Các Bài suy niệm Tuần 22 Thường niên_C

184

MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM C

CHÚA NHẬT

THỨ HAI (Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết)

THỨ BA

THỨ TƯ

THỨ NĂM

THỨ SÁU

THỨ BẢY

Lm. Ngọc Dũng, SDB

CHÚA NHẬT

TÔN VINH THIÊN CHÚA QUA ĐỜI SỐNG KHIÊM NHƯỜNG

(Hc 3:17-18.20.28-29; Dt 12:18-19.22-24a; Lc 14:1.7-14)

Sống trong xã hội hôm nay, những người có chức có quyền luôn được đưa được đón và hệ quả là nhiều người trong họ trở nên tự cao. Những người có chức quyền được hưởng nhiều bổng lộc. Họ ăn ngon mặc đẹp, sống trong nhà cao cửa rộng, để rồi khó cảm nhận được cái nóng cái lạnh, cái đói cái khát của anh chị em đang sống chung quanh họ. Lời Chúa ngày Chúa Nhật hôm nay tập trung vào việc giáo huấn những người đang có vai trò lãnh đạo [gia đình, các hội đoàn, tổ chức, giáo xứ, giáo phận, Giáo Hội]. Nói một cách cụ thể, ai trong chúng ta cũng là “người lãnh đạo,” tức là người đang hướng dẫn người khác [đến với Chúa và đến với nhau trong tình yêu của Chúa]. Chúng ta hãy để lời Chúa hướng dẫn chúng ta trong việc hướng dẫn người khác.

Bài đọc 1 trích từ sách Huấn Ca. Theo truyền thống, người ta xem cuốn sách này chứa đựng những lời dạy của vua Solomon cho các con của mình. Thật vậy, cung giọng của trích đoạn hôm nay cho thấy rõ tâm tình của người cha khuyên nhủ con mình. Người cha trong bài đọc 1 chỉ cho người con những loại người sau: (1) người được yêu mến hơn người hào phóng là người luôn hoàn thành việc mình làm một cách nhũn nhặn (Hc 3:17); (2) người sống đẹp lòng Đức Chúa là người càng làm lớn thì càng tự hạ (Hc 3:18); (3) người sống khiêm nhường là người tôn vinh Chúa qua cuộc sống của mình (Hc 3:20); (4) người bị sự xấu xa ăn sâu mọc rễ trong mình là người kiêu ngạo. Những ai kiêu ngạo bị lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa (Hc 3:28); (5) người để tâm nghiên cứu các ẩn dụ [ý nghĩa của cuộc sống] là người sáng trí; (6) và người ao ước có tai thính để nghe [nghe Chúa và nghe nhau] là người khôn ngoan (Hc 3:29). Đọc qua những loại người này, chúng ta thuộc loại nào? Thành thật mà nói, chúng ta có một ít của người này và một ít của người kia. Nhưng cuối cùng, người sống khiêm nhường sẽ là người mà chúng ta cần phải trở nên. Vì Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay ca ngợi những ai sống khiêm nhường và tự hạ.

Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh bữa tiệc. Hình ảnh bữa tiệc luôn được sử dụng trong Kinh Thánh để ám chỉ bàn tiệc mà Thiên Chúa dọn trong ngày cánh chung. Đây là điều chúng ta thấy thánh Phaolô trình bày trong bài đọc 2: “Nhưng anh em đã tới núi Xion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời” (Dt 12:22-23). Trong bữa tiệc trên trời này, chúng ta được đến cùng “Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện ” (Dt 12:23). Nhưng chúng ta không run sợ trước sự phán xét của Thiên Chúa vì khi đến với Thiên Chúa, chúng ta cũng “đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu” (Dt 12:24a). Chính vị Trung Gian giao ước mới này sẽ chỉ cho chúng ta phải làm gì và Ngài sẽ là Đấng bào chữa cho chúng ta.

Ngay từ đầu, bữa tiệc này đã có một cái gì đó không ổn, đó là những chủ nhà [ông thủ lãnh nhóm Pharisêu] và những người đồng bàn “cố dò xét Người” (Lc 14:1). Tuy nhiên, tình thế thay đổi: thay vì bị dò xét, Chúa Giêsu lại “dò xét” họ. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đến với Chúa với một động lực không thuần khiết, đó là muốn “dò xét xem Chúa” có ban cho mình điều mình xin không hay bắt Chúa làm theo ý mình. Chúa vẫn đón nhận và đến với chúng ta. Nhưng Ngài sẽ quan sát để xem chúng ta cần thay đổi gì và chỉ dạy chúng ta. Ước gì chúng ta sẵn sàng nghe theo lời chỉ dạy của Ngài để sống trọn vẹn hơn cho Ngài. Bài Tin Mừng được chia ra làm hai phần: Phần 1 chứa đựng lời dạy của Chúa Giêsu cho khách được mời đến dự tiệc (Lc 14:7-11) và phần 2 trình bày lời dạy của Chúa Giêsu cho người mời (Lc 14:12-14). Nói một cách ngắn gọn, bài Tin Mừng nói về những thái độ cần có khi mời khách đến dự tiệc cũng như khi đi dự tiệc. Chúng ta cũng đến dự bàn tiệc Thánh Thể mỗi Chúa Nhật, chúng ta cần có những thái độ như thế nào?

Bài Tin Mừng hôm nay là phần đầu của lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giêsu, là khách mời chính trong bữa tiệc. Những người khác chỉ là “khách dự tiệc.” Thuật ngữ “được mời” tiếng Hy Lạp là Keklemenoi. Trong đoạn Lc 14:1-24, thuật ngữ này mang hai nghĩa, ám chỉ “những người được chọn” hoặc “những người xem mình được chọn.” Trong đoạn trích Tin Mừng, nghĩa thứ nhất, tức là “những người được chọn” được sử dụng. Như vậy, họ cũng được mời với Chúa Giêsu, người khách mời chính. Nhưng ngạc nhiên thay, những người không phải là khách mời chính “cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” (Lc 14:7). Hay nói theo nghĩa bình dân là dành mất chỗ nhất của Chúa Giêsu. Điều này thường xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Thay vì để Chúa là Chúa, chúng ta chiếm lấy chỗ của Ngài để được danh dự và vinh quang, để được tôn trọng và phục vụ. Đây chính là bối cảnh mà trong đó lời dạy của Chúa Giêsu về thái độ cần có khi được mời dự tiệc [hay khi được Chúa chọn]. Trong lời dạy của Ngài, Chúa Giêsu dùng hình ảnh tương phản để dạy khách được mời. Ngài dùng cặp tương phản chỗ nhất-chỗ cuối, xấu hổ-vinh dự. Tuy nhiên, một chi tiết chúng ta cần lưu ý là việc sếp đặt chỗ nhất, chỗ cuối là do ông chủ tiệc. Sự tương phản đạt đến cao điểm trong câu kết luận của Chúa Giêsu: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14:11). Trong câu này, Thánh Luca đặt vào sự khôn ngoan của con người một ý nghĩa thần học, đó là Thiên Chúa sẽ không bị lừa dối bởi những kẻ tự nâng mình lên. Tóm lại, chúng ta có thể nhận ra trong lời dạy của Chúa Giêsu cho khách dự tiệc những điểm sau: (1) biết mình là ai trong số khách mời; (2) đừng tự chọn chỗ nhưng theo sự hướng dẫn của chủ tiệc [vâng phục].

