên nhân đệ nhị, là cơ hội, là điều kiện đủ. Để sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hiệu quả, không gì hơn, hãy nhớ lại những gì Chúa Kitô và các Tông đồ nói về Thánh Thần, đặc biệt qua vài Danh xưng của Người. Người là Thiên Chúa thật trong Ba Ngôi Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Đấng An ủi, Đấng Bảo Trợ, là Nguyên lý của các đặc sủng… Qua các Danh xưng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể thấy một vài điều kiện để có thể sẵn sàng đón nhận Người.
1.Sự khiêm nhu: Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý. Người dẫn chúng ta đến sự thật, Người soi sáng cho chúng ta nhận thức sự vật hiện tượng, nhận thức chính bản thân ta và tha nhân, nhận biết Thiên Chúa và chương trình ý định của Người cách đúng đắn. Để tiếp cận với chân lý, trên hết và trước hết cần phải có sự khiêm nhu chân thành. Người khiêm nhu thì chân nhận mình còn mù mờ, thấy sự việc như trong sương, trong chiếc gương đồng (x.1Cor 13,12). Người khiêm nhu thì sẵn sàng biết lắng nghe và chân thành học hỏi. Người khiêm nhu còn can đảm nhìn nhận con người bất toàn và đầy thiếu sót lẫn sai lầm của chính mình. Thiếu nữ Maria, làng quê Nagiarét, nhờ biết khiêm nhu cách sâu thẳm, nên đã đón nhận ân sủng Thánh Thần cách đầy tràn (x. Lc 1,26-38). Trái lại, chính lòng kiêu căng đã làm cho nhiều biệt phái và luật sĩ khôn ngoan, thông thái năm xưa không thể tiếp nhận chân lý (x.Lc 10,21).
2.Sự tín thác vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa: Người biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa thì sẽ dễ dàng đón nhận Đấng Bảo trợ, đặc biệt trong những cơn gian nan thử thách. Các Thánh Tử đạo là những người làm chứng cho chúng ta về điều kiện này. Dù xuất thân bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau, dù khác nhau về trình độ học vấn, dù khác nhau cả về mức độ đạo đức hay chức vị, danh phận…thì các ngài vẫn bình an trong cơn gian khổ, bách hại, vì luôn có Đấng Bảo trợ, Thần An ủi ở cùng. Sự bình an trong cơn gian nan, khốn khó là một trong những nét trỗi vượt của các thánh Tử đạo so với những anh hùng dân tộc. Cũng là chịu hy sinh cách anh dũng vì “chính đạo”, nhưng các anh hùng dân tộc thì phẩn uất, căm thù kẻ làm hại mình, còn các thánh Tử đạo thì hân hoan, an bình và còn cầu nguyện cho cả kẻ giết mình. Được như vậy là nhờ các ngài luôn tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Sự tín thác này được thể hiện bằng niềm tin rằng chính sự sống của mình là do Chúa ban tặng, tin nhận rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng đã dựng nên mình từ hư vô mà còn là Người Cha nhân hậu chăm sóc mình đến từng sợi tóc (x.Mt 10,30; Lc 12,7), là Đấng trọn lành cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân (x.Mt 5,44-45).
3.Có tấm lòng vì ích chung: Một người có tấm lòng vì ích chung, cách riêng vì ích lợi của những người nghèo, những người cô thế, kém phận thì rất dễ sẵn sàng hiến thân theo khả năng và hoàn cảnh cách hết mình. Và họ sẽ nhận được nhiều đặc sủng như chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân định thần khí…do Thánh Thần ban tặng (x.1Cor 12,7-11). Tấm lòng vì ích chung có thể nói là đối nghịch với tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng mình. Khi đã có tấm lòng vì ích chung thì ta sẽ dễ dàng xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng cái khác biệt của tha nhân. Trái lại khi đã đặt cái tôi của mình lên trên hết, thì ta sẽ có nguy cơ tìm cách bắt kẻ khác phục vụ mình, làm theo ý riêng mình cách độc đoán, độc tài và có thể là độc ác nếu ta có chút quyền hay chút tài lực.
