Lời Chúa: Ds 21, 4-9; Pl 2,6-11; Ga 3, 13-17
1. Thập giá giữa đời hôm nay (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Lạy Chúa, chúng con tôn thờ thánh giá Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
3. Làm thế nào để việc suy tônThánh giá trở nên hữu hiệu?(Lm.Gioan Nguyễn Văn Ty,SDB)
4. Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ (Lm. Anthony Trung Thành)
5. Nghịch lý không trái ngược (Trầm Thiên Thu)
6. Lễ Suy Tôn Thánh Giá (Lm. Antôn, giáo xứ Thánh Giuse)
7. Chiêm ngắm tình yêu (JB. Lê Đình Nam)
8. Thập giá trong đời (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
9. Chân Dung của Lòng Thương Xót (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
10. Thánh giá: Con đường đời sống Ki-tô (JM. Lam Thy, ĐVD)
11. Suy niệm về Thánh Giá (Jorathe Nắng Tím)
12. Yêu cho đến cùng (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
13. Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển)
14. Nhìn lên Thập giá bạn thấy gì (Anna Điểm Mười, MTG.Thủ Đức)
15. Thập giá trở thành thánh giá (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Tôi vừa nhận được một video clip do một người bạn gửi qua email. Nội dung clip này ghi lại cảnh những binh lính thuộc tổ chức tự xưng Nhà nước Hồi giáo (IS) giết hại những Kitô hữu tại Syria. Hàng chục người tín hữu tay bị trói và bị bắt quỳ trên đất, những người lính bịt mặt dí súng vào đầu họ rồi bóp cò, trong lúc hàng trăm người khác nhảy mừng tung hô như những kẻ say máu. Tôi không thể xem hết những hình ảnh này, vì nó quá dã man và kinh hoàng. Chúa ơi, tại sao những người này lại tàn sát các tín hữu của Chúa một cách ghê rợn? Không thể tưởng tượng tại sao những hành động như vậy lại đang xảy ra trên hành tinh của chúng ta ở thế kỷ 21, khi mà con người không ngừng kêu gọi ngưng bạo lực và bảo vệ nhân quyền, thậm chí là bênh vực và bảo vệ những loài động vật. Không chỉ giết hại những người công giáo, những hình ảnh do chính nhóm Nhà nước Hồi giáo phát tán trên internet còn cho thấy những cuộc tàn sát dân lành, trẻ em và phụ nữ tại Iraq và Syria. Từng đoàn người đang bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở của mình để lên đường tỵ nạn tới một nơi vô định và một tương lai mù mịt.
Trong những ngày qua, dư luận thế giới bàng hoàng trước việc binh lính Nhà nước Hồi giáo giết hại hai nhà báo người Mỹ là James Wright Folley 40 tuổi và Steven Sotloff, 31 tuổi. Hai nhà báo này đã bị giết hại bằng hình thức chặt đầu, như thời trung cổ.. James Wright Folley bị giết ngày 19-8-2014 và Steven Sotloff bị giết ngày 2-9-2014. Sự kiện này cùng với bạo lực ngày càng nghiêm trọng đã khiến cho tổng thống Mỹ Obama hôm 10-9 thề sẽ tiêu diệt hoàn toàn nhóm Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria.
Không chỉ những Kitô hữu ở Syria hay ở vùng Trung Đông, những nhà truyền giáo và hoạt động tông đồ đang bị bách hại và giết chết ở nhiều nơi trên thế giới. Ngày chúa nhật 7-9 vừa qua, ba nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ chiều Chúa nhật trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy.
Trước tình hình bạo động và tàn sát các Kitô hữu tại một số nước vùng Trung Đông, Đức Thánh Cha đã cử vị Đặc sứ của Ngài là Đức Hồng Y Filoni, Tổng trưởng Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đến tham và ủy lạo các cộng đoàn tín hữu tại Iraq từ ngày 13 đến ngày 20-8-2014. Đức Hồng Y đặc sứ đã trình bày với Đức Thánh Cha về tình trạng thê thảm tại Iraq: các làng mạc bị bỏ hoang vì người dân lành bị xua đuổi. Các nhà thờ bị tàn phá. Người dân ở đây thiếu thốn mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống hằng ngày và bạo lực mỗi ngày một gia tăng.
Khi tàn sát dã man những người dân vô tội, những người Hồi giáo dòng SITE gọi cuộc khủng bố của họ là một cuộc thánh chiến. Họ mượn danh Thiên Chúa để làm điều ác. Họ phong chức “tử đạo” cho những binh lính chết trong khi tham gia những cuộc bạo loạn này! Con người không ngừng nhân danh Chúa để tàn sát lẫn nhau. Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta: “Sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa” (Ga 16,2).
Người Do Thái đã kết án Chúa Giêsu khổ hình thập giá. Người đã chịu chết trên thập giá để biểu lộ tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại. Trải qua hơn 20 thế kỷ, con người vẫn không ngừng ghen ghét sát hại những người tin Chúa. Thập giá ngày hôm nay vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử tệ bạc với nhau. Thập giá hiện diện nơi gia đình khi sự chung thủy và tình yêu bị phản bội. Thập giá hiện diện nơi cộng đoàn giáo xứ khi mọi người chia rẽ và thù ghét nhau. Thập giá hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử với nhau bằng mưu mô tính toán và ích kỷ hẹp hòi. Thập giá vẫn còn đó và chúng ta được mời gọi hãy mang thập giá cho nhau bằng cách hãy sống với nhau cách trung thực, nhân hậu. Đừng tăng thêm gánh nặng cuộc đời cho anh chị em mình, vì cuộc đời đã là một gánh nặng khó vác.
Trong bối cảnh xã hội vùng Trung Đông và trên thế giới hôm nay, chúng ta là những Kitô hữu được mời gọi hiệp thông cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta đang phải vác thánh giá. Sứ mạng làm chứng và tử đạo luôn luôn gắn liền với cuộc đời Kitô hữu. Đây đó trên thế giới này, luôn luôn có những cuộc tàn sát đẫm máu vì lý do sắc tộc hoặc lý do tôn giáo. Thế gian ghen ghét các môn đệ của Chúa, như họ đã ghen ghét và lên án tử cho Người. Người Kitô hữu chân chính là người biết nhìn lên thập giá để mỗi ngày, để nhận ra sự hiện diện của Đấng đã chịu treo trên đó, đồng thời cảm nhận tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngắm nhìn thập giá cũng giúp chúng ta tìm được sức mạnh để bước đi trong cuộc đời đầy gian nan thử thách này, nhờ đó mà chúng ta vững tin như Chúa nói với chúng ta: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho anh chị em chúng con đang chịu bách hại trên khắp thế giới. Xin Chúa thêm sức cho họ, để họ biết chiến thắng bạo lực bằng tình yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa giúp chúng con vác thập giá cuộc đời hôm nay, để nhờ ơn Chúa, chúng con cũng biết vác thập giá giúp anh chị em chúng con. Amen.
.
LẠY CHÚA, CHÚNG CON TÔN THỜ THÁNH GIÁ CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Giáo hội hàng năm, dành ngày 14 tháng 9 để mời gọi con cái mình cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để những người tin vào Chúa Giêsu tự hào và không có khóc lóc.
Cử Hành Với Niềm Vui
Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại người Do thái dùng làm hình khổ để đóng đanh Chúa Giêsu, nhưng Người đã biến nó thành phương thế để cứu độ thế gian. Từ đó, Thánh Giá trở nên Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, ban tặng cho con ngươi hồng ân tha thứ và mọi phúc lành. Vì thế, “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Chúa Giêsu : “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 8-11). Còn theo thánh Gioan thì Thánh Giá như là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14). Nên hôm nay Giáo hội cử hành lễ suy tôn Thánh Giá với niềm vui vì được ơn cứu độ.
Nhìn ngắm Thánh Giá, chúng ta sẽ khám phá ra câu chuyện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và cách riêng mỗi người chúng ta.
Câu chuyện tình yêu
Khi suy tôn Thánh Giá, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa với tất cả tình yêu, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào : “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), mặc dù biết trước Con mình sẽ bị đóng đinh, được giương lên cao khỏi đất như “Con Rắn Đồng” trong sa mạc. Thật là một sự hy sinh lạ lùng, không thể nào hiểu thấu, mà thánh Phaolô phải diễn tả bằng một cách khác để bổ sung: “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con Một của mình, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy.” (Rm 8,32). Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta, câu chuyện tình của Chúa Cha, chuyện tình của Chúa Con, câu chuyện của Thánh Giá. Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên“. Mầu nhiệm Thánh Giá diễn tả tình yêu vô bờ bến, tình yêu không thể nào mô tả được của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Trong lịch sử cứu độ, con rắn được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi (x.St 2,) và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc. Trong hành trình sa mạc. Dân chúng không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Chúa cho rắn bò ra làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Môsê sự tha thứ. Thiên Chúa lại truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây gỗ, để tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống. Thật là mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ : Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.
Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội.” Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc I ngày lễ chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Chúa Giêsu như là hình ảnh con rắn,” hiện thân của tội lỗi”, đã được giương cao lên để cứu độ con người. (x. Trích bài giảng lễ thứ ba n 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ VIỆC SUY TÔN THÁNH GIÁ TRỞ NÊN HỮU HIỆU?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là biểu hiệu (logo) của Thiên Chúa giáo, cũng như chữ Phạn của Phật giáo, trăng lưỡi liềm của Hồi giáo, hay búa liềm của Cộng Sản. Những biểu tượng này được những người theo tôn giáo hay học thuyết đó quí trọng và đề cao, điều đó cũng là lẽ thường tình. Thế nhưng người Công Giáo suy tôn Thánh Giá, tôn thờ Thánh Giá, chắc hẳn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải tôn thờ đau khổ và chết chóc, cũng chẳng phải tôn thờ một báu vật gợi nhớ một kỷ niệm xa xưa. Thập giá, mà họ thành kính gọi là Thánh Giá, là tất cả đối với họ, nói lên trọn vẹn niềm tin của họ và là niềm hy vọng duy nhất họ có. Tại sao vậy?
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn mạc khải vĩ đại nhất mà Thiên Chúa có thể vén lên cho trần gian. Đúng là toàn bộ cuộc sống của Đức Giê-su nơi dương thế là để nói lên có một điều mà nhân loại chưa từng bao giờ được nghe biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Tuy nhiên thập giá còn nói lên một điều khác còn sâu xa hơn nhiều: Thiên Chúa yêu tới độ đã chết cho chính nhân loại tội lỗi; “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13), “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng… Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:7-8). Suy tôn Thánh Giá là suy tôn một tình yêu vĩ đại. Người Do Thái lẽ ra đã phải ghi nhớ đến muôn đời hình ảnh con rắn đồng treo trên cây gậy, nói lên tình yêu trung thành của Đức Chúa Gia-vê đối với dân riêng, ngay cả khi họ bất trung và phản nghịch (không may là điều này đã bị họ lãng quên không biết từ đời nào rồi), thì người Công Giáo sẽ không ngừng đề cao Thánh Giá là vì vậy.