Sau khi dạy khách dự tiệc những thái độ cần có khi dự tiệc, Chúa Giêsu hướng dẫn chủ tiệc về việc chọn lựa khách mời. Trong lời dạy này, chúng ta sẽ nhận ra vấn đề đang xảy ra trong cộng đoàn của Thánh Luca. Thật vậy, theo các học giả Kinh Thánh cộng đoàn Thánh Luca không tiếp tục nền luân lý hỗ tương nhiệm nhặt của Hy Lạp – Rôma. Trong nền luân lý đó, bạn bè là những người đặt mọi sự làm của chung. Họ luôn giúp đỡ nhau với hy vọng rằng khi họ gặp khó khăn thì bạn bè sẽ giúp họ. Còn trong cộng đoàn Thánh Luca, các thành viên đến từ nhiều hoàn cảnh sống và quốc gia khác nhau và họ đặt mọi sự làm của chung. Không ai bị loại ra ngoài khi gặp khó khăn. Ai cũng có bổn phận giúp người khác dù họ không phải là bạn của mình. Như vậy, khi có tụ họp ai cũng phải được mời, chứ không chỉ mời những người thân của mình. Điều này không được thực hiện trong cộng đoàn của Thánh Luca. Chi tiết này cung cấp cho chúng ta bối cảnh để hiểu những lời của Chúa Giêsu nói với người chủ tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc 14:12:-14). Trong những lời này, Chúa Giêsu phân biệt ra hai loại khách mời [mang tính tương phản]: loại thứ nhất bao gồm bạn bè, anh em, hay bà con hoặc láng giềng giàu có. Lợi thế khi mời nhóm này là họ sẽ mời lại chúng ta và như thế chúng ta đã được đáp lễ. Đây là điều chúng ta vẫn thường làm trong xã hội hiện nay. Khi có tiệc hay việc gì, chúng ta thường mời những người thân, những người chúng ta biết. Sau đó, khi họ có tiệc hay việc gì, họ cũng mời lại chúng ta. Khi làm như thế, chúng ta không để ý đến loại thứ hai mà Chúa Giêsu đề cập đến, đó là những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Khi mời nhóm này, chúng ta không được lợi gì vì họ không có gì để đáp lễ “trong cuộc sống này,” nhưng chúng ta sẽ được đáp lễ “trong ngày các kẻ lành sống lại.” Thánh Luca muốn nhắc nhở các thành viên trong cộng đoàn của mình phải vượt lên trên kiểu tính toán của con người, đó là kiểu tính toán mang tính “hòn đất ném đi thì hòn chì ném lại.” Họ phải sống như những người môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã nhận nhưng không thì cũng phải cho đi cách nhưng không (x. Mt 10:8). Họ phải biết nhìn vượt qua những gì là tạm thời để hướng đến những gì là vĩnh cửu. Chỉ những ai có cái nhìn như thế mới biết mở lòng cho những ai thiếu may mắn hơn mình vì họ biết rằng phần thưởng “trong ngày kẻ chết sống lại” thì quan trọng hơn phần thưởng chóng qua trong cuộc sống tạm thời trên trần thế.

Tóm lại, điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta không được loại trừ bất kỳ người nào ra khỏi tình yêu [ra khỏi con tim] của chúng ta dù chúng ta không thu lợi được gì khi chúng ta yêu thương họ. Tình yêu chận thật không đặt quan trọng ở việc mình sẽ l ấy được gì từ người khác, nhưng ở việc mình sẽ trao ban điều gì cho người khác.

THỨ HAI

SỐNG THẬT VÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT (Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết)

(Gr 1:17-19; Mc 6:17-29)

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ kính nhớ Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết. Có thể nói rằng, Thánh Gioan là người, sau các Thánh Anh Hài, đã đổ máu mình ra làm chứng cho sự thật, làm chứng cho Chúa Giêsu. Ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu trong cuộc sống cũng như trong sự chết. Lời Chúa hôm nay trình bày số phận của thánh nhân giống số phận của các ngôn sứ, nhất là ngôn sứ Giêrêmia. Chúng ta hãy để lời Chúa hướng dẫn chúng ta trong suy gẫm hầu có thể học được gương sáng của thánh Gioan trong việc dám hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho Chúa Giêsu.

Trong bài đọc 1, Đức Chúa ra lệnh cho Giêrêmia phải nói cho con cái Israel tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi” (Gr 1:17). Ngôn sứ phải nói những gì “Chúa muốn nói,” chứ không phải những gì mà mình muốn nói. Khi nói những điều Chúa truyền phải nói, ngôn sứ không còn sợ hãi vì “hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giuđa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ” (Gr 1:18). Tuy nhiên, một điều Đức Chúa tiên báo trước cho ngôn sứ là sẽ bị chống đối. Nhưng dù bị chống đối, vị ngôn sứ sẽ không run sợ vì có Đức Chúa ở với mình để giải thoát [“Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì – sấm ngôn của Đức Chúa – có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1:19).

Câu chuyện về cái chết của Gioan Tẩy giả được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về số phận của những ngôn sứ “chỉ nói cách trung thực” những lời Đức Chúa truyền cho mình. Chúng ta cùng nhau phân tích câu chuyện này theo lối kịch nghệ, đó là phân tích đặc tính của từng nhân vật trong vở “bi kịch” mang tên “Sự trảm quyết của Gioan Tẩy Giả” để xem chúng ta đang đóng vai nào trong vở bi kịch này.

Nhân vật đầu tiên là vua Hêrôđê: Đây là Hêrôđê Antipa, một trong những người con của Hêrôđê cả. Câu chuyện cho thấy việc ông làm là “sai người đi bắt Gioan và xiềng ông trong ngục” (Mc 6:17). Chúng ta vẫn tìm thấy trong vua Hêrôđê hai điều tích cực, đó là (1) vẫn còn “kính sợ” dành cho “người công chính thánh thiện” (Mc 6:20) và (2) vẫn thích nghe và muốn che chở Gioan. Nhưng hai điều tích cực này không chiến thắng được hai điều tiêu cực trong ông, đó là (1) lạm dụng quyền lực cho lợi ích riêng của mình (x. Mc 6:17) và (2) thề hứa “một cách thiếu suy nghĩ”(x. Mc 6:21-23). Trong cuộc sống của chính mình, điều gì đang chiến thắng: khuynh hướng tích cực hay tiêu cực?