Gió muốn thổi đi đâu thì thổi (x.Ga 3,8). Không ai thấy gió nhưng người ta có thể nhận ra gió qua các hiệu ứng của nó như lá bay, cây lay…Xem quả thì biết cây (x.Mt 7,16-20). Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa xin hãy kiểm định xem chúng ta đã trổ sinh những hoa trái nào. Giả như chúng ta chưa sinh hoa kết trái tốt lành là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa đón nhận hồng ân Thánh Thần mà Chúa Kitô đã ban tặng. Nếu chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần thì cũng là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa thật sự khiêm nhu, chưa biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chưa biết mưu cầu ích chung, nhất là ích lợi của của người nghèo, người kém phận…
.
Lm Vũđình Tường
Đổi đời được hiểu theo nghĩa tốt đẹp. Đổi đời mong đời có í nghĩa hơn, trong sáng, thêm tươi và trở thành con người hữu dụng cho xã hội và cho Giáo Hội. Con người tốt của Giáo Hội luôn tốt cho xã hội; trong khi người tốt của xã hội đôi khi nguy hại cho Giáo Hội. Tốt đạo chắc chắn tốt đời; nhưng có kẻ tốt đời lại báng đạo. Tốt cho cả đời lẫn đạo khi người đó vâng phục Thánh Thần Chúa hướng dẫn, Đấng mà toàn thể Giáo Hội mừng kính tuần này.
Thánh Thần là món quà vô cùng quí giá Đức Kitô nhiều lần hứa ban cho Kitô hữu. Thánh Thần sẽ hướng dẫn và chỉ bảo thêm cho Kitô hữu học hỏi, hiểu sâu rộng thêm những gì Đức Kitô đã truyền dậy.
Thánh Thần sẽ chỉ dậy Kitô hữu biết cách đối xử khi đối diện đau khổ, bách hại, cấm cách vì đức tin Lc 12,12. Thánh Thần là Đấng ban nguồn sống, nước trường sinh chính Đức Kitô nhận: Ta là nước hằng sống Gn 7,37-39.
Đức Kitô ban Thánh Thần cho Kitô hữu trong ngày Đức Kitô Phục Sinh và trong ngày lễ Ngũ Tuần khi Ngài thở hơi cho các môn đệ và nói: Hãy nhận lấy ơn Thánh Thần Gn 20,22.
Được tràn đầy ơn Thánh Thần các tông đồ mạnh dạn dấn thân trong việc rao giảng. Rao giảng việc Đức Kitô chịu chết, sống lại vinh quang. Thánh Phêrô ví nguồn sống Thánh Thần ban cho tạo nên một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của Tin Mừng Phục Sinh phát sinh bởi Đức Kitô sống lại đổi mới bộ mặt trái đất. Đổi mới bởi tin vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ được Thánh Thần Chúa hướng dẫn Cv 2,17-18. Đổi mới bắt đầu từ con tim yêu mến nồng cháy tình yêu Chúa và mến tha nhân như Đức Kitô dậy. Từ đó họ sống Tin Mừng và chia sẻ, mang Tin Mừng Phục Sinh đến cho người khác chưa nhận biết Tin Mừng Phục Sinh.
Lễ Chúa Thánh Thần trong tiếng Hi Lạp có nghĩa là năm mươi. Kỉ niệm năm mươi ngày các Tông đồ nhận lãnh Thánh Thần Chúa. Giáo Hội mừng kính năm mươi ngày sau Phục Sinh và còn được biết đến như Chúa Nhật trắng vì trong ngày này các người mới gia nhập Giáo Hội mặc áo trắng mừng ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, họ trở nên tinh tuyền trong ánh sáng rực rỡ của Đức Kitô Phục Sinh.
Sách Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 xác quyếtThánh Thần mở cõi lòng và tâm hồn các tín hữu để họ lắng nghe, học hỏi hiểu thêm về lòng từ bi Chúa. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu thành Corinto 1Cor. 12,3-7 loan báo bí tích Thánh Tẩy liên kết mọi Kitô hữu thành đại gia đình Chúa và Đức Kitô đồng hành với họ trên bước đường giữ đạo, giảng Tin Mừng. Chính Đức Kitô Phục Sinh sai các môn đệ đi rao giảng khi Ngài nói với các ông:
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em Gn 19-23.