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn ơn cứu độ và niềm hy vọng của mình. Nơi Thánh Giá, họ hiểu ơn cứu độ được Thiên Chúa ban nhưng không cho con người, chứ không do bất kỳ công nghiệp nào của họ. Người suy tôn Thánh Giá đầu tiên và trọn vẹn nhất là thân mẫu Ma-ri-a đứng chết lặng dưới chân thập giá, người thứ hai (theo truyền thuyết lâu đời của Giáo Hội) chính là Ma-ri-a Mác-da-la ôm lấy chân thập giá… Sau đó là các môn đệ Gio-an và Phê-rô v.v…; mỗi người một kiểu, họ đều biểu dương thập giá như nguồn ơn cứu độ và niềm hy vọng duy nhất của mình. Họ suy tôn Thánh Giá trong cảm nhận con người thấp hèn và tội lỗi, và chính thập giá lúc đó làm cho niềm hy vọng của họ bừng sáng lên.
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn một nếp sống hoàn toàn mới: yêu thương nhau… yêu thương tới cả kẻ thù (Lc 6:27-35) yêu thương như Thầy đã yêu thương (Ga 13:3-35). Họ biết rằng Thập giá là con đường hoàn thiện, không phải vì thập giá làm cho họ nên tốt hơn, giảm bớt phạm tội, cho bằng vì càng vào sâu trong thập giá – hay càng suy tôn thập giá với cả tâm hồn – cõi lòng họ càng dễ biến thành nhân hậu giống Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Qua suy tôn Thánh Giá, họ đi sâu vào một Thiên Chúa tha thứ, để càng dễ tha thứ; đề cao một Thiên Chúa không lên án, để họ càng không lên án những người anh em lỗi phạm; tôn vinh một Thiên Chúa không xét đoán, để họ càng không dám xét đoán những người anh em sống quanh mình (Lc 6:36-37). Đúng là không suy tôn Thánh Giá tôi không thể đạt tới sự thánh thiện đó như đức Giê-su mong muốn.
Giáo Hội luôn coi việc suy tôn Thánh Giá và cử hành Thánh Thể là trung tâm điểm của đời Ki-tô hữu; và điều đó thật là chí lý. Nhưng luôn có nguy cơ là tôi có khuynh hướng hạ thấp việc suy tôn đó xuống tầm một việc đạo đức mà thôi. Suy tôn Thánh Giá là một tuyên xưng niềm tin – cậy – mến thâm sâu nhất, và cần được biểu lộ hữu hình dưới hinh thức bí tích của cử hành Thánh Thể, rồi sau đó bằng chính đời sống hiện sinh của tôi trong cuộc sống thường nhật.
Tôi có thực thâm tín điều đó không?
Lạy Chúa Ki-tô thập giá! Xin giúp con biết suy tôn Thánh Giá Chúa bằng cả cuộc sống mình. Con muốn suy tôn Thánh Giá như Mẹ Ma-ri-a hay thánh Gio-an, nhưng cũng nhiều khi con lại dễ suy tôn như Mác-đa-la hay Phê-rô hơn. Dầu với biểu hiện nào đi nữa, xin cho đời con không ngừng được việc suy tôn này biến đổi từng ngày, trong việc nhận biết mạc khải tình yêu, trong niềm hy vọng đón nhận ơn cứu độ, và trong nếp sống hiền hòa với hết mọi người. A-men.
.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐAU KHỔ
Lm. Anthony Trung Thành
Đời là thung lũng nước mắt. Đời là bể khổ. Khổ thể xác. Khổ tinh thần. Đứng trước đau khổ, người ta thường than van, tuyệt vọng và thậm chí tìm đến cái chết. Họ tự tử bằng nhiều hình thức khác nhau : thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy lầu, nhảy cầu…Vì sao ? Vì người ta không giải thích nổi về vấn đề đau khổ.
Lẽ nào con người phải bế tắc trước đau khổ hay sao ? Không, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời thoả đáng. Ngài cho biết qua đau khổ mới tới vinh quang : « Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại »(Mc 8,31). « Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời »(Ga 3, 13-14).
Như vậy, đau khổ như là điều kiện để Chúa Giêsu bước vào vinh quang phục sinh. Đau khổ như là thành phần không thể thiếu đối với Chúa và đối với những người theo Chúa. « Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo».
Để hiểu rõ hơn về vấn đề đau khổ, nhất là để biến đau khổ thành vinh quang, trong ngày lễ Suy tôn Thánh hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu : Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ.
- Nguyên nhân đau khổ:
Có nhiều nguyên nhân gây nên đau khổ, xin được đơn cử một số nguyên nhân sau đây :
Đau khổ do tội : Sau khi phạm tội, Thiên Chúa đã cho Adong biết : «Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất» (St 3,17-19). Như vậy, phải làm việc cực nhọc và phải chết là do hậu quả của tội. Khi chọn tội con người chọn luôn sự đau khổ và cái chết.
Đau khổ do chính con người gây nên cho mình: Con người có quyền tự do chọn lựa. Có những chọn lựa đi liền với hạnh phúc, nhưng có những chọn lựa dẫn đến đau khổ. Một sự thiếu tiết độ, một tập quán xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hỏng một bộ phận, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, gây ra tai nạn, cắt đi một chi thể. Nghiện thuốc lá gây nên các bệnh như: rụng tóc, đục thủy tinh thể, da nhăn, giảm thính lực, sâu răng, ung thư da, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, loãng xương, bệnh tim mạch, vàng móng tay, ung thư phổi v.v. Uống rượu bia nhiều ảnh hưởng đến não bộ, cơ tim, tác hại với dạ dày, gan, ảnh hưởng đến tim mạch, huyết áp…Đó là những đau khổ do con người tự chuốc lấy cho mình.
Đau khổ do chính con người gây nên cho nhau : Con người sống là sống với. Không ai là một hòn đảo. Khi sống liên đới với nhau sẽ đem lại nhiều lợi ích, nhưng cũng có thể gây đau khổ cho nhau. Vì lòng tham và ích kỷ, không giữ đức công bằng, tình huynh đệ nên con người thường làm hại nhau : Ghen ghét, giết chóc, đàn áp, bóc lột, hận thù, bỏ vạ, cáo gian, đánh đập…chúng ta thấy rất rõ điều này trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội.
Đau khổ có thể do chính vũ trụ bất toàn : Động đất, bão lụt, hạn hán…gây ra biết bao đau khổ cho con người. Nên biết rằng : Thiên Chúa dựng nên con người với các vật khác, tất cả đều có quy luật của nó. Nếu không theo quy luật đó sẽ gây nên tai nạn, gây đau khổ cho con người. Ví dụ : Chiếc ôtô mất thăng bằng thì trúc, máy bay thì rơi, một vật không bám vứu được vào đâu thì rơi theo định luật vạn vật hấp dẫn và có thể làm bị thương người nào đi qua. Có những khuyết điểm hay những bất toàn của vũ trụ có thể gây đau khổ cho con người, nhưng chính chúng lại làm sáng tỏ sự hoàn hảo của Thiên Chúa. Và nếu so sánh thì những bất toàn và khiếm khuyết là không đáng kể đối với sự vận hành điều hoà nhịp nhàng của bộ máy vĩ đại, phức tạp và tinh vi của vũ trụ.
- Ý nghĩa của đau khổ :
Đau khổ do nhiều nguyên nhân, nhưng nếu biết lợi dụng thì nó sẽ đem cho con người nhiều ý nghĩa và lợi ích khác nhau:
Đau khổ chính là điều kiện cho sự sống: Đau khổ là tiếng chuông báo hiệu nhu cầu : dạ dày không đói thì làm sao biết để ăn, không ăn sẽ chết. Đau khổ báo động cho con người biết có nguy hiểm. Ta biết các cơ quan trong cơ thể đau để chữa trị. Biết đau ruột thừa để cắt bỏ. Biết bị ung nhọt để mổ. Biết một chi thể nhiệm trùng để chữa trị, thậm chí phải loại trừ khỏi cơ thể. Gần lửa chúng ta thấy nóng để tránh. Chân dậm phải vật nhọn thấy đau để biết cứu chữa…
Đau khổ là thầy dạy bác ái: Những người không gặp đau khổ, không biết nói về đau khổ, không hiểu và thông cảm cho người đau khổ. Còn những ai đã trải qua đau khổ thường hiểu người khác hơn, nên sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta nghe lời chia sẻ trước khi ra đi của một bác sĩ bị ung thư sau đây : «Cảm giác khủng khiếp! Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bệnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi! Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất… »
Đau khổ là thước đo niềm tin của con người : Thiên Chúa thường cho phép có thử thách để làm ích cho ta. Theo bản tính tự nhiên, không ai muốn đau khổ, thậm chí còn tìm cách để tránh đau khổ. Chúng ta có thể phàn nàn, kêu trách, khóc lóc khi gặp đau khổ giống như trẻ con khóc khi bác sỹ tiêm phòng. Nhưng, sau này khi lớn lên, nó hiểu bác sỹ làm thế là có lợi cho nó. Cũng vậy, thỉnh thoảng Thiên Chúa để ta gặp đau khổ, thử thách để tôi luyện ta, giúp ta có đức tin mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa đã từng dùng đau khổ để thử thách con người. Kinh thánh cho chúng ta thấy : Thiên Chúa thử thách ông Tôbia. Thiên Chúa thử thách ông Gióp. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy: biết bao nhiêu vị thánh, nhất là các thánh Tử đạo đã chứng tỏ niềm tin của mình khi trải qua đau khổ.
Đau khổ là thầy dạy khiêm nhường : Khi con người đạt được những gì mình có. Trở nên kiêu ngạo. Tưởng rằng mình làm được mọi sự, mình vạn năng. Sự đau khổ nhắc cho con người nhận ra rằng mình chỉ là tạo vật, có giới hạn, phải chết. Nhờ đó, con người sống khiêm nhường hơn.
Đau khổ là thầy dạy sự siêu thoát: Con người thường bám vào của cải vật chất, những thứ mau qua. Sự đau khổ, bệnh tật, cái chết nhắc nhở con người sẵn sàng dứt bỏ mọi sự để đặt niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.
Đau khổ để làm vinh danh Chúa:
Khi nghe tin ông Lazarô bị đau nặng, Chúa Giêsu đã nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa : qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”(Ga 11,4) Và khi người Do thái hỏi Chúa Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9, 3)
Như vậy, con người là học trò, đau khổ là thầy dạy. Đau khổ thực sự có ích cho con người biết lợi dụng nó. Đau khổ không những làm phương thế tinh luyện và thánh hoá con người mà còn để làm vinh danh Thiên Chúa.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được.
Câu chuyện nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: Chúng ta không thể diệt trừ đau khổ, nhưng có thể góp phần làm giảm bớt đau khổ bằng sức mạnh của yêu thương, công bình, bác ái, cảm thông…Ta không thể diệt trừ được đau khổ, nhưng có thể thắng được nó bằng cách chấp nhận mọi gian khổ thử thách để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,14-15). Chúa còn mời gọi “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34). Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng ta không tránh né đau khổ, nhưng đối diện với nó để biến nó thành phương thế cứu rỗi chúng ta và toàn thế giới. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Chiến thắng khải hoàn của Đức Giêsu Kitô khởi đầu bằng sự thất bại trên Thập Giá. Đó là một nghịch lý mà những ai không là Kitô hữu không thể hiểu nổi. Chân phước Charles Eugène de Foucauld (1858-1916, tu sĩ người Pháp) đã cảm nhận: “Thiên Chúa chỉ ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta khi chúng ta chấp nhận sự yếu hèn của mình”. Kỳ diệu quá!
