Các bài suy niệm tuần 3 thường niên Năm A

64

SUY NIỆM TUẦN III THƯỜNG NIÊN NĂM A

Lm Ngọc Dũng, SDB

THỨ TƯ

ĐỐI VỚI TÔI, SỐNG LÀ ĐỨC KITÔ

Thánh PhaoLô Tông Đồ Trở Lại

(Cv 22:3-16; Mc 16:15-18)

Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng kính Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại. Trong bài đọc 1, thánh nhân kể lại câu chuyện cảm động về cuộc đời của mình, cuộc đời của một người tìm thấy Chúa Giêsu trong chính nghịch lý của cuộc sống. Từ câu chuyện “trở lại” [“metanoia”] của Phaolô, chúng ta rút ra được những điểm sau cho ngày sống của mình:

(1) Cuộc gặp gỡ với Chúa làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Thánh Phaolô: Từ người “bắt bớ Đạo này [Chúa], không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà” (Cv 22:4) đến người làm chứng cho Chúa. Chi tiết này mang lại cho những tội nhân, cũng như những người xem mình “không xứng đáng” với ơn Chúa, một niềm hy vọng và lạc quan. Thật vậy, Chúa có thể sử dụng những con người “tội lỗi” để nên khí cụ để mang tình yêu của Ngài cho người khác. Chúa đã sử dụng một Phaolô, là người bắt bớ Chúa để trở nên tông đồ cho dân ngoại. Ngài không thể sử dụng tôi, một người “thánh thiện hơn” Phaolô vì không bắt đạo [có thể không sống đạo thôi!], để trở nên khí cụ mang tình yêu của Ngài cho gia đình (cộng đoàn) của tôi sao? Hãy cho Chúa Giêsu cơ hội để biến đổi chúng ta!

(2) Ngã xuống đất: “Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: ‘Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta ?’ Tôi đáp : ‘Thưa Ngài, Ngài là ai ?’ Người nói với tôi: ‘Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ’,” (Cv 22:7-9). Chính “cú ngã” đã làm cho Phaolô “thức tỉnh.” Chúng ta cũng đã có nhiều “cú ngã” trong cuộc sống. Nhưng chúng ta đã không “thức tỉnh.” Chúng ta để cho những “cú ngã” đó làm chúng ta mất phương hướng, mất sự nhiệt thành, mất niềm vui và trở nên chua chát với đời. Thay vì tìm thấy Chúa và nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua từng “cú ngã,” chúng ta để chính mình ngã quỵ và không đứng lên nổi để tiếp tục hành trình của mình đến nơi mà Chúa [qua người khác] sẽ nói cho chúng ta nghe việc chúng ta phải làm cho Ngài. Hãy biết lắng nghe và thức tỉnh sau mỗi “cú ngã” trong cuộc đời của chúng ta!

(3) Từ việc dắt người khác đi bắt bớ Chúa, đến việc để người khác dắt vào Đamát để biết “tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm” (Cv 22:10). Điều này đưa chúng ta trở về với thực tại của những người môn đệ, đó là những người “đi theo” chứ không phải là những người “đi trước.” Có nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta quá quen với việc “dẫn” người khác đến độ chúng ta quên mất rằng chúng ta cũng cần người khác [nhất là Chúa] dắt chúng ta. Đôi khi vì kiêu ngạo và thiếu khiêm nhường, chúng ta không để người khác dắt chúng ta, dù chúng ta đang “lầm đường lạc lối.” Học ở Thánh Phaolô, hãy khiêm nhường để người khác [Chúa] dắt chúng ta. Vì chỉ trong những giây phút đó, chúng ta mới biết được “tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh chị em phải làm.”