Thánh Thần Chúa khai mở một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của canh tân, hoà giải và kỉ nguyên của lòng tin. Kỉ nguyên của lòng tin bởi Đức Kitô về trời và đồng thời lại ước ao ở cùng Kitô hữu mọi ngày cho đến tận thế. Con mắt đức tin giúp nhận biết Đức Kitô Phục Sinh trong hành động bác ái, yêu thương, tha thứ. Con mắt đức tin giúp nhìn ra hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh trong mọi người vì tất cả đều là anh chị em trong Chúa. Họ có thể khác chánh kiến, khác giai cấp, khác thể chế chính trị nhưng họ là người do Chúa tạo dựng. Vì thế để trở thành người tốt cho xã hội và Giáo Hội người đó cần được Thánh Thần Chúa hướng dẫn, cần có con mắt đức tin nhận ra hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh trong anh chị em khác. Con mắt đức tin giúp nhận biết Thánh Thể là Thịt Máu thánh Chúa. Thánh Thể là nguồn sống cho tâm hồn và sức mạnh trợ giúp việc rao giảng Tin Mừng vì thế kết thúc Thánh Thể bằng lời chúc ra đi bình an, bình an trong việc rao giảng bởi rao giảng Tin Mừng luôn gặp chống đối và chúc ra đi bình an, làm nhân chứng sống động là điều cần cho mọi Kitô hữu.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Phát biểu trong Thánh lễ Truyền chức Giám mục Phụ tá Giáo phận Xuân lộc Gioan Đỗ Văn Ngân, ngày 01/06/2017, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam đã nói: “Trong những ngày này, Chúa Thánh Thần làm việc rất vất vả tại Việt Nam”. Ngài nói vậy vì mới ngày hôm trước, ngày 31/05/2017, tại Giáo phận Đà Lạt cũng có Thánh lễ Truyền chức Giám mục cho Đức cha phó Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh, và vẫn còn một vài Giáo phận đang trống tòa, cũng như một vài Giáo phận đang rất cần thêm những mục tử như lòng Chúa mong ước.
Câu nói của vị đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam làm cho tôi suy nghĩ đến việc hơn bao giờ hết Giáo hội Việt Nam, xã hội Việt Nam, từng gia đình và từng người đang rất cần một lễ Hiện Xuống mới. Thực sự Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn hoạt động trong lòng Giáo hội, nhưng trong bối cảnh của thời đại hôm nay, nói theo ngôn ngữ của loài người, quả thật “Chúa Thánh Thần đang rất vất vả”.
I. Tại sao Chúa Thánh Thần vất vả?
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, có nhiệm vụ thánh hóa, biến đổi, làm cho mọi sự được tốt đẹp. Ngài là Thần Chân Lý, dẫn con người đến sự thật toàn vẹn để họ nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa hầu được hạnh phúc đời đời. Ngài là Thần Tình Yêu để đưa con người hiệp thông trọn vẹn với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nhưng thực tế ngày hôm nay cho chúng ta thấy sự thật chưa được tôn trọng và tình yêu chưa được nhìn một cách đúng đắn.
- Sự thật chưa được tôn trọng
Tôn trọng sự thật là: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ (Mt 5, 37). Câu nói này của Đức Giêsu đúng trong mọi thời đại, vì thời nào cũng có ma quỷ cám dỗ để người ta gian dối, che dấu sự thật.
Sau khi biết việc Đức Giêsu sống lại, “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền khá lớn, và bảo: “các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác hắn. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt 28, 12-14)
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta được Giáo hội kể lại những hoạt động của các Tông đồ thời Giáo hội sơ khai, trong đó có câu chuyện của 2 vợ chồng Khanania và Xaphira trong sách (Cv 5, 1-11). Họ đã gian dối các Tông đồ để cất giấu tài sản làm của riêng. Hơn thế nữa, bà Xaphira còn làm chứng dối cho tội ác của chồng mình. Vì vậy mà 2 ông bà đã bị thánh Phêrô nguyền rủa ngã lăn ra chết trước mặt nhiều người, vì theo lời của Phêrô, họ đã “thách thức Thần Khí Chúa” (Cv 5, 9).
