LỄ PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv 10, 34a.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9
———
1. Hãy trỗi dậy (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đón nhận ơn phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Bóng hồng trong sương (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
4. Ánh sáng hy vọng (JB. Lê Đình Nam)
5. Phục sinh (Lm. Trần Việt Hùng)
6. Suy niệm Lễ Phục sinh. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
7. Phục sinh của lòng thương xót (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
8. Ngôi mộ trống (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
9. Ngôi mộ trống- (Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt)
10. Tình yêu phục hồi sự sống (JM. Lam Thy, ĐVD)
11. Chúa đã yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
12. Người đã sống lại như lời Kinh thánh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
13. Nhịp cầu dẫn vào cõi hồng phúc (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
14. Gặp Đấng Phục sinh (Trầm Thiên Thu)
15. Ánh sáng cuối con đường (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
16. Sống tin mừng Phục sinh (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
17. Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục sinh (Lm. Đan Vinh)
18. Niềm tin Phục sinh (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Khi nói đến “trỗi dậy”, chúng ta thường liên tưởng ngay đến một người ốm đau liệt lào, hoặc một người bị ngã, rồi sau đó đã bình phục sau cơn bệnh, hoặc đã đứng lên sau khi vấp ngã.
Các tác giả Tin Mừng, khi diễn tả việc phục sinh của Chúa Giêsu, thường dùng động từ “Trỗi dậy” (tiếng Pháp là se relever) (x. Mt 27,63.64; Mc 16,6). Tuy nhiên, tại một số chỗ khác, các tác giả cũng dùng động từ “Sống lại” (tiếng Pháp là ressusciter) (x. Lc 24,7.46).
Tại sao có sự khác biệt này? Để đưa ra lời giải thích, trước hết, chúng ta cùng với các tác giả Tin Mừng khẳng định một điều: Đức Giêsu đã thực sự chết trên thập giá. Người đã được an táng trong mồ và sau đó Người đã sống lại. Theo thiển ý, khi dùng hai động từ khác nhau để diễn tả việc Chúa từ cõi chết sống lại, các tác giả muốn cắt nghĩa sự kiện theo hai chiều kích:
Trước hết, Đức Giêsu Kitô là “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Người làm chủ sự sống, là Đấng trao ban sự sống cho con người. Việc ra khỏi cõi chết là do Người chủ động. Trước đó Người đã tuyên bố: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18). Người đã “trỗi dậy – se relever” từ nấm mồ tăm tối, vì Người là Thiên Chúa quyền năng.
Tuy vậy, Đức Giêsu Kitô cũng là một con người thực thụ. Người đã chết và Chúa Cha làm cho Người được sống lại. Đức Giêsu là Người Công Chính, là Đấng Thánh được Chúa Cha yêu thương. Chúa Cha không để cho Người bị hư nát trong mồ, nhưng cho Người phục sinh. Khái niệm “Phục sinh – ressusciter” này được các tông đồ triển khai rộng rãi trong sách Tông đồ Công vụ, nhất là trong các bài giảng của thánh Phêrô (x. Cv 1,22). Vị Tông đồ đã quả quyết: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi” 2,23-25).
Cái chết và sự phục sinh của Người có ý nghĩa đối với chúng ta và đối với mọi nơi mọi thời. Từ cách giải thích trên đây, chúng ta suy tư đến sự “phục sinh” của người tín hữu. Không phải chờ đợi đến ngày “xác loài người ngày sau sống lại” vào thời tận thế, ngay ngày hôm nay, chúng ta đã được phục sinh với Chúa. Sự phục sinh này, vừa nhờ quyền năng của Đấng Tối cao, vừa do nỗ lực cố gắng của con người để “trỗi dậy”, bước ra khỏi tăm tối của cõi chết, vươn đến cõi sống vinh quang.
“Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Eph 5,14). Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi “trỗi dậy” từ cõi chết, tức là thoát ra khỏi lối sống cũ còn nhiều bất xứng và tội lỗi. Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi và giơ cánh tay cứu vớt chúng ta, nhưng nếu chúng ta không có thiện chí, thì không thể đón nhận ơn cứu thoát của Thiên Chúa. Trỗi dậy khỏi cõi chết, đó là một quyết định cần có sự can đảm đổi đời để tiến sang một ngã rẽ mới.
Như hai tông đồ Phêrô và Gioan ngỡ ngàng trước ngôi mộ trống vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, chúng ta cũng ngỡ ngàng vì dường như Đấng Phục Sinh vắng bóng giữa chúng ta. Nếu ngôi mộ năm xưa trống trơn, đó là vì Đức Giêsu đã sống lại, thân xác Người không còn ở đó nữa. Nếu hôm nay xem ra Người vắng bóng giữa chúng ta, là bởi Người là Thiên Chúa quyền năng không bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Qua việc Người trỗi dậy ra khỏi mồ, Người muốn chứng minh những lời Người rao giảng trước đó.
