Chiếc nôi Hạnh phúc (Lễ Thánh Gia, năm C)

118

Chiếc nôi Hạnh phúc

(Lễ Thánh Gia, năm C)

gdNgười ta có thể chọn lựa nhiều thứ cho mình, nhưng không ai có thể chọn cha mẹ hoặc nơi sinh. Dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là cha mẹ của mình. Cha mẹ là khởi đầu một gia đình. Mà gia đình chính là tế bào cơ bản của xã hội, được mệnh danh là Tổ Ấm, là Chiếc Nôi Hạnh Phúc. Tổ ấm nghĩa là không được lạnh, không được nóng, mà nhất thiết phải ấm. Tiếng Việt hay thật!

Phàm một tổ chức nào cũng cần có quy luật để điều chỉnh, luật vị nhân sinh, chứ nhân sinh bất vị luật. Tổ ấm cũng có nguyên tắc cơ bản làm nền tảng, gọi là Gia Phong.

Ngắm nhìn hang đá, chúng ta thấy một gia đình nghèo nhưng hạnh phúc. Nhìn vào đó, chúng ta cũng nhớ công ơn cha mẹ như biển trời lai láng, khôn ví và khôn tả. Như ca dao nói về ơn nghĩa mà cha mẹ dành cho con cái:

Ơn cha nặng lắm, cha ơi!

Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang

Đặc biệt nói riêng về người mẹ:

Thương thay chín chữ cù lao

Tam niên nhũ bộ, biết bao nhiêu tình!

Tuy nói về người mẹ cũng ngụ ý nói về người cha. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vì người Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh. Ai cũng từng là con trẻ, và mang ơn cù lao của cả cha và mẹ. Nhưng chín đức cù lao là gì? Đó là Sinh, Cúc, Phủ, Dục, Súc, Trưởng, Cố, Phục, Phúc. Tức là sinh nở, nâng đỡ, vỗ về, dạy dỗ, cho bú, nuôi lớn, trông nom, chăm sóc, che chở (*).

Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuen, vì bà nói: “Tôi đã xin Đức Chúa được nó” (1 Sm 1:20). Ngày nay chúng ta gọi đó là “con cầu con khấn”. Thật ra ai cũng nhờ ơn Chúa mà có thể hiện hữu trên cõi đời này, nhưng có một số “hiếm hoi” thôi, trường hợp bà Anna là một điển hình. Khi đó, người chồng là Encana lên với cả gia đình để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, vì bà nói với chồng: “Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi” (1 Sm 1:22).

Con cầu tự nên phải được dâng hiến cho Thiên Chúa, mà chính vợ chồng Encana và Anna cũng đã thề hứa với Chúa nên họ muốn giữ trọn lời hứa cho phải đạo.

Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Đó là theo luật Cựu ước. Ăn theo thuở, ở theo thời. Ở đâu thì âu đấy. Hai ông bà này cũng không ngoại lệ. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Silô. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Êli. Bà nói: “Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa” (1 Sm 1:26-28). Lời lẽ của bà nhà quê thật chất phác, nhưng quyết liệt. Và ở đó, họ đã thờ lạy Đức Chúa.

Kinh thánh hôm nay gợi nhớ việc Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ngày nay, sau khi sinh con – nhất là mỗi khi đưa con đi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, các bậc cha mẹ có chân thành dâng con trẻ cho Thiên Chúa?

Tất cả đều là hồng ân, từ điều nhỏ tới điều lớn, đơn giản là mỗi chúng ta đều có không khí hít thở hằng ngày, hít thở từng giây, và lại có một gia đình – dù là nhà nghèo. Vì thế, “hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân” (Tv 105:1). Tác giả Thánh vịnh mời gọi: “Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa, và suy gẫm mọi kỳ công của Người. Hãy tự hào vì danh thánh Chúa, tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ. Hãy tìm Chúa và sức mạnh của Người, chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan. Hãy nhớ lại những kỳ công Người thực hiện, những dấu lạ và những quyết định Người phán ra, hỡi anh em, dòng dõi Ápraham tôi tớ Chúa, con cháu Gia-cóp được Người tuyển chọn!” (Tv 105:2-6).

Không tạ ơn sao được, vì “chính Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, những điều Người quyết định là luật chung cho cả địa cầu. Giao ước lập ra, muôn đời Người nhớ mãi, nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ!” (Tv 105:7-8). Đó cũng chính là điều đã giao ước cùng Tổ phụ Ápraham, đã đoan thề cùng Isaac.

