Cv 10, 34.37-43 ; Cl 3, 1-4 ; Mc 16, 1-8
.
1. Nấm mộ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Tin Mừng Phục Sinh (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Hãy lăn tảng đá ra (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
4. Các bà tìm Giê-su Na-da-rét, (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
5. Biên độ chết – sống (Trầm Thiên Thu)
6. Ha-lê-lui-a, Chúa đã phục sinh (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)
7. Cùng Chúa chiến thắng sự chết (Lm. Đan Vinh – HHTM)
Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội dừng chân suy tư bên mộ Chúa. Tại một số giáo phận có các thừa sai thuộc dòng Đaminh, quen gọi là “Địa phận dòng”, Tuần Thánh được cử hành với những nghi thức truyền thống của các thừa sai Đaminh Tây Ban Nha. Sau khi tháo đanh, Chúa Giêsu được an táng trong hang đá, suốt đêm thứ Sáu và cả ngày thứ Bảy. Từng nhóm tín hữu đến viếng và “hôn chân Chúa” trong tiếng ca vãn bi ai. Mọi người tham dự nghi thức “ngắm đàng Thánh Giá” chiều thứ Bảy đều mang vành tang trắng trên đầu, như để thương tiếc một người thân đã khuất.
Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Bằng chứng của sự chết là khi một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, máu và nước chảy ra. Người được an táng trong huyệt mộ. Những kỳ mục Do Thái cũng như những người đòi lên án tử cho Chúa đều nghĩ họ đã thành công. Bởi lẽ, loại trừ được vị Ngôn sứ thành Nagiarét, họ như trút được gánh nặng. Chúa Giêsu bị họ coi là một người phản loạn, một người hay bắt bẻ và phê phán họ trước quần chúng. Những người dân thành Giêrusalem, sau khi chứng kiến cái chết của Chúa, cũng trở về với những bận rộn của ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua. Sự kiện một người bị lên án tử đối với họ cũng dần trôi vào dĩ vãng. Cũng có những người thương cảm trước một người tử tội theo lẽ tình đồng loại, nhưng sự thương cảm ấy cũng phải nhường chỗ cho những âu lo của cuộc sống thường ngày.
Vào lúc sự ác dường như đã lên ngôi, thì chính Thiên Chúa hành động. Đức Giêsu được an táng trong mồ được sánh ví như ông Ađam ngủ say để từ đó, Chúa làm phát sinh một dân tộc mới từ cạnh sườn của ông. Sau ba ngày, Chúa Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những kẻ chết. Lòng đất tăm tối không thể giam hãm Đấng đã làm cho kẻ chết bước ra khỏi mồ. Tử thần không thể đánh bại Đấng ban sự sống. Nấm mộ không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã phục sinh để chứng minh quyền năng của Người. Khởi đi từ sự phục sinh của Con Thiên Chúa, Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới trong Đức Kitô. Kể từ khi Đức Giêsu sống lại, mỗi khi dừng lại bên nấm mộ của người thân, chúng ta có quyền tin rằng, sẽ có ngày nắp mộ sẽ bật mở ra để người chết đi ra. Vì con người không được tạo dựng để bị quên lãng mãi mãi trong lòng đất, mà để sống và ca tụng Chúa trong vinh quang đời đời.
Phụng vụ Canh thức Phục Sinh chia làm bốn phần: Nghi thức làm phép lửa, Phụng vụ Lời Chúa, Phụng vụ Phép Rửa và Phụng vụ Thánh Thể. Cả bốn phần đều nhấn mạnh đến sự sống / sự chết; ánh sáng / tối tăm; thánh thiện / tội lỗi; niềm vui / tang tóc. Như thế, đêm Canh thức diễn tả cuộc đời trần thế của chúng ta. Quả thật, sống là cuộc chiến đấu liên lỷ để sự sống chiến thắng sự chết; để ánh sáng đè bẹp tối tăm; để sự thánh thiện vượt lên tội lỗi và để niềm vui thay thế đau thương.
Đấng Phục Sinh như một vầng sáng bừng lên giữa nơi mồ tối. Nghi thức làm phép lửa mới chiếm vị trí quan trọng mở đầu buổi canh thức. Ánh sáng bừng lên trong đêm tối. Ánh sáng chan hòa sưởi ấm con người và cuộc sống nhân gian. Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô, như Người đã xác quyết: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Khởi đi từ ánh lửa bừng lên trong đêm tối, phụng vụ đêm nay kết thúc trong niềm vui chan hòa, vì “Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,9).
“Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Chúa Giêsu đã qua thập giá mà tiến tới phục sinh. Những ai muốn phục sinh với Chúa, cũng cần phải trải qua thập giá. Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa chết đi cho tội để được phục sinh với Chúa. Nấm mộ là nơi vùi chôn những lỗi lầm của thời dĩ vãng. Nấm mộ là nơi chấm hết của nếp sống cũ với những yếu đuối khuyết điểm, đồng thời là nơi khởi đầu một cuộc sống mới được ánh sáng của Đấng Phục Sinh chiếu soi.
Khi mừng lễ Phục Sinh, mỗi chúng ta cần để cho ánh sáng của Chúa Giêsu sống lại chiếu sáng. Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để chúc lành và nâng đỡ chúng ta trong mọi nẻo đường của hành trình con người.