Nghịch lý là những gì trái với quy luật tự nhiên hoặc những điều hiển nhiên được người ta công nhận là đúng. Tuy nhiên, trong triết-lý-sống của cuộc đời lại có những điều tuy là nghịch lý mà vẫn thuận chiều, không hề ngược chút nào – được gọi là “nghịch lý thuận”, và cũng có những điều là thuận lý mà vẫn nghịch chiều – được gọi là “thuận lý nghịch”.
Cuộc sống không chỉ phức tạp mà còn nhiêu khê lắm. Có khi sống cả đời mà chưa hiểu hết lý lẽ của cuộc sống. Đôi khi chúng ta vẫn cảm thấy khó hiểu với những điều thuận lý, huống chi với những điều nghịch lý.
Có thể nói rằng nghịch lý khá đa dạng, nhưng có vài dạng phổ biến được người ta công nhận:
[1] Nghịch Lý Thời Gian (cũng gọi là Nghịch Lý Du Hành Thời Gian). Đó là là sự mâu thuẫn hợp lý hoặc đối nghịch trong các lý thuyết giả định cho rằng “du hành thời gian” trở về quá khứ là điều khả thi.
[2] Nghịch Lý Bản Thể. Đó là sự tồn tại của một vật thể hay sự xuất hiện của một sự kiện bởi vì có ảnh hưởng ngược lên nó bởi các sự kiện xảy ra trong tương lai của nó.
[3] Nghịch Lý Tiền Định (còn gọi là Vòng Lặp Nhân Quả). Đó là nghịch lý du hành thời gian thường được sử dụng trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng.
[4] Nghịch Lý Ông Nội. Đó là một sự kiện ngăn chặn một sự kiện xác định xảy ra trước đó bằng cách ảnh hưởng ngược lên sự kiện trước đó.
Triết lý là điều không dễ hiểu. Triết lý sống càng nhiêu khê và khó hiểu hơn nhiều. Có lẽ chẳng mấy ai như Thánh Phaolô, vì ngài có một ước muốn khiến chúng ta cảm thấy “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã ư? Đúng là quá ngược đời!
Một vị khác có ý tưởng cũng “không giống ai” là cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624 – 15/1/1679), vị thừa sai người Pháp. Ngài cũng yêu thích Thánh Giá nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có “sở thích” kiểu đó!
Là Kitô hữu, chúng ta không xa lạ với thập giá, vì bắt đầu đủ trí khôn là chúng ta đã nghe nói tới. Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.
Sống là đấu tranh, là “tránh đâu”, và sống là phải có trách nhiệm, không thể ung dung tự tại, vô tư và vô cảm. Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm!
Sự tự nguyện có giá trị hơn sự miễn cưỡng. Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.
Phần thưởng là gì, phần thưởng ở đâu? Thánh Phaolô minh định: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành NÔ LỆ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Đó là động thái hoàn toàn tự nguyện, không miễn cưỡng. Thánh nhân cho biết thêm: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Cuộc sống của chúng ta, các Kitô hữu, cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để “chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực nào thì phải khổ luyện không ngừng.
Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều điều tất yếu mà thú vị: Những người viết lách mà không viết thì bị “xuống tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. Không khổ luyện không thể hy vọng có ngày thành công và hữu ích cho đời!
Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động trên thế gian này chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng ta, những người có niềm tin vào Đức Kitô, luôn nhắm tới một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên Đàng – Nước Trời. Không đạt được “phần thưởng” này là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của Đức Kitô, là từ chối Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác định: “Tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Tất nhiên mỗi chúng ta cũng phải quyết tâm như vậy!
Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13), phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm! Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ, đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ mới biết thương người khác.
Hằng ngày tự khổ luyện mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể thanh thản ngồi rung đùi theo nhịp khổ của người khác. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng vẫn phải nhai, nuốt và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt, mệt mỏi lắm!
Hạnh phúc nào mà không có hy sinh, chiến đấu, cố gắng? Có gian nan mới thành nhân, có khốn mới nên khôn, có thất bại mới biết cố vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (tục ngữ Việt Nam). Ông Thích Ca Mâu Ni được người ta kính trọng, được tôn là Phật, vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân cũng đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn vinh cũng đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!
Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “khó đến thân”. Kinh Phật có câu: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về bản ngã trong nội tâm”. Cái khổ từ nội tại nhiều hơn từ ngoại tại. Khổ vây tư bề, không thể trốn thoát, vì “đời là bể khổ”. Muốn thoát khổ thì phải đi “xuyên qua” nó. Có nhiều lúc chính chúng ta tự làm khổ mình chứ không ai khác. Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta lại không đáng hơn chim sẻ ư?
Thật phúc thay cho người ở trong Thánh Diện và luôn được hát mừng Thiên Chúa. Nhưng muốn vậy thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví với bất kỳ thứ gì – dù quý hiếm nhất – ở thế gian này.
Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nhận định: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm). Điều đó nói lên sự hạnh phúc của cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh Vịnh so sánh và quyế tâm: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).
Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành” (Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Thánh sử Luca cho biết rằng, vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” (Lc 6:40). Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!
Và Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian không thiếu loại người này – dù mức độ khác nhau, thế nên Ngài rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng là bồ dao găm”.
Không sống giả nhân giả nghĩa, luôn sống trong sạch và cương trực, đó cũng là một cách “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà LÊN ĐÓ ĐỂ… “CHẾT”. Chết thật chứ không chết giả!
Thập Giá là án tử, nhưng Thập Giá lại trở nên “chìa khóa” mở cánh cửa của Sự Trường Sinh. Thập Giá là nghịch lý, nhưng không hề trái ngược. Và rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Ai dám NGƯỢC với thế gian thì được THUẬN với Thiên Chúa. Thật là trên cả tuyệt vời!
Việt ngữ thật chí lý: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để nên THÁNH. Chắc chắn ai cũng phải trả cái giá này mới khả dĩ vào Nước Trời vậy.
Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin ban thêm lòng can đảm cho con để con có thể dám sống “ngược đời” như Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đã tiên phong nêu gương, giúp con biết yêu Thánh Giá, sẵn sàng chết cho tội mình, chết vì chân lý và công lý. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Antôn
Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”
Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.” Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Ki-tô, và được mời gọi suy niệm mầu nhiệm Thánh Giá Chúa Kitô trong đời sống đức tin của chúng ta. Trước hết, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu nhắc nhở và bảo ông Ni-cô-đê-mô và tất cả mọi người chúng ta phải có một niềm tin mạnh mẽ và sâu sa. Chúng ta phải tin vào chính Chúa, là Con Thiên Chúa, và phải tin một cách vững mạnh vào Thiên Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúa Cha, vì tình thương yêu bao la và vô bờ bến, đã ban Con Một của Ngài xuống trần, để cứu chuộc nhân loại và ban cho chúng ta sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã khiêm nhường và vâng lời hy sinh mạng sống chết một cách nhục nhã trên thập giá, biến cây thập giá trở thành Thánh giá ban ơn cứu độ và đời sống vĩnh cửu cho nhân loại. Chúa Giê-su đã giải thích với Ni-cô-đê-mô rằng Con Người phải được treo lên như Môi-sen đã treo rắn đồng lên trong sa mạc, để những ai tin vào chính Người thì được sự sống đời đời.
Thật vậy, bài đọc một hôm nay kể lại việc Thiên Chúa trừng phạt dân Do thái chóng quên phép lạ to lớn, Thiên Chúa cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai-cập, và họ đã phạm tội kêu trách Chúa và Mô-sê khi họ gặp những khó khăn trở ngại trong hoang mạc. Vì thế, Thiên Chúa đã phạt cho rắn độc cắn chết nhiều người. Nhưng sau đó, họ đã ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã phán cùng Môi-sen: “Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo trên giá. Nếu ai đã bị cắn mà nhìn lên nó thì sẽ được sống.” Vâng lời Thiên Chúa, Môi-sen làm một con rắn đồng và treo lên một cái giá. Bất kỳ ai đã bị cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Thật vậy, rắn đồng là biểu tượng của Chúa Giê-su Kitô bị đóng đinh và chết trên Thánh Giá, để tất cả những ai nhìn lên và tin vào Người thì sẽ được ơn cứu độ và có sự sống vĩnh cửu. Vì vậy, Thánh Giá Chúa Ki-tô trở nên hồng ân và dấu chứng tình yêu cao cả nhất của Thiên Chúa dành cho con người nhân loại. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta, “Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Chúng ta nhận thấy, thập giá, từ một khí cụ ghê gớm, tàn ác nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành Thánh Giá, dấu chứng tình yêu vâng phục của Người và cũng là hồng ân tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Và cũng trong tình yêu này, Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta hãy vác Thánh giá của mình đi theo Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta phải ý thức và phải biết phân biệt giữa đau khổ và Thánh Giá. Là con người, tất nhiên mọi người chúng ta đều có những đau khổ phần xác và tinh thần như bệnh tật, tai nạn hay những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Là những người có đức tin, chúng ta nhận thấy trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta cũng có nhiều Thánh Giá và Thánh Giá hiện diện qua nhiều cách. Thánh giá trong đời sống Ki-tô hữu là những sự hy sinh và quên mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Thánh giá là những sự thiệt thòi và đau khổ vì đạo, vì Chúa và vì Tin mừng. Thánh Giá là tuân theo, sống hay thực hành lời Chúa dạy. Thánh Giá là có lòng bác ái và quảng đại vì yêu mến và lòng mong ước làm sáng danh Chúa. Chỉ những Thánh Giá này mới đem lại cho chúng ta và cho tha nhân ơn sủng tình yêu của Chúa và đời sống vĩnh cửu mà thôi. Khi đối diện hay gặp những Thánh Giá này, chúng ta hãy nhớ chính Chúa Giê-su cũng đã vác và chết trên Thánh giá, để đem tình yêu, ơn cứu rỗi và đời sống vĩnh cửu đến cho chúng ta và nhân loại. Tất cả chúng ta có tự do vác hay không vác Thánh Giá Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Suy tôn Thánh Giá Chúa Giê-su là chúng ta suy tôn tình yêu cao vời của Chúa, cũng như cảm tạ ơn cứu độ và hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu của Chúa cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin, để chúng ta can đảm và vui mừng vác Thánh Giá Chúa trong đời sống, để được kết hợp trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của đau khổ, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa cao cả hơn: đó là tình yêu cao vời củaThiên Chúa. Chúng ta cầu xin và luôn tin tưởng Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta vác Thánh Giá Chúa trong sự bình an với một niềm tin vững chắc Thánh giá sẽ đem tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu.
.
JB. Lê Đình Nam
Đối với người đời, hình ảnh thập giá là một điều gì đó đau đớn tột cùng và một sự thất bại thê thảm. Tuy nhiên, với người Công giáo thì khác, thập giá là biểu tượng của hy sinh, của tình yêu và vinh quang.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy tôn Thánh giá, tức là chiêm tình yêu tự hủy của Thiên Chúa dành trọn cho con người. Chính nơi thập giá ấy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và cánh cửa trong thân phận làm con Thiên Chúa được rộng mở.