Thực tế trong xã hội ngày hôm nay, có những sự thật bị người ta cắt xén hoặc thêm thắt cho đúng với ý đồ của người ta mong muốn.
Gian dối từ hình thức bên ngoài của con người. Vì muốn mũi cao, cằm nhọn, mắt hai mí,…và nhiều thứ khác nữa, nên người ta sẵn sàng bỏ tiền ra làm “đồ giả”.
Gian dối đến thực lực bên trong. Vì muốn có công ăn việc làm nên người ta bỏ tiền ra mua bằng giả, chạy chức, chạy quyền,… Vì muốn nhanh chóng nên người ta lấy tiền mua chỗ để khỏi phải xếp hàng, khỏi phải chờ đợi…
Gian dối cả trong đời sống gia đình. Có vợ, chồng rồi mà vẫn lường gạt người khác để giấu giếm cho một cuộc tình vụn trộm.
Người muốn đi tu mà không chịu từ bỏ những điều bất xứng nên giấu giếm bề trên để hòng đạt được mục đích riêng tư của mình…
Một vài hành động kể trên để cho thấy người ta không chịu theo tác động của Chúa Thánh Thần, mà chỉ muốn làm theo ý riêng, nhưng thực chất là làm theo ma quỷ. Chính vì vậy mà Thánh Thần phải vất vả rất nhiều vì không muốn để cho thế gian, để cho con người bị ma quỷ thống lãnh.
- Tình yêu chưa đúng đắn
Tình yêu đúng đắn phải rập khuôn theo khuôn mẫu của Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, nghĩa là phải có cho đi và đón nhận. Nhưng thực tế ngày hôm nay, người ta chỉ tìm kiếm một tình yêu đón nhận mà không chịu cho đi.
Những ai đem lại lợi ích cho tôi, những ai làm cho tôi dễ chịu, những ai chịu nghe lời tôi… thì tôi sẽ tiếp rước họ một cách nồng hậu. Ngược lại những ai đến xin sự giúp đỡ của tôi; những ai hành động, nói năng, làm cho tôi khó chịu; những ai hay “thọc gậy bánh xe” tôi, hay cãi lời tôi… thì tôi xua đuổi, hoặc miễn cưỡng tiếp rước.
Yêu nhau nhưng người ta chỉ đòi hỏi người yêu phải phục vụ cho mình: đẹp trai, con nhà giàu, xe 4 bánh, hoặc ít ra xe tay ga mới được làm quen với em. Yêu nhau thì phải chứng minh bằng việc cho anh điều gì quý giá nhất… Thực chất đó là những đòi hỏi ích kỷ chứ không phải tình yêu.
…Và còn nhiều những hình thức của tình yêu chưa đúng đắn. Chính những điều đó làm cho Chúa Thần phải vất vả, vì Ngài không muốn con người có một tình yêu lệch lạc.
II. Chúa Thánh Thần, nguồn nước thanh tẩy
Sau những cơn mưa đầu mùa, chúng ta thấy cây cối xung quanh được rửa sạch bụi bặm, không khí thoáng mát, trong lành hơn. Thì Chúa Thánh Thần cũng được ví như nguồn nước thanh tẩy tất cả mọi cặn bã trong con người. Khi đến với Bí tích Giải tội, hối nhân sẽ được Linh mục đọc công thức giải tội: “Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội.” Như vậy Thánh Thần chính là cội nguồn của sự tha thứ.
Để nhân loại, nhất là Giáo hội và các gia đình được tươi mới hơn, thì mỗi người, mỗi gia đình phải để cho nguồn nước của Thánh Thần tuôn chảy trong tâm hồn mình, nghĩa là một sự ý thức luôn luôn.