(4) “Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe” (Cv 22:15). Thánh Phaolô phải làm chứng cho Chúa về những điều ngài thấy và nghe! Nhưng ngài đã thấy gì? Đã nghe gì? Theo suy đoán dựa trên Kinh Thánh và dữ liệu lịch sử, Thánh Phaolô chịu tử đạo với Thánh Phêrô ở Rôma. Như vậy, tuổi của ngài không kém Thánh Phêrô và các tông đồ khác bao nhiêu. Theo cách suy đoán này, thì chắc chắn Ngài có nghe nói hoặc có thể đã nhìn thấy Chúa Giêsu khi Ngài còn sống. Chính vì vậy, khi nghe Chúa Giêsu gọi tên và nói với mình về kế hoạch mà Thiên Chúa muốn ngài thực hiện. Ngài đón nhận “lập tức” mà không chất vấn gì. Còn trong bài đọc 1, thánh nhân kể cho chúng ta nghe rằng: Ngài bị ánh sáng làm cho mù mắt – Ngài thấy ánh sáng và bóng tối. Ngài nghe tiếng Chúa Giêsu gọi tên và “khiển trách” mình. Điều này gợi cho chúng ta câu chuyện về Chúa Giêsu gọi các tông đồ: Gọi tên và đáp trả. Thật vậy, Thánh Phaolô đã nghe tên mình được gọi và đã nhìn thấy ánh sáng từ trời và Ngài đã làm chứng về điều đó. Ngài làm chứng về một tình yêu đã đụng chạm đến ngài cách cá vị; ngài làm chứng về một ánh sáng đã phá tan đi bóng tối trong con tim của ngài để nhìn thấy trên khuôn mặt của những người mình bắt bớ hình ảnh của Đức Kitô. Những ai có ánh sáng của Chúa chiếu toả trong tâm hồn mới có khả năng nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người mình không thích và không yêu mến.

Giáo Hội chọn phần kết luận của Tin Mừng từ Thánh Máccô về mệnh lệnh rao giảng cho muôn dân để đọc trong ngày hôm nay để nói lên sức mạnh của Tin Mừng có thể biến đổi con người. Theo các học giả Kinh Thánh, đoạn Tin Mừng này là phần kết thúc được thêm vào sau này [có thể vào thế kỷ thứ 2] vì nó khác biệt trong kiểu viết và ngôn từ so với những phần khác của Tin Mừng. Họ cho rằng đoạn này được dựa cách chính yếu trên Tin Mừng của Luca và một phần của Tin Mừng Gioan. Dù được thêm vào sau này vì bản văn kết thúc ở Mc 16:1-8 là không đầy đủ. Trước đoạn này là các cuộc hiện ra (Mc 16:9-14) và sau đoạn này là việc lên trời của Chúa Giêsu (Mc 16:19-20). Ở giữa việc hiện ra của Chúa Giêsu và lên trời của Ngài là lệnh truyền đi rao giảng. Điều này đưa chúng ta về với điều Thánh Gioan viết trong thư của Ngài: Chúng tôi loan báo cho anh chị em những gì chúng tôi đã nghe, những gì chúng tôi đã thấy, những gì chúng tôi đã chạm đến.

Điểm gây chú ý cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là lời hứa của Chúa Giêsu về những dấu lạ sẽ đi theo những người đi rao giảng: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18). Đây chính là nét đặc trưng của Tin Mừng của Thánh Máccô. Chúng ta thấy, tất cả những dấu lạ này là những điều Chúa Giêsu đã làm trong phần đầu của Tin Mừng của Ngài. Bây giờ, khi Ngài không còn ở lại với họ cách thể lý, Ngài trao những quyền đó cho các môn đệ. Điều này có nghĩa là: Người môn đệ của Chúa Giêsu khi được sai đi không làm gì ngoài việc làm những gì mà Chúa Giêsu đã làm. Thật vậy, chúng ta là những người mang sứ điệp tin mừng, chúng ta không phải là sứ điệp. Đừng để cho cái bóng của chúng ta che mất sứ điệp mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu để rơi vào mối nguy hiểm là loan truyền sứ điệp của mình hơn là của Chúa.