Khi cần bàn hỏi tới việc trăm năm của mình, thường ta tìm đến người tài giỏi, người có kinh nghiệm. Nói đến Sông Bạch Đằng, đại đa số mọi người sẽ nhớ tới Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, và Trần Hưng Đạo thắng quân Nguyên Mông, thật đáng nể phục. Và thông thường, nói đến tình yêu người ta vẫn nói đến tình yêu của người trẻ, tình yêu của đôi trai tài gái sắc, xem ra tình yêu của người già không mấy hấp dẫn, vì thế ít người nhắc tới !
Với chúng ta khi nghe Tin Mừng Phục Sinh hôm nay thì sao ? Phái yếu hay phái nữ được đề cao, nhất là thời xa xưa, thời Chúa Giêsu người ta vẫn xem thường phụ nữ. Nếu như các ngày Mùa Chay và Tuần Thánh, phụng vụ nói nhiều đến tội lỗi và bội phản của các tông đồ của con người nói chung. Giờ đây, tin vui Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa lại đề cập nhiều tới những phụ nữ, không phải là nói thoáng qua, mà nói khá kỹ về tính can đảm, lòng đầy mến yêu, nghĩa tình của phụ nữ cần được báo đáp cân xứng.
Những con người yêu mến, tin tưởng vào Chúa cách loáng thoáng như chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay, liệu sẽ được Chúa Kitô Phục Sinh bù đắp như thế nào ? Trước hết, Chúa Phục Sinh, Chúa sống lại, một phép lạ vĩ đại của Ngài, dành cho người tin, và cả những ai chưa tin Ngài là Thiên Chúa. Cứ bình thường : chết là hết, sau đó những lời nói của Giêsu, việc làm của ông Giêsu có liên quan tới các học trò, tới những ý tưởng sống, người sùng mộ đến mấy, rồi cũng đi vào quên lãng theo qui luật.
Như thế nào là bình thường, là bất thường ? Tảng đá to phải nằm im, nhưng không ! Cửa mộ đã bị bật tung. Trong huyệt đá ấy chỉ còn dây băng, tấm khăn liệm. Thân xác Chúa không bị phân hủy, Chúa đã Phục Sinh và tỏ hiện đến tâm tư nhiều người. Đang trên đường đi viếng mộ Chúa, các phụ nữ ấy phân vân : “Ai sẽ lật tảng đá to ra khỏi cửa mộ cho chúng ta”? Phải có sức mạnh người ta mới lăn được tảng đá to khỏi mộ, thế rồi, các phụ nữ khi ấy được chứng kiến “Ngôi Mộ Trống”, họ đã nhận ra Tin Mừng Phục Sinh và họ biết việc đầu tiên phải làm là báo cho các tông đồ.
Phát xuất từ kinh nghiệm tình thương, thánh Phaolô đã quả quyết rằng, nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì tất cả những người Kitô hữu bị xem là không bình thường. Căn cứ vào đâu để mà nói tới sống-chết ? Sự kiện “ngôi mộ trống”, trả lời tất cả, đã giúp cho đức tin của chúng ta thực sự phong phú hơn. Tuy không làm nam giới, không tài giỏi, hoặc có công trạng to lớn gì với Thầy – Trò Giêsu, không mưu trí, không có điều kiện các phục nữ thời nay, nhưng các chị em ấy luôn ý thức sứ mệnh theo Thầy Giêsu là gì.
Tại nơi “mộ trống”, các phụ nữ năm xưa thấy mất xác Thầy, họ đồng lòng muốn tìm cái xác ấy thôi, Tin Mừng Phục Sinh đã gạt bỏ khỏi nơi tâm trí họ ý nghĩ đó. “Ngôi mộ trống”, chẳng mấy chốc đã được “người thanh niên mặc áo dài trắng” lấp đầy lòng các bà niềm hân hoan vui mừng Chúa sống lại.
Các chị phụ nữ xưa kia không nhìn thấy Chúa bằng con mắt thường, nhờ đức tin đơn sơ, tai các bà sung sướng được nghe Tin Mừng Phục Sinh : “Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa”. Đúng, không có ánh sáng, thế gian sẽ tối tăm bao trùm. Không có sự thiện : vũ khí tối tân nhất cũng không thắng được sự dữ. Không có Phục Sinh, thì chỉ có sự chết, chẳng cần đến niềm tin làm gì.
Để có Phục Sinh, tất cả phải qua thập giá mới tới vinh quang, Tin Mừng Phục Sinh đã và đang tiếp tục chiếu soi. Chắc hẳn các tông đồ không muốn mình bị gọi là người hèn nhát, sợ chết, nhưng đối diện với cuộc thương khó của Thầy, các ông phải nhận ra các ông thật yếu đuối, tội lỗi, bất lực. Các ông rất cần đến Tin Mừng Phục Sinh, đến tình yêu và ơn tha thứ của Thầy Giêsu. Chính những người tội lỗi đã từng chối Chúa, và tất cả những ai hôm nay theo Chúa làm tông đồ, đều được Tin Mừng Phục Sinh biến đổi, nếu như chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa.
