THỨ SÁU TUẦN THÁNH
.
1. Thập giá của Chúa – Thập giá của tôi (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Chúa cô đơn (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Sự vô cảm đến nhẫn tâm của con người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
4. Giá máu (Trầm Thiên Thu)
5. Thế là đã hoàn tất (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
6. Thứ Sáu Tuần Thánh (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
.
.
THẬP GIÁ CỦA CHÚA – THẬP GIÁ CỦA TÔI
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lễ nghi chiều thứ Sáu Tuần Thánh được đề nghị cử hành vào lúc 3 giờ chiều (đối với những nơi phù hợp), vì theo truyền thống, Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên cây thập giá vào lúc giờ thứ chín (x. Mt 27,45-46). Phụng vụ hôm nay mang màu sắc đau thương, nhưng không hoàn toàn bi thảm, vì thập giá của Đức Giêsu vừa là dụng cụ khổ hình, vừa là cờ hiệu chiến thắng.
Chúa Giêsu đã tự vác thập giá, từ dinh quan Philatô đến núi Canvê. Theo những khám phá từ tấm khăn liệm thành Turinô và những nghiên cứu sử học, thì người bị kết án tử hình phải vác cây gỗ ngang, còn cây gỗ dọc thì đóng sẵn trên đồi. Việc vác cây gỗ ngang nhằm tránh tử tội trốn thoát, đồng thời cũng là một nhục hình để trừng phạt. Truyền thống Giáo Hội diễn tả con đường thập giá của Chúa Giêsu qua 14 hình ảnh được gọi là “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá”. Trên con đường này, nhiều biến cố đã xảy đến với Chúa Giêsu. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đến cuộc gặp gỡ với những người dân thành Giêrusalem. Từ những người ghen ghét chê bai nhạo cười đến những người cảm thương và giúp đỡ. Ông Simon và bà Vêrônica là hai người xa lạ và có địa vị thấp kém trong xã hội, lại là những người giúp Chúa, một người vác đỡ thập giá, một người lau mặt Chúa đang đầm đìa mồ hôi và máu. Trong hành trình thập giá, Chúa ngã ba lần, nhưng Người lại gượng dạy bước đi. Có lẽ, lời nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu luôn vang lên trong tâm trí Chúa: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đó là một cuộc giằng co khốc liệt giữa sự yếu đuối của con người và sự mạnh mẽ của Ngôi Hai nhập thể. Chúa Giêsu đã dứt khoát thi hành ý Chúa Cha, chấp nhận mọi nhục hình và gian nan khốn khó. Thập giá chính là bằng chứng của sự tuân phục và hy sinh của Người.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang nhìn tôi với cái nhìn đầy yêu thương. Trong thinh lặng, Chúa nói với tôi: “Ta tha thứ mọi tội lỗi cho con”. Vì thế, chiêm ngắm Chúa trên thập giá đem lại cho tôi hạnh phúc vì thấy mình được yêu thương. Trong giáo huấn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dạy hãy tha thứ cho kẻ thù. Giờ đây, trên thập giá, Chúa dạy tôi bài học tha thứ. Lúc này, Người thực hiện lời giáo huấn ấy khi xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình. Biết bao lần tôi cố chấp muốn tự khẳng định vị thế của mình trong gia đình và trong xã hội. Sự cố chấp làm tôi mù quáng, không nhìn ra đâu lẽ phải, không nhận ra ai là anh em. Chúa Giêsu đã tha thứ trong lúc trái tim rướm máu. Điều đó cho thấy, để có thể tha thứ, phải chấp nhận hy sinh. Khi tha thứ, nhiều khi tôi phải chịu tiếng là hèn nhát, có khi tôi phải hạ mình và mất thanh danh. Tuy vậy, dù thế nào đi nữa, khi tôi tha thứ, chắc chắn tôi tìm được sự an bình thanh thản trong tâm hồn.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Viên bách quan đội trưởng là người đã tham gia vào vụ hành hình Chúa. Vậy mà vào lúc Chúa tắt thở, ông ta lại nhận ra thân thế đích thật của Người và hô lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Một Thiên Chúa trần trụi, bị khinh khi, khổ nhục và chịu chết vì yêu thương con người. Thập giá dạy tôi một cách nhìn nhận mới về đau khổ: Thiên Chúa đau khổ cho con người hạnh phúc. Người chết cho con người được sống. Như vậy, nếu muốn đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh, tôi không thể trốn tránh đau khổ. Muốn yêu Chúa Giêsu, tôi không được khước từ thập giá. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là một cây gỗ vô hồn; Chúa Giêsu không có thập giá không phải là Chúa Giêsu của Đức Tin.