THỨ NĂM

HÃY TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH CỦA CHÚA GIÊSU

Thánh Timôtvà Thánh Titô, Giám Mục

(2 Tm 1:1-8; Lc 10:1-9)

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ Thánh Timôthê và Titô. Hai ngài là những công sự viên đắc lực của Thánh Phaolô. Chúng ta thấy điều này được Thánh Phaolô nói đến trong bài đọc 1. Ngài gọi Timôthê là “người con yêu dấu” (2Tm 1:2). Timôthê đến từ Lystra, thuộc Thổ Nhỉ Kỳ bây giờ. Mẹ của Ngài là người Do Thái, còn cha của Ngài không phải người Do Thái. Ngài được mệnh danh là “học trò của Kinh Thánh” khi còn là thiếu niên. Khoảng năm 51, Timôthy theo Phaolô và trở nên bạn đồng hành của Phaolô. Giống Thánh Phaolô, Timôthê chịu rất nhiều đau khổ của ngục tù. Khoảng năm 64, Timôthê trở thành Giám mục đầu tiên của Êphêsô. Cùng năm đó, thánh nhân nhận được hai lá thư từ Thánh Phaolô. Theo nguồn sử, Thánh Timôthê theo bước Thánh Phaolô trên con đường tử đạo vì đức tin. Năm 93, ngài bị giết bởi đám đông khi ngài chống lại việc tôn thờ ngẫu tượng.

Ngược với Timôthê, Titô sinh ra trong một gia đình ngoại giáo. Ngài không học Kinh Thánh, nhưng học triết học và văn chương Hy Lạp. Nhưng ngài theo đuổi con đường nhân đức, và ngài đã có một giấc mơ mà qua nó ngài bắt đầu đọc Kinh Thánh. Theo truyền thống, thánh nhân đến Giêrusalem và chứng kiến Chúa Giêsu giảng dạy. Và sau khi Thánh Phaolô trở lại, Titô lãnh nhận phép rửa. Thánh Titô không chỉ là người con thiêng liêng của Thánh Phaolô, nhưng còn là người bạn đồng hành và là người chuyển ngữ. Ngài là Giám Mục của Crete. Ngài không tử đạo, nhưng qua đời trong bình an vào tuổi già.

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta đọc được những lời thật chân tình của một người cha viết cho con của mình, là những lời đến từ tận đáy lòng của một người “không ngừng nhắc nhớ đến anh, trong các lời cầu nguyện của tôi, đêm cũng như ngày. Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ước ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui” (2Tm 1:3-4). Tháng Phao-lô chỉ cho chúng ta thấy không có điều gì tuyệt hảo hơn là luôn nhớ người khác trong lời kinh nguyện hằng ngày của mình. Chính Chúa là người sẽ nối kết và làm cho tình thân của chúng ta trở nên sâu đậm. Những mối thân tình không có Thiên Chúa và không được nuôi dưỡng bởi kinh nguyện luôn là những mối thân tình không trong sáng, hời hợt, và dễ vỡ.

Ngoài việc diễn tả tình thương của mình, Thánh Phaolô nhắc nhở Timôthê về nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên. Theo Thánh Phaolô, Timôthê phải phục vụ đàn chiên của mình không phải bởi thần khí làm cho ngài trở nên nhút nhát, nhưng là thần khí làm cho ngài được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ (x. 2Tm 1:7). Thánh Phaolô còn nhắc nhở Timôthê về việc không được hổ thẹn khi làm chứng cho Chúa Giêsu và hổ thẹn với nhau. Hãy đồng lao cộng khổ với nhau, hãy làm việc với nhau trong hoàn cảnh của mình để loan báo Tin Mừng. Đây chính là điều làm cho họ nên một: Nên một trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng; nên một trong mục đích sống.