Thánh Gioan nói: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (1 Ga 3:1). Thánh nhân nói thêm: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2).

Đó là ngài nói về ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa Giêsu giáng lâm. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo hiện tại, khi chúng ta đang sống trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, được mãn nhãn khi chiêm ngưỡng Con-Thiên-Chúa-mặc-xác-phàm, hạnh phúc và bình an đang tràn ngập địa cầu.

Thánh Gioan nói một hơi dài: “Anh em thân mến, nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:21-24). Có lẽ chúng ta đã quá quen với “luật yêu thương” của Chúa, thế nhưng nghe nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Ngay cả những người thân trong gia đình mà chúng ta cũng chưa yêu thương đúng nghĩa. Buồn thật!

Thánh sử Luca kể: Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.

Người đông, đất rộng, đường xa, thế mà cha mẹ lại lạc mất Con Trẻ, thật là khổ! Lòng như lửa đốt, cha mẹ lại lội bộ ngược dòng người để tìm Con. Mà đâu phải gặp ngay, mãi sau ba ngày mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Mệt nhoài, nhưng cha mẹ vẫn có thể thở phào, vì “cậu ấm” đang đối chất với những người lớn hơn mình và giỏi hơn mình. Có lẽ lúc đó Cô Maria nói với Chú Giuse: “Anh ơi! Con mình giỏi thật!”. Chú Giuse vốn ít nói, chắc chỉ cười thôi!

Thật lạ, ai nghe cậu Giêsu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp sắc xảo của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48). Đó lời trách yêu, cho thấy Đức Mẹ rất đau khổ khi phải xa Con, dù chỉ là một thoáng, huống chi đã ba ngày qua. Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49). Chắc hẳn hai người biết điều này, nhưng vì lạc mất Con, lo lắng quá mà quên thôi. Bản chất con người là thế, Chúa không trách mà chỉ nhắc nhở thôi.

Dù là cha mẹ của Chúa Giêsu, nhưng ông bà vẫn không hiểu lời Người vừa nói. Đúng thôi, vì cha mẹ là phàm nhân, còn Con là Thiên-Chúa-làm-người mà. Nói là nói vậy, nhưng sau đó, Người vẫn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51a). Con Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng, vâng lời và có hiếu với cha mẹ. Đó là Ngài đã làm gương cho chúng ta, chứng tỏ gia đình rất quan trọng đối với mọi người, không trừ bất kỳ ai, đồng thời nhắc nhở những người con phải giữ trọn chữ hiếu.

Có hai điều quan trọng: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:51b-52). Đức Mẹ luôn suy niệm, Chúa Giêsu càng khôn lớn càng kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và được người đời yêu mến.

Mới đây, tại TP Đà Nẵng, chỉ vì mẹ la rầy mà một thanh niên 18 tuổi đã nhẫn tâm bóp cổ mẹ và đâm mẹ chết bằng mấy nhát dao oan nghiệt. Đọc báo, nghe đài, hoặc lướt web, chúng ta vẫn thường thấy có những nghịch tử đối xử tồi tệ với cha mẹ. Phải chăng đó là hậu quả của việc giáo dục không đề cao tôn ti trật tự trong gia đình, coi nhẹ gia phong lễ giáo? Ngày xưa, chương trình giáo dục có cho học bộ sách Nhị Thập Tứ Hiếu (24 Người Con Có Hiếu), ngày nay không thấy có.

Ai cũng đã và đang làm con, thế nên ai cũng có bổn phận làm con. Đó cũng là một trong Mười Điều Răn của Thiên Chúa: Thảo kính cha mẹ. Đã là giới răn thì không thể không thi hành, có vậy mới làm đẹp lòng Chúa. Bổn phận làm con không chỉ phải thực hiện đối với cha mẹ, mà còn phải đối với ông bà, người trên, người lớn tuổi.

 

Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa về những thiếu sót trong bổn phận làm con đối với Ngài, với ông bà và cha mẹ. Xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa thực hiện đầy đủ bổn phận hằng ngày đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

(*) Trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật kể đến 10 công đức của mẹ đối với con:

1. Chín tháng cưu mang khó nhọc.

2. Sợ hãi, đau đớn khi sinh.

3. Nuôi con, đành cam cực khổ.

4. Nuốt cay, mớm ngọt cho con.

5. Chịu ướt, nhường ráo cho con.

6. Sú nước, nhai cơm cho con.

7. Vui giặt đồ dơ cho con.

8. Thương nhớ khi con xa nhà.

9. Có thể tạo tội vì con.

10. Nhịn đói cho con được no.