Giáo Hội luôn muốn chúng ta hãy sống hân hoan và mở lòng đón Tin Mừng Phục Sinh, không phải chỉ hôm nay mà trong suốt cuộc đời của mình. Giáo Hội không đề cao sự yếu đuối tội lỗi, không có ý nêu cao tính anh hùng, mạnh dạn như các chị em phụ nữ ra mồ từ sớm, tất cả là đang hướng tâm trí chúng ta cùng xác tín : Đức Kitô đã sống lại… Các Phụ nữ đã loan Tin Phục Sinh, các tông đồ đã biết tiếp tục sứ mạng Chúa trao…… Và chúng ta sẽ sống chứng nhân ra sao ? Tin Mừng Phục Sinh phải là trách nhiệm của mọi người. Amen.
Người ta kể lại trường hợp của một người bị nhồi máu cơ tim, sau khi sử dụng mọi biện pháp cấp cứu, bệnh viện kết luận rằng bệnh nhân đã chết và gia đình đã đem bệnh nhân về nhà để lo mai táng. Tuy nhiên khi tẩm liệm, người ta thấy xác người này vẫn mềm. Một người bạn thân đã đề nghị gia đình ngưng việc tẩm liệm. Đến chiều, người ta thấy cái xác dường như cử động. Mọi người sợ hãi bỏ chạy, người bạn kia mạnh dạn đến gần thì thấy cái xác mở mắt. Ông đã giục gia đình đem người nhà đến bệnh viện và người bệnh đã phục hồi. Các bác sĩ cho rằng, người chết này chỉ chết lâm sàng dạng sâu, nên các bác sĩ tại bệnh viện trước đây đã kết luận là ông đã chết. Điều đáng lưu ý là tại sao gia đình và người thân khi thấy xác ông cử động trở lại, họ không vui mừng vì thấy ông còn sống mà lại sợ hãi bỏ chạy ? Có lẽ vì trong đầu họ, người thân đã chết thật rồi.
Câu chuyện trên giúp chúng ta dễ hiểu tâm trạng của các phụ nữ Tin Mừng thuật lại : Khi được hai người mặc áo trắng báo tin Chúa đã sống lại, các bà ra khỏi mộ liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía, không dám nói gì với ai vì sợ.
Sự kiện Chúa sống lại, mặc dù đã được Chúa nói trước nhiều lần, song đây vẫn là một điều vượt quá sức tưởng tượng, chưa bao giờ thấy. Vì thế, các phụ nữ này vô cùng sợ hãi và không dễ dàng chấp nhận. Trong tâm hồn các bà, Chúa đã chết, đã chấm dứt tất cả, không còn hy vọng gì nữa. Các bà ra mộ với một mục đích duy nhất là đi thăm và chăm sóc một cái xác đã chết. Ý nghĩ này bao trùm tâm trí các bà khiến tâm hồn các bà chìm ngập trong sự ám ảnh về cái chết của Chúa Giêsu. Bên cạnh đó, hòn đá lấp cửa mộ cũng đồng thời là hòn đá đang đè nặng trên tâm trí các bà và đè bẹp mọi hy vọng của các phụ nữ này. Các bà bảo nhau : Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm chúng ta ?
Chắc chắn không ai có thể lăn tảng đá ra khỏi tâm hồn, trừ khi có bàn tay của Thiên Chúa. Khi các phụ nữ đến nơi, ngước mắt lên, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi cửa mộ. Điều này cho thấy : Tin Mừng Phục sinh vượt quá lẽ tự nhiên của con người, nếu chúng ta cứ mãi cắm mặt xuống đất, nuôi dưỡng những lý luận theo kiểu dưới đất, thì chúng ta sẽ bị chôn vùi trong ngôi mộ chết chóc của nó. Ngược lại, biến cố phục sinh đòi chúng ta phải ngước mắt lên, chỉ khi ngước mắt lên chúng ta mới thấy và nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ; ngước mắt lên để chúng ta có sức mạnh đẩy lui hòn đá chết chóc ra khỏi tâm hồn.
Người thanh niên mặc áo trắng nói với các bà : Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazaret, Đấng bị đóng đinh ? Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa. Đó là tin mừng Phục sinh đầu tiên được loan báo cho các phụ nữ. Để củng cố cho niềm tin này, người thanh niên đó lại dặn các phụ nữ : Về nói với các môn đệ của Người và ông Phêrô rằng, Người sẽ đến Galilêa trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người.
Về báo cho các môn đệ và ông Phêrô – điều này cho thấy niềm tin vào Chúa phục sinh phải được cậy dựa vào niềm tin của các tông đồ là Giáo hội mà Phêrô là thủ lãnh. Chính Phêrô và các tông đồ mới là những người có tiếng nói quyết định và sau cùng về vấn đề này. Vì thế, để đón nhận được mầu nhiệm phục sinh, chúng ta phải gắn bó và nghe theo sự dạy bảo của Phêrô và các tông đồ.
Chúa phục sinh hẹn gặp các tông đồ tại Galiêa. Ngài vẫn hẹn chúng ta đến để được gặp Ngài. Ngài hẹn gặp chúng ta nơi Thánh lễ mỗi ngày. Nơi đây, chúng ta sẽ được gặp Đấng Phục sinh một cách sống động, cụ thể qua Lời của Ngài, qua giáo huấn của Giáo hội. Đặc biệt, chúng ta sẽ gặp Ngài qua bí tích Thánh Thể. Nhờ gặp gỡ Chúa Phục sinh mỗi ngày, chúng ta sẽ được biến đổi nên con người mới.