Chúa Giêsu đã không chỉ tự hạ mình để đến với nhân loại trong thân phận con người. Nhưng hơn thế nữa, Ngài đã tự hiến thân mình trên cây thập giá để tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn đổ trên con người.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự ô nhục và thất bại thì ngang qua cái chết của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và đem lại vinh quang cho con người bằng một tình yêu vô vị lợi.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự đau khổ và vô cảm, thì ngang qua sự hiến thân của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự hòa giải và tình liên đới với Thiên Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự hận thù và chết chóc, thì ngang qua việc hy sinh mạng sống của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của một Đức tin tinh tuyền và một tình yêu son sắt mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại.
Thật thế, mỗi một người Công giáo luôn xác tín rằng, thập giá không phải là một kết thúc, nhưng là một sự bắt đầu. Thập giá không phải là sự yếu đuối nhưng là sức mạnh của tình yêu đến nỗi thí mạng sống cho người mình yêu. Và thập giá không phải là sự chết, nhưng hơn thế đó chính là sự sống mới của con người trong tư cách làm con Thiên Chúa.
Suy tôn Thánh giá là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa – Người là cội nguồn của tình yêu. Đây cũng là giây phút thiết thực để mỗi chúng ta nhìn lại hành trình sống chứng nhân tình yêu của mình đối với Chúa và tha nhân.
Trong một thế giới đang mải mê tìm kiếm vật chất như hôm nay, tình yêu dường như đang trở nên khan hiếm và rẻ mạt. Khi mà mọi thứ xung quanh đang được cung cấp một cách đầy đủ và tiện nghi hơn, thì xem ra tình yêu lại đang bị thiếu hụt và xem thường một cách trầm trọng.
Tình người đang được cân đong đo đếm bằng những lợi lộc vật chất và địa vị. Tình yêu nam nữ đang được xây dựng trên trên những quy chuẩn của tiền tài và dục vọng. Do đó, sự khủng hoảng đời sống gia đình đang trở nên báo động hơn bao giờ hết. Sự thờ ơ vô cảm trở nên lối sống chung của con người thời hiện đại. Và xã hội trở nên như một chiến trường của sự tranh giành, đấu đá và chỉ biết nghĩ cho riêng mình.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những đỗ vỡ đó chính là sự thiếu vắng tình yêu. Và cốt lõi của đó chính là sự đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa – Đấng đầy tình yêu thương.
Lễ Suy tôn Thánh giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Một tình yêu tự hạ để đến và sẻ chia với thân phận con người. Một tình yêu tự nguyện để đồng hành và thấu hiểu nỗi thống khổ của phận người. Một tình yêu tự hiến để hàn gắn tình nghĩa phụ tử của Thiên Chúa với con người.
Suy tôn Thánh giá không chỉ dừng lại ở việc nhận ra tình yêu hải hà của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta sống tình yêu đó một cách triệt để và cụ thể nơi cuộc sống hằng ngày. Để ngang qua đời sống chứng nhân đó, hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và giàu lòng thương xót đến được với nhân loại đang quặn mình trong đau khổ và tội lỗi.
Dẫu biết rằng dòng đời vẫn còn đó lắm vất vả gian truân, nhưng sẽ đẹp biết mấy nếu mỗi chúng ta biết dành tình thương cho nhau. Xã hội sẽ trở nên giá trị và bình yên hơn nếu mỗi chúng ta biết tôn trọng phẩm giá con người bằng tình liên đới và sẻ chia trong cuộc sống. Và tất cả điều đó sẽ được bắt đầu khi mỗi chúng ta biết nhìn lên Thập giá Đức Kitô, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa và thực hành tình yêu đó mỗi ngày trong đời.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ở đời người ta vẫn thường nói: Tu là cõi phúc – tình là giây oan. Thực ra , cuộc đời nào cũng có thập giá. Thập giá như là lẽ sống của cuộc đời. Có thập giá thoáng qua và cũng có những thập giá liên lỉ dài lâu. Có thập giá nhẹ nhàng mà mình tự nguyện vác lấy nhưng cũng có thập giá nặng nề mà mình phải gánh giùm tha nhân. Có thập giá khiến ta mệt mỏi nhưng cũng có thập giá khiến ta vui mừng.
Xem ra thập giá là tất yếu trong cuộc sống. Con người không thể trốn chạy thập giá. Và dường như chúng ta vẫn khuyên bảo nhau hãy can đảm đón nhận vì là ý Chúa, vì là điều tốt cho mình và cho tha nhân.
Tôi đã nghe người ta an ủi một người mẹ có đứa con duy nhất đang bị ung thư, với lời lẽ hết sức phó thác: “Thiên Chúa yêu thương chị lắm cho nên Ngài mới gởi Thánh Gía để thử thách chị đấy!”
Hoặc gặp một người bạn đang bị thất nghiệp, nợ nần chồng chất, vợ bệnh, con đau. Chúng ta thường khích lệ họ: “Người càng giỏi thì Chúa lại càng gởi khó khăn để mình vượt qua. Thế nên đừng sợ!”
Khuyên người thì dễ nhưng bản thân khi phải đối diện với thập giá lại không dễ dàng. Vì thập giá là đau thương, là tủi hận, nên đâu dễ đón nhận. Đón nhận thập giá là chấp nhận từ khước sự an nhàn, hạnh phúc cho bản thân để sống cho Chúa và đồng loại. Đón nhận thập giá là đón nhận sự ô nhục, và khinh khi của đồng loại.
Có lẽ chúng ta vẫn nhớ hình ảnh Thầy Chúa Giêsu vác thập giá lên đỉnh đồi Calve và chấp nhận chết treo trên cây thập giá. Quả thật Thập giá là “một ô nhục đối với người Do thái và ; là điều điên rồ đối với dân ngoại giáo”(1Cr 1,23).
Thế mà Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vác lấy cái ô nhục đó ! Vì đối với Thiên Chúa đó là dấu chỉ của sự chiến thắng “vì qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Và thập giá đối với Chúa còn có giá trị cứu độ vì “khi nào Ta bị giương cao lên, Ta sẽ kéo mọi người lên”.
Có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: “Thiên Chúa gửi thập giá hay thử thách đến cho tôi để làm gì vậy?”. Điều này chúng ta cũng phải hỏi: “Tại sao người ta cứ phải trải qua những kỳ thi, những cuộc trắc nghiệm, khảo hạch,… rồi mới lãnh được bằng tốt nghiệp trung học, đại học, mới được công nhận là bác sĩ, giáo sư, luật sư?”
Như vậy, thập giá là nhịp cầu để cho ta tiến lên và chắc chắn sẽ trưởng thành hơn khi vượt qua thập giá. Hơn nữa, thập giá còn cho ta được thông phần vào sự thương khó của Chúa để cứu độ bản thân và anh em. Khi chúng ta đón nhận thập giá trong đời là dịp để chúng ta dâng đau khổ hầu xin Chúa tha thứ những hình phạt cho bản thân chúng ta. Và dâng hy sinh đau khổ để xin Chúa nguôi cơn thịnh nộ giáng xuống địa cầu vì tội lỗi nhân loại. Như vậy, chúng ta đón nhận thập giá là vì Chúa và vì nhân loại. Và phải có cái nhìn như vậy chúng ta mới có thể vui vẻ lạc quan ngay cả khi khốn khó tư bề.
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta yêu mến người bên cạnh, người đồng hành luôn gây gỗ với chúng ta, có khi còn luôn thù ghét chúng ta?
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta hy sinh chu toàn bổn phận hằng ngày để đem lại hạnh phúc cho gia đình?
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta có thể đón nhận biết bao nghịch cảnh trái ngang đến với chúng ta như: bệnh tật, hiểu lầm, già yếu, ganh ghét, chê bai. . .
Mỗi người đều có thánh giá phải mang. Nhưng Chúa sẽ không bao giờ trao thánh giá vượt khả năng của chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy tin tưởng đón nhận mọi khó khăn vì Chúa, nhất là hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để vượt qua.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn tìm ra ý Chúa trong cuộc sống và đón nhận theo thánh ý cho dù có vì đó mà phải vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Dân Chúa kinh nghiệm về tội của mình đối với Đức Chúa trong dòng lịch sử, và những suy tư về kinh nghiệm này đã làm cho Dân Chúa khám phá bản chất của tội. Suy tư này được trình bày bằng ngôn ngữ biểu tượng trong trình thuật St 2-3, mặc khải cho chúng ta bản chất hay yếu tính của tội, nghĩa là cái có mặt trong mọi thứ tội. Và mọi tội đều tự nó có “nọc độc” gây chết chóc cho mình và cho người khác.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Ki-tô (Ga 3, 14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12, 7-10). Các trình thuật này nêu ra cho chúng ta ba câu hỏi:
– Tại sao lại là rắn ?
– Tại sao Con Người cũng sẽ phải được giương cao, như con rắn đồng trong sa mạc ?
– Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?
1. Tại sao lại là con rắn ?
a. Nghi ngờ Thiên Chúa
Đi trong sa mạc trong một thời gian dài, thiếu ăn thiếu uống. Đó là một thử thách rất thật và rất lớn, vì của ăn của uống là nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Tuy nhiên, vấn đề là lòng họ hướng về đâu ? Họ tìm gì khi bỏ Ai Cập ra đi theo tiếng gọi của Đức Chúa dưới sự hướng dẫn của Mô-sê ? Nếu con tim của họ chỉ hướng về việc thỏa mãn những nhu cầu của mình thôi, thì tất yếu đến một lúc nào đó, họ sẽ mất kiên nhẫn. Bởi vì nhu cầu thì không có cùng tận.
Trước hết là nhu cầu của cái nhìn, họ đi theo Chúa dưới sự hướng dẫn của Môsê là nhằm để thỏa mãn cái nhìn. Vì thế, họ nhìn thấy bao dấu lạ, nhất là dấu lạ vượt qua Biển Đỏ khô chân, nhưng họ vẫn không chịu tín thác vào Đức Chúa (Tv 106). Chẳng lẽ Chúa lại phải làm cho họ dấu lạ mỗi ngày ? Ngang qua một vài dấu lạ, họ được mời gọi trao ban lòng tin, lên đường và đi đến cùng. Giống như, những người cùng thời với Đức Giêsu, chứng kiến bao dấu lạ Ngài làm, và chính ngôi vị của Ngài là một dấu lạ, thế mà vẫn cứ đòi dấu lạ từ trời. Lúc Đức Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, họ vẫn đòi dấu lạ: “xuống khỏi Thập Giá đi để chúng ta thấy, chúng ta tin”. Họ cứ nghĩ là thấy thì tin, đó là ảo tưởng. Bởi vì thấy, thì thấy một lần trong một thời điểm và nơi chốn nhất định; trong khi tin là tin vào một ngôi vị, tin suốt đời ở mọi nơi mọi lúc. Tin lúc Chúa ban dấu lạ ; và tin cả lúc Chúa không ban dấu lạ, như tác giả Thánh Vịnh nói: “tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề” (Tv 116, 10). Trong thực tế cuộc sống, như mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm, và chính Dân được Đức Chúa tuyển chọn cũng có cùng một kinh nghiệm, những ngày không có dấu lạ gì mới là nhiều ; và có những ngày, những giai đoạn đầy đau khổ và thử thách:
Tôi tự bảo : điều làm tôi đau đớn,
là Đấng tối cao chẳng còn ra tay nữa. (Tv 77, 11)
Hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta cũng thế, chúng ta nhận ra dấu lạ nào đó Chúa ban cho mình và chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu trung tín của Chúa và chúng ta đáp lại suốt đời ngang qua đời sống hàng ngày, những ngày rất đỗi bình thường cũng như những ngày đầy thách đố, khó khăn. Nhưng chúng ta cũng có kinh nghiệm này: khi tin rồi, chúng ta sẽ thấy mọi sự đều lạ.