Khi tôi chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tôi thấy những anh chị em Kitô hữu của tôi ở nhiều nơi đang bị bách hại. Chúa nhật Lễ Lá vừa qua (29-3-2015), tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các tín hữu trên toàn thế giới hãy cầu nguyện cho những tín hữu bị giết tại một số quốc gia trên thế giới. Họ là những thừa sai, những linh mục, tu sĩ và có nhiều tín hữu giáo dân. Họ đã chết chỉ vì một lý do đơn giản: họ là Kitô hữu. Qua Đấng chịu đóng đinh, tôi cũng nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh, những người nghèo nàn, bệnh tật, đau khổ. Họ quằn quại trong nỗi đau của kiếp người mà chưa có lối thoát. Chúa Giêsu vẫn đang chịu đóng đinh nơi những người bất hạnh này. Thập giá là lời kêu gọi hãy ngưng bạo lực, hãy xử với nhau cho đúng phẩm giá con người và hãy liên đới nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, tôi thấy Người mời gọi tôi hãy vươn cao, hãy sống cao thượng, hãy hướng về trời. Dù tôi yếu đuối và tội lỗi, tôi vẫn có thể vươn cao, vì Chúa lôi kéo tôi bằng sự trợ giúp thiêng liêng. Tuy vậy, vươn cao để gặp Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh. Phải can đảm dứt bỏ những gì đang ràng buộc. “Ai theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo Chúa Giêsu là đi trên con đường hy sinh của thập giá. Như thế, thập giá không phải một kỷ niệm vô hồn của quá khứ xa vời, nhưng là chính cuộc sống hằng ngày của tôi. Mỗi ngày sống, tôi đều có cơ hội tiếp cận thập giá, điều quan trọng là thái độ của tôi thế nào trước cây gỗ mà trên đó Con Thiên Chúa đã chịu đau đớn và đã chịu chết vì yêu tôi.
Lễ nghi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh nhắc bảo tôi: Thập giá của Chúa cũng là thập giá của tôi. Khi suy niệm mầu nhiệm Mân Côi, thứ bốn của Năm Sự Thương, tôi cầu nguyện: xin cho tôi được vác thánh giá theo chân Chúa. Vâng,“Đây là gỗ thánh giá, nơi treo Đấng Cứu chuộc trần gian!” Tôi đến để tôn kính và thờ lạy. Tôi tin chắc Đấng đóng đinh sẽ ở bên tôi. Niềm xác tín ấy giúp tôi tìm thấy thư thái và an bình.
Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Có những khi ta cảm thấy bơ vơ giữa cuộc đời. Một mình lang thang. Một mình ngồi nơi góc khuất. Một mình chìm trong nỗi cô đơn thất vọng. Giữa bao người nhưng chẳng ai cùng nhịp với mình, chẳng ai hiểu mình và cũng chẳng ai yêu mình. Ở giữa bao người, họ vẫn cười, vẫn nói nhưng chẳng để ý tới sự hiện diện của ta. Giữa những đau khổ, bất hạnh mà chẳng ai quan tâm, nâng đỡ, cảm thông với chúng ta. Đó là nỗi cô đơn mà trong đời ai cũng có thể trải qua. Đó là nỗi quặn đau thấu vào tới con tim, vào tâm hồn của chúng ta. Nỗi đau ấy chẳng biết diễn tả thế nào cho đủ như ai đó đã nói:
“Ta lấy thời gian đo nỗi nhớ
Lấy biển khơi đo độ rộng tâm hồn
Lấy cuộc đời đo tình yêu dang dở
Nhưng biết lấy gì để đo nỗi cô đơn?”
Chúa Giê-su cũng đã từng đi qua nỗi đau của cô đơn tột cùng. Bị người đời nguyền rủa, khinh chê mà chẳng được ai an ủi cảm thông. Bị người đời khước từ, tẩy chay, hành hạ mà chẳng được ai ra tay bênh đỡ. Họ vẫn vui chơi. Họ vẫn nô đùa mặc cho nỗi đau dằng xé nát tâm can. Chúa Giê-su vẫn một mình đơn côi trải qua tuần thương khó.
Trong chuyến hành hương Giê-ru-sa-lem, chúng tôi có dịp đi qua 14 nơi thương khó. Chúng tôi tôn kính từng nơi. Quỳ gối, bái thờ. Chúng tôi đi lại tuần thương khó giữa một thế giới ồn ào, tấp nập buôn bán, cười nói và xem ra chẳng ai quan tâm đến bước đường chúng tôi đi. Họ vẫn nói cười. Họ vẫn buôn bán mặc cho chúng tôi quỳ lạy, tôn kính trước những bước đường Chúa đã đi qua. Qua đó, chúng tôi càng hiểu rõ hơn về sự cô đơn, lạc lõng của Chúa khi vác thánh giá quanh thành Giê-ru-sa-lem. Chúa vác thập giá đi qua những dửng dưng, thờ ơ của dân thành Giê-ru-sa-lem. Sự cô đơn của Chúa càng tột cùng khi chính những người đồ đệ thân thích vẫn bỏ rơi, mặc Thầy chịu biết bao khốn khó, mặc Thầy chịu những đòn roi.