Để đón nhận được Tin mừng phục sinh, chúng ta phải lật tảng đá chết chóc đang đè nặng tâm hồn. Cần lật bỏ hòn đá tội lỗi, đang làm chúng ta xa tránh Thiên Chúa, dửng dưng với Tin mừng Phục sinh, trở nên vô cảm với lời chứng của Giáo Hội. Bên cạnh đó còn có những tảng đá lớn mà xã hội và con người ngày nay đang cố ý dè trên chúng ta. Đó là lối sống duy khoa khọc, tư tưởng duy vật vô thần, những trào lưu sống thực dụng, tiêu dùng, hưởng thụ đang là những hòn đá lớn cản trở, khiến nhiều người nghi ngờ về Mầu nhiệm Phục sinh.
Điều quan trọng để đón nhận được Tin vui Phục sinh, chúng ta phải ngước mắt lên để nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa, để thấy những sự siêu việt mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử và trong cuộc đời mỗi người. Đừng cắm mặt xuống đất để tìm vật chất, cũng đừng cắm mặt xuống vì sợ hãi. Có những người sợ mất quyền lợi, mất địa vị xã hội, họ cố tình cắm mặt xuống đất, không dám thể hiện niềm tin cuả mình, không dám loan truyền mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Hãy ngước mặt lên để bước ra khỏi sự sợ hãi ngại ngùng, hiên ngang sống và làm chứng về việc Chúa đã sống lại. Ngước mắt lên để nhìn thấy quyền năng biến đổi của Thiên Chúa, để dám phó thác, tin tưởng vào Ngài.
Sau cùng, Thánh Phalô đã dạy chúng ta : Dòng nước thánh tẩy đã làm cho chúng ta trở nên con người mới. Ánh sáng của Chúa Phục sinh đã được thắp sáng trong mỗi chúng ta. Hãy làm cho ngọn đèn phục sinh luôn cháy sáng và luôn chiếu tỏa ra cho anh chị em qua đời sống gương sáng của mình. Hãy để cho dòng nước tái sinh của Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta nên con người mới. Hãy chôn vùi khỏi chúng ta sự lười biếng, tội lỗi và những thói xấu để trở nên con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô Phục sinh. Amen.
CÁC BÀ TÌM GIÊ-SU NA-DA-RÉT, NGƯỜI BỊ ĐÓNG ĐINH CHỨ GÌ?
Ấn tượng mạnh nhất mà tôi có khi đọc bài tường thuật biến cố Phục Sinh của Mác-cô là nỗi kinh hãi của các chứng nhân đầu tiên, nhóm phụ nữ ra thăm mồ từ sáng sớm. Không hề che đậy, tác giả Mác-cô đã hầu như cố tình lập đi lập lại mối hoảng sợ này, ‘Các bà hoảng sợ… Người thanh niên liền nói : “Đừng hoảng sợ!”… Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.” Tại sao họ lại hoảng sợ, tôi tự hỏi: vì họ là phụ nữ chăng? – Không hẳn thế (xem Mt. 28:4); vì người thanh niên mặc áo trắng chăng? – Lời trấn an cho thấy chàng không phải là nguyên nhân. Mối hoảng sợ tới chính từ ngôi mộ trống! Nếu tảng đá cửa mộ chưa được lăn ra, và rồi các bà tự tìm được cách vào bên trong để thấy xác Người còn đó, chắc hẳn họ sẽ mừng rỡ chứ không khiếp sợ đến thế. ‘Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ dùm ta đây?”’ Các bà hết hồn hết vía vì được loan báo: “Giê-su Na-da-rét bị đóng đinh… đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đặt Người đây này!”
Câu chuyện về Đức Giê-su của Mác-cô kết thúc đột ngột với trình thuật các phụ nữ khám phá ra ngôi mộ trống, và tiếp đó là một bài ngắn gọn ghi nhận một số lần Chúa, trong một sức sống hoàn toàn mới, đã hiện ra cho một số nhân chứng. Đối với tác giả, đây không còn là con người Giê-su mà người ta từng biết trước kia nữa, nhưng là một Giê-su được sinh lại trong Thần Khí để không bao giời chết nữa. “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2). Con người Giê-su Na-da-rét cũ đã kết thúc với “Người lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:37); sau đó một khoảng trống vắng lạnh lùng: ngôi mộ, nơi đã đặt xác Người, hoàn toàn trống rỗng; thế rồi một sức sống mới kỳ lạ xuất hiện và lan tỏa. Như vậy Phục sinh gồm cả hai phần: ‘ngôi mộ trống’ và ‘cuộc sống mới’ bởi Chúa Cha.