Mà ham muốn nhìn cũng chính là ham muốn ăn: đói thì Chúa cho ăn; ăn manna một hồi thì thèm thịt, Chúa cho ăn thịt chim cút; ăn chim cút một hồi, rồi thì cũng chán: “chúng tôi chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Nhất là khi chứng kiến dân ngoại, họ ăn uống cao lương mĩ vị, dân sẽ càng thèm muốn hơn nữa. Những chuyện như vậy cứ lập đi lập lại nhiều lần: điều Ngài đã làm hôm qua, Ngài sẽ làm hôm nay không ? Đức Chúa có ở giữa chúng ta hay không? (Xh 17, 7) Làm sao « biết » được đây ? Ham muốn của cái nhìn, ham muốn của cái bụng, ham muốn của cái biết gặp gỡ nhau. Và cuối cùng, thái độ của con người được hình thành, khi kêu trách: « Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? » À ra như thế, Thiên Chúa muốn chúng ta chết, Mô-sê muốn chúng ta chết. Đó chính là thái độ « thử thách ».
Trong Kinh Thánh, câu nói “thử thách Thiên Chúa” mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là không tin Thiên Chúa: trong sa mạc, Dân Chúa thử thách Thiên Chúa đến 10 lần, nghĩa là lúc nào cũng thử thách Thiên Chúa, cũng không tín thác nơi Thiên Chúa (Ds 14, 22: thử thách 10 lần; Tv 106, 14); và tội nguyên tổ cũng là một dạng của hành vi thử thách Thiên Chúa, nghĩa là không tin Thiên Chúa không tín thác nơi Chúa trong thực tế cuộc sống. Vì thế, yếu tính của tội nguyên tổ, nghĩa là của mọi tội, là không tin nơi Thiên Chúa, không tín thác nơi ngài trong thiếu thốn, trong gian nan khổ đau của thân phận con người. Hành vi vi phạm giới răn chỉ là hệ quả của một thái độ nội tâm, quên ơn huệ và vì thế nghi ngờ Thiên Chúa.
Như thế, tất cả mọi sự Thiên Chúa đã làm cho họ trở thành vô nghĩa, thậm chí trở thành kế hoạch giết chết. Chúng ta hãy dừng lại đây thật lâu để nghiệm được hết mức độ nghiêm trọng của những lời dân Israen thốt ra đây. Đó là chính là thái độ nghi ngờ Thiên Chúa, và tội nghi ngờ Thiên Chúa tất yếu dẫn đến những hành vi gây chết chóc, gây chết chóc cho chính mình và cho người khác. Nghi ngờ Thiên Chúa, nên họ quay ra thờ ngẫu tượng, vì ngẫu tượng có vẻ “linh” hơn; “linh” có nghĩa là có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu, phát xuất từ lòng ham muốn ; ham muốn nhìn, ăn và biết của họ. Và vì nghĩ rằng mình được dẫn vào sa mạc là để bị bỏ mặc cho chết (trong khi mục đích của hành trình là Đất Hứa, nghĩa là Miền Đất Sự Sống trong Đức Chúa), nên họ nổi loạn ném đá toan giết chết Môsê (x. Xh 17).
b. Con rắn
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa : Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: « chẳng chết chóc gì đâu ! » Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình ; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc độc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước : « Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết » (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa : kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi : Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: « Chúa dựng nên con cách lạ lùng ».
2. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gio-an (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh «con rắn», biểu tượng của Tội và Sự Dữ:
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Theo lời này của chính Đức Ki-tô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là « Con Rắn » bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Ki-tô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) ; và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô : “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
– thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối;
– đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị;
– chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính;
– và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
3. Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.
Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.
Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Giá mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế. Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá còn mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phận con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.
.
THÁNH GIÁ: CON ĐƯỜNG ĐỜI SỐNG KI-TÔ
JM. Lam Thy ĐVD.
Trong bài giảng lễ Suy tôn Thánh Giá (14/9/2014), Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã huấn dụ: “Chúng ta thấy các bức họa đẹp đẽ về Chúa Giê-su trên thập giá, nhưng thực tế thì khác hẳn. Ngài bị giày xéo và đổ máu vì tội chúng ta. Đây là con đường mà Ngài đã đi để khuất phục con rắn. Chúng ta phải nhìn lên Thập giá Chúa Giê-su, không phải thập giá kiểu nghệ thuật, được vẽ đẹp đẽ, nhưng là thập giá thực tế. Và chúng ta phải nhìn vào con đường của Ngài, vào Thiên Chúa đã tự hủy mình, đã hạ mình để cứu chúng ta. Đó là một hành trình đòi hỏi, vào những lúc gian khó, và vào những lúc thử thách, nhưng như thế mới là cuộc sống! Đây là con đường của Ki-tô hữu. Nếu một Ki-tô hữu muốn tiến tới trên con đường đời sống Ki-tô, thì người đó phải ngã xuống, như Chúa Giê-su đã từng ngã xuống. Đây là con đường của khiêm nhường, đúng thế, nghĩa là người Ki-tô hữu phải nhận lấy sự sỉ nhục hạ mình như Chúa Giê-su đã từng. Nếu chúng ta muốn tiến tới “trên con đường đời sống Ki-tô”, chúng ta phải hạ mình xuống, như Chúa Giê-su đã làm trên Thánh Giá.” (nguồn: Vatican.net).
Nói “Thánh Giá là con đường đời sống Ki-tô”, Đức Giáo hoàng muốn nhắc nhở người Ki-tô hữu hãy “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô” (Mc 8, 34), mà muốn đi theo Người thì phải biết mộ mến và tôn sùng Thánh Giá, coi đó là kim chỉ nam cho hành trình vượt qua gian lao thử thách để tiến về quê Trời vĩnh cửu. Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Theo Giáo phụ Tertuliano – chuyên gia về Giáo sử – thì ngay từ thời Giáo hội sơ khai, các Ki-tô hữu “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Ki-tô hữu còn có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá. Thánh giá được suy tôn do một sự kiện trong lịch sử: Vào năm 326, sau khi tìm được di sản Thánh Giá thật, thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin, đã cho xây cất 2 đền thờ: một tại Núi Sọ Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem. Riêng tai Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem, Thánh nữ đặt cây Thánh Giá vừa tim được tại đó để mọi người kính viếng. Các đền thờ này được cung hiến ngày 13/9/335. Lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giê-su được lập ra để kỷ niệm ngày cung hiến đó, và ấn định lễ kính vào ngày 14/9. (nguồn: www.giaoducconggiaohdgm.org)
Cũng theo www.giaoducconggiaohdgm.org , còn một nguồn sử liệu giá trị khác về lễ Suy tôn Thánh Giá, đó là: Năm 614, dưới thời Hoàng Đế Héraclius I, những người Ba-tư xâm chiếm Giê-ru-sa-lem đã lấy mất cây Thánh giá do thánh Hélène tìm được. Héraclius đã nung nấu ý chí kiên quyết đấu tranh để lấy lại Thánh giá. Nhà vua đã cầu nguyện và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa thương chấp nhận. Năm 629, vua Héraclius đã đánh bại quân Ba-tư và trở về Constantinople trong tiếng hò reo, vui mừng của toàn thể dân chúng. Đón mừng chiến thắng, mọi người đều cầm trên tay cành lá ô-liu, với những bó đuốc chói sáng, cung nghinh Thánh giá thật của Chúa đã lấy lại được. Trong bầu khí khải hoàn, mọi người hân hoan triều bái, chúc tụng, tung hô, tôn vinh Thánh Giá.
Nhà vua vui mừng phấn khởi, quyết định rước Thánh Giá vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi tiến vào thành, trước khi lên núi Sọ, nhà Vua đã như tê dại đôi chân, không thể nào bước được. Giáo trưởng Zacharie hô to: ”Tâu Đức Vua, xin Đức Vua cởi bỏ bộ y phục sang trọng ra vì nó không xứng đáng với cảnh Chúa Giê-su khó nghèo, khiêm nhượng khi vác thập giá”. Vua Héraclius I liền cởi bỏ bộ xiêm y sang trọng và khoác vào người bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì, một phép lạ vượt ngoài sức tưởng tượng của con người đã xảy ra: Nhà vua bước đi một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân. Chưa hết, Thiên Chúa còn làm thêm nhiều phép lạ trong ngày vinh quang thập giá được tỏ hiện này, để minh chứng tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Kể từ đó, Giáo hội thiết lập thánh lễ Suy tôn Thánh Giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố trọng đại này. Đó cũng chính là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio (590–604) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ Sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương, tôn kính “Gỗ Thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian (“Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit”). Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy (“Venite adoremus”). Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, người Ki-tô hữu hãy nhớ đến ý chỉ chính của Phụng vụ là tôn vinh “Gỗ Thập giá”, chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giê-su.
Thánh giá nguyên là một hình cụ giết người, một biểu tượng của tội ác do con người tạo ra, trông giống như chữ thập “ 十 ” (số 10), nên được gọi là “cây thập tự” hoặc “thập tự giá 十 字 架 ” (cái giá treo hình chữ thập). Dân Do-thái (đứng đầu là “các kỳ mục, kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng” – Mc 15, 1) đã dùng hình cụ đó để giết Đức Giê-su, vì họ đã liệt Người vào hạng người có trọng tội cần phải trừ khử: “Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa… Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” (Lc 23, 2-5). Nhưng khi Tổng trấn Phi-la-tô – vị quan có thẩm quyền xét xử vụ án – nhận thấy Đức Giê-su không có lỗi lầm gì, ông muốn thả Người, thì đám đông không chịu và đồng thanh gào lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Cuối cùng, “Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” Đám đông lại càng say máu la lớn: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 23-25).
Không ai có thể ngờ được một dụng ý độc ác của con người lại được Thiên Chúa mạc khải thánh ý của Người: Đức Giê-su bị treo lên như vậy là Người vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha (cây gỗ đứng) dang rộng hai tay (thanh gỗ ngang) kéo mọi người lên. Cũng giống như tấm bảng viết INRI (Giê-su Na-da-ret – vua Do-thái) quân dữ đóng phía trên đầu Chúa Giê-su nhằm chế nhạo Người, thì lại cho mọi người biết chính dân Do-thái đã giết Vua của dân tộc họ, nói cách khác Vua Do-thái đã chết vì tội lỗi của dân mình. Ngoài ra, hình ảnh chữ thập cũng được con người dùng làm biểu tượng cho sự thu gom, cộng hưởng (dấu cộng: +), đầy đủ hoàn toàn (thập phần hoàn hảo); như vậy thì cũng có nghĩa là tập hợp các phần tử lại thành một mối, và nếu các phần tử đó là con người thì chẳng phải đây là dấu chỉ sự đoàn kết yêu thương nhau đó sao? Cây thập tự trở nên một dấu chỉ gom lại những kẻ tin, để quy về một mối trong yêu thương; như Lời Đức Giê-su phán : “khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.” (Ga 12, 32)
Rõ ràng từ một biểu tượng của tội ác, cây thập tự treo Chúa trên Núi Sọ năm xưa đã trở nên biểu tượng của Tình Yêu. Gọi thập tự giá là Thánh Giá chính là vì thế. Quả nhiên cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất mà Con Người bị treo trên thập giá đã truyền dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39). Một cách cụ thể, cây thập tự treo Chúa không những biểu hiện cụ thể hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, mà còn bộc lộ Lời Thiên Chúa mời gọi những kẻ tin hãy trở nên như một Thập Giá Chúa Ki-tô: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói cách khác, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Từ một cây gỗ bình thường đóng thành hình chữ thập (thập tự) làm hình cụ giết người nên được gọi là “thập ác” ( 十 惡 chữ thập độc ác chứa 10 tội nặng) sau khi thấm đẫm Máu của Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, đã biến ra “thập thành” (十 成 mười phần hoàn hảo); trở thành “hồng thập tự” ( 紅 十 字 chữ thập màu đỏ) và trở nên một biểu tượng cứu nhân độ thế mà cả thế giới – không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo – đều lấy làm biểu tượng cho tình yêu thương, lòng bác ái. Đó chính là tổ chức từ thiện quốc tế Hồng Thập Tự (Hồng Thập Tự hội: 紅 十 字 會 ; “Société de la Croix-Rouge” ; “Red Cross society” ; “Roseus Crux societas”).