Cuộc đời chúng ta ai cũng sợ cô đơn. Vì cô đơn làm cho chúng ta hụt hẫng giữa biển người bao la mà chẳng tìm được ai yêu thương, cảm thông với chúng ta. Sự cô đơn đưa chúng ta đến ngõ cụt cuộc đời, đến ngõ vắng đơn côi khiến chúng ta thất vọng, buông xuôi. Những lúc như thế chúng ta cần lắm một bàn tay chìa ra nâng đỡ chúng ta. Cần lắm một lời an ủi, động viên của đồng loại. Cần lắm sự quan tâm khích lệ từ những người thân trong gia đình.
Cảm nhận sự cô đơn làm tê tái cõi lòng để chúng ta đồng cảm với Chúa Giê-su trong tuần thương khó. Đồng cảm với Ngài trong sự cô đơn bị bỏ rơi, bị khước từ của đồng loại. Chúa Giê-su đã trải qua những cay đắng tủi nhục khi bị người đời bỏ rơi. Ngài cô đơn giữa biển người, vì dường như ai cũng quay lưng lại với Ngài.
Hôm nay Chúa Giê-su vẫn có thể cô đơn khi chúng ta sống thiếu hiệp thông với Ngài bởi tội lỗi, bởi đam mê. Chúng ta vẫn đẩy Ngài ra khỏi cuộc đời bởi tranh dành danh lợi thú trần gian. Chúng ta vẫn có thể gào thét đóng đinh Chúa khi chúng ta không dành cho Ngài quyền tối thượng được tôn thờ trên hết mọi sự.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào những ngày thánh này trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ đẩy anh em mình vào đường cùng của sự cô đơn khước từ. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ Chúa yêu đi bên cạnh Chúa trên đường thương khó khi vì Chúa mà từ khước những phù vân tội lỗi. Amen.
SỰ VÔ CẢM ĐẾN NHẪN TÂM CỦA CON NGƯỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Thánh Cha Fancis cảnh báo về lối sống đang diễn ra trong xã hội và thế giới hôm nay. Đó là lối sống dửng dưng vô cảm, thiếu quan tâm đến người khác. Ngài nhắc lại câu chuyện Cain và Abel trong Cựu Ước. Cain vì ghen tỵ, nghĩ là Thiên Chúa thương Abel hơn mình, nên đã tìm cách thủ tiêu Abel. Sau khi gây ra điều ác, Cain lẩn trốn Thiên Chúa, nhưng ánh mắt của Thiên Chúa vẫn dõi theo anh. Chúa hỏi anh : Cain ơi ! Em ngươi đâu ? Cain đã trả lời hết sức nhẫn tâm : Tôi không biết ! Tôi không phải là người canh giữ em tôi !
Đức Thánh Cha cho thấy sự vô tâm, vô cảm đang ảnh hưởng trên nhiều cá nhân. Hơn nữa, nó còn mang tầm mức xã hội, quốc gia và thế giới. Nó thể hiện qua việc con người chỉ lo tìm kiếm phần lợi về cho mình mà không quan tâm đến hậu quả mình gây ra hoặc những điều đang xảy ra cho anh em. Lý do là vì khi con người cảm thấy an toàn, thoải mái trong sự hưởng thụ của mình, thì người ta quên những vấn đề của người khác cùng những đau khổ, bất công mà họ phải chịu… Những lúc ấy, con người rơi vào tình trạng dửng dưng.
Thái độ ích kỷ, dửng dưng trở nên hết sức nguy hiểm khi trở thành một lối sống trong xã hội. Ngày nay, con người tỏ ra dửng dưng với các sự kiện đang xảy ra, coi thường chân lý và sự thật, không lên tiếng phản đối những bất công để bảo vệ công lý. Từ dửng dưng với tha nhân sẽ dẫn đến dửng dưng với Thiên Chúa.
Bài Thương khó hôm nay cho thấy tình yêu hy sinh đến cùng của Thiên Chúa. Vì yêu con người, muốn cho con người hạnh phúc, Chúa Giêsu đã chấp nhận một cuộc hành hình đau đớn và cuối cùng là cái chết nhục nhã trên thánh giá. Cũng qua bài thương khó này, tác giả còn cho thấy sự dửng dưng, vô cảm của con người, của xã hội trước bản án bất công mà giới lãnh đạo đã cố tình áp đặt trên một người công chính.
Trước hết là sự dửng dưng, vô cảm của các môn đệ. Các ông là những người gần Chúa Giêsu nhất, đáng lẽ các ông phải là người hiểu và cảm thông với Chúa hơn mọi người. Thực tế thì ngược lại, các ông chỉ quan tâm đến bản thân, mà không hề đồng cảm với Chúa Giêsu khi Ngài phải đối diện với cuộc thương khó. Trong lúc Chúa đau khổ đến nỗi có thể chết được, thì các tông đồ vẫn còn say trong giấc ngủ, mắt các ông còn mơ màng. Khi Giuda dẫn người Do Thái đến bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức bênh vực cho các tông đồ, Ngài còn đề nghị với chúng : Các anh bắt tôi thì cứ bắt, nhưng hãy để cho những người này đi. Còn các tông đồ như vừa giật mình thức giấc, các ông phản ứng một cách yếu ớt. Cuối cùng, tất cả đều bỏ trốn, mặc cho Chúa Giêsu một mình bị quân dữ bắt trói và lôi đi.