Ngôi mộ trống: Thoạt đầu tôi vẫn nghĩ ngôi mộ trống chỉ là một chi tiết nhỏ không có gì quan trọng. Nhưng rồi khi thấy cả bốn Phúc âm đều đề cập tới quang cảnh này cách rành rẽ tới từng chi tiết – đặc biệt Phúc âm Gio-an – tôi nhận ra nó phải có một ý nghĩa nào khác sâu sắc hơn hẳn một sự kiện vật thể đơn thuần. Đúng vậy, Ngôi mộ trống tượng trưng cho cả một khoảng cách biệt lớn lao và sắc nét giữa một Giê-su đã chết và một Giê-su Ki-tô với sự sống mới trong Thánh Thần. Ngôi mộ trống là biểu hiện sự khác biệt giữa một nhân loại chết trong tội và một nhân loại bừng sống trong tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Sự Vượt Qua của Đức Ki-tô không chỉ xóa tội, vượt qua tội lỗi (theo cách nói bình dân chúng ta thường dùng), mà là ban cho một sự sống hoàn toàn mới mẻ và kỳ lạ. Ki-tô hữu chúng ta quen gọi sự sống này là ‘sự sống của con cái Chúa’. Nếu hiểu đúng nội dung “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” mà Đức Giê-su đề cập tới trong cuộc đối thoại với Ni-cô-dê-mô, thì ta có thể coi ‘ngôi mộ trống’ như thời kỳ thai nghén chờ ngày cho chào đời một tạo vật hoàn toàn mới, như nhiều lần Phao-lô đã ví von.
Cuộc sống mới: Phục sinh thường được hiểu là sống lại, là trở lại từ cõi chết. Không hẳn chỉ có thế, hay nói cách khác, còn hơn thế nữa. Phục sinh đúng hơn là sinh lại, là đón lấy sự sống mới trong tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Giê-su phục sinh, trong nội dung này, quả là một A-đam mới, là người đầu tiên ‘được sinh ra một lần nữa trong Thần Khí’ (Ga 3:3-8). Chắc chắn Phao-lô đã luôn hiểu Phục sinh theo nội dung này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Ngắn gọn hơn Phao-lô khảng định: “Nếu đã cùng chết với đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Như thế, sống lại từ cõi chết chỉ là phụ, là nói theo cách tuần tự thời gian; điều chính yếu và quan trọng hơn là cuộc sống mới trong Thần Khí. Phục sinh không đơn thuần là chỗi dậy, ra khỏi mồ vào ngày thế tận; Phục sinh phải xảy ra trong đời Ki-tô hữu hàng ngày, đó là tiến trình làm chết mình (ngôi mộ trống rỗng) để được làm đầy với sức sống thần linh mới. Sống Ki-tô hữu là sống Ki-tô Phục sinh, sau khi đã chết cùng Ki-tô thập giá; “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21) phải được hiểu trong nội dung đó.
Trong tư cách một linh mục – tu sĩ, tôi thấy sống phục sinh đối với riêng mình là cả một chương trình và đòi hỏi; và trong hai điều kiện để có thể sống phục sinh, điều kiện mà tôi phải chủ động làm chính là làm trống rỗng con người mình. Thật là cả một thách đố, nhất là khi tôi đã tập cho có thói quen vun đắp con người mình nhiều quá!
Lạy Chúa Phục Sinh, Chúa đã chết trên thập giá, đã tự hủy mình ra như không nơi ngôi mộ trống, nhưng đã được Chúa Cha sinh lại trong Thần Khí cho cuộc sống nghĩa tử mới. Một khi trở thành Ki-tô hữu, chính con cũng đang không ngừng thực hiện các bước đó cho riêng mình. Xin cho con thực thi được trọn vẹn hơn khẩu hiệu con chọn ngày nhận tác vụ linh mục: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô”. Xin cho con không thấy sợ tình trạng ‘ngôi mộ trống’, vì qua giai đoạn đó con mới có được sự sống mới hoàn toàn. A-men.
.
Tam Nhật Vượt Qua như một tam giác, mỗi cạnh mang một sắc màu riêng: Vàng, Tím, Hồng. Thứ Năm Tuần Thánh hân hoan với niềm vui, có sắc Vàng; Thứ Sáu Tuần Thánh ảm đạm u sầu, có sắc Tím; đêm Thứ Bảy Tuần Thánh và Chúa Nhật rộn rã nỗi mừng, có sắc Hồng. Màu sắc khác nhau nhưng vẫn hòa quyện trong một tổng thể kỳ diệu.
Theo tiếng Do Thái, chữ פֶּ֥סַח (PesaH) nghĩa đen là “vượt qua”, có nghĩa bóng là “bỏ qua” hoặc “tha thứ”. Chữ phải có nghĩa, mà nghĩa này thật thâm thúy!
Đêm nay là ranh giới tử – sinh, làn ranh mong manh giữa bóng tối và ánh sáng, giữa sự chết và sự sống. Khoảng sầu thương đã qua, nỗi lo sợ đã hết, vì chúng ta được Chúa Giêsu dẫn lối vượt qua vùng chết chóc để vào miền hằng sinh ving quang. Niềm hạnh phúc quá lớn, vui mừng khôn tả: Alleluia!
Trình thuật St 1:1. 26-31 nhắc lại sự sáng tạo của Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Ngài sáng tạo trời đất, Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài, có nam có nữ, và trao quyền làm bá chủ mọi loài. Ngài căn dặn: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”. Được trao quyền thì cũng phải có trách nhiệm. Thiên Chúa bảo con người: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực”. Mọi thứ đều rất tốt đẹp!