Để giúp con người có thể ý thức được dòng nước trong lành đang tuôn chảy trong mình, thì họ phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng bên Chúa trong các giờ cầu nguyện, kẻo công việc và những lo lắng sự đời sẽ trở thành những viên đá ngăn cản dòng chảy của nguồn nước Thánh Thần. Nhiều khi chúng ta cũng muốn sống theo sự thật, cũng muốn yêu đương đúng nghĩa, nhưng chúng ta không chịu dừng lại để những lo toan, những ích kỷ, những sự đời có thể trầm lắng xuống, mà tâm hồn chúng ta cứ náo động, xôn xao bởi những sự thế gian, nên cuối cùng chúng ta lại hành động theo kiểu thế gian: gian dối và ích kỷ.
Trong tuần lễ vừa qua, thế giới biết đến đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melania Trump là một người Công giáo thực sự vì bà thường xuyên cầu nguyện và tham dự Thánh lễ; Hay con trai của bà đương kiêm thủ tướng Ba Lan, vừa được thụ phong Linh mục hôm 27/05/2017, cha Tymoteusz Szydlo; tại Việt Nam, nhiều người đã xúc động trước hình ảnh Bà Cố của Đức tân Giám mục phụ tá Xuân Lộc, Gioan Đỗ Văn Ngân trong lễ nhậm chức của Ngài… Họ là hình ảnh của những con người cầu nguyện, những con người biết quan tâm đến những giá trị linh thánh. Vì vậy chắc chắn nguồn nước thanh tẩy của Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn tuôn chảy trong họ, nhưng quan trọng hơn cả, là họ biết lắng nghe, cảm nhận và để cho nguồn nước ấy thanh tẩy chính mình để luôn hướng về những giá trị của Chân-Thiện-Mỹ.
Xin Chúa Thánh Thần ngự đến thanh tẩy từng người, từng gia đình; thanh tẩy Giáo hội và xã hội để mọi người, mọi gia đình, Giáo hội và xã hội được sống trong Chân Lý và Sự Thật.
.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG_A
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su Phục sinh đã hiện ra với nhiều người, trong đó có các tông đồ, nhiều lần và ở nhiều nơi, để minh chứng xác thực cho họ biết Người đã sống lại thật, để họ cảm thấy an bình và nhất là đức tin của họ được củng cố. Chúa Giê-su Phục sinh còn giải nghĩa Kinh thánh cho các tông đồ biết và hiểu về chính Người và Nước Trời một cách tường tận hơn, để các ông can đảm chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa.
Tuần trước, chúng ta mừng lễ Chúa Giê-su lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng trước khi về trời, Chúa hứa sẽ ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần và khẳng định với các ông sẽ ở lại với các ông cho đến ngày tận thế. Đúng như lời Chúa đã hứa, trong ngày lễ Ngũ tuần khi các tông đồ đang họp nhau cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông như hình lưỡi lửa. Lưỡi là biểu hiệu cho tiếng nói và lửa là biểu hiệu cho lòng hăng say nhiệt thành. Các tông đồ được Chúa Thánh Thần bao phủ và lãnh nhận nhiều ân sủng của Người. Như vậy, Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Người không còn hiện diện nơi trần gian hay bỏ rơi các tông đồ thân thiết của Người, nhưng có nghĩa là Người không còn hiện diện giữa các tông đồ qua thân xác con người, nhưng vẫn luôn hiện diện bằng một cách đặc biệt hơn, đó là qua Chúa Thánh Thần và qua Giáo hội mà Chúa đã thiết lập.