Nhân vật thứ hai là Hêrôđia: Kinh Thánh cho biết bà là vợ của Philíphê, anh trai của vua Hêrôđê. Bà bỏ chồng, lấy em trai của chồng (x. Mc 6:17). Một trong những đặc tính làm cho nhiều người “nhớ” bà nhiều nhất, đó là bà luôn “căm thù ông Gioan và muốn giết ông,” vì ông chống lại những việc sai trái của bà (x. Mc 6:19). Lòng căm thù đó khiến cho bà tìm đủ mọi cách để giết chết Gioan và khi có cơ hội bà liền nắm lấy để thực hiện điều toan tính của bà mà không suy nghĩ (x. Mc 6: 24-28). Trong lòng bà chỉ có một điều, đó là đạt được mục đích của mình bằng mọi cách dù phải “hy sinh” người khác. Chúng ta có giữ thái độ thù hằn như thế này với một ai không?

Nhân vật thứ ba là con gái của Hêrôđia: Bài Tin Mừng cho thấy cô dùng tài năng của mình để làm vui lòng người khác (x. Mc 6:22). Cô không có lập trường cho riêng mình. Cô chỉ làm theo điều người khác muốn dù cô biết điều đó là sai. Hình ảnh này cũng rất quen thuộc trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta biết rằng, tài năng Chúa ban cho không chỉ để làm vui lòng người khác, nhưng tiên vàn để làm vinh danh Chúa qua việc phục vụ anh chị em của mình. Nói cách khác, chúng ta phải sử dụng tài năng thế nào để không tìm kiếm lợi íc h cho riêng mình. Nhưng qua tài năng của mình Thiên Chúa được tôn vinh và anh chị em của mình được hưởng hoa lợi. Bên cạnh đó, nhiều lần chúng ta cũng đóng vai diễn này. Chúng ta không có lập trường cho riêng mình khi biết người khác sai. Chúng ta sống cho giấc mơ của người khác hơn là giấc mơ của Chúa; chúng ta cố gắng làm vui lòng người khác hơn là làm vui lòng Chúa. Nhưng nên biết rằng, không ai có thể làm vui lòng người, vì “lòng tham” của con người thì vô đáy.

Nhân vật cuối cùng là Gioan Tẩy Giả: Ông không sợ nói lên sự thật dù biết khi nói sự thật sẽ phải trả một giá thật đắt, đó là phải hy sinh mạng sống mình. Chúng ta thường nghe rằng: sự thật thì mất lòng. Nhưng nếu chúng ta không nói sự thật hoặc đối diện với sự thật để sự thật chất vấn mình, thì chúng ta đi ngược lại “khát vọng tự nhiên” của lý trí con người, đó là tìm đến sự thật. Ai trong chúng ta cũng muốn hàng thật. Không ai muốn mua một món đồ giả. Ai cũng muốn người khác nói thật, sống thật với mình, nhưng tại sao lại có nhiều gian dối trong cuộc sống mỗi ngày? Chúng ta cần bắt chước Thánh Gioan Tẩy Giả, đó là sống thật và nói thật dù phải hy sinh mạng sống mình. Nhưng làm mọi sự cách hiền lành và khiêm nhường.

THỨ BA

TẬN HIẾN MỖI GIÂY PHÚT CHO THIÊN CHÚA

(1 Cr 2:10b-16; Lc 4:31-37)

Thánh Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về vai trò của Thần Khí Thiên Chúa hoạt động trong đời sống của người Kitô hữu. Theo thánh nhân, Thần Khí là Đấng “ thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cr 2:10b). Vì lý do này, nếu muốn biết mầu nhiệm Thiên Chúa, người Kitô hữu cần phải đến với Ngài: “Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2:11). Bên cạnh đó, Thánh Phaolô chỉ rõ cho biết để loan báo mầu nhiệm Thiên Chúa, người Kitô hữu “không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr 2:13). Trong những lời này, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta về sự giới hạn của trí hiểu con người. Dù chúng ta có thông minh đến đâu, trí hiểu của chúng ta cũng có giới hạn. Vì thế, chúng ta cần đến mạc khải của Thiên Chúa; chúng ta cần đến ân sủng của Ngài chứ không chỉ sống theo tính tự nhiên của mình: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. Nhưng con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó” (1 Cr 2:14-15). Những lời này làm chúng ta nhìn lại mình vì chúng ta thường sống theo bản tính tự nhiên của mình chứ không sống theo ân sủng. Chúng ta thường phản ứng lại anh chị em mình theo kiểu “răng đền răng, mắt đền mắt” chứ không theo kiểu “hãy yêu thương những kẻ ghét anh em.” Chỉ những ai sống theo ân sủng mới đạt đến mức thập toàn, trở nên người cảm thông và tha thứ cho mọi người và cũng không là “thập giá” cho người khác.

Sau khi “không thành công” ở quê nhà, Chúa Giêsu “xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát, Người giảng dạy dân chúng” (Lc 4:31). Ngài làm những gì Ngài đã làm ở quê nhà [giảng dạy trong hội đường], nhưng phản ứng của người nghe khác nhau: Ở quê nhà, “mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4:22). Sự tán thành và thán phục nhanh chóng trở thành sự coi thường. Kết cục là họ muốn giết Ngài; còn ở Caphácnaum, mọi người “sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền” (Lc

4:32). Sự sửng sốt về lời của Người không bị mất đi. Câu 32 và câu 36 tạo thành một cặp “bánh mì kẹp.” Mọi người sửng sốt trước khi Chúa Giêsu thực hiện việc trừ quỷ và họ rất đỗi kinh ngạc sau khi Người trừ quỷ. Tất cả họ quy cho lời giảng dạy của Ngài [lời của Ngài có sức mạnh trên các thần ô uế]. Điều này làm sáng tỏ “căn tính” của Chúa Giêsu. Ngài là “Đấng Thánh” của Thiên Chúa (Lc 4:34). Sứ điệp của Ngài có sức giải phóng con người. Lời của Ngài là lời Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta nhận ra rằng Thánh Luca dùng lối viết “bánh mì kẹp” nhằm mục đích nói về căn tính của “ông Giêsu Nadarét,” và căn tính này được mạc khải qua lời Ngài nói và công việc Ngài làm. Khi căn tính thật của Ngài được tiết lộ, thì “tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng” (Lc 4:37).

Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay rõ hơn, chúng ta phải đặt nó vào trong bối cảnh của việc Nước Thiên Chúa sẽ phục hồi con người trở nên hoàn thiện (x. Lc 4:31-44). Thánh Luca sử dụng một nhóm những công việc Chúa Giêsu thực hiện để tạo nên một bài giáo lý mang tính Kitô học cho cộng đoàn của ngài. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện đầu tiên trong nhiều sự kiện trừ quỷ được trình thuật trong Tin Mừng Thánh Luca và sách Công Vụ Các Tông Đồ. Trong trích đoạn này, Thánh Luca trình bày một đề tài quan trọng trong đời sống tôn giáo của người Do Thái, đó là đề tài về thanh sạch. Đề tài này hợp nhất ba khái niệm trong bài Tin Mừng: ngày sabbath, thần ô uế và Đấng Thánh của Thiên Chúa. Một cách cụ thể hơn, Chúa Giêsu chữa lành người bị thần ô uế ám trong ngày sabbath, ngày mà đối với người Do Thái là được tách riêng ra khỏi những ngày thường vì Chúa Giêsu có một tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Ngài chính là sự thánh thiện. Nói cách khác, chính Ngài làm cho ngày sabbath trở nên thánh thiện và trong sạch vì mối tương quan mật thiết Ngài có với Thiên Chúa. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về cuộc sống của mình: chúng ta chỉ trở nên thánh thiện và trong sạch chỉ khi chúng ta có mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự thánh thiện của chúng ta không đến từ những việc chúng ta thực hiện, nhưng đến từ việc chúng ta nối kết liên lỉ với suối nguồn của sự thánh thiện, đó là Thiên Chúa. Mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa của Chúa Giêsu được Thánh Luca nói đến trong những chương trước đó [x. 1:32-33; 2:11,30,49; 3:22-23; 4:1-13], và mối tương quan này chỉ ra Chúa Giêsu là ai: Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (x. Lc 4:41). Căn tính Kitô hữu của chúng ta cũng được định nghĩa dựa trên mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Càng sống gần Ngài và có tương quan sâu đậm với Ngài, chúng ta sẽ biết mình là ai và tỏ cho người khác biết mình là ai: là con Thiên Chúa [ngoài việc là một con người như bao nhiêu người khác].

Phần được kẹp bên trong hai miếng “bánh mì kẹp” là việc Chúa Giêsu trừ quỷ thần ô uế (x. Lc 4:33-35). Và trung tâm của phần được kẹp bên trong là câu 34, nói về căn tính của Chúa Giêsu [được thần ô uế tuyên nhận]. Điều này làm sáng tỏ điều chúng ta nói ở trên, đó là nội dung chính của đoạn Tin Mừng này là nói về căn tính của Chúa Giêsu, điều mà được mạc khải qua lời và công việc của Ngài. Điều này được làm sáng tỏ bởi động từ “ra lệnh” [Gk. epitiman] dùng trong câu 35 [câu này dịch đúng là: “Đức Giêsu ra lệnh cho thần ô uế” hơn là “Đức Giêsu quát mắng thần ô uế”]. Thuật ngữ này được sử dụng để nói đến việc công bố một lời mang tính “ra lệnh” mà qua đó Thiên Chúa hoặc “vị phát ngôn viên của Ngài” làm cho quyền lực của thần ô uế phải quy phục. Thuật ngữ này ám chỉ việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế đang hiện diện trong tất cả mọi người. Điều này chúng ta sẽ được chứng kiến trong câu chuyện tiếp theo (Lc 4:38-39), khi Ngài trừ bệnh sốt của một người phụ nữ trong nhà riêng. Sức mạnh giải phóng của Ngài là cho tất cả mọi người và không bị giới hạn vào nơi chốn linh thiêng hoặc trần tục. Chi tiết này mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống của mình: Thần ô uế nào đang sở hữu chúng ta? Chúng ta cần chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài trừ khỏi những thần ô uế đang ám chúng ta, không cho chúng ta tự do yêu thương và tha thứ.

THỨ TƯ

NHẬN RA CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG THƯỜNG NGÀY

(1 Cr 3:1-9; Lc 4:38-44)

Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô “khiển trách” các tín hữu Côrintô vì họ vẫn còn sống theo tính xác thịt, theo tính tự nhiên chứ không theo Thần Khí, điều mà Ngài mong muốn khi rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô chịu đóng đinh cho họ: “Thưa anh em, về phần tôi, tôi đã không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô” (1 Cr 3:1). Thánh nhân chỉ rõ rằng bao lâu chúng ta sống ghen tương, cãi cọ và chia rẽ, chúng ta vẫn sống theo tính xác thịt: “Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? Khi người này nói: ‘Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô, và người khác: ‘Tôi, tôi thuộc về ông Apôlô,’ thì anh em chẳng là người phàm tục sao?” (1 Cr 3:3- 4). Những lời này chỉ rõ vấn đề đang xảy ra trong cộng đoàn Côrintô, đó là có sự chia rẽ, ghen tương, “chia bè chia phái.” Thánh Phaolô nhắc nhở họ rằng trong đời sống Kitô hữu, chúng ta theo Chúa, chứ không dừng lại ở những người Chúa gởi đến. Chính Ngài là mối dây của sự hiệp nhất còn những người Ngài sai đến chỉ là công cụ. Tuy nhiên, điều đáng buồn xảy ra trong đời sống thường ngày là những người được Chúa sai đến tìm cách lôi kéo người nghe Tin Mừng về phe của mình chứ không đưa họ đến với Chúa. Đây chính là đầu mối của chia rẽ trong Giáo Hội, trong các dòng tu và các hội đoàn. Tất cả điều này xảy ra cũng vì chúng ta không sống theo Thần Khí, sống theo ân sủng mà sống theo tính tự nhiên của mình. Chỉ có đời sống trong Chúa chúng ta mới sống hiệp nhất với nhau.

Ngày hôm qua, Thánh Luca trình thuật cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trừ một người [đàn ông] bị thần ô uế ám ngay trong hội đường. Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe những gì tiếp theo sau đó. Hai bài Tin Mừng hôm nay và hôm qua cho chúng ta thấy một ngày sống của Chúa Giêsu diễn ra như thế nào. Chúng ta sẽ hiểu bài Tin Mừng hôm nay tốt hơn khi chúng ta liên kết nó với bài Tin Mừng hôm qua.

Điểm đầu tiên chúng ta cần lưu ý là việc Chúa Giêsu luôn bắt đầu ngày sống với “giây phút hiệp nhất với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm qua trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc đọc, suy gẫm và giảng dạy Lời Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc “đi ra một nơi hoang vắng” [để kết hiệp với Chúa Cha]. Hình ảnh này của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về việc chúng ta bắt đầu ngày sống như thế nào. Sống trong thế giới bận rộn, chúng ta luôn chạy theo công việc: bắt đầu và kết thúc ngày sống với công việc. Không mấy ai trong chúng ta bắt đầu ngày sống bằng việc chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa qua những giây phút nối kết mật thiết với Ngài. Ngay cả những người sống đời thánh hiến, có thể nói, họ bắt đầu ngày sống với việc lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng dành thời gian để cầu nguyện. Nhưng trong thực tế, họ không chìm sâu trong tình yêu của Thiên Chúa vì họ làm những điều đó như một thói quen hay bổn phận cần thực hiện, chứ không như một “ đặc ân” không thể thiếu cho ngày sống. Hệ quả là ngày sống nhiều khi trở nên nặng nề và vô nghĩa. Chỉ những ai bắt đầu ngày sống bằng việc chìm sâu trong đại dương tình yêu của Chúa mới có thể đón nhận tất cả những nặng nhọc của ngày sống với niềm vui có Chúa.