Vâng, “lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:4-6). Tác giả Thánh Vịnh đã sung sướng thốt lên: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. Từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người” (Tv 33:12-13). Tuy nhiên, chúng ta đừng quên cầu xin liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Các bài đọc đêm nay dẫn chúng ta đi qua chẵng đường lịch sử cứu độ. Trình thuật St 22:1-2. 9-13. 15-18 cho biết về đức vâng lờ tuyệt đối của Tổ phụ Áp-ra-ham. Chỉ có đứa con một yêu dấu là I-xa-ác, vậy mà Thiên Chúa lại bảo ông dâng nó làm lễ toàn thiêu trên một ngọn núi tại xứ Mô-ri-gia. Ông vẫn vâng lời, không so đo, không thắc mắc.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông dựng bàn thờ, xếp củi lên, trói I-xa-ác lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Khi ông đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình, sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi tên ông và bảo: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
Sứ thần gọi ông một lần nữa và cho ông biết lời thề của Đức Chúa: “Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Thật tuyệt vời! Có Chúa là có tất cả: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tuy nhiên, không phải khơi khơi mà được Chúa là gia nghiệp, mà phải trải qua gian khổ lắm. Đó là lẽ tất nhiên thôi. Có công khó thì mới được lãnh thưởng.
Có Chúa thì “tâm hồn mừng rỡ, lòng dạ hân hoan, và thân xác cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:9). Tại sao? Tác giả Thánh Vịnh giải thích: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:10-11).
Tiếp theo là phép lạ tại Biển Đỏ (Xh 14:15–15:1). Đức Chúa bảo ông Môsê cầm gậy, giơ tay lên rẽ nước biển ra cho con cái Ít-ra-en đi qua. Còn Thiên Chúa làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Họ tiến vào theo sau, thế là cả Pharaô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh đều bị chôn vùi trong biển nước.
Chiến công hiển hách. Toàn dân được “mở mắt” nên một lòng kính sợ và tin vào Đức Chúa, tin vào ông Môsê, tôi trung của Người. Bấy giờ ông Môsê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Đức Chúa: “Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Người là trang chiến binh, danh Người là Đức Chúa! Xa mã Pharaô, Người xô xuống lòng biển, tướng dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy. Vực thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống nước sâu chẳng khác nào hòn đá.6 Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh. Tay hữu Ngài, lạy Chúa, đã nghiền nát địch quân” (Xh 15:1-6. 17-18).
Chúng ta cũng như dân Chúa xưa, như kiểu người Việt ví von: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, khi nóng thì cứ trái tai mà sờ”. Dù chúng ta bội bạc, nhưng Thiên Chúa vẫn không chấp lách, yêu thương hết lòng. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao?” (Rm 6:3). Có lẽ chúng ta không thể trả lời vì không dám trả lời. Thánh Phaolô trả lời thay chúng ta: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4).
Không chỉ vậy, chúng ta còn được “nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết” và “chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6:5). Quả là kỳ diệu vô cùng! Và còn hơn thế nữa: “Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:6-7).
Niềm tin của chúng ta rạch ròi chứ không mơ hồ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Niềm tin đó của Công giáo cũng không hề mù quáng hoặc mê tín như người vô thần tưởng. Thánh Phaolô còn cho chúng ta biết thêm: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).
Ân sủng này nối tiếp ân sủng khác, vì thế chúng ta phải luôn tự nhủ: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Đêm nay là Đêm Cực Thánh, xoay tròn một “vòng tử – sinh”, với kỳ công của Thiên Chúa làm nhãn tiền: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23).
Trời buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đang nắng sáng bỗng tối sầm lại khi Chúa Giêsu trút hơi thở. Trời đêm nay đang tối tăm chợt bừng sáng khi Chúa Giêsu trỗi dậy. Chắc chắn chẳng ai có thể tới gần vì quân lính gác cửa mộ cẩn mật, kẻ nào dám mon men tới là chết chắc. Thế nhưng chính họ, những kẻ đã hả hê cười nhạo hôm trước, mà nay vẫn không thể giữ Chúa Giêsu nằm im trong mộ đá đó thêm một giây nào nữa.
Trình thuật Mt 28:1-10 cho biết: Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, bọn lính canh khiếp sợ, run rẩy, chết ngất đi.
Thiên thần liền bảo các phụ nữ: “Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”.
Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chắc chắn họ đã tin Đức Giêsu phục sinh qua lời của thiên thần, và họ chạy về báo tin cho môn đệ hay. Dọc đường, họ được Đức Giêsu đón gặp và nói: “Chào chị em!”. Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”. Đó cũng là sứ vụ Ngài truyền cho mỗi chúng ta hôm nay.