Sự vô tâm của Giuda đã dẫn đến sự nhẫn tâm, tàn ác khi anh ta vì chút ít tiền, đã chấp nhận làm môi giới để quân lính bắt Thầy mình, đẩy Thầy vào con đường chết. Biết trước Thầy sẽ bị bắt, nhưng anh vẫn thản nhiên bước đến chào và hôn Thầy. Cái hôn này không còn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương nồng ấm, nhưng đã trở thành cái hôn lạnh lùng, thành dấu chỉ của sự phản bội. Việc làm này của Giuda đã góp phần làm tổn thương Chúa Giêsu, làm cho đau khổ của Ngài không chỉ là nỗi đau thể xác, mà còn là nỗi đau thấu trong tâm hồn khi bị phản bội bởi chính người mình yêu quý.
Thứ đến là sự dửng dưng, vô cảm của những người lãnh đạo Do Thái. Thánh Gioan cho thấy, những người lãnh đạo chỉ muốn tìm mọi cách để đạt được mục đích của mình là loại trừ Chúa Giêsu. Vì thế, họ đã bất chấp công lý, từ chối sự thật. Họ biết rõ Chúa Giêsu không làm gì sai trái. Họ muốn giết Chúa chỉ vì Ngài đã lên tiếng bênh vực chân lý, chỉ ra những sai trái của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu. Hơn nữa, các thượng tế và luật sĩ đã coi mình như những người nắm giữ giáo lý, sở hữu chân lý. Vì thế, họ không chấp nhận một người nào khác nói về Thiên Chúa. Vậy nên khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài nói về một Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Thiên Chúa nhân từ, thì các thương tế và luật sĩ đã tìm cách loại trừ Chúa. Họ thản nhiên tuyên bố : Nó phải chết !
Từ các thượng tế và luật sĩ, sự dửng dưng vô cảm đã lan truyền đến dân chúng. Trong số những người đứng biểu tình, la hét trước dinh Philatô đòi giết Chúa Giêsu, có nhiều người đã từng biết Chúa Giêsu, nghe Ngài giảng dạy. Thậm chí, nhiều kẻ đã từng được ăn bánh hoặc được hưởng phép lạ Chúa làm cho họ. Thế nhưng, trước dinh Philatô, họ thản nhiên kêu gào : Giết đi ! Giết nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá ! Sự dửng dưng, vô cảm của đám đông dân chúng đã trở thành nhẫn tâm, thành dã man khi họ quyết tâm loại trừ người công chính là Chúa Giêsu để chấp nhận kẻ gian ác là Baraba. Họ chấp nhận từ chối Thiên Chúa để làm nô lệ cho đế quốc khi họ kêu gào : Chúng tôi chỉ có một vua là Cesare ! Cuối cùng, họ hồ hởi đi theo để xem một con người chịu đau khổ, bị hành hạ và bị kết án tử hình giống như thể mình là những người vô can. Trong đám đông dân chúng, có kẻ còn buông những lời độc địa, mỉa mai Đấng đã từng làm ơn cho mình.
Con người thường tỏ ra dửng dưng, vô cảm và đối xử nhẫn tâm với nhau, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ như thế. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người và những đau khổ của họ. Thiên Chúa đã nhìn thấy con người đang phải đau khổ trong tội và bị kìm hãm, trói buộc bởi ma quỷ. Ngài đã tìm đến với con người, xoa dịu những đau khổ thể xác, chữa trị những vết thương trong tâm hồn và giành lại tự do, hạnh phúc cho con người.
Mặc dù chịu một bản án bất công và dã man nhưng Ngài không một lời than trách. Ngài vẫn tạo những cơ hội giúp con người nhìn lại đời sống và hành động của mình. Ngài đã đặt cho các tông đồ câu hỏi để giúp các ông thức tỉnh : Đến giờ này mà anh em còn ngủ được sao ? Ngài cũng hỏi Giuda : Ngươi định dùng cái hôn để nộp con người sao ? Trong lúc các môn đệ bỏ trốn hết vì sợ, Chúa Giêsu vẫn nhớ đến các ông và tin tưởng ở các ông. Ngài đã trả lời cho thầy thượng tế rằng : Điều tôi đã nói, ông cứ hỏi những người đã nghe tôi. Họ biết tôi đã nói gì.