Hai điều răn của Ki-tô Giáo đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa vêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” (yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực), thì tiên vàn phải biết “yêu người” (yêu người như chính mình), vì chỉ có “yêu người” mới thực sự là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
Giáo hội thiết lập lễ Suy tôn Thánh giá nhằm 2 mục đích chủ yếu: 1- Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa; 2- Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất. Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu phải ý thức khi suy niệm mầu nhiệm Cứu Chuộc thì hãy trực diện chiêm ngắm Thánh giá để được trực diện với chính hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Vâng, “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11). Và từ đó, hiệp ý cùng toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá, ngõ hầu đi vào Mầu nhiệm Tình Yêu bằng tất cả tâm tình con dân thảo kính Thiên Chúa là Cha.
Ngày hôm nay, nhìn lên Thánh Giá, người Ki-tô hữu đừng quên “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8). Tội ác loài người đã sản sinh ra hình cụ giết người khủng khiếp không những chỉ để giết hại lẫn nhau mà còn đóng đinh treo Con Thiên Chúa cho đến chết. Thú tính đó vẫn chưa dừng lại, càng văn minh, con người càng sản sinh khí cụ tàn độc giết hại lẫn nhau (khủng bố, chiến tranh bằng súng đạn, bom mìn hạt nhân, vũ khí hóa học… càng ngày càng ghê gớm quá sức tưởng tượng!).
Tóm lại, hình cụ thập tự giá nhờ nhuộm đỏ Máu Thánh Chúa Ki-tô đã thực sự trở nên một Khí Cụ Tình Yêu, một Khí Cụ Bình An (Kinh Hòa Bình) giúp người tín hữu chống lại ba thù, để sống chan hòa yêu thương với nhau. Xin hãy suy tôn Thánh Giá bằng tất cả tâm tình tri ân, sám hối và canh tân, nguyện cầu Thiên Chúa ban thêm lòng Tin để đáp trả được tình yêu vô lượng đó, đồng thời biết Cậy nhờ vào Thần Khí Chúa giúp củng cố thêm lòng Mến vốn dĩ rất mong manh yếu kém của mình. Hãy cầu xin Thiên Chúa đoái nhìn những thảm cảnh liên tiếp xảy ra trên thế giới này, từ những thiên tai (bão lụt, động đất, sóng thần…), đến những nhân tai (chiến tranh, khủng bố, thực phẩm giết người, nạo phá thai, hủy diệt trứng, tinh trùng…), nhất là thảm kịch “huynh đệ tương tàn bằng vũ khí hóa học” diễn ra khốc liệt. Hãy tha thiết cầu xin Chúa thương ban cho thế giới một nền hòa bình chân chính vĩnh cửu. Ước được như vậy.
Và xin cùng hợp hoan: “Thập giá vinh quang ngất cao trời xanh. Thập giá chứng nhân cứu độ người trần. Ơn giải thoát sức sống cao vời trên Thánh Giá chính Ngài đã dâng hiến cho trần gian. TK 1: Vinh quang của ta chính là Thập Giá Đức Kitô, cho con tôn thờ Thánh Giá suối mạch chan hòa. Để được phục sinh vinh quang cùng Thập Giá, nhận lãnh phúc ân cứu độ trong tình Cha. TK 2: Cho con thành tâm tôn thờ Thập Giá Chúa uy linh yêu thương nhân loại dang tay chết trên thập hình. Dạt dào tình thương hôm nao Người tận hiến, để cứu thoát con đưa về trong bình an.” (TCCĐ “Thập Giá Vinh Quang”).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Suy tôn Thánh Giá).
.
Jorathe Nắng Tím
Chẳng nói thì mọi người cũng biết : Thánh Giá là biểu tượng của niềm tin nơi người Kitô hữu, những người đi theo Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá và sống lại sau ba ngày từ cõi chết. Bên cạnh những người môn đệ này, có nhiều người không tin Đức Giêsu, nhưng không ngại đeo Thánh Giá trên mình, vì họ gặp được ở Thánh Giá nét đẹp thanh cao của tình yêu quên mình, và dấu ấn hy sinh của một tình yêu dâng hiến. Nhiều ngưòi khác chỉ mang Thánh Giá như một đồ trang sức làm đẹp.
Mặc dù Thánh Giá được nhìn dưới những lăng kính khác nhau tùy theo sự đón nhận của trái tim mỗi người, nhưng tất cả đều gặp ở Thánh Giá một biểu tượng chung của thất bại, khổ đau, chết chóc, không khác những người Do Thái đã coi Thánh Giá là “ô nhục, không thể chấp nhận”, người Hy Lạp cho là ngu xuẩn, và dân ngoại cho là điên rồ ( x. 1Cr 1,22-23)
Thực vậy, Thập giá không có gì hấp dẫn, lôi cuốn, vì đó là dụng cụ để thi hành án tử hình : tử tội chịu hình phạt đóng đinh trên thập giá cho đến khi tắt thở. Thập giá cũng chẳng có gì đáng tìm, đáng nhớ, vì trên đó chỉ có nước mắt đớn đau, và hình phạt đẫm máu, nên thập giá rất buồn, rất tủi, rất nhục, vì treo thân phận người thất bại, khổ đau, chết chóc. Và thập giá chỉ trở nênThánh Giá từ khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, “như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14 -15).
Quả thực, Thánh Giá là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu nổi. Hiểu sao nổi một Thiên Chúa lại chọn Thánh Giá để cứu độ nhân loại, trong khi Ngài toàn năng có thể chọn một cách cứu độ hoàn toàn khác, không bạo lực cực hình, không kinh hoàng đẫm máu. Hiểu thế nào được hình phạt ô nhục dành cho tử tội bị nguyền rủa, khử trừ, vì nguy hại cho xã hội loài người lại trở nên phương cách Thiên Chúa dùng để đem cho loài người ơn cứu sống. Hiểu làm sao được khi Thiên Chúa chọn cái điên rồ, ngu xuẩn đối với con người để biểu lộ sư khôn ngoan của mình (x. 1 Cr 1,17-25). Chính vì không hiểu nổi, không hiểu thấu mà Thánh Giá trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người. Người ta vấp phạm vì không chấp nhận Thiên Chúa yếu đuối như thế ; vấp phạm vì phẫn nộ trước một Thiên Chúa hoàn toàn bất lực trước bạo lực của con người ; vấp phạm vì tức giận Thiên Chúa đã không dùng quyền năng Thiên Chúa của mình mà xuống khỏi Thánh Giá ; vấp phạm vì trách móc Thiên Chúa đã để con người đóng đinh mình ; vấp phạm vì không thể chịu nổi một Thiên Chúa câm lặng dưới mũi giầy tàn ác của con người đang chà đạp, nghiền nát sức mạnh Thiên Chúa của mình. Vì vấp phạm, người ta từ chối nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của họ.
Ở đây, chúng ta chỉ chiêm ngắm thái độ của Đức Giêsu trước Thánh Giá, thái độ của một Thiên Chúa trước mầu nhiệm khổ đau của con người.
1.Trước đau khổ, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương :
Trước những người đau khổ vì bệnh tật đủ loại, Đức Giêsu đã không lý giải nguồn gốc của đau khổ, nhưng yên lặng cảm thương, chạnh lòng trắc ẩn. Ngài yên lặng trước mầu nhiệm đau khổ hơn là trình bầy một cách giáo khoa về đau khổ, hay phân tích một cách lý thuyết nguồn gốc của bất hạnh, bởi với Ngài, đau khổ là một sự dữ đang làm khổ con người mà Ngài thương mến và sự dữ ấy là do tội lỗi, nhưng tội lỗi đã vào thế gian và con người bắt buộc phải chịu hậu qủa của tội lỗi ấy. Trước tình huống chẳng đặng đừng, một tình trạng sẵn có, không thể thay đổi, thái độ yên lặng cảm thương, xót xa chạnh lòng là thái độ xứng hợp và đem lại ủi an nhất cho người đau khổ trong cuộc.
Yên lặng của Đức Giêsu không là yên lặng đồng loã, ủng hộ, nhưng là yên lặng tích cực, vì trong yên lặng, Ngài cảm thương thân phận, chạnh lòng xót xa và chân tình chia sẻ tất cả thử thách của người đau khổ. Đức Giêsu đã yên lặng tỏ lòng kính trọng niềm đau, nỗi khổ của người mình yêu, bởi đau khổ với Ngài là một mầu nhiệm.
Là mầu nhiệm, nên người ta không thể lý giải dễ dàng, cũng không thể cắt nghiã rành mạch, nên mọi ngôn từ đều bất lực trước mầu nhiệm khổ đau, mọi lý thuyết đều bó tay trước bất hạnh, chỉ có yên lặng cảm thương của “Thiên Chúa làm người” trước con người đau khổ, bất hạnh mới nói hết được giá trị và ý nghiã mầu nhiệm Thánh Giá của con người. Đức Giêsu đã luôn chạnh lòng cảm thương trong yên lặng kính trọng mầu nhiệm đau khổ ấy, mầu nhiệm mà chính Ngài đã sẵn sàng chia sẻ, dự phần, vì đó chính là Thánh Giá sinh ơn cứu độ.
2 . Trước Đau Khổ, Đức Giêsu đã yên lặng chấp nhận :
Nếu trước đau khổ của người khác, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương, chạnh lòng, thì với đau khổ của mình, Ngài đã yên lặng chấp nhận. Trong suốt cuộc tử nạn, có ai đã nghe được tiếng Ngài than thân trách phận, ngoài lời cầu xin thống thiết với Chúa Cha ở vườn Cây Dầu và trên Thánh Giá : “Lậy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này cho con” (Mt 26,39), “Lậy Cha, sao cha nỡ bỏ con?” (Mt 27, 46 ). Đức Giêsu đã yên lặng trước toà án, yên lặng vác Thánh Giá trên đường đến nơi hành quyết, yên lặng để bị lột trần truồng, yên lặng nằm cho lý hình đóng đinh, yên lặng chịu treo trên Thánh Giá, và yên lặng trút hơi thở trong niềm tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa Cha.