Chúng ta nhận ra ba phần trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu chữa mẹ vợ ông Simon (Lc 4:38-39); Chúa Giêsu chữa những người bệnh hoạn tật nguyền (Lc 4:40-41); và Chúa Giêsu trình bày mục đích Ngài được sai đến (Lc 4:42-44). Trong câu chuyện chữa mẹ vợ của ông Simon, chúng ta thấy được sự khác biệt của Thánh Luca và Thánh Máccô trong ơn gọi làm môn đệ của Simon [Phêrô]. Trong Tin Mừng Thánh Luca, ơn gọi của Simon được trình thuật lại đầu tiên trong chương 5 (1-11), trong khi đó Thánh Máccô trình thuật ơn gọi của Simon ngay trong chương 1 (16-20). Cách cụ thể hơn, trong Tin Mừng Thánh Máccô, Simon được gọi trước khi Chúa Giêsu chữa lành mẹ vợ ông; còn trong Tin Mừng Thánh Luca, Simon được gọi sau câu chuyện về mẹ vợ của ông được chữa lành. Thánh Luca muốn nói điều gì qua chi tiết này? Có hai lý do để thánh Luca sắp xếp câu chuyện theo thứ tự đó: (1) Tin Mừng thánh Luca phát triển luận đề về đức tin và ơn gọi của người môn đệ được phát xuất từ cuộc gặp gỡ với “phép lạ.” Trong bài Tin Mừng, Simon đã nhìn thấy phép lạ thực hiện cho mẹ vợ mình và như thế ông sẵn sàng đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi ông; (2) lý do thứ hai được xây dựng trên sự kiện là trong nghệ thuật văn chương của mình, thánh Luca muốn đề cập tên nhân vật sớm trong câu chuyện và sau đó sẽ cung cấp thêm chi tiết về nhân vật đó. Qua hai chi tiết này, chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều “phép lạ,” nhưng đức tin và ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu của chúng ta hình như không trở nên mặn mà và sâu đậm hơn. Điều này mời gọi chúng ta hãy nhìn ngày sống của mình như một cơ hội tốt để nhìn thấy những điều kỳ diệu Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta, cho người khác và trên thế giới, hầu lớn lên trong đức tin và ơn gọi làm môn đệ của Ngài.

Một chi tiết khác chúng ta cần lưu ý trong câu chuyện chữa lành mẹ vợ ông Simon là hành động của Chúa Giêsu: “Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài” (Lc 4:39). Trong câu này, Thánh Luca sử dụng thuật ngữ “ra lệnh” [Gk. epitiman], thuật ngữ dùng để trừ thần ô uế. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ “ra lệnh” và mẹ vợ ông Simon lành bệnh ngay lập tức. Điều này giống với câu chuyện Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám trong hội đường [được đọc ngày hôm qua]. Khi dùng thuật ngữ ngày, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến quyền năng lời nói của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu mang lại cho mẹ vợ ông Simon sức khoẻ ngay lập tức để bà có thể thực hiện những bổn phận thường ngày mà không gặp khó khăn. Lời của chúng ta thế nào? Lời chúng ta có giúp người khác tìm lại được niềm vui để phục vụ Chúa và phục vụ anh chị em của mình không?

Phần thứ hai của bài Tin Mừng là bản tóm tắt mà trong đó việc trừ các thần ô uế được đặt dưới một thuật ngữ rộng hơn, đó là “chữa lành” (Gk. therapeuein). Trong phần n ày, chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót với hết mọi người, không phân biệt ai: “Tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ” (Lc 4:40). Qua việc tỏ lòng thương xót với hết mọi người, được diễn tả qua việc chữa lành họ khỏi bệnh hoạn tật nguyền, Chúa Giêsu mạc khải mình là “Con Thiên Chúa” và là “Đấng Kitô.” Thánh Luca thêm vào hai danh hiệu này [so với Thánh Máccô] nhằm nói lên nguồn gốc của Chúa Giêsu là từ Thiên Chúa (x. Lc 1:32-33,35) và nhằm khẳng định Ngài là Đấng được xức dầu để mang ơn cứu độ cho nhân loại qua việc trừ các quỷ thần ô uế khỏi con người. Trong phần này, Thánh Luca chỉ ra rằng, ngay từ đầu quỷ thần biết Chúa Giêsu là ai và Ngài sẽ làm gì. Tuy nhiên, con người cần một hành trình đức tin dài để khám phá ra Chúa Giêsu thật sự là ai và như thế đánh giá đúng mức vị trí thập giá trong cuộc đời của Đấng được xức dầu (x. Lc 24:26). Thật vậy, chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ và sâu đậm mới có thể hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng như vị trí và giá trị của thập giá trong hành trình được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền [hành trình thanh luyện khỏi con người sống theo khuynh hướng tự nhiên, để sống cho Thiên Chúa].

Bài Tin Mừng kết thúc với lời khẳng định của Chúa Giêsu về mục đích mà Ngài được sai tới: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4:43). Qua những lời này, thánh Luca trình bày cho chúng ta thấy mục đích của Chúa Giêsu là “loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” [cho mọi người.” Nước Thiên Chúa được dành cho hết mọi người. Theo Thánh Luca, sự thống trị của Thiên Chúa có nghĩa là chiến thắng quyền lực ma quỷ đang ám hại mọi người. Sự thống trị này được thực hiện bởi sự giảng dạy [lời] và phép lạ [hành động] của Chúa Giêsu. Chi tiết này mời gọi chúng ta đóng góp cho việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa bằng lời nói đầy dịu hiền yêu thương và bằng những hành động tốt cho người khác.