Trên cây thập giá, khi bị treo cùng với hai tên trộm, Chúa Giêsu vẫn quan tâm tới lời cầu xin của tên trộm lành : Khi nào về Nước Trời, xin nhớ đến tôi ! Chúa Giêsu đã hứa với anh : Ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi. Ngài quan tâm đến những tên lính, vì mệnh lệnh mà hành khổ Ngài, bằng lời cầu xin : Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm không biết ! Trong giờ phút đau khổ nhất, Chúa Giêsu còn quan tâm đến Mẹ Maria và các môn đệ khi trao phó Mẹ cho Thánh Gioan : Đây là con của Bà và đây là Mẹ con !
Nghe bài Thương khó của chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng : Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, chỉ có con người thường dửng dưng, vô cảm với nhau và dửng dưng, vô cảm với Thiên Chúa. Sự dửng dưng, vô cảm ấy bắt đầu từ lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, đến lợi ích cá nhân mà bỏ quên người bên cạnh. Lối sống này cũng đang diễn ra ngay trong các gia đình, khi các thành viên chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến những người khác. Có nhiều người cha, người mẹ hoặc con cái bị bỏ quên trong gia đình, bị gạt ra khỏi sự quan tâm, chăm sóc, có khi còn lạnh lùng gây đau khổ cho nhau. Trong xã hội, nhiều người đã cố tình làm ngơ trước sự dữ, sự ác ; nhiều người đã cộng tác với những bất công mà loại trừ những anh chị em đau khổ.
Nguyên nhân sâu xa của lối sống dửng dung này là vì con người dửng dưng với Thiên Chúa, nên họ cũng dửng dưng, vô cảm với anh em. Một khi con người loại trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình thì chắc chắn sự dữ và sự ác sẽ đến trong tâm hồn. Một khi trái tim con người đóng kín trước lời mời gọi của Thiên Chúa thì cũng sẽ đóng kín trước những nhu cầu của anh chị em.
Cử hành cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, xin Chúa biến đổi tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Xin cho mỗi người trở nên mềm lòng trước tình yêu của Thiên Chúa. Xin cho chúng ta có một trái tim thật mềm để biết chạnh thương, rung động trước những đau khổ của anh em, và có một tâm hồn thật nhạy bén để biết quan tâm và cảm thông. Amen.
Trầm Thiên Thu
Hôm nay là ngày Đại Tang của Công giáo và của những người có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Nếu cuộc đời là một bộ phim thì cảnh tượng hôm nay là bộ phim buồn nhất, thê lương nhất.
Cái gì cũng có cái giá của nó,hạnh phúc cũng phải “mua” bằng ít nhiều đau khổ, nhưng không gì mắc bằng “giá máu”. Máu màu đỏ, giúp cơ thể sống: Thiếu máu thì yếu, mất máu thì chết.
Mỗi phút, trái tim của một người trưởng thành, khoẻ mạnh bình thường, đập khoảng 70 lần, mỗi lần đẩy ra 150 ml máu. Mỗi ngày tim đập 105.000 lần và bơm hơn 6.000 lít máu vào các mạch máu dài 96.000 km. Trong suốt đời người, tim lần lượt đập khoảng 3 tỷ nhịp, bơm ra cả triệu thùng máu. Tim và máu liên quan lẫn nhau. Vô cùng kỳ diệu!
Sách ngôn sứ Isaia có bốn “Bài Ca Người Tôi Trung” (Is 42:1-9; Is 49:1-7; Is 50:4-11; Is 52:13-15), nói về nỗi đau khổ của Người Tôi Trung, thế nên cũng gọi là Người Tôi Tớ Đau Khổ.
Bài đọc I trong nghi thức Đại Tang hôm nay là một trình thuật dài. Đây là bài ca thứ tư trong số các “Bài Ca Người Tôi Trung”, và là bài ca dài nhất: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa, cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ”. Người Tôi Trung chịu đủ thứ đau khổ, từ tinh thần đến thể lý, và không còn gì là hình dạng một con người nữa! (*)
Sau đó, trình thuật Is 53:1-12 cho biết chuỗi đau khổ nối tiếp của Người Tôi Trung. Ngôn sứ Isaia đã đặt vấn đề: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được? Cánh tay uy quyền của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?” (Is 53:1). Vâng, thật không thể tin nổi lại có người chịu nhục hình quá đỗi đến như vậy, và cũng chẳng thể tin nổi lại có những kẻ tàn ác đến thế. Họ không chỉ thay phiên nhau đánh Chúa Giêsu, mà còn đánh hội đồng, đánh không nương tay với những chùm dây da có gắn nhiều cục chì hoặc móc. Kinh khủng vô cùng!
Hôm nay, trước khi hôn kính Thánh Giá, chúng ta hãy lắng nghe thật kỹ chuyện về Người Tôi Tớ Đau Khổ để thấy chính mình trong đó, để thương khóc cho tội lỗi mình, chứ Chúa Giêsu không cần chúng ta khóc thương Ngài đâu!
Người Tôi Trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn, nhưng chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng.
Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa. Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.