Qủa thực, Đức Giêsu đã không mồm loa mép giải tố cáo người này, lật tẩy người kia khi bị ức hiếp, hàm oan, cũng không lên án, nguyền rủa những người nguyền rủa, lên án mình, càng không trách móc Thiên Chúa đã để đau khổ hoành hành trong thế giới. Thái độ yên lặng ấy phát xuất từ ý thức đau khổ là mầu nhiệm sinh ơn cứu rỗi, và thái độ chấp nhận đau khổ là kết qủa của tinh thần vâng phục Thánh Ý mầu nhiệm của Chúa Cha. Vì biết mình đến để hiến mạng sống cho nhân loại được sống, Đức Giêsu đã hiểu Thánh Giá mang một giá trị cứu độ, và đau khổ là cái giá Ngài phải trả để mọi người được tha tội.
Như Đức Giêsu trước khổ đau của người khác đã yên lặng cảm thương, chúng ta cũng không thể làm khác những gì Chúa đã làm, bởi trước đau khổ của anh em, tất cả những lời hoa mỹ, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn từ đắc nhân tâm đều vô hiệu, và chỉ còn ngôn ngữ của trái tim, ngôn từ của đồng cảm, chữ nghiã của sẻ chia được biểu hiện bằng yên lặng mới có thể làm nhẹ nỗi đau, làm tan tủi nhục, và cất bỏ gánh ưu phiền nặng trĩu trong tâm can người anh em bất hạnh. Chính yên lặng cảm thương mới giúp cả ta cả người đi sâu vào mầu nhiệm đau khổ như nguồn ơn đổi mới, trở về, cứu sống. Và cũng như Đức Giêsu đã yên lặng đón nhận khổ đau của chính mình, chúng ta cũng phải với Ngài cam chịu đau khổ trong yên lặng để nhận ra mầu nhiệm cứu độ trong chính đau khổ mình chịu.
Yên lặng cảm thương người đau khổ, yên lặng đón nhận đau khổ không phải thái độ hèn nhát đầu hàng đau khổ, nhưng là thái độ của người vượt qua đau khổ vì nhìn thấy ở đau khổ Thánh Giá của Đức Giêsu với giá trị của mầu nhiệm cứu độ. Họ yên lặng vì được hiệp thông với đau khổ của Con Thiên Chúa và xác tín Thánh Giá của đời họ được tháp nhập vào Thánh Giá Cứu Độ của Thiên Chúa làm người, để rồi đau khổ được tháp nhập vào cây Thánh Giá nguồn Sống, Tình yêu và Hy Vọng ấy sẽ sinh hoa trái là Hạnh Phúc đời đời trong Nước Chúa.
Tóm lại, đau khổ của người khác hay đau khổ của chính ta đều mang giá trị cứu độ, khi hiệp thông với đau khổ của Đức Giêsu, cũng như Thánh Giá của anh em cũng như của ta đều mang lại ơn cứu độ cho ta và mọi người, nếu các Thánh Giá to nhỏ đó được đặt trong Thánh Giá nguồn ơn Cứu Độ của Đức Giêsu.
Xin Chúa cho chúng con xác tín mầu nhiệm của đau khổ, và giá trị cứu độ của Thánh Giá, để chúng con hiểu rằng có những hiểu lầm, vô ơn, kể cả hình phạt chúng con phải chịu cách bất công, sẽ trở nên ơn phúc cho chúng con và anh em chúng con, trong mầu nhiệm Thánh Giá của Chúa ; có những oan sai, vu khống chúng con bị người đời áp đặt lại là ơn bình an cho người khác và cho chúng con ; có những vô ơn, phản bội hằng ngày chúng con phải gánh chịu do chính những người chúng con yêu thương, đùm bọc lại cần thiết cho hạnh phúc của nhiều người, trong đó luôn có chúng con.
Và trong mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu, xin cho Thánh Giá chúng con mang vác, kéo lê mỗi ngày được trở nên ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, đặc biệt những người chúng con thương mến, thân quen, nhất là những người chúng con có bổn phận thảo hiếu, đền ơn, đáp nghiã.
.
Bông hồng nhỏ
Gần đến ngày lễ Suy tôn Thánh Giá, lòng tôi được Chúa mời gọi cách tha thiết và mãnh liệt hơn chiêm ngắm tình yêu của Chúa trên Thánh Giá. Khi nhìn ngắm Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá, tôi gẫm suy về tình yêu dâng hiến đến tận cùng của Ngài. Và rồi tôi được mời gọi bước theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh như lời mời gọi trong Hiến luật của Hội Dòng: “yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh giá và yêu Thánh Giá của Người cùng sẵn lòng đón nhận thập giá của bản thân” (x.HC 5).
Thánh Giá là dấu chỉ của người Kitô hữu, là biểu tượng của Kitô giáo. Khi làm dấu Thánh Giá, người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Đi ngang qua một vùng đất lạ, nhìn thấy Thánh Giá trên các ngôi mộ, hay trên tháp nhà thờ, tôi vui mừng vì những con người ở đây đã được nhận biết Chúa. Tôi bước vào đời đã được làm con của Chúa. Thánh Giá vị Linh mục thánh thiện đã ghi trên trán tôi ngày tôi được rửa tội, là dấu ấn tình yêu Thiên Chúa ghi dấu trên cuộc đời tôi. Kể từ đó, cuộc đời của tôi luôn gắn liền với Thánh Giá Chúa Giêsu-Kitô.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa Cha đã biểu lộ tình thương vô biên của Người như thế đó. Chúa Con khi xuống thế làm người, Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x.Pl 2,8). Vì lẽ đó, Thánh Giá trở nên dấu chứng tình yêu lớn nhất mà Chúa Giêsu-Kitô đã dành cho Chúa Cha và nhân loại. Còn tôi, kẻ được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, tôi sẽ làm gì để đáp lại tình yêu cao vời của Thiên Chúa?
Điều đầu tiên là tôi phải “tin vào Con của Người”, nghĩa là tôi sẵn lòng đón nhận tất cả mọi điều đến từ Thiên Chúa và Giáo hội của Người. Mỗi ngày tôi vẫn đến với Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể để gặp gỡ và ở lại trong Người, để qua Người tôi được biết Chúa Cha là Đấng luôn thương xót tôi. Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng, tôi tin và sống niềm tin của mình. Thánh Giacôbê Tông đồ đã quả quyết: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi yêu ai, người ta sẽ tin vào người ấy và đón nhận tất cả những gì đến từ người mình yêu. Tôi yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá là khi tôi dám đón nhận thập giá mình mỗi ngày. Hai điều này không tách rời nhau. Chẳng phải Chúa Giê-su cũng dạy rằng: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34b). Đứng trước một khó khăn, thách đố, theo lý trí tự nhiên, tôi sẽ chạy trốn. Khi phải từ bỏ ý riêng, phải đối diện với giới hạn của bản thân, tôi dễ bị rơi vào tình trạng cố chấp, xem mình luôn đúng, phủ nhận những giới hạn của mình, tự ru ngủ mình bằng sự bình an giả tạo. Chính lúc ấy, Chúa mời gọi tôi nhìn thẳng vào sự thật, hạ mình khiêm nhường để biết lắng nghe và đón nhận người khác với thái độ tôn trọng, và có trách nhiệm với chính mình. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã sống con đường nhỏ của mình, để cho Chúa Giê-su dẫn dắt như trẻ thơ. Tôi cũng được Chúa mời gọi đi trên con đường đó để biết bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa.
Điều thứ hai, đối với tôi, muốn theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh, tôi phải “yêu cho đến cùng”. Tình yêu đích thực có khả năng làm cho người ta vượt ra khỏi chính mình, vượt qua khỏi mọi nghịch cảnh để yêu cho đến cùng tận. Nếu tình yêu của tôi không đủ chân thành, không nồng nàn mãnh liệt, tôi sẽ sớm bỏ cuộc. Trong tình yêu, tôi học được sự kiên nhẫn. Nhìn ngắm Chúa Giê-su trên Thánh Giá, tôi tự hỏi: Vì đâu Con Thiên Chúa lại có thể tự nguyện buông mình cho loài người, chấp nhận một bản án bất công, để rồi chết trên cây thập giá? Trên Thánh Giá, Con Thiên Chúa đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (x.Pl 2,7). Tất cả chỉ vì một chữ “yêu”. Yêu cho đến cùng là sẵn lòng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, là chấp nhận từ bỏ chính mình, là hoàn toàn phó thác đời mình cho Chúa, là “để Chúa làm tất cả những gì Chúa muốn nơi tôi”.
Tôi có thể không thích Thánh Giá, vì Thánh Giá không mang lại cho tôi sự hưng phấn, sự hài lòng tức thời, nhưng vượt xa hơn thế, tôi sẵn lòng yêu Thánh Giá. Bởi chỉ khi yêu Thánh Giá, tôi mới có khả năng cảm thông, tha thứ, đón nhận người khác, dù họ là kẻ thù nghịch với tôi. Trong thing lặng của nội tâm và trong cầu nguyện, chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn tôi, giúp tôi yêu cho đến cùng như Chúa Giê-su.
.
THÁNH GIÁ LÀ NGUỒN TÌNH YÊU VÀ HY VỌNG
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư; ở Nghĩa Trang, trên nấm mộ…; Thánh Giá còn xuất hiện trên áo, trong khăn và khắc trên gỗ, trên đá…; người ta cũng đeo Thánh Giá trên cổ, trên tay…
Tất cả những điều đó diễn tả niềm tin, sự tôn thờ của của người Công Giáo, bởi vì, Thánh Giá là niềm vinh dự, là sự toàn thắng, là ơn cứu chuộc, là sự sống, là niềm hy vọng của chúng ta.
Khi người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, chắc chắn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải lưu ký một kỷ niệm buồn gợi lại sự đau khổ và chết chóc…
Nhưng Thánh Giá là tất cả, là trọn vẹn niềm tin, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.
Tại sao vậy? Thưa! Vì chính nhờ Cây Thánh Giá, mà chúng ta được cứu độ.
Như vậy, khi tôn thờ Thánh Giá, chúng ta suy tôn tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh.
1. Tôn thờ Thánh Giá là suy tôn tình yêu của Thiên Chúa
Khởi đi từ việc: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Từ “đến nỗi” cho thấy: Thiên Chúa đã yêu quá nhiều, yêu vô bờ và bao la, nhưng chưa thỏa lòng, nên còn một món quà duy nhất, cao quý, là tất cả của Thiên Chúa, nhưng Người sẵn lòng trao tặng cho nhân loại, đó chính là Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã làm toát lên sự khiêm nhường tột cùng khi vâng lời Thiên Chúa Cha và yêu nhân loại tha thiết, nên Ngài: “…vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Vì là hiện thân của Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, nên cả cuộc đời và lời rao giảng của Ngài đều nhằm diễn tả bản chất tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Đỉnh cao của mặc khải này chính là cuộc hiến tế trên Thánh Giá. Thật vậy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8).
Không chỉ trao ban tình yêu cách phổ quát, mà Ngài còn ban riêng cho mỗi người, khiến ai cũng cảm nghiệm được tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu dành cho. Quả thật, Ngài là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Không phải yêu có thời gian và số lượng, mà là tình yêu trường cửu: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31, 3); và: “Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung”(Tv 89, 34).
Quả thật, Thiên Chúa đã buộc Mình vào một tình yêu muôn thuở; Người tự tước đoạt tự do của Mình vì yêu thương chúng ta. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô, nơi Thánh Giá, đã trở nên “mới mẻ và sống động“.