THỨ NĂM

ĐÁP LẠI LỜI MỜI GỌI CỦA CHÚA GIÊSU CÁCH DỨT KHOÁT

(1 Cr 3:18-23; Lc 5:1-11)

Trong bài đọc 1, Thánh Phaolô khuyến cáo các tín hữu Côrintô về việc “tự lừa dối mình.” Theo thánh nhân, những người tự lừa dối mình là những “ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời” (1 Cr 3:18). Đó là những người cho mình thông minh, khôn ngoan hơn người khác để rồi xem thường anh chị em mình. Thánh Phaolô khuyên nhủ những người đó sống “như điên rồ” [không biết gì, hay đúng hơn là sống đơn sơ chân thật] để được khôn ngoan trong Chúa. Thánh Phaolô cho biết, dù cố gắng tìm cách tỏ ra khôn ngoan trước mặt người khác và tìm cách che đ ậy những giới hạn hay yếu đuối của mình trước mặt người đời, thì Thiên Chúa vẫn biết những gì đang xảy ra trong tâm hồn chúng ta: “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr :319-20). Điều đáng để chúng ta tự hào không phải là thuộc về con người mà là việc chúng ta thuộc về Đức Kitô, thuộc về Thiên Chúa: “Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kêpha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23). Chúng ta đang thuộc về ai: Thiên Chúa hay con người? Dấu hiệu cho chúng ta biết điều này là không có sự ghen tỵ, giận hờn và chia rẽ ở giữa chúng ta.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về việc Chúa Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Nếu liên kết phần này với chương 4, chúng ta nhận ra được mục đích của Thánh Luca trong phần này, đó là trình bày thái độ tích cực trước sứ điệp Nước Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng gồm có bốn điểm chính liên quan đến nhau: (1) lời đáp trả thật tích cực của Phêrô với lời đề nghị của Chúa Giêsu cùng với Giacôbê và Gioan. Lời đáp trả này là điểm đầu tiên được trình bày trong câu chuyện và nó được đặt song song với phản ứng không mấy thân thiện của những người ở Nadarét và Caphácnaum. Như chúng ta đã thấy, những người cùng làng Nadarét đã phản ứng cách mạnh mẽ trước lời giảng dạy của Chúa Giêsu về lời hứa và sự hoàn thành (x. Lc 4:16-30). Và chúng ta cũng thấy Lc 10:15 chỉ ra rằng, phản ứng của những người Caphácnaum cũng không hoàn toàn tích cực (x. Lc 4:31-43); (2) Thánh Luca chứng minh qua những câu chuyện của mình trong Lc 4:16-44 những gì liên quan đến lời giảng dạy của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa, thánh nhân trình thuật câu chuyện kể về việc Chúa Giêsu ghi danh Phêrô như là người giúp việc trong hoạt động Nước Trời của Ngài và gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo lối sống Nước Trời này. Và họ đã đáp lại cách triệt để vì họ đã bỏ hết mọi sự vì Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mỗi ngày để theo Ngài. Lời đáp trả của chúng ta thế nào: tích cực, triệt để hay nửa vời? (3) trong câu chuyện này, đặc biệt trong câu 10, Thánh Luca vẽ những nét đầu tiên mang tính “tâng bốc” và đầy quý mến về Thánh Phêrô; (4) sự thành công trong sứ vụ của Thánh Phêrô, đó là mẻ cá bắt được, không phải là công sức của thánh nhân, nhưng là của Chúa Giêsu. Chúng ta tiếp tục phân tích cách chi tiết hơn để hiểu được sứ điệp Chúa nói qua bài Tin Mừng hôm nay.

Trong phần đáp trả của Thánh Phêrô (Lc 5:1-3), chi tiết đầu tiên chúng ta cần lưu ý là việc “dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa.” Những lời này khẳng định cho chúng ta biết Chúa Giêsu nói lời Thiên Chúa. Câu này [lời Thiên Chúa] xảy ra 14 lần trong sách Công Vụ Các Tông Đồ và một cách chung nó ám chỉ đến sứ điệp Kitô giáo. Khi sử dụng từ này cho việc giảng dạy của Chúa Giêsu, Thánh Luca đặt nền tảng của việc rao giảng của cộng đoàn tín hữu của Ngài trên chính giáo huấn của Chúa Giêsu. Chi tiết này mời gọi chúng ta xem xét lại mục đích chúng ta đến với Chúa cũng như lời nói của chúng ta. Chúng ta đến với Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa và rồi lời nói [lối sống] của chúng ta cũng phải được đặt nền trên lời Ngài, lời mang lại sự sống.

Chi tiết thứ hai là vị trí quan trọng của Thánh Phêrô trong câu chuyện đươc trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay nói riêng và toàn bộ Tin Mừng thánh Luca [và Công Vụ Các Tông Đồ] nói chung. Điều này chứng tỏ Thánh Luca có một sự kính trọng sâu đậm cho thánh Phêrô, người có vai trò quan trọng trong việc thiết lập Giáo Hội tiên khởi. Điều này được chứng minh qua hai sự kiện mà thánh Phêrô được Chúa Giêsu cầu nguyện riêng cho (Lc 22:31-32) và Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho mình thánh nhân (Lc 24:34). Bên cạnh đó, thánh Luca bỏ đi những nhận định tiêu cực về thánh Phêrô mà thánh Máccô trình thuật trong Tin Mừng của mình (x. Mc 8:32-33; 14:37). Vì sẽ được chọn cho một vai trò quan trọng như thế, Chúa Giêsu “xuống thuyền” của ông để ngồi trên đó giảng dạy đám đông. Chi tiết này cho chúng ta thấy Chúa Giêsu giảng dạy “trên thuyền” của ông Simon, hay đúng hơn là qua cuộc đời của ông Simon. Nói cách khác, Simon Phêrô có được vị trí cao trọng vì có Chúa trên chiếc thuyền đời ông và giảng dạy dân chúng qua cuộc đời ông. Chúa Giêsu cũng muốn lên chiếc thuyền cuộc đời chúng ta và giảng từ đó. Liệu chúng ta có cho phép Ngài không?

Chi tiết thứ ba làm chúng ta quan tâm là câu chuyện mẻ cá. Theo J. A. Fitzmyer, câu chuyện này (Lc 5:4-9) giống với câu chuyện được trình thuật trong Tin Mừng thánh Gioan (Ga 21:1-11). Theo ông, có 11 điểm tương đồng và 7 điểm khác biệt. Điều này chứng tỏ hai thánh sử làm chứng cách độc lập về việc Chúa Giêsu hiện ra với thánh Phêrô sau khi Ngài phục sinh. Thánh Gioan phát triển truyền thống này theo truyền thống riêng của mình bằng cách thêm vào hình ảnh của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến. Về phần mình, thánh Luca đưa câu chuyện vào trong trình thuật về sứ vụ trên trần thế của Chúa Giêsu và việc Ngài gọi những môn đệ đầu tiên nhằm mục đích nói đến ba thời khắc chính trong cuộc đời Thánh Phêrô, đó là (1) việc thánh nhân nhận ra Chúa Giêsu qua mẻ cá lạ lùng, (2) việc thánh nhân hoà giải với Chúa Giêsu sau khi chối ngài và (3) việc thánh nhân được Chúa Giêsu phục sinh trao sứ mệnh.