Nghe từng câu, thấm từng lời, chúng ta sẽ thấy mình khốn nạn, nhưng Chúa Giêsu vẫn chịu tất cả vì yêu chúng ta.
Dù chịu đựng nỗi đau khổ tột cùng, Người Tôi Trung vẫn một lòng thành tín: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 và 6).
Và dù “nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng” bị “bạn bè thân thích kinh hãi”, dù “ai cũng tránh xa”, hoặc bị lãng quên như kẻ chết không người tưởng nhớ” và “hoá thành đồ hư vất bỏ”, nhưng Người Tôi Trung “vẫn tin tưởng nơi Ngài”, vẫn dám thưa rằng: “Ngài là Thượng Đế của con” (Tv 31:12-15). Số phận có thế nào thì cũng là do Thiên Chúa định liệu, Người Tôi Trung nhất quyết trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa: “Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:16-17).
Hôm nay, một lần nữa, chúng ta hãy nhìn lại chính mình, và hãy lắng nghe lời động viên: “Hỡi mọi người! Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25).
Vâng, hãy cậy tin vào Ngài! Thánh Phaolô vừa phân tích vừa động viên: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:14-16).
Nói đến đau khổ thì vô cùng, đau khổ quá nhiều, đủ hình dạng, đủ kiểu cách. Gặp đau khổ thì ai cũng sợ, chán ngán hơn bất cứ thứ gì khác, nhưng nếu không có đau khổ, cuộc đời chúng ta sẽ nhàm chán. Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Vâng phục là nhân đức quan trọng, nhưng để học được bài học vâng phục thì phải trả giá rất đắt. Và chính Chúa Giêsu đã phải trả bằng GIÁ MÁU.
Trình thuật Ga 18:1–19:42 như một bộ phim dài, kể từ đêm Vườn Dầu cho tới chiều Đồi Sọ. Trong đó biết bao là tình tiết, nếu làm phim thì phải là bộ phim nhiều tập nói về bi kịch của một Con Người Công Chính – Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Khi ông Giuđa dẫn đầu một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu, có vũ trang đầy đủ. Đức Giêsu tiến ra và hỏi họ tìm ai. Họ nói thẳng là tìm Giêsu Nadarét. Ngài nói ngay: “Chính tôi đây”. Nghe vậy, họ lùi lại và ngã xuống đất – trong đó có cả Giuđa. Vậy mà họ vẫn không sợ. Đức Giêsu lại hỏi họ tìm ai. Họ vẫn khăng khăng là tìm Giêsu Nadarét. Đức Giêsu cho họ bắt, nhưng xin không bắt các đệ tử. Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai”.
Khi đó, ông Phêrô máu bốc tới chỏm đầu, ông liền vung gươm chém đứt tai phải của Man-khô, đầy tớ của thầy thượng tế. Đức Giêsu bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao, vì Ngài chấp nhận uống Chén Đắng mà Chúa Cha đã trao. Rồi họ trói và dẫn độ Đức Giêsu đến ông Kha-nan, nhạc phụ của thượng tế Cai-pha. Ông Phêrô và một môn đệ khác (Gioan) đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh. Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô thuộc nhóm môn đệ, nhưng ông liền chối phăng. Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó, ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ.
Thượng tế Caipha tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Ngài, nhưng Ngài nói: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì”. Đức Giêsu vừa dứt lời, một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Ngài vì cho Ngài trả lời như thế là vô lễ với thượng tế. Nhưng Ngài hỏi vặn lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”. Tất nhiên họ câm họng. Họ chỉ muốn dùng quyền lực mà thay trắng đổi đen thôi!
Những kẻ thủ ác tội lỗi ngập đầu mà dám xét xử và kết án người vô tội. Chúng ta có như họ? Có đấy. Chúng ta không xét xử Chúa Giêsu nhưng chúng ta xét nét và khinh chê tha nhân, mà ghét người khác tức là ghét Chúa.
Trong khi đó, ông Phêrô vẫn đứng sưởi, chợt có người khác nhận ra ông thuộc nhóm môn đệ của Chúa Giêsu, và ông cũng lại chối ngay lập tức. Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, cũng nhận ra ông Phêrô, nhưng ông vẫn nhất quyết nói không quen với Đức Giêsu. Ngay lúc ấy gà liền gáy. Ông Phêrô giật mình nhớ lại lời Thầy, và ông chạy ra chỗ khác mà khóc òa…
Sau đó, họ điệu Đức Giêsu tới dinh tổng trấn Philatô. Lúc đó trời vừa sáng. Ông Philatô hỏi họ tố cáo Đức Giêsu về tội gì. Họ không trả lời rõ mà vòng vo: “Nếu ông này không làm điều ác thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan”. Ông Philatô bảo họ cứ xét xử theo luật của họ, nhưng họ nói rằng họ không có quyền xử tử ai.