Đoạn Tin Mừng này nói lên sự khác biệt giữa người môn đệ (tông đồ) của Chúa Giêsu với các môn đệ của các môn phái khác. Chúng ta sẽ sử dụng phương pháp chú giải để hiểu những điểm chính trong Tin Mừng để giúp ta suy gẫm và sống lời Chúa của ngày hôm nay tốt hơn:

(1) “Khi ấy, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” (Lc 10:1). Chúa Giêsu sai đi từng hai người một gợi lại cho chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài gọi họ từng hai người một, bây giờ Ngài sai họ đi cũng từng hai người một. Điều này làm cho chúng ta ý thức được bản chất của con người là một “hữu thể xã hội.” Chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống cho người khác. Không ai là một hòn đảo, tự đủ trong chính mình. Chúng ta cần người khác để đáp lại tiếng Chúa và cũng cần người khác để thực hiện sứ mệnh Chúa trao. Hãy tránh thái độ “tự đủ” và “cá nhân chủ nghĩa.” Hãy học sống cùng, sống với và sống cho người khác, bắt đầu với những người bên cạnh chúng ta.

(2)  “Người bảo các ông: ‘Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về’” (Lc 10:2). Điều này nhắc nhở rằng: Cánh đồng và mùa gặt là của Chúa chứ không phải là của chúng ta. Chúng ta chỉ là những thợ gặt, những người làm công, những tôi tớ vô dụng trong cánh đồng của Ngài. Cho nên, chúng ta hãy luôn nhớ chúng ta không phải là chủ mùa gặt! Chúng ta phải gặt và làm theo điều mà chủ mùa gặt muốn, chứ không làm theo ý riêng của mình. Những người làm theo ý riêng của mình có thể thành công dưới con mắt người đời. Những thành công của họ là trong một cánh đồng khác, chứ không phải trong cánh đồng của Chúa, và hoa trái họ gặt hái được không phải của Chúa, mà là của thế gian.

(3) Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10:3-4). Theo các học giả Kinh Thánh, đây là điều làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu khi được sai đi rao giảng khác biệt với các nhà giảng thuyết của các tôn giáo hoặc nhóm khác. Đối với những người môn đệ của Chúa Giêsu, việc được sai đi không phải là một công việc dễ dàng, nhưng là một công việc gặp nhiều nguy hiểm “như chiên giữa bầy sói.” Họ không để cho mình bị chi phối bởi tiền bạc, những tiện nghi cá nhân hoặc những mối tương quan quen thuộc. Điều quan trọng đối với họ chính là sứ điệp họ được sai đi loan báo, còn những điều khác sẽ được ban thêm!

(4) “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ‘Bình an cho nhà này!’ Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” (Lc 10:5-7). Những người môn đệ của Chúa là những khí cụ bình an của Chúa Giêsu cho người khác. Bình an chỉ có được khi có tình yêu ngự trị. Nói cách khác, những người môn đệ của Chúa Giêsu là những người đem lại sự hiệp nhất chứ không phải là nguyên nhân của sự chia rẽ và ghen ghét. Họ không được tìm kiếm tiện nghi khi được sai đi. Điều này được Chúa Giêsu nhắc nhở trong câu: “Không được đi hết nhà nọ đến nhà kia.” Họ không được làm như thế để tìm sự so sánh và tiện nghi trong nơi ăn ở của mình. Họ phải biết bằng lòng với điều kiện sống của mình. Chúng ta có bằng lòng với điều kiện sống chúng ta đang có không? Hay chúng ta đang đi tìm kiếm tiện nghi cho cuộc sống của mình và quên đi sứ mệnh mình đang được sai đi thực hiện, đó là, trở thành khí cụ bình an, tình yêu và niềm vui của Chúa Giêsu?

(5) “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: ‘Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông’” (Lc 10:8-9). Sứ điệp mà các môn đệ được sai đi luôn loan báo luôn hướng người khác về Nước Thiên Chúa, tức là hướng về Thiên Đàng. Nói cách khác, khía cạnh “cánh chung” không thể thiếu trong sứ điệp của người môn đệ. Người môn đệ phải luôn nhắc nhở cho người khác biết rằng: Quê hương thật của con người không phải ở trên thế giới này, nhưng là ở trên Thiên Đàng, nơi con người được hưởng niềm vui bất tận với Thiên Chúa, Đấng họ yêu mến và tôn thờ. Hãy hướng mắt người khác về trời hơn là hướng về đất trong lời nói và việc làm của chúng ta.