Vì thế, đây là lý do thứ nhất để chúng ta suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô.
2. Suy tôn Thánh Giá, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ
Lý do thứ hai chính là vì niềm hy vọng và ơn cứu độ của chúng ta nơi Thánh Giá.
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy hình ảnh tiên trưng về Thánh Giá và ơn cứu độ qua cây gậy và con rắn đồng được treo lên.
Bài đọc I trình thuật việc ông Môsê dẫn dân ra khỏi Aicập và trên đường trở về Đất Hứa, dân Israel phải trải qua hành trình trong sa mạc. Trên hành trình ấy, dân đã nhiều lần bất trung, kêu trách Đức Chúa và trút tội lên đầu Môsê. Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện và cắn chết nhiều người. Thấy được sự bất trung và cảm nghiệm sâu xa về tội của mình đã phạm, toàn dân đồng loạt kêu cầu Môsê xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21, 8).
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã minh nhiên xác định hình ảnh này chính là Ngài khi nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14 – 15).
Thật vậy, mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ ngang qua Đức Giêsu, hẳn chúng ta không bao giờ được phép chối bỏ Thánh Giá bằng bất cứ giá nào. Ngược lại, luôn luôn hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa như bảo chứng của ơn cứu độ, bởi vì chính Đức Giêsu đã chọn Thánh Giá làm giá chuộc muôn người. Nhờ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã giải thoát thế gian khỏi xiềng xích tội lỗi, để từ nay, tội lỗi không còn quyền chi đối với Ngài và tất cả những người tin vào Ngài cũng được hưởng nhờ ân huệ đó.
Nếu từ cái chết trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã phục sinh, thì chúng ta cũng qua đau khổ, ắt chúng ta có niềm hy vọng được phục sinh như Ngài.
Nếu xưa kia, từ Cây Trái Cấm, mà Tổ Tiên loài người đã sa ngã, cửa Thiên Đàng đóng lại, thì nay nhờ Cây Sự Sống chính là Thánh Giá, cửa Thiên Đàng được mở ra và đón nhận tất cả những ai tin vào Cây Trường Sinh.
Như thế, Thánh Giá là biểu trưng cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của những ai đón nhận như nguồn ơn cứu độ. Đây chính là nghịch lý của Thiên Chúa và của cả chúng ta, vì: “Dân Do thái thì đòi phép lạ, dân Hy lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô trên Thập giá […]. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1Cr 1,18-25).
3. Suy tôn Thánh Giá, chúng ta học được bài học thứ tha
Cuối cùng, khi suy tôn Thánh Giá, chúng ta được mời gọi hãy: “yêu thương như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 13,3-35). Yêu như thầy là phục vụ vô vị lợi. Yêu như Thầy là hiến thân cho người mình yêu, không phân biệt bạn hay thù (x. Lc 6, 27-35). Yêu như Thầy cũng là tập sống bao dung, tha thứ, không xét đoán, giận hờn và luôn hướng tới sự thiện trọn hảo: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, bởi vì: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13).
Như vậy, yêu Chúa thì cũng phải yêu người. Lệnh truyền này không thể tách rời nhau. Nó luôn kết hợp với nhau cách chặt chẽ như thể thanh ngang và thanh dọc của Thánh Giá.
Kết hợp cả hai mới thành Thánh Giá, thì mến Chúa và yêu người phải luôn luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Thánh Giá Chúa rợp bóng trên cuộc đời chúng con, để chúng con được ơn cứu độ. Xin cũng cho chúng con học được bài học tha thứ của Chúa ngang qua Thánh Giá. Amen.
.
Anna Điểm Mười
Một buổi chiều nọ, sau khi tôi và một người bạn cùng ngồi cầu nguyện dưới tượng Đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng- Đinh, bạn tôi hỏi tôi rằng: “Nhìn lên thập giá bạn thấy gì?”. Vào ngày lễ Suy tôn Thánh Giá hôm nay, câu hỏi ý nghĩ ấy lại một lần nữa vang vọng trong tôi.
Với mắt phàm, nhìn lên thập giá tôi thấy một Giêsu thân trần trụi chịu chết tức tưởi. Trước kia còn nhỏ, tôi chẳng hiểu được vì sao người ta lại đóng đinh một con người trên cây thập tự ấy. Sau này tôi mới hiểu, thập tự giá là dụng cụ thời đế quốc Rôma dùng để thi hành án tử hình đối với những tử tội. Đối với họ hay đối với nhiều người thì cây thập giá ấy là biểu tượng của đau khổ, ô nhục, sợ hãi và chết chóc. Nhưng tôi biết rằng không chỉ dừng lại ở ý nghĩa đó, từ khi Đức Giêsu Kitô hiến thân mình trên đó, thập tự giá đã trở thành “Thánh giá”. Như vậy, Thánh giá trở nên biểu tượng tuyệt vời của hy vọng và tình yêu, của vâng phục và tự hiến, của sự sống và vinh quang.
Khi chiêm ngắm Dức Giêsu Chịu-Đóng-Đinh với cái nhìn đức tin như vậy, tôi hiểu Thánh giá chính là hiến tế của Đức Giêsu với tình yêu lớn nhất dành cho Chúa Cha và nhân loại. Đó cũng là biểu tượng ơn cứu độ mà Chúa đã hoàn thành trên thập tự giá vì nhân loại. Ngắm nhìn Thánh giá, tôi thấy một Đức Giêsu Kitô khiêm nhường thẳm sâu, đã từ bỏ vinh quang của Thiên Chúa, chấp nhận sống kiếp phàm nhân và vâng phục Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chiêm ngắm Chúa chịu chết đang khi dang rộng cánh tay như thể Ngài muốn ôm trọn tôi và hết mọi người vào trái tim đầy yêu thương của Ngài. Ngài đã chịu chết như thế để nêu gương cho tôi, Ngài mời gọi tôi yêu thương đến quên mình cho tha nhân. Thánh giá cũng mời gọi tôi can đảm chịu những hy sinh, yêu mến thập giá trong đời với tình yêu dành cho đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng-Đinh, đối tượng tôi đang bước theo trong ơn gọi Mến Thánh Giá. Đó cũng là lời mời gọi tôi sống tâm tình biết ơn bằng đời sống khiêm nhường, dấn thân vì Nước Trời giữa cuộc sống hôm nay. Sau cùng, Thánh giá nói cho tôi biết một chân lý qua lời của Thánh Phaolô rằng: “Vì chúng ta đã được nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta sẽ nên một với Người nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6, 3-5). Điều này nhắc nhở tôi, Chúa Kitô Phục Sinh đang sống trong tôi, Ngài đã chết, đã sống lại thì đến lượt tôi cũng phải chết đi cho tội lỗi để được sống lại như Ngài.
“Nhìn lên thập giá bạn thấy gì?” Đó cũng là câu hỏi tôi muốn nhắn gửi đến bạn trong ngày lễ Suy tôn Thánh giá hôm nay. Ước mong sao với câu hỏi này tôi và bạn lại có được một cơ hội để suy tư về mầu nhiệm Thánh giá Chúa, mầu nhiệm tình yêu cao vời Chúa đã dành cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tự nguyện chịu chết trên cây thập giá xưa để đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, chúng con xin hết lòng tri ân, cảm tạ Chúa. Chúng con xin Chúa giúp chúng con biết sống theo gương Chúa, biết sống yêu thương, quên mình cho tha nhân để tình yêu Chúa được lan rộng cho mọi người chúng con gặp gỡ, phục vụ và trên toàn thế giới. Amen.
Anna Cỏ may
Đứng giữa vườn hoa đua nở, ánh mắt tôi sáng lên, gương mặt rạng ngời. Lòng tôi cảm thấy nhẹ nhàng và tràn đầy sức sống. Khi đứng trước một thân cây không còn cành lá và được đóng thành hình thập giá, nơi đó, có một người đang bị đóng đinh trông thật kinh hoàng, lòng tôi run sợ và muốn bỏ chạy thật nhanh. Nhưng càng chiếm ngắm cây thánh giá trong thinh lặng, lòng tôi bừng lên một sự bình an, một sức sống dồi dào và một tình yêu bao la dành cho Con Người đang chịu đóng đinh. Đấng ấy chính là Chúa Giêsu.
Đối với người Do thái xưa, cây thập giá là cây dành cho những tù nhân vác đi đến nơi họ phải đến. Chúa Giêsu là người đã bị các Thượng tế và các Kinh sư kết án và nhận lấy một cây thập giá. Ngài vác thập giá trên vai, bước đi lên đồi Canvê đang khi thân xác đã bị nhừ đòn. Thập giá đã nặng lại còn nặng hơn bởi những lời nguyền rủa, xỉ vả của những kẻ ghét Ngài. Ngài đã vác thập giá đi đến cùng mà không một lời oán trách. Ngài dâng thập giá ấy lên Chúa Cha và nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm” (Lc 23,34). Nhờ sự thánh hiến ấy mà cây thập giá trở thành cây thánh giá mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Để những ai đang phải vác thập giá của mình mà nhìn lên Ngài, cùng tin yêu và phó thác vào Ngài, họ sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,15).
Nhìn lại những thập giá trong đời mình, tôi nhận thấy thập giá của mình rất nhiều, nó luôn ở xung quanh tôi và ở ngay trong tôi. Thập giá đến từ những nhu cầu của cuộc sống, đó là thập giá của sự ham muốn thái quá, những đam mê khiến tôi phải giằng co và nhiều thứ khác nữa. Thập giá mà tôi nhận thấy nơi mình rất nguy hiểm là loại thập giá do tôi tạo ra và loại thập giá ẩn sâu trong vỏ bọc thành công, tài năng và những tiện nghi. Loại thập giá do tôi tạo ra xuất phát từ việc bắt chước người khác. Mọi người mua cái gì tôi cũng mua cái đó trong khi nó không phải là nhu cầu cần thiết của tôi. Còn thập giá ẩn sâu lôi kéo tôi đến sự kiêu ngạo mà tôi không hay biết. Nhưng khi tôi biết dùng những thập giá đó vào việc chia sẻ, phục vụ cho mọi người và sống một tinh thần khổ chế, tôi sẽ không còn vác thập giá một mình mà cùng Chúa Giêsu vác thánh giá đi đến cùng trên con đường Chúa muốn tôi đi. Theo kinh nghiệm của Đức Cha Lambert de la Motte- Đấng Sáng lập dòng nữ Mến Thánh Giá: đời sống khổ chế là một đời sống biểu hiện tình yêu thực tiễn đối với thánh giá Con Thiên Chúa (x. ltt II,1). Vì vậy, tôi càng xác tín rằng, thập giá là nấc thang đưa tôi lên Nước Trời. Nếu tôi biết dâng những thập giá đó lên Chúa Giêsu, để Ngài thánh hóa, thập giá của tôi sẽ thành thánh giá vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, con chẳng say mê thánh giá và thường trốn chạy đau khổ. Nhưng từ khi đáp lại tiếng Ngài mời gọi, con đã bước vào Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Đức và sống theo linh đạo: chọn Đức Giêsu- Kitô Chịu- Đóng- Đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con, con mới khám phá ra sự tuyệt hảo khi vác thập giá đi theo Chúa là thế nào. Xin Chúa giúp con luôn trung thành vác thập giá theo Chúa mỗi ngày và biết vác đỡ thập giá cho mọi người xung quanh. Amen.