Ông Philatô hỏi Đức Giêsu có phải là vua hay không, nhưng Ngài bảo đó là chính Philatô nói, và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, Ngài sinh ra và đã đến thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Không biết dốt thật hay cố ý mà ông Philatô đã hỏi: “Sự thật là gì?”. Ngày nay, vẫn có nhiều người cố ý “giả nai” như vậy!
Tục lệ của người Do-thái thường tha một người nào đó vào dịp lễ Vượt Qua. Ông Philatô hỏi họ muốn tha “vua Do-thái” hay không, họ la toáng lên: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!”. Thật tồi tệ, vì Chúa Giêsu đã bị họ ghét còn hơn tên cướp khét tiếng Baraba.
Vì hèn nhát, ông Philatô chiều ý họ mà truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Ngài. Họ kết vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, và khoác cho Ngài chiếc áo choàng đỏ, rồi vừa mỉa mai vừa vả vào mặt Ngài: “Kính chào Vua dân Do-thái!” (βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων). Sau đó, ông Philatô dẫn Đức Giêsu ra ngoài cho thấy mà thương, và muốn cho họ biết ông ta không tìm thấy lý do nào để kết tội Đức Giêsu. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên: “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!”. Ông Philatô lắc đầu, đành giao Ngài cho họ. Ông Philatô không dám hành động vì công lý, không dám bảo vệ sự thật, không có lập trường. Còn chúng ta? Đã bao lần chúng ta hèn nhát như ông Philatô?
Họ bắt chính Đức Giêsu vác lấy thập giá đến Đồi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Gôn-gô-tha. Tại đây, họ đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tử tội khác.
Trước đó, tổng trấn Philatô đã cho viết một tấm bảng bằng ba ngôn ngữ – Do Thái, Latin và Hy Lạp. Bảng đó ghi rõ: “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19:20). Tiếng Do Thái: תשווע מנצרת, מלך היהודים; tiếng Latin: INRI hoặc IN-RI (Iēsus Nazarēnus, Rēx Iūdaeōrum); tiếng Hy Lạp: ΙΝΒΙ (Ο Ιησούς από τη Ναζαρέτ, ο βασιλιάς των Εβραίων) – và tiếng Anh: Jesus the Nazarene, King of the Jews; tiếng Pháp: Jésus le Nazaréen, roi des Juifs. Tấm bảng này được treo ngay phía bên trên đầu Chúa Giêsu. Họ cũng không muốn viết vậy nhưng ông Philatô quyết không thay đổi. Họ cũng không có ý xác nhận, mà họ có ý mỉa mai. Nhưng, tất cả không ngoài Thánh Ý Chúa.
Đóng đinh Đức Giêsu xong, lính tráng chia nhau y phục của Đức Giêsu. Tay nào cũng hí hửng, cười toe toét, nhưng vẫn không giấu được nét bặm trợn của những kẻ tà tâm. Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ.
Đứng gần Thập Giá có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu đã trao Đức Mẹ cho Gioan, và xác nhận Đức Mẹ là mẹ của Gioan. Sau đó, Đức Giêsu kêu: “Tôi khát!”. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!”. Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Trời nắng chang chang mà bỗng tối sầm lại, sấm chớp rung động cả đất trời. Nhiều người đấm ngực ăn năn và nhận biết chính tử tội Giêsu là Con Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ và thương xót chúng con!
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế, họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu, họ thấy Ngài đã chết nên không đánh giập ống chân Ngài, nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.
Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, cũng là môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Giô-xếp và ông Ni-cô-đê-mô hạ thi hài Ngài xuống. Họ lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái, các ông mai táng Đức Giêsu tại một ngôi mộ trong khu vườn gần đó. Người đời thấy vậy là hết. Chấm hết. Nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là một khởi đầu mới của điều lạ mới…
Hôm nay, khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện theo cách của Thánh nữ Bernadette: “Con không xin thoát khỏi khổ đau, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc con trong lúc khổ đau”.
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Ngài, xin tha thứ và giúp chúng con biết đi qua thung lũng đau khổ để có thể tới miền ánh sáng. Xin giúp chúng con biết chết cho tội lỗi mình hằng ngày để sống xứng đáng với Giá Máu của Con Yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) Xem phim “Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Giêsu” có lồng tiếng Việt –
https://www.youtube.com/watch?v=YthiJ07xRAs
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM:
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.
Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài : “Các anh tìm ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9).
Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn,
vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11).
Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn,
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do-thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6).
Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xê-da” mà ông đang nắm giữ (19, 12).
Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37),
một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên.
“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14)
và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do-thái” (19, 19).
Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13),
tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16).
Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Antôn, giáo xứ Giuse
Ông bà anh chị em thân mến. Tối Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, chúng ta tụ họp lại đây để suy tôn Thánh Giá, tưởng niệm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Nghi thức Thứ Sáu Tuần Thánh gồm có ba phần: Phụng vụ lời Chúa, tôn kính Thánh giá và rước lễ. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tập trung vào những đau khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô và cho chúng ta biết lý do tại sao Người phải chịu những đau khổ này.