Các phụ nữ được Chúa Giêsu ưu tiên vì họ là những người đầu tiên được gặp Chúa-Giêsu-phục-sinh và được trở nên nhân chứng loan báo sự kiện trọng đại Chúa phục sinh. Thật là hạnh phúc cho nữ giới! Ước gì cuộc đời mỗi chúng ta là những vần thơ tình phục sinh và được phổ nhạc thành Khúc Khải Hoàn Ca Alleluia ở mọi nơi, mọi lúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Quả thật, chẳng dễ chút nào đâu, nhưng nếu thực sự cố gắng thì sẽ được, vì chính Chúa-Giêsu-phục-sinh đã hứa với chúng ta: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và hằng sinh, xin giúp chúng con biết sống làm chứng về Chúa-Giêsu-phục-sinh giữa cuộc đời hôm nay, trong mọi hoàn cảnh. Xin giúp chúng con can đảm cùng Con Một Ngài vượt qua biên độ chết – sống, và luôn biết ca lên bài Alleluia ngay trong những bước đời gập ghềnh của chúng con trên hành trình lữ hành trần gian này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
HA-LÊ-LUI-A, CHÚA ĐÃ PHỤC SINH
Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta không ngừng được Mẹ Giáo hội nuôi dưỡng bằng bàn tiệc Lời Chúa. Bàn tiệc ấy được dọn sẵn một cách rất phong phú nhất vào chính Đêm Canh Thức hôm nay. Nếu Đêm Canh Thức hôm nay là “mẹ các Đêm Canh Thức” như Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma số 20 viết, thì bàn tiệc Lời Chúa được chuẩn bị cho Đêm Canh Thức hôm nay chính là “phần căn bản” (QCTQ số 21). Chắc chắn không có một nghi thức phụng vụ nào mà bàn tiệc Lời Chúa lại dồi dào và phong phú như đêm hôm nay. Có tới tất cả chín bài, bẩy bài Cựu Ước và hai bài Tân Ước. Thường thì Giáo hội khuyên cộng đoàn dân Chúa khi cử hành Đêm Canh Thức nên đọc đủ cả chín bài. Tuy nhiên, Giáo hội cũng tiên liệu nếu vì “hoàn cảnh mục vụ đòi buộc, có thể bớt số bài đọc Cựu Ước”. Bẩy bài đọc Cựu Ước, ít nhất cũng phải đọc ba bài. Trong trường hợp “gấp rút” thì đọc ít là hai bài Cựu Ước; trong hai bài đó, “không bao giờ được bỏ bài trích sách Xuất hành chương 14”, tức là bài số ba.
Với những quy định cụ thể như trên, ta thấy rõ việc đọc bài thánh thư và bài Tin Mừng là không thể bỏ. Thánh thư là bài trích thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma (6,3-11) nói về việc Đức Kitô phục sinh, nguồn sự sống mới cho các kitô hữu. Bài Tin Mừng dầu thay đổi theo năm phụng vụ, nhưng đều sử dụng đoạn nói về sự kiện Chúa phục sinh vào “ngày thứ nhất trong tuần”. Còn bẩy bài Cựu Ước, hai bài trích trong sách Sáng thế (bài một và bài hai), một bài trích trong sách Xuất hành (bài ba), bốn bài còn lại trích trong các sách tiên tri (bài bốn và năm trong sách tiên tri I-sa-ia, bài sáu trong sách tiên tri Ba-rúc, bài bẩy trong sách tiên tri Ê-dê-ki-en). Bẩy bài này nên được đọc cả. Nếu phải lược bỏ vì “hoàn cảnh” thì cũng phải giữ lại ít là ba, còn nếu chỉ có thể đọc hai bài vì lý do “gấp rút” thì không bao giờ được bỏ bài số ba trích trong sách Xuất hành. Hy vọng trong Đêm Canh Thức, chúng ta không bao giờ phải sử dụng phương sách “gấp rút” này.
Tất cả những quy định đó cho thấy tầm quan trọng của việc lắng nghe Lời Chúa trong Đêm Canh Thức. Chính Lời Chúa là thành phần “căn bản” của Đêm Cực Thánh. Qua việc cẩn thận chọn lựa các bài đọc Kinh Thánh (nhất là các bài Cựu Ước), Giáo hội như muốn chính mình thinh lặng để một lần nữa cảm nghiệm rõ hơn sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Bắt đầu từ sự kiện sáng tạo, tuyển chọn, giải thoát, cho đến những thất trung- tha thứ và giao ước mà chúng ta quen gọi là lịch sử thánh hay lịch sử cứu độ. Chúng ta đừng quên Giáo hội đã bước vào tuần thánh từ Chúa nhật Lễ Lá, đã bước vào Tam Nhật Vượt Qua, tức là đã bước theo Chúa Giêsu trong vinh quang của ngày vào thành thánh, cũng đã cảm thấy “xao xuyến” kinh hoàng và “lo buồn” khủng khiếp trước những giông tố của kiếp người, cũng đã “gục đầu tắt thở” với Thầy Chí Thánh và đang chìm vào bóng tối của nấm mồ. Tất cả sẽ rơi vào bế tắc, tất cả sẽ trở thành phi lý, tất cả sẽ là con số không. Bao nhiêu lý thuyết, bao nhiêu bài học, bao nhiêu giá trị sống, bao nhiêu hy vọng… giờ đây dường như cũng đã “bị an táng” trong nấm mồ?! Thế mới có người nói: “chết là hết chuyện”. Cuộc đời của Chúa Giêsu rốt cuộc cũng đi tới nấm mồ. Bao nhiêu kẻ thời đó cũng đã hả hê nghĩ rằng: “thế là hết chuyện”. Nhưng Thiên Chúa, Cha thật của Đức Giêsu đã không để cho dấu chấm hết kết thúc ở trên nấm mồ. Chính lúc con người tưởng rằng cuộc đời chỉ là một trò phi lý, một mớ bòng bong vô vọng, Thiên Chúa ra tay can thiệp để mở toang cánh cửa hy vọng, để một luồng sáng mới soi chiếu cho nhân loại. Luồng ánh sáng này đã được trao ban, nhưng nhân loại đã nhiều lần khép lại hoặc đã bưng kín. Giáo hội đã đón nhận ngay được ánh sáng này nên đã thinh lặng ngồi ôn lại dòng lịch sử thánh, một lịch sử bắt nguồn từ Thiên Chúa và sẽ đưa mọi sự về với Ngài. Giáo hội cảm nhận thật rõ kinh nghiệm này khi lắng nghe lại lịch sử thánh, nhất là giai đoạn lịch sử kể lại sự kiện Thiên Chúa uy quyền ra tay giải phóng dân Chúa ra khỏi đất Ai-cập. Đây là một sự kiện mà dân Chúa sẽ không bao giờ được phép quên. Dân Chúa sẽ thấy như trước mắt quyền năng của một Thiên Chúa trên mọi lịch sử và mọi sức mạnh. Ngài chính là Chúa và là Chủ Tể. Và giờ đây, Giáo hội là dân thánh mới đã nhận ra chính Vị Thiên Chúa đó, Đấng đã ra tay lật tung nấm mồ, nơi an nghỉ của “Con Yêu Dấu” và dùng Quyền Năng (Thánh Thần) để phục sinh Người. Ánh sáng phục sinh đã ùa vào thế gian như một sức mạnh vũ báo, trả lại niềm hy vọng bất diệt cho con người. Ha-lê-lui-a từ nay sẽ trở thành một tiếng khải hoàn ca bất tận, sẽ được hát, được ngân vang mãi mãi để xóa tan đi những bóng đêm lạnh giá vô vọng của kiếp người. Ha-lê-lui-a, Chúa đã chiến thắng tử thần. Ha-lê-lui-a, Chúa đã phục sinh. Amen.