THỨ SÁU

HÃY ĐỂ CHO NƯỚC THIÊN CHÚA LỚN LÊN TRONG BẠN

(Dt 10:32-39; Mc 4:26-34)

Người ta thường nói: “Tình đầu khó quên.” Chúng ta thường bắt đầu công việc với lòng nhiệt thành, sáng kiến và hy vọng. Chính điều này làm cho chúng ta sẵn sàng đối đầu với tất cả những khó khăn đang chờ đợi phía trước. Nhưng thời gian trôi qua, hết khó khăn này đến khó khăn khác ập đến làm chúng ta chùn bước và mất đi sự nhiệt tình và tình yêu thuở ban đầu. Đây là điều tác giả thư gởi Do Thái nói đến trong bài đọc 1 hôm nay để nhắc nhở chúng ta về tình yêu ban đầu mà chúng ta có khi chúng ta thi hành ý Thiên Chúa [hay khi chúng ta tuyên khấn chọn Chúa làm gia nghiệp duy nhất đời mình]: “Thưa anh em, xin anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập” (Dt 10:32). “Nhớ lại tình yêu thuở ban đầu mình dành cho Chúa” là chìa khoá của sự canh tân và trung thành cho những ai theo Chúa Giêsu trên con đường hoàn thiện.

Theo tác giả thư Do Thái, khi chúng ta nhớ lại tình yêu và lòng nhiệt thành ban đầu, niềm tin của chúng ta cũng sẽ được củng cố: “Vậy, anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao” (Dt 10:35). Để sống trọn vẹn việc thi hành ý Chúa, tác giả thư Do Thái muốn chúng ta phải có một đức tính cần thiết đó là: kiên nhẫn vì “chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống” (Dt 10:39). Trên con đường hoàn thiện và tìm kiếm thánh ý Chúa, người thiếu kiên nhẫn hay không có đức kiên nhẫn sẽ không bao giờ có cái nhìn bao dung và tha thứ. Họ luôn sống trong sự dằn vặt của tội lỗi và yếu đuối của mình và của người khác, để rồi cuộc đời của họ là một chuỗi ngày của giận dữ, tự kiêu, kết án và cô độc. Đừng để con tim của mình mất đi tình yêu thuở ban đầu vì thiếu kiên nhẫn!

Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai dụ ngôn và một phần tóm kết. Dụ ngôn đầu tiên là dụ ngôn về hạt giống tăng trưởng. Cũng giống như những dụ ngôn khác, dụ ngôn này nhấn mạnh đến sự đối nghịch giữa sự nhỏ nhoi của hạt giống và sự vĩ đại to lớn của mùa gặt. Điểm tập trung của dụ ngôn là Nước Thiên Chúa trong thời cánh chung, nhưng nước này là một thực tại hiện diện có thể được mô tả trong hình ảnh của hạt giống và sự tăng trưởng của nó. Thiên Chúa sẽ hướng dẫn sự tăng trưởng của Nước Ngài đến sự hoàn thiện trong tương lai. Nước Thiên Chúa hiển nhiên sẽ đến và sẽ đến một cách kín ẩn như mùa gặt sẽ theo sau việc gieo giống. Sứ điệp chính của dụ ngôn này là mời gọi chúng ta không nên thất vọng hay bỏ cuộc hoặc trở nên thiếu kiên nhẫn trong khi chờ đợi Nước Thiên Chúa đến. Chúng ta nhận ra điều này trong hình ảnh của hạt giống âm thầm mọc lên: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự động sinh hoa kết quả: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm ra gặt, vì đã đến mùa” (4:26-28). Khi suy gẫm về tiến trình hạt giống mọc lên của hạt giống chúng ta nhận ra rằng nó tự mọc lên mà không cần người vãi giống biết đến và phân tích về tiến trình mọc lên của nó. Việc mọc lên của nó cũng không làm cho người gieo giống trở nên lo lắng vì ông biết hạt giống ông gieo sẽ tự nó mọc lên và tự động sinh hoa kết quả. Chi tiết này mời gọi chúng ta biết phó thác và tin tưởng vào Chúa. Nhiều khi chúng ta lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện trong cuộc sống đến độ Chúa không có chỗ trong cuộc đời hoặc trong sự lo lắng của chúng ta. Chúng ta cố gắng hoàn thành những gì mình có thể theo sức của mình. Phần còn lại hãy phó dâng cho Chúa. Ngài sẽ chăm sóc và cho sinh nhiều hoa trái.