Bài Tin Mừng kết thúc với lời mời gọi của Chúa Giêsu về công việc tương lai của Thánh Phêrô và sự đáp trả cách triệt để và sẵn sàng của thánh nhân và các bạn: “‘Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.’ Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc 5:10-11). Chúng ta cần lưu ý đến thuật ngữ “từ nay.” Thuật ngữ này ám chỉ khởi đầu của một gia i đoạn mới của ơn cứu độ. Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô nhiệm vụ của ngài là “thu phục người ta,” hay đúng hơn là “chài lưới người.” Điều này đồng nghĩa với việc đưa họ đến cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa. Biểu tượng “chài lưới” có một bối cảnh rất phong phú trong thời cổ. Khi viết cho những người rất quen thuộc với truyền thống Hy Lạp – Rôma, Thánh Luca nêu bật khía cạnh của biểu tượng được những thầy dạy thời đó sử dụng để lôi kéo sinh viên đến với mình và qua việc giáo dục của mình, họ biến đổi cuộc đời của người thụ huấn. Khía cạnh này là móc câu. Thánh Phêrô sẽ thu phục những người nam người nữ với chính chiếc móc câu của lời Chúa và từ đó đem họ đến sự sống mới. [Nếu chúng ta tập trung vào biểu tượng “nước,” chúng ta sẽ đối diện với một khó khăn, vì biểu tượng này trình bày Thánh Phêrô như một người làm điều rất nguy hại cho con người vì theo lối suy diễn loại suy về những gì xảy ra cho cá bị đem ra khỏi nước, là sẽ chết, thì những người bị đem ra khỏi nước cũng sẽ bị chịu chung một số phận.] Đứng trước sứ vụ mới, đem người khác vào trong sự sống mới, Thánh Phêrô và những người bạn đã làm hai điều: (1) bỏ hết mọi sự và (2) đi theo Chúa Giêsu. Đây là hai điều kiện cần cho người môn đệ Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể mang người khác đến với Nước Trời hầu hưởng sự sống mới khi chúng ta bỏ đi tất cả những gì “thuộc về đất” [những gì níu kéo chúng ta lại] để hoàn toàn tự do đáp lại tiếng mời gọi của Chúa Giêsu và làm môn đệ Ngài.

THỨ SÁU

SỐNG TRỌN NIỀM VUI KHI THEO CHÚA GIÊSU

(1 Cr 4:1-5; Lc 5:33-39)

Chúng ta muốn thiên hạ coi chúng ta như thế nào? Là những người làm ăn thành công, những người khôn ngoan vui tính, những người giàu có, v.v.? Thánh Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay cho biết ngài muốn thiên hạ coi ngài là gì: “Thưa anh em, chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa ” (1 Cr 4:1). Tiếp theo, thánh nhân chỉ ra đâu là đặc tính cần thiết của người đầy tớ của Đức Kitô: “ Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành” (1 Cr 4:2). Người trung thành là người không để cho bất kỳ điều gì chi phối tâm trí và con tim mình để rồi thất tín. Thánh Phaolô cho biết: “Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa” (1 Cr 4:3-4). Những lời này thức tỉnh chúng ta về lối sống chỉ sợ người khác xét xử mà không sợ Thiên Chúa xét xử. Bên cạnh đó, thánh nhân cũng nhắc nhở chúng ta về việc không được xét xử người khác trước khi mọi sự chưa đến thời kết thúc: “Vậy xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng” (1 Cr 4:5). Trong khi chờ đợi ngày Chúa đến, chúng ta cần sống với thái độ yêu thương, cảm thông và tha thứ.

Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết Chúa Giêsu là chàng rể và là người cung cấp rượu mới. Một cách cụ thể, đoạn trích này cung cấp thêm nền tảng mang tính Kitô học cho việc Chúa Giêsu tha tội (x. Lc 5:17-26; 5:27-32) và quyền năng của Ngài trên ngày sabát (x. Lc 6:1-5; 6:6-11). Câu hỏi dẫn đến việc Chúa Giêsu ám chỉ mình là chàng rể là việc ăn chay cầu nguyện (x. Lc 5:33). Đối với người Do Thái, đây là hai việc thực hành đạo đức quan trọng để nối kết với Thiên Ch úa. Trong vấn nạn những người Pharisêu và các kinh sư đưa ra, chúng ta thấy có sự khác biệt giữa các môn đệ của Chúa Giêsu so với các môn đệ của người Pharisêu và của Gioan [“Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!”]. Chi tiết này cho thấy, những người theo Chúa Giêsu thực hành việc đạo đức khác với những người khác. Nói cụ thể hơn, cách thức tương quan của họ với Thiên Chúa rất khác: vui tươi như đang dự tiệc cưới. Là môn đệ của Chúa Giêsu, nhiều lần chúng ta sống và hành động như những người khác: cũng lừa dối, tranh giành, ghen ghét, giận hờn, hận thù, v.v. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải trở nên khác trong tương quan với Thiên Chúa và anh chị em mình. Chúng ta phải sống yêu thương hơn và vui hơn vì chúng ta thuộc về Chúa.

Trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh “tiệc cưới” và “chàng rể.” Đây là những hình ảnh được các ngôn sứ dùng để nói đến bàn tiệc được Đấng Cứu Độ chuẩn bị. Trong Cựu Ước và Do Thái Giáo, hình ảnh này được sử dụng để trình bày sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và dân Ngài (x. Hos 2:18,21; Ez 16; Is 54:5-8; 62:5; Gr 2:2). Những hình ảnh đi theo tiệc cưới là niềm vui, bắt đầu một cuộc sống mới, tình yêu và quan tâm cho nhau cách sâu đậm, và trung thành. Khi sử dụng hình ảnh này để nói về mình, Chúa Giêsu ám chỉ đến việc trong Ngài, Thiên Chúa hiệp nhất với dân Ngài. Vì vậy, những ai đi theo Ngài, họ sẽ tận hưởng tất cả những điều vừa được nêu trên. Điều này cũng đúng cho mỗi người chúng ta. Khi theo Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tận hưởng được niềm vui, một đời sống mới, được Thiên Chúa yêu thương và quan tâm cách đặc biệt, và sẽ cảm nghiệm được tình yêu trung thành của Ngài. Nhưng thực tế mà nói, nhiều người trong chúng ta không cảm nhận được điều này, nên cuộc sống của chúng ta vẫn ở lại trong hình thức cũ.