.
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
- Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn họ đi về xứ Ga-li-lê để gặp Người.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, bắt đầu đêm của một ngày mới là ngày thứ nhất trong tuần.
+ Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cũng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt và gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong những người đầu tiên đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1 ; Mt 28,1 ; Mc 16,1 ; Lc 24,10). Trước đó bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40). Bà có mặt khi mai táng Đức Giê-su và đã quan tâm tới nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc các bà đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên. Điều này cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Giáo Hội sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian an táng Đức Giê-su quá ngắn và việc an táng được thực hiện vội vã, nên thiếu việc xức dầu thơm ướp xác Đức Giê-su. Do đó, mấy phụ nữ này phải mua dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay ngày thứ nhất trong tuần được gọi là Chúa Nhật. Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc là khoảng 6 giờ sáng.
– C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là vị thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
– C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một phàm nhân nữa.
– C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất có đông dân ngoại.
– HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: ông La-da-rô, con trai bà góa thành Na-in hay con gái ông Gia-ia có giống với thân xác loài người sau này sẽ sống lại vào ngày tận thế không?
– ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã chứng minh khi cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng tự chứng minh có xương thịt mà các ông có thể xem và sờ thấy được. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiên của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà lại tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh hiện diện ở khắp nơi: Dù không có mặt nhưng Người vẫn nghe được yêu cầu của Tô-ma (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng không thể xác định được Người đang ở nơi nào trên trời (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết và đã được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được mang đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, họ được bước vào một cuộc sống mới vô cùng cao quí, vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
- CÂU CHUYỆN: CON CÁNH QUÝT.
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là Sơ-siu đơ Mi-ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tăng đùa giỡn với nhau trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông ngồi, và nằm im như chết. Đơ Mi-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Mi-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy nó như đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng từ từ lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn kia. Đơ Mi-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
- SUY NIỆM:
– AI TRONG CHÚNG TA cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết đến tình trạng sống lại chưa đủ 3 ngày sau đó. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi sống lại và đã gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó…
– “TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI”: Đây là lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu trong kinh tin kính. Vào ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ trở nên giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, nghĩa là có tính siêu việt và thiêng liêng. Trời Mới Đất Mới sẽ xuất hiện khi Đức Giê-su, Vua Mê-si-a ngự đến phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Ngày ấy mọi người đều được Thiên Chúa cho sống lại. Nhưng những ai tin và sống đức tin qua hành động yêu thương phục vụ người đói khát, ở trần, đau yếu, ở tù… thì sẽ được Vua Thẩm Phán Giê-su xét xử khoan dung và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những kẻ cố chấp trong sự bất tín, ăn ở thất nhân ác đức và cam tâm làm tay sai cho ma quỉ, thể hiện qua thái độ ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, không sẵn lòng giúp đỡ và phục vụ tha nhân… thì sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời, nơi dành sẵn cho ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Do đó, sự thưởng phạt sau này có liên quan mật thiết với cuộc sống hiện tại mà chúng ta đang sống. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để được liệt vào hàng ngũ các con chiên ngoan và xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời đời đời?
- THẢO LUẬN: 1) Bí Tích Rửa Tội do Đức Giê-su lập gồm hai yếu tố: Một là tẩy rửa bằng sự dìm mình chúng ta trong dòng nước sông, và hai là tái sinh chúng ta nên con cái Thiên Chúa nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta tuy đã chịu phép Rửa tội, nhưng đã thực sự được tái sinh làm con yêu dấu của Thiên Chúa chưa? 2) Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong!
– NHƯNG LẠY CHÚA, con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi… Tuy nhiên, trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông. Và quả thật, nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để cứu độ loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa ở đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.