Vì thế, ông bà anh chị em thân mến, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay cũng là ngày sinh nhật của Giáo Hội, khởi đầu sứ mệnh rao giảng Tin mừng của Chúa Ki-tô và xây dựng Nước Chúa nơi trần gian. Như chúng ta biết sách Tông đồ Công vụ đã ghi lại sự kiện các tông đồ đã được Chúa Thánh Thần biến đổi từ một nhóm người yếu kém và sợ hãi trở nên những con người tràn đầy ơn sủng với tấm lòng nhiệt thành và can đảm, và các hoạt động rao giảng của các tông đồ vào thuở ban đầu lúc Giáo hội còn trong tình trạng sơ khai. Các ông rao giảng lời Chúa với một niềm xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, cho những người Do thái hành hương từ nhiều nơi và nói nhiều thứ tiếng được hiểu biết. Dân chúng nhận ra một sự thay đổi hoàn toàn và rõ rang nơi con người các tông đồ. Họ cảm nhận được một niềm xác tín trong lời giảng dạy của các tông đồ về Chúa Giê-su Ki-tô. Điều này đã làm cho họ cảm thấy lạ lùng và sửng sốt kinh ngạc, và cũng làm cho họ tin và ca tụng Thiên Chúa.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cho chúng ta biết nguồn gốc của các ân sủng và sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin của những Ki-tô hữu chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định rằng tất cả mọi ân sủng của chúng ta là từ Chúa Thánh Thần. Ngài ban ân sủng khác nhau cho từng người tùy theo nhu cầu và không ai giống ai. Tuy nhiên thánh Phao-lô dạy chúng ta các ân sủng ấy không phải để chúng ta giữ làm của riêng, làm lợi hay vinh danh cá nhân, nhưng nhằm mục đích làm sáng danh Chúa, phục vụ lợi ích chung và xây dựng Giáo hội. Thánh Phao lô còn cho chúng ta biết Giáo hội được so sánh như một thân thể, mỗi Ki-tô hữu hay mỗi người chúng ta là những chi thể được kết hợp lại trong thân thể ấy mà Chúa Giê-su Ki-tô là đầu. Vì thế, điều quan trọng thứ nhất là: mọi chi thể, mọi Ki-tô hữu cần phải được nối kết với thân thể, là Giáo hội và là chính Chúa Ki-tô, để có sự sống, và điều quan trọng thứ hai là: mọi chi thể phải chu toàn công việc, bổn phận của mình để cùng xây dựng Thân Thể Chúa Ki-Tô, là Giáo hội và là giáo xứ của chúng ta đây.
Ông bà anh chị em thân mến. Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay và trong xã hội này, tất cả chúng ta, người Công giáo Việt nam sống trong thành phố Tulsa này, cần Chúa Thánh Thần và những ơn sủng của Ngài, để rao giảng Tin mừng, để làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh và để hiệp nhất xây dựng giáo xứ làm sáng danh Chúa. Chúa thương yêu ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác để chúng ta sống đức tin và xây dựng giáo xứ. Chúng ta là những người Việt Nam, vì thế chúng ta phải nêu cao tinh thần hiệp nhất và đời sống đức tin Công giáo của người Việt. Chúng ta nhận biết để chu toàn sứ vụ rao giảng và xây dựng, chúng ta còn phải đối diện với rất nhiều khó khăn và thách đố từ bên trong cũng như bên ngoài, hay chính trong con người của chúng ta. Nhưng chúng ta tin Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và biến đổi, Ngài sẽ tiếp tục đổi mới và canh tân đời sống đức tin chúng ta, cũng như hiệp nhất và thúc đẩy chúng ta sống đức tin Công giáo người Việt Nam chúng ta.
Khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, và ban cho chúng ta 7 ơn sủng đặc biệt là: Ơn Khôn Ngoan; Ơn Hiểu Biết; Ơn Lo Liệu; Ơn Sức Mạnh; Ơn Thông Minh; Ơn đạo đức và Ơn Kính Sợ Chúa. Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ơn sủng này xuống cho mỗi người chúng ta, để chúng ta trở thành những người nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người, và để chúng ta luôn được liên kết mật thiết với Người và với nhau. Chúa biến đổi chúng ta trở thành những người có đức tin và ban ơn sủng để chúng ta can đảm sống đức tin hằng ngày, làm chứng cho Chúa qua đời sống bác ái, yêu thương, quảng đại và hy sinh phục vụ Chúa. Chúng ta tin xưa Chúa Thánh Thần đã biến đổi và hoạt động mạnh mẽ thế nào trong cuộc sống của các tông đồ, thì ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục biến đổi và hành động mạnh mẽ như thế trong mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn mở rộng tâm hồn để Chúa Thánh Thần đến và ở trong cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần luôn kết hợp mỗi người chúng ta trong Thân Thể Chúa Ki-tô, để chúng ta cùng nhau dùng đời sống đức tin Công giáo Việt Nam rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, giúp nhau sống đức tin, xây dựng cộng đoàn giáo xứ và làm sáng danh Chúa.
.