Một khi can đảm trỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta được hưởng sự sống mới. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Bài đọc I). “Thượng giới” và “Hạ giới” đang giằng co trong con người mỗi chúng ta. Sứ điệp của lễ Phục Sinh chính là lời mời gọi can đảm “trỗi dậy” với Đấng đã chết mà nay đang sống.
Đấng Phục sinh cũng trao phó cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho sự hiện diện của Người trong các cộng đoàn tín hữu (Bài đọc II). Như Thánh Phêrô tông đồ, mỗi chúng ta hãy ý thức sứ mạng ấy, để diễn tả gương mặt và giáo huấn của Chúa Giêsu phục sinh bằng chính ngôn từ và đời sống của chúng ta.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nên tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong một câu ngắn gọn: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Nhờ đâu các ngài đã thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại: Các ngài đã “cúi xuống nhìn vào ngôi mộ”. Khi cúi xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào “Ông thấy những băng vải còn ở đó”. Khi đã bước vào trong mộ, Ông “thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”.
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?
2) Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: “Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”, bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
3) Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Bóng hồng trong sương” với hình ảnh thật thi vị. Nhạc sĩ Tuấn Kim phổ nhạc. Giai điệu vui tươi phấn khởi. Lời thơ nhạc khởi đi từ câu chuyện Tin Mừng Phục Sinh. Maria Mađalêna đi thăm mộ từ sáng sớm tinh sương. Hình ảnh đẹp nên thơ “bóng hồng lay động sương mai, sương ướt đẫm bờ vai, đi tìm Thầy mà không thấy Thầy đâu. Nhìn ngôi mộ trống lòng nàng đau biết bao, bóng hồng khóc lóc kêu than, nàng trách lời ai áo trắng hỏi han… Bóng hồng hoan lạc bao la vì bóng hồng nay thấy Chúa Phục Sinh. Chúa truyền rằng đừng động đến mình Ta, về mau hãy nói là Ta đã sống lại”…
Maria Mađalêna và các phụ nữ là “những bóng hồng” chân yếu tay mềm nhưng can đảm lạ thường và chan chứa lòng mến. Trước khi rời nghĩa trang, họ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh sao?
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan khiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.
Câu chuyện tưởng đã ngủ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
- Nấm mồ mở toang
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
- Thấy và tin
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin” diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
- Ánh sáng bừng tỏa
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
- Chúa đã sống lại thật! Allêluia!
Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Hãy cùng với những “bóng hồng trong sương” hát lên khúc ca Allêluia với những nốt nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.
.
JB. Lê Đình Nam
Giây phút liêng thiêng đêm Vọng Phục sinh hôm qua đã cho ta một trải nghiệm sâu lắng về Mầu nhiệm Phục sinh. Sự khao khát đợi chờ trong bóng tối của chúng ta đã được tỏa sáng nơi ngọn nến Phục sinh. Đức Kitô phục sinh đã trở nên nguồn ánh sáng và niềm hy vọng cho mỗi một người chúng ta giữa những hụt hẫng, thất vọng.
Đức Kitô phục sinh là nguồn hy vọng của sự sống mới khi Ngài đã chiến thắng sự chết của tội lỗi và đưa con người trở về làm con Thiên Chúa.
Đức Kitô phục sinh là niềm hy vọng của một tình yêu vĩnh cửu khi Ngài biến đổi mọi hận thù, ghen ghét bằng lòng bao dung tha thứ.
Đức Kitô phục sinh là niềm hy vọng cho những tâm hồn hướng thiện khi chính Ngài là ánh sáng đã đến thế gian để xua ta mọi tối tăm của sự dữ.
Niềm tin của chúng ta không chỉ dừng lại ở cái chết đau đớn trên Thập giá của Đức Kitô. Nhưng hơn thế, chúng ta được mời gọi tuyên xưng niềm tin đó nơi Đức Kitô phục sinh – Ngài đã sống lại từ cõi chết. Thật vậy, Đức Kitô đã không dừng lại ở sự thất bại nơi cái chết nhưng đã trở nên niềm hy vọng chiến thắng nơi sự Phục sinh của mình.
Tin vào Đức Kitô Phục sinh tức là sống niềm hy vọng đó mỗi một giây phút trong hành trình Đức tin của mình.
Với mỗi một người Kitô hữu, giữa nhiều khó khăn và thất bại trong cuộc sống, chúng ta đã sống niềm hy vọng đó như thế nào? Hay ta đang đánh mất hy vọng, để rồi ta bất chấp tất cả, bỏ mặc tất cả. Ta mặc cho dòng đời cứ thế nổi trôi trong kiếp buồn vô định.