Dụ ngôn thứ hai là dụ ngôn về hạt cải. Dụ ngôn này ám chỉ việc Nước Trời được so sánh với một hạt giống thật nhỏ bé, nhưng sẽ lớn lên thành một cây to lớn: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại nhỏ nhất trong các hạt giống trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (4:30-32). Cũng như dụ ngôn hạt giống tăng trưởng, dụ ngôn này cho chúng ta biết Nước Trời sẽ đến một cách không thể tránh được. Vì vậy, chúng ta không nên thất vọng hoặc mất kiên nhẫn. Lại một lần nữa, dụ ngôn cho thấy Nước Trời là một thực tại hiện diện có thể được mô tả trong hình ảnh của hạt giống và chính Thiên Chúa sẽ làm cho nó tăng trưởng. Điểm đáng để chúng ta suy gẫm trong dụ ngôn này là sự nhỏ bé của hạt giống và sự vĩ đại của những gì nó mang lại. Chi tiết này giúp chúng ta nhận ra rằng khi chúng ta đặt vào trong tay Chúa một cái gì đó thật nhỏ bé, Ngài sẽ làm cho nó trở nên vĩ đại để mọi người có thể nếm được sự dịu ngọt của nó. Thật vậy, Chúa sẽ biến những điều nhỏ bé chúng ta làm trong việc xây dựng Nước Trời thành nhưng điều vĩ đại cho anh chị em của chúng ta.

Bài Tin Mừng kết với việc trình bày cho chúng ta rằng Chúa Giêsu còn dùng nhiều dụ ngôn khác tương tự như những dụ ngôn Ngài đã nói để giảng dạy dân chúng: “Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ nói với họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết” (4:33-34). Những lời này cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một Người Thầy vĩ đại. Ngài sử dụng tất cả những gì gần gũi với thính giả của mình để chuyền tải sứ điệp Nước Trời. Điều này mời gọi chúng ta biết sử dụng những thực tại hằng ngày để nhận ra sứ điệp Tin Mừng để rồi qua đó chúng ta có khả năng sử dụng những thực tại cụ thể đó để nói cho anh chị em mình biết về mầu nhiệm Nước Trời.

THỨ BẢY

TÍN THÁC VÀO CHÚA GIỮA SÓNG GIÓ CUỘC ĐỜI

(Hr 11:1-2.8-19; Mc 4:35-41)

Tác giả thư Hípri hôm nay trình bày cho chúng ta tấm gương đức tin của Ápraham. Trước khi trình bày chi tiết về những gì đức tin đã mang lại cho Ápraham, tác giả thư Hípri nói về bản chất của đức tin là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Hr 11:1-2). Đức tin đưa chúng ta vào huyền nhiệm của những mầu nhiệm vô hình, vào thế giới của những cái không nhìn thấy. Sống trong thế giới mà dường như mọi sự được đánh giá dựa trên những giá trị có thể cân đo đong đếm, chúng ta hơn bao giờ hết cần đến đức tin để bước vào hành trình của niềm hy vọng cho những gì chúng ta không nhìn thấy như Ápraham. Nhờ đức tin, Ápraham đã thực hiện những điều sau: (1) ông “đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp. Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Hr 11:8); (2) ông đã “tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Ixaác và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Hr 11:9-10); (3) ông đã vượt qua thử thách để hiến tế Ixaác. Suy gẫm về hành trình đức tin của Ápraham, chúng ta nhận ra đây cũng là hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta hoàn toàn tín thác vào Chúa qua việc vâng nghe lời mời gọi của Ngài để bước vào một hành trình đến vùng Đất Hứa (Nước Trời) mà chúng ta không thấy. Trên hành trình này, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều thử thách. Chúng ta chỉ vượt qua những thử thách này nếu chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong từng bước đi đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho chúng ta những điều thật tốt đẹp cuối hành trình. Liệu chúng ta có đủ niềm tin để đặt trọn vẹn cuộc sống của mình vào vòng tay yêu thương của Ngài không?

Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu ba hành động mang tính phép lạ của Chúa Giêsu. Thánh Máccô sắp xếp cấu trúc trong phần này thật tuyệt nhằm cho các môn đệ thấy Chúa Giêsu có uy quyền không chỉ trong việc giảng dạy bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động của mình. Vì vậy, sau khi giảng dạy dân chúng và các môn đệ bằng dụ ngôn, Chúa Giêsu thực hiện các hành động mang tính phép lạ để qua đó Ngài cho thấy Ngài có quyền trên Xatan hiện diện trong thiên nhiên (4:35-41), trong những người bị ám (5:1-20), trong những người bệnh tật (5:25-34), và trong sự chết (5:21-24; 35-43).

Câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt biển ám chỉ đến việc Ngài có uy quyền trên Xatan hiện diện trong thiên nhiên. Đây là câu chuyện đầu tiên trong chuỗi những câu chuyện có cùng một cấu trúc hay kiểu mẫu: Một rào cản được vượt qua (biển động), hành động đầy uy quyền của Chúa Giêsu (ra lệnh cho biển im lặng), và một sự khẳng định (biển lặng và các môn đệ kính sợ). Bối cảnh phía sau của câu chuyện này có thể là tư tưởng của vùng Phía Cận Đông cổ (Ancient Near East) về biển như là biểu tượng quyền lực của sự hỗn mang và sự dữ đang cố gắng chống lại Thiên Chúa. Bằng việc làm chủ cơn bão trên biển, Chúa Giêsu làm những gì Thiên Chúa làm và đánh bại các mãnh lực của sự dữ. Các người đọc của Máccô hiểu hình ảnh này được bao nhiêu thì chúng ta không biết. Vì vậy, câu hỏi của các môn đệ ở cuối trình thuật Chúa Giêsu là ai chỉ ra cho chúng ta rằng Thánh Máccô nhấn mạnh đến chân tính của Chúa Giêsu và thiết lập một lời công bố về Kitô học mang tính mặc nhiên về thần tính của Chúa Giêsu, bởi vì Chúa Giêsu làm những gì Thiên Chúa làm.

Hình ảnh đáng để chúng ta suy gẫm là hình ảnh Chúa Giêsu vẫn an tâm ngủ trong khi các môn đệ vất vả chèo chống với trận cuồng phong. Khả năng ngủ của Chúa Giêsu ở đàng lái giữa sóng biển xô dập dồn chỉ cho chúng ta thấy thái độ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Điều này mời gọi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa giữa biển đời nhiều khó khăn và thử thách. Giống như các môn đệ, chúng ta cũng hoảng sợ và kêu lên: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (4:39) khi đối diện với những sóng gió trong cuộc sống. Chúng ta nghĩ Chúa không lo lắng gì cho chúng ta. Nhưng chúng ta cần biết rằng nhiều khi Chúa ‘chưa’ làm gì, chứ không phải ‘không’ làm gì. Ngài muốn chúng ta hoàn toàn tín thác vào Ngài giữa sóng gió cuộc đời vì chính Ngài là Người đang nắm giữ vận mệnh của hành trình. Chúng ta có sẵn sàng tín thác để Ngài hướng dẫn hành trình của chúng ta không?