Để chứng minh khẳng định của mình, Chúa Giêsu sử dụng hai “dụ ngôn nhỏ” hay hai hình ảnh thường ngày, đó là hình ảnh áo vá và bầu rượu (x. Lc 5:36-38). Trong hai hình ảnh này, Chúa Giêsu khẳng định cái mới và cái cũ không ăn khới với nhau. Nói cách cụ thể, sứ điệp Ngài mang đến [mới] không thể được đón nhận và hiểu biết với cách sống cũ. Để hiểu và đón nhận sứ điệp của Ngài, chúng ta phải “sám hối” [metanoia], phải trở nên con người mới trong Đức Kitô: “Rượu

mới thì phải đổ vào bầu mới” (Lc 5:38). Hình ảnh rượu mới là sứ điệp của Chúa Giêsu. Nó ám chỉ đến việc trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã làm một điều gì đó thật mới mẻ. Hình ảnh này gợi trong trí tưởng tượng chúng ta một cuộc sống vượt qua sự chết. Đây là một cuộc sống tràn đầy niềm vui vì con tim của chúng ta được đổ đầy với tình yêu của Thiên Chúa.

THỨ BẢY

SỐNG MỌI GIÂY PHÚT TRỌN VẸN CHO CHÚA

(1 Cr 4:6b-15; Lc 6:1-5)

Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô dùng chính cuộc sống của mình như gương sáng để sửa dạy cho các tín hữu Côrintô (1 Cr 4:14-15). Trong lời sửa dạy của mình, thánh nhân nhấn mạnh đến những điểm sau: (1) không kiêu ngạo và sống hoà hợp với mọi người vì tất cả những gì chúng ta có đều là ân ban [“Thưa anh em, anh em phải theo gương tôi và anh Apôlô, mà học cho biết “đừng có đi ra ngoài những gì đã viết,” kẻo sinh ra kiêu ngạo, theo người này mà chống người khác. Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh? (1 Cr 4:6b-7); (2) trở nên nghèo khó để người khác được giàu có hay đúng hơn sống cuộc sống hy sinh và quảng đại, tìm lợi ích cho người khác hơn là cho chính mình [“Anh em đã no nê rồi, đã giàu có rồi! Không có chúng tôi, anh em đã làm vua rồi! Phải chi anh em làm vua, để chúng tôi cũng được làm vua với anh em! Thật vậy, tôi thiết nghĩ: Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm Tông Đồ hạng chót như những kẻ  bị  án  tử  hình,  bởi  vì  chúng  tôi  đã  nên  trò  cười  cho  thế  gian,  cho  thiên  thần  và  loài người! Chúng tôi điên dại vì Đức Kitô, còn anh em thì khôn ngoan trong Đức Kitô; chúng tôi yếu đuối, còn anh em thì mạnh mẽ; anh em được kính trọng, còn chúng tôi thì bị khinh khi ” (1 Cr 4:8-10)]; (3) sống theo các giá trị Tin Mừng hay nói cách khác sống theo ân sủng hơn là sống theo tính tự nhiên [“Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu; bị vu khống, chúng tôi đem lời an ủi. Cho đến bây giờ, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (1 Cr 4:11-13)]. Những chi tiết trên mời gọi chúng ta ý thức về ơn gọi cao quý của mình, đó là sống cuộc sống đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu như Thánh Phaolô [và các thánh]. Mỗi ngày trôi qua là một cơ hội để chúng ta trở nên giống Chúa nhiều hơn và sống gần gũi yêu thương anh chị em mình nhiều hơn. Chúng ta có nắm bắt cơ hội này không?

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta về câu chuyện thứ hai trong sáu câu chuyện liên quan đến hành động mang tính giải phóng của Chúa Giêsu trong ngày sabát. Câu chuyện hôm nay không liên quan trực tiếp đến Chúa Giêsu, nhưng liên quan đến việc các môn đệ vì các ông “bứt lúa, vò ăn” (Lc 6:1) trong ngày sabát. Hành động này gặp phải sự chống đối của những người Pharisêu: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sabát?” (Lc 6:2). Đứng trước sự chống đối của những người Pharisêu, các môn đệ Chúa Giêsu dường như im lặng. Sự im lặng này ám chỉ rằng việc tấn công này không phải nhắm vào các môn đệ mà nhắm vào Chúa Giêsu. Đứng trước sự chống đối này, Chúa Giêsu bình tĩnh dùng hình ảnh loại suy để trả lời họ: “Ông Đavít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. Câu chuyện ấy, các ông chưa đọc sao?” (Lc 6:3-4). Tuy nhiên, theo các học giả Kinh Thánh, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh loại suy dường như hơi gượng ép, vì hành động của Đavít không xảy ra vào ngày sabát – ngày bị cấm, mà chỉ liên quan đến thức ăn bị cấm. Điểm chính của lối suy diễn này là cả Đavít và các môn đệ Chúa Giêsu đã làm một cái gì đó bị cấm, nhưng điều đó để thừa nhận điểm đúng của những người Pharisêu. Những chi tiết này cho thấy cách ứng xử của Chúa Giêsu trong những hoàn cảnh khó xử: (1) Ngài bình tĩnh để nhìn rõ vấn đề; (2) Ngài công nhận tính hợp lý [điểm đúng] của người khác; (3) Ngài tìm hình ảnh loại suy, nhưng gần gũi với người chất vấn để giải thích cho họ hiểu. Trở về với cuộc sống của mình, chúng ta phải chân nhận rằng, khi đối diện với hoàn cảnh khó xử, chúng ta thường không đủ bình tĩnh để nhìn rõ vấn đề. Bên cạnh đó, nhiều khi chúng ta để cho thành kiến che đi những điều đúng của người khác, và hệ quả là chúng ta không thể đi vào trong thế giới của người khác hầu tìm ra những hình ảnh quen thuộc với họ để giải thích cho họ hiểu điều đang xảy ra. Thật vậy, chỉ những người bình tĩnh, biết công nhận điều đúng của người khác và đi vào thế giới của người khác mới có được một con tim cảm thông và dịu hiền.

Chúa Giêsu kết thúc cuộc tranh luận với câu khẳng định: “Con Người làm chủ ngày sabát” (Lc 6:5). Trong câu này, Thánh Luca trình bày luận chứng tuyệt đối của Chúa Giêsu cho những hành động của cộng đoàn Thánh Luca trong việc không tuân giữ những luật lệ của ngày sabát [giống với người Do Thái]. Ngoài ra, Chúa Giêsu được trình bày như sứ giả chung cuộc của Thiên Chúa [hoặc Con Người], Đấng đã quy phục ngày sabát của Thiên Chúa vào chính Ngài và sứ vụ rao giảng Nước Thiên Chúa và ban cho những người theo Ngài quyền năng như thế. Nói cách khác, ý nghĩa của câu khẳng định này là để nói lên việc Chúa Giêsu quy phục ngày sabát vào Ngài chứ không trình bày Ngài như một người phân xử các cuộc tranh luận về ngày sabát. Nếu ngày sabát quy phục Chúa Giêsu, thì Luật Lệ cũng phải quy phục Ngài. Như vậy, việc tuân giữ ngày sabát [hay Chúa Nhật] không phải vì luật lệ, nhưng vì Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta đi lễ không phải vì thói quen hay vì luật, nhưng vì tình yêu chúng ta dành cho Chúa.