Cuộc đời dương thế vốn không dài. Trong hành trình cuộc sống ấy, phần nhiều lại là những đắng cay, chua chát. Nếu không có một tia hy vọng, cuộc sống ta sẽ chỉ là “tồn tại” cho đến hơi thở cuối cùng mà chẳng có chút ý nghĩa gì!
Thật thế, hy vọng về một điều tươi sáng sẽ giúp ta vượt thắng những đau khổ mà mình đang trải qua. Hướng về một mục đích phía trước sẽ khơi lên trong ta lòng khao khát và dấy lên trong ta sự cố gắng ở hiện tại. Niềm hy vọng sẽ là động lực để ta chống chọi với những thách thức của dòng đời và sẽ là “liều thuốc” giúp ta có thể tận hưởng cuộc sống giữa muôn vàn nghịch cảnh.
Khi ta sống trong hy vọng thì cũng đồng nghĩa với việc ta đang sẻ chia niềm hy vọng đó với người khác. Động lực của hy vọng đưa ta đến với họ, giá trị của hy vọng đưa họ đến với ta. Cuộc sống được đan kết giữa những hy vọng của phận người và nó sẽ trở nên luồng ánh sáng lớn lao chiếu rọi vào tương lai phía trước.
Niềm hy vọng là món quà Thiên Chúa ban tặng, hãy cất giữ nó trong mình cho cả hành trình cuộc sống. Hy vọng không chỉ hướng ta đến một tương lai tốt đẹp, nhưng còn đưa ta đến với cội nguộn của hy vọng là Đức Kitô phục sinh.
Chỉ có nơi Thiên Chúa, hy vọng của ta mới được đong đầy và tương lai của ta mới thực sự tìm thấy hạnh phúc trọn vẹn. Sống trong niềm hy vọng là động lực giúp ta sống đời sống hiện tại đúng nghĩa và là bước đệm vững chắc đưa ta đến với ngày mai.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Ngay từ sáng sớm đầu tuần,
Ma-ry cất bước, tới gần mồ chôn.
Thọat nhìn tảng đá cửa môn,
Lăn ra nằm cạnh, hết hồn thất kinh.
Chạy về loan báo sự tình,
Phê-rô chạy đến, tình hình ra sao?
Gio-an tới trước bước vào,
Cúi mình trông thấy, cao rao danh người.
Trong mồ khăn liệm một nơi,
Dây băng cuộn lại, để rời một bên.
Si-mon thổn thức bước lên,
Trong lòng rộn rã, như trên cõi trời.
Gio-an thị kiến cao vời,
Ông còn chưa hiểu, sống đời là sao.
Niềm tin nung nấu máu đào,
Ứng lời Kinh Thánh, hiến trao thân mình.
Giê-su sống lại hiển vinh,
Cao quang ngự chốn, thiên đình oai phong.
Vững tin đoan hứa trong lòng,
Tông đồ tiến bước, trông mong gặp Thầy.
Mùa Đông ảm đạm và giá lạnh đã qua đi. Chúng ta bước vào mùa Xuân với mặt trời chiếu sáng, khí hậu ấm áp và các cây cối bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Các nụ hoa dần hé mở đón chào ánh dương. Ánh nắng chan hòa báo hiệu một mùa Xuân mới. Chúa Giêsu là mặt trời công chính đã xuất hiện. Ngài đã sống lại từ cõi chết. Alleluia.
Mừng Chúa sống lại khải hoàn, đây chính là tâm điểm của niềm tin Kitô Giáo. Chúa đã sống lại ra khỏi mồ. Sự kiện mồ trống rất quan trọng. Chúa không còn trong cõi chết và không chịu sự tan rữa. Thân xác Chúa biến đổi sáng láng. Thân xác Chúa không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian. Chúa đã sống lại thật, chứ không phải là hồi sinh.
Mahammaden muốn bày tỏ cho nhà truyền giáo Kitô những gia tài là kho tàng qúi báu của Đạo. Ngài nói rằng khi chúng tôi tới Mecca, chúng tôi thấy quan tài của Mahomed, vị sáng lập đạo. Nhưng khi những người tín hữu đến Giêrusalem, các ông chẳng thấy gì, ngoài ngôi mồ trống. Nhà truyền giáo đáp lại rằng đó chính là sự khác biệt. Mohamed đã chết và ở trong quan tài, tất cả hệ thống của tôn giáo và triết thuyết ở đó với ông. Còn Chúa Kitô sống lại, tất cả quyền lực trên trời dưới đất được trao ban cho Ngài. Ngài sống lại đời đời. Ngài đã ra khỏi mồ.
Sự sống lại của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta? Đây chính là cùng đích niềm tin của người Kitô hữu. Chúng ta biết con người có thể làm được nhiều sự thay đổi. Họ có thể chuyển đổi một số bộ phận trong thân xác con người, nhưng họ đành chào thua trước sự chết và sự sống. Một khoảng cách vô tận. Con người không thể lấp đầy. Chỉ có thập giá của Chúa có thể nối hai bờ vực thẳm. Chúa đã sống lại vì Chúa là sự sống bất diệt.
Sự sống của chúng ta cũng được bắt nguồn từ chính sự sống của Thiên Chúa. Từ hơi thở đầu tiên Thiên Chúa ban cho tổ tiên được tiếp tục ban phát từ đời này qua đời khác. Sự sống chính là một mầu nhiệm. Con người ai cũng ước mong được sống. Ước mong thầm kín đó được thể hiện trong ngày sau hết, khi chúng ta cùng được sống lại với Đức Kitô.
Chúa sống lại và cư ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúa hiện thân nơi khuôn mặt của Mẹ Têrêxa khi thăm viếng một người đàn bà nghèo đang hấp hối. Mẹ tắm rửa chuẩn bị cho bà về cõi đời sau. Khuôn mặt bà rạng rỡ trong niềm tin. Bà sung sướng ra đi gặp Đấng mà bà tin theo. Chúa sống lại không phải ngự trên trời cao. Chúa sống lại để ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Alleluia.
.
Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay, toàn thể Giáo hội mừng lễ Phục Sinh. Đây là biến cố quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là nền tảng niềm tin của mỗi Kitô hữu chúng ta. Biến cố này đã được báo trước và được củng cố bằng sự kiện ngôi mộ trống, những lần hiện ra và sự thay đổi nơi các môn đệ sau khi gặp Đức Giêsu Phục Sinh.
- Đức Giêsu phục sinh được tiên báo trước
Việc Đức Giêsu phục sinh đã được tiên báo trước nhiều lần và nhiều cách khác nhau:
– Câu chuyện ông Giona: Ông Giona được sai đi rao giảng cho dân thành Ninivê, nhưng ông đã không vâng lời Thiên Chúa, ông xuống thuyền vượt biển để trốn đi nơi khác. Thế rồi, một cơn cuồng phong nổi lên. Những người lái buôn cho rằng tại vì ông mà có cơn cuồng phong đó. Vì thế, ông bị quăng xuống biển, một con cá đã nuốt ông vào bụng và sau ba đêm ngày ông được thả lên bờ gần thành Ninivê (x. Gn 2,1-11). Ông cho đó là ý Chúa. Nên ông đã vào thành Ninivê để thi hành nhiệm vụ rao giảng.
Hình ảnh ông Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày rồi được thả lên bờ tiên báo việc Đức Giêsu ở trong mộ ba đêm ngày rồi sống lại.
– Biến cố Đức Giêsu tẩy uế đền thờ (x. Ga 2, 13-22). Tin Mừng Thánh Gioan cho biết, khi Đức Giêsu thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Ngài nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Người Do thái hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.”
Thánh Gioan còn giải thích thiêm rằng: Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
– Đức Giêsu phục sinh kẻ chết: Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu đã phục sinh cho con gái ông Giairô (x. Mc 5, 21- 24. 35- 43), cậu con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7, 11- 17) và ông Ladarô (x. Ga 11, 1- 44). Việc làm này cho chúng ta thấy Đức Giêsu làm chủ cả sự chết lẫn sự sống. Ngài dùng quyền năng của mình để làm cho kẻ chết sống lại thì Ngài cũng có thể dùng quyền năng để tự cho mình sống lại. Việc Đức Giêsu phục sinh kẻ chết báo trước việc Ngài sẽ phục sinh sau này.
– Đức Giêsu tiên báo về sự sống lại của Ngài: Ít nhất ba lần Đức Giêsu đã loan báo về sự chết và sự sống lại của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31; Mc 9,31; Mc 10, 33-34). Chính Ngài đã khẳng định với Matha rằng: “Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.” (Ga 11,25-26).
2. Ngôi mộ trống (x. Ga 20,1-9; Lc 24,1-12; Mc 16,1-8; Mt 28,1-8). Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về ngôi mộ trống của Đức Giêsu. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, chính ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Madalêna ra thăm mộ Chúa. Bà không thấy xác Chúa Giêsu đâu cả. Bà vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ biết. Nghe vậy, Thánh Phêrô và Thánh Gioan đã nhanh chóng chạy ra mộ. Tới nơi, hai ông thấy ngôi mộ trống như bà nói. Ông Gioan cúi mình xuống thì thấy “khăn liệm để đó.” Ông Phêrô thì “thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.” Đó là cái nhìn của thể lý, nhưng Thánh Gioan đã đi xa hơn cái nhìn của thể lý, Tin Mừng cho chúng ta biết: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8).
Tuy nhiên, sự kiện ngôi mộ trống chưa đủ thuyết phục các môn đệ và mọi người về việc Đức Giêsu sống lại. Bởi vì, bà Maria Madalêna vẫn nghi ngờ xác Đức Giêsu bị đánh cắp (x. Ga 20,2). Còn quân lính thì phao tin đồn rằng: “Ban đêm, đang lúc chúng tôi ngủ thì các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 14). Cho nên, niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu cần phải được cũng cố bằng những bằng chứng khác.
- Những lần hiện ra của Đức Giêsu
Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra nhiều lần, nhiều nơi với rất nhiều người. Ngài hiện ra với các môn đệ ngay chiều Chúa nhật Phục Sinh (x. Ga 20, 19-23). Cũng ngay ngày Chúa Nhật Phục Sinh, Ngài hiện ra với hai môn đệ đi làn Emmau (x. Lc 24, 36-42). Tám ngày sau, Ngài hiện ra với các môn đệ và bảo Tô-ma xỏ ngón tay vào cạnh sườn Ngài (x. Ga 20, 26-29). Rồi Ngài còn hiện ra nhiều lần nhiều nơi khác nữa. Thánh Phaolô cho biết: “Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.” (1Cr 15,5-8). Những lần hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh là bằng chứng về sự sống lại của Ngài.
- Sự thay đổi của các Tông Đồ sau Đức Giêsu Phục Sinh
Mặc dầu trong ba năm được sống bên cạnh Đức Giêsu, chứng kiến việc Ngài phục sinh kẻ chết, được nghe Ngài tiên báo về sự sống lại của Ngài, nhưng không dễ gì các Tông đồ đón nhận niềm tin đó. Ngay cả khi các phụ nữ về báo tin (x. Lc 24, 11) hay khi Ngài hiện ra đứng giữa các ông mà các ông còn kinh hồn sợ hãi vì tưởng là ma (x. Lc 24, 36- 43). Sau nhiều lần gặp gỡ, chuyện trò, thậm chí là được ăn uống với Đức Giêsu phục sinh thì các ông mới tin (x. Cv 1, 3- 4). Đặc biệt, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần ở Nhà Tiệc Ly, các Tông Đồ đã mạnh dạn làm chứng Đức Giêsu đã sống lại. Bài đọc thứ I, Thánh Phêrô đã nhân danh các Tông Đồ lên tiếng rằng: “Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.” (Cv 10, 34a. 37-43). Không những làm chứng bằng lời nói, các Tông Đồ còn làm chứng bằng sự bắt bớ, tù tội và cả cái chết.
Đức Giêsu đã sống lại, đó là niềm tin của mỗi Kitô hữu chúng ta. Niềm tin chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính, niềm tin chúng ta tuyên xưng trong thánh lễ mỗi ngày. Nhưng chúng ta không chỉ tuyên xưng niềm tin đó bằng môi miệng mà cần phải cụ thể hóa niềm tin đó vào trong cuộc sống hằng ngày. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất.” (Cl 3,1-2). “Không nghĩ đến những sự dưới đất” là gì nếu không phải là biết từ bỏ ma quỷ và những gì thuộc về nó. “Tìm kiếm những sự trên trời” là gì nếu không phải là sống niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày để được “xuất hiện với Người trong vinh quang.”(x. Cl 3,4).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã chịu chết để ban sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm làm chứng về sự Phục Sinh của Chúa, đồng thời biết sống làm sao để mai sau được xuất hiện với Người trong vinh quang. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phục Sinh, sự kiện vĩ đại về một con người đã bị đóng đinh trên thập tự giá tới chết và được mai tang trong mộ đá, nhưng đã trỗi dậy và ra khỏi mồ: đó quả là một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Sự kiện này đúng là nền tảng niềm tin của mọi Ki-tô hữu qua mọi thời đại, thế nhưng nó lại chỉ được cả 04 Phúc âm tường thuật cách quá tẻ nhạt và tầm thường. Thậm chí, nếu so sánh với việc Chúa Hiển Dung trên núi Ta-bo, tôi thấy tường thuật thiếu đến cả các chi tiết tối thiểu: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” ( Mt 17,2) Tất cả những gì được đề cập tới trong trình thuật phục sinh của các sách Tin Mừng chỉ đơn giản là ngôi mộ trống vắng và lời công bố giản dị: “Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi!” Đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu về điều này; và như nhiều tín hữu trong các đám rước Chúa Phục Sinh, tôi muốn bù đắp bằng một hình ảnh vinh quang hơn: hình tượng Chúa uy nghi giơ cao cờ chiến thắng khải hoàn, ung dung bước ra khỏi ngôi mộ với ánh sáng chói lòa, giữa các thiên thần thờ lạy và các tên lính khiếp sợ.
Chắc chắn Chúa Phục Sinh có khía cạnh thể lý: một Giê-su đã gục chết trên thập giá, đã được hạ xuống và tẩm liệm, được mai táng trong phần mộ, mà nay được loan báo là đã sống lại. Sự kiện thể lý này là nền tảng cho việc tuyên xưng một trong các tín điều căn bản nhất của Ki-tô giáo: “Tôi tin kẻ chết sống lại”. Nhưng theo cách diễn tả của các sách Tin Mừng, khía cạnh thể lý xem ra chỉ là thứ yếu. Cũng như trong cuộc khổ nạn của Đức Giê-su, các đau khổ thể lý, cho dầu có được mô tả cách sinh động tới đâu thì ý chính vẫn là nói lên tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Phục Sinh cũng vậy, biến cố (đúng hơn là lời loan báo) Đức Giê-su ‘không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi’, cũng phải nói lên được tình yêu cứu độ trong tất cả sức mạnh vô địch của nó: tình yêu của Thiên Chúa từ nhân đã dứt khoát và vĩnh viễn chiến thắng sự chết về mọi mặt, và sẽ tồn tại bất diệt.
Theo Kinh Thánh thì chết thể lý chỉ là một trong các hậu quả của tội lỗi, và là hình bóng của một cái chết khác còn tệ hại hơn nhiều (St 2,17). Đức tin Công giáo dạy rằng tất cả chúng ta đều đã chết trong tội và cần tới ơn cứu độ để hoàn lại cho ta sự sống. Trong số các hình ảnh được dùng để diễn tả tội lỗi, chết là hình ảnh rõ ràng và trung thực nhất. Qua các thời đại, con người muốn dùng các nghi lễ tôn giáo để hoàn lại cho mình sự sống mà tội đã lấy mất. Các hình thức hoàn lương, đền tội, tu luyện và khổ chế đều mang cùng một mục đích đó. Nhưng trong thâm tâm tất cả đều biết rằng: chẳng một ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa, cũng như chẳng ai có thể hoàn lại sự sống sau cái chết của tội lỗi ngoại trừ Thiên Chúa toàn năng (xem Ga 11,40-44). Ngày nay một số người (trong số đó có cả tín hữu – linh mục?) có khuynh hướng cho rằng tội chỉ là một yếu đuối, một cơn bệnh hay một khiếm khuyết nhất thời mà con người có nhiều cách để thắng vượt, nhiều cách để chữa trị, trong đó tâm lý học được coi như liều thuốc hữu hiệu nhất. Nếu tội chỉ là một căn bệnh cho dầu hiểm nghèo thì tác hại của nó cũng chỉ giới hạn. Cái chết thập giá của Đức Giê-su là một khảng định ngược lại: tội không chỉ dẫn tới cái chết nhưng thực sự là chết. Cũng vậy sự phục sinh của Người khảng định ơn cứu chuộc thực sự hoàn lại sự sống đích thực và toàn diện cho mọi người đã chết trong tội.
Cần bằng chứng Kinh Thánh ư? Dựa và câu khảng định của Đức Giê-su: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25) Phao-lô đã có thể xác quyết: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô lại còn lớn lao hơn biết mấy… ” (Rm 5,17), “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15,22). Như vậy, đối với một Thiên Chúa cứu độ, cho Giê-su Ki-tô sống lại từ cõi chết là điều nhất thiết phải làm, cũng thế nhất thiết không kém Người phải làm cho chúng ta, những kẻ tin, sống lại từ cõi chết. Trên Thập giá, Đức Giê-su đã mặc lấy cái chết tội lỗi của cả trần gian, mà chết thể lý của Người là hình ảnh cụ thể nhất, một đàng để mạc khải cho thấy Thiên Chúa yêu thương cứu độ ‘đến cùng’, đàng khác như một A-đam mới Người cũng trọn vẹn đón nhận tình thương cứu độ của Cha để được sống, “Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Phục sinh của Người là bằng chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa cứu độ vĩnh viễn chiến thắng sự chết dưới mọi hình thức, lòng nhân ái thần linh chiến thắng tội chết trong mọi chiều kích. Chính Đức Giê-su đã khảng định cách chắc nịch: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. ‘Sẽ’ đây nói lên một định luật chứ không phải thì tương lai: sống lại ngay bây giờ, chứ không chỉ trong ngày sau hết, sống lại trong ân sủng ngay tức thời chứ không chỉ trong ngày thế tận; cũng vậy ‘chết’ đây là về thể lý, nhưng còn quan trọng hơn nhiều là về mặt thiêng liêng. “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
Suy nghĩ như thế làm tôi hiểu ra rằng: chỉ nhấn mạnh về một Đức Giê-su Ki-tô phục sinh vinh quang về mặt thể lý rất có thể trở thành một lạc đề nguy hiểm. Vinh quang đích thực của Phục sinh, đồng thời cũng là sức mạnh vô địch của Thập giá chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Lòng thương xót của Người đã vĩnh viễn chiến thắng tội chết nơi con người: tình yêu đã chứng tỏ mạnh hơn cả sự chết, đặc biệt chết trong tội. Cho nên rõ ràng “nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8) trong tình yêu nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm thập giá và phục sinh không bao giờ được tách rời. Đó chính là sự Vượt Qua (Pasqua – Passover) của mọi Ki-tô hữu chúng ta, một mầu nhiệm sống động vĩ đại.
Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, xin cho con nhận biết tội đã làm con chết thực sự, để con nghiệm ra được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Kinh nghiệm về cái chết thể lý đã cho con phần nào thấy được lòng nhân từ của Chúa… nhưng đó cũng chỉ là hình ảnh mờ nhạt của một thực tế vĩ đại hơn nhiều: Đấng Cứu Độ không ngừng tiêu diệt sự chết nơi con để hoàn lại sự sống. Xin cho con không ngừng biết đón nhận ơn phục sinh trong suốt cuộc đời, bao lâu con vẫn còn yếu đuối sa ngã trong tội chết. Và chính trong sự kỳ diệu vĩ đại này, xin cho con (cùng với mọi tín hữu) cất cao lời ca ngợi lòng từ bi thương xót của Chúa hàng ngày và cho đến muôn đời. Amen .
.
Lm. G.B. Trần Văn Hào
Mầu nhiệm Phục sinh là nền tảng căn bản của niềm tin Kitô giáo. Thánh Phaolô đã xác quyết : “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi và đức tin của anh em hoàn toàn trống rỗng, và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trong tất cả mọi người (1 Cor 15,14-19). Vì vậy, toàn bộ đời sống đức tin của mọi Kitô hữu đều quy chiếu vào mầu nhiệm quan trọng này.
Chúa đã chỗi dậy
Tuy nhiên, trong cái nhìn hiện đại, việc Chúa sống lại không phải là một sự kiện mà con người dễ dàng chấp nhận. Người ta có thể nêu ra những nghi vấn dựa trên lý luận thông thường, đó là con người chúng ta sau khi đã chết thật sự, thì không thể sống lại. Nếu chỉ chết lâm sàng, tức là con tim tạm ngưng đập, và sau đó sự sống thể lý được phục hồi khi huyết quản được lưu thông, thì đó chưa phải là cái chết thật sự. Còn nơi Đức Giêsu, Đấng chúng ta đặt trọn niềm tin, là một ‘Thiên Chúa – Người’, cái chết đã thật sự đến với Ngài. Chúa đã chết trên Thập giá, được mai táng trong mồ ba ngày, và ‘đã trỗi dậy’. Điều này đã được các Tông đồ tận mắt mục kích và các Ngài đã can trường làm chứng, đặc biệt qua các chứng từ của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Chúng ta cần đào sâu về những chứng từ này.
Trước hết, sách Công vụ Tông đồ thuật lại rất nhiều lần những lời rao giảng của thánh Phêrô. Vị thánh Tông đồ quả quyết : “Họ đã treo Người lên cây gỗ và Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa cho Người sống lại và Người đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi và những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, là những kẻ được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại’ (Cv 10, 39-41).
Không phải chỉ thánh Phêrô mà tất cả các môn đệ đã đồng lòng xác quyết một việc đã xảy ra rất lạ lùng và khác thường. Họ không chỉ nói trên lý thuyết nhưng đã kể lại chính kinh nghiệm cụ thể mà họ từng nếm trải. Trong cộng đoàn Giêrusalem có rất nhiều nhân vật được Kinh thánh nhắc tới, như Phêrô, Maria Mađalêna, Salômê, Maria – mẹ của ông Giacôbê, bà Gioanna, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các môn đệ khác. Phải chăng, tất cả họ đều là những người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình ?
Cleopas trên đường đi Emmaus đã nói về cảm giác hụt hẫng : “Chúng tôi kỳ vọng Ngài sẽ là người giải cứu Israel (Lc 24,21)”. Maria Mađalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên : “Người ta đã lấy cắp xác Chúa tôi và mang đi khỏi mộ. Tôi không biết người ta để Người ở đâu”. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần tiên báo về việc Ngài sẽ bị giết chết, nhưng sau 3 ngày sẽ sống lại, nhưng các môn đệ ngơ ngác không hiểu, lại còn ra sức can ngăn. Chỉ khi các ông trực tiếp gặp gỡ ‘Đấng đã trỗi dậy’, đầu óc u tối của các ông mới được khai sáng.
Người ta có thể đặt ra giả thuyết và cho rằng có thể các môn đệ bị rơi vào ảo giác hay hoang tưởng, giống như một sự bù đắp về tâm lý. Đấng mà họ kỳ vọng đã không còn nữa, nên họ cố tạo ra một nhân vật huyền thoại theo trí tưởng tượng, giống như kiểu nói cường điệu hoá trong xã hội ngày nay ‘Vị lãnh tụ này hay anh hùng nọ… đời đời sống mãi’.
Đối với các Tông đồ và cộng đoàn Giêsusalem tiên khởi thì không bao giờ có chuyện đó. Niềm tin của họ là một niềm tin rất chắc chắn vì đã được trải nghiệm cụ thể. Họ đã tận mắt mục kích và đã làm chứng, cho dầu phải đối diện trước cái chết. Trong suốt hơn 20 thế kỷ qua, niềm tin đó được truyền thụ lại cho các thế hệ và cho chính chúng ta là con cháu các ngài ngày hôm nay.
Những người cổ đại thời Chúa Giêsu, cho dầu có vẻ ngây thơ và dễ tin, nhưng họ có rất nhiều kinh nghiệm về thế giới người chết và tiếp cận người sắp chết hơn những người Đông phương chúng ta hiện nay. Họ hiểu rõ thế nào là sự chết và những gì họ thuật lại không phải là những câu chuyện giả tưởng hay hoang đường.
Ngôi mộ trống.
Vào ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna là người đầu tiên đã đón nhận Tin mừng Phục sinh. Bà về báo cho Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa yêu dấu nhưng hai vị này ban đầu đã không tin, chỉ cho là chuyện vớ vẩn (Lc 24,11). Cuối cùng Gioan và Phêrô cũng đi ra, đến bên ngôi mộ trống và ngạc nhiên về sự việc trước mắt. Riêng Thánh Gioan đã ghi lại cảm nghiệm của chính mình : “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Dần dần các Ngài mới am tường, vì ‘Trước đây họ chưa hiểu rằng theo Kinh thánh, Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết (Ga 20,9).
Cuộc hành trình dẫn đến đức tin của các chứng nhân đầu tiên, khởi đầu bằng việc tiếp cận ‘ngôi mộ trống’. Hành trình này quả không giản đơn chút nào nếu chỉ đứng trên góc nhìn của khoa học thực nghiệm. Maria Mađalêna cùng hai Tông đồ Phêrô và Gioan đã đi sâu vào cảm thức đức tin vì họ đã biết trải lòng mình ra để cho ơn thánh tác động. Cũng vậy, hình ảnh về ngôi mộ trống năm xưa cũng rất ý nghĩa đối với chúng ta trong cuộc sống đức tin ngày hôm nay. Nó biểu thị một tâm hồn hoàn toàn rỗng tuếch khi không có Thiên Chúa ở trong đó. Đồng thời, hình ảnh này cũng gọi mời chúng ta phải biết cách làm cho tâm hồn của mình trở nên trống rỗng, để được Thiên Chúa lấp đầy. Sự khao khát đi tìm kiếm Thiên Chúa sẽ được Chúa cho no thỏa, nếu chúng ta biết chân thành chạy đi để kiếm tìm Ngài.
Kết luận
Buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, cũng phải trở nên một khởi đầu mới với ánh bình minh chiếu dọi để xua tan những chỗ u tối trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần tiếp bước dấu chân của Maria Mađalêna, của Phêrô và của Gioan, khi mặt trời vừa mới ló rạng (Mc 16,1) để đến với Chúa, và chúng ta sẽ tiếp cận được Đấng Phục Sinh trong cuộc sống đời thường của chúng ta mỗi ngày.
.
Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả trên những nẻo đường truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con” (Mt 27:46). Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.
Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã chỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Mađalêna và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu” (Gio 20:2). Ðiều này cũng làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.
Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Mađalêna và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Ðức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x Gio 20:1-10).
Thời gian là buổi sáng phục sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ấy, ta mường tượng các phụ nữa kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.
Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Golgotha. Nơi mà buổi chiều thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vã!
Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng vẫn còn là một nghi vấn. Nó có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?
Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Mađalêna và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng phục sinh không: “Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lại” (Gio 20:15).
Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quì một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.
Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc phục sinh không: “Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất” (Gio 20:3-5).
Ðời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Mađalêna. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô lẫn Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.
Ngôi mộ trống, tự nó, đã có chỗ đứng lịch sử trong biến cố phục sinh. Nếu nó đã bị phá hủy ngay đêm thứ Sáu do lính của La Mã thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc nếu đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới vẫn còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại vẫn còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy mà nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố phục sinh.
Nó cho chúng ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Chúa Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.
Nó còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Ðiều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến chúng ta lúc này, thì Ngài muốn nhìn thấy một tinh thần vượt qua từ mồ sâu tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến chúng ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn. Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong tội, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài phục sinh như Tông Ðồ Phaolô đã khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh” (Rom 6:5).
Ngôi mộ