Bài Đọc 1 hôm nay trích trong sách I-sa-i-a và được gọi là Bài Ca Người Tôi Trung thứ tư, Thiên Chúa cho chúng ta biết 2 lý do tại sao Người Tôi Trung của Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Lý do thứ nhất, Người Tôi Trung hay Người Tôi Tớ ở đây, ám chỉ Chúa Giê-su Ki-tô, mang lấy thương tích là tội lỗi của nhân loại chúng ta. Vì chịu quá nhiều đau khổ nơi thân xác, Người Tôi Trung không còn giữ được dáng vẻ con người nữa. Tiên tri Isaia đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước thân hình của Chúa Giêsu treo trên thập giá. Người bị bọn lính đập đánh, bị đội mão gai nhọn đâm thấu vào đầu với bộ mặt đầy máu và đau đớn. Thân hình đã rách nát. Với cảnh tượng như vậy, tiên tri Isaia tưởng rằng chỉ cần đưa Người ra trước quần chúng, thì họ sẽ động lòng trắc ẩn xin tha cho Người ngay. Nhưng theo bài thương khó thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe, Người đã bị đám đông dân chúng kết án, bắt vác thập giá lên đồi Canvê, bị đóng đanh và treo trên thập giá giống như một tội nhân. Đó là hình ảnh của Người Tôi Trung của Chúa đã chịu nhiều đau khổ.
Và lý do thứ hai Thiên Chúa cho chúng ta biết tại sao Người Tôi Trung phải chịu những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Người bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích của Người mà chúng ta được chữa lành.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô xác nhận rằng, vì vâng phục thánh ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ để trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai vâng phục Người. Thánh Phao-lô nói “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.”
Ông bà anh chị em thân mến. Một lát nữa đây chúng ta sẽ tiến lên hôn kính Thánh Giá Chúa Ki-tô, khí cụ mà Người đã dùng để cứu rỗi nhân loại. Thập giá là một nghịch lý. Vào thời Chúa Giêsu, người ta khiếp sợ thập giá vì đó là một hình phạt đau đớn nhất mà tội nhân phải chịu. Nhưng thập giá đã trở thành Thánh Giá cứu độ, là dấu chỉ tình yêu cao cả và là một dấu hiệu báo cho chúng ta biết một cuộc toàn thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy, thánh Phaolô đã xác quyết rằng lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những người hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người tin, thì đó lại là sức mạnh và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Như chúng ta biết có nhiều thập giá trong đời sống Kitô hữu. Có những thập giá về thể xác như bệnh tật, và có những thập giá về tinh thần như chịu đau khổ, chịu thiệt thòi hay hy sinh phục vụ vì đức tin, vì Tin mừng mà Chúa Giê-su Kitô muốn cho người môn đệ vác khi Người tuyên bố “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy.” Thế nhưng ông bà anh chị em thân mến, chúng ta không vác thập giá vì thập giá, nhưng vì chúng ta muốn thông phần với Chúa vào sự cứu rỗi của nhân loại.
Ông bà anh chị em thân mến. Vì yêu thương và để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đau khổ, vác và chết trên thập giá, và Thánh Giá của Người là nguồn sức mạnh, đem lại ý nghĩa và niềm hy vọng cho những sự đau khổ của chúng ta. Thánh Augustinô cảm nhận và nói rằng “Ở đâu có yêu thương ở đấy không còn đau khổ. Và giả như vẫn còn đau khổ, người ta chấp nhận nỗi đau khổ vì yêu thương.” Thánh Augútinô muốn nói rằng khi ướp thấm tình yêu mến Chúa thì đau khổ và thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, và mang lại ý nghĩa và ơn phúc cho cuộc sống Kitô hữu chúng ta.
Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá vì yêu thương và ban phát ơn sủng cứu độ cho chúng ta. Ngài nói cho chúng ta biết “Không có gì cao quí cho bằng chết cho người mình yêu.” Qua việc tôn kính Thánh giá Chúa Kitô tối hôm nay, chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô, và cũng là nguồn sức mạnh, hy vọng và ơn cứu độ của Chúa cho chúng ta. Chúng ta thông phần đau khổ với Chúa để cùng được vinh quang với Người. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta luôn sống trong tình yêu của Chúa, cụ thể qua cuộc sống hằng ngày trong gia đình, trong cộng đoàn. Xin cho chúng ta biết sống chan hòa tình yêu mến với mọi người. Mọi người trên thế giới biết từ bỏ những hận thù tranh chấp và khủng bố để xây dựng công lý và hòa bình. Xin Chúa đưa anh chị em chưa biết Chúa, những người đang sống trong lầm lạc được trở về cùng Giáo Hội, cùng Chúa. Xin Chúa cho tất cả mọi người trong giáo xứ chúng ta được sống trong tình yêu của Chúa, là dấu chỉ của sự hiệp nhất để làm sáng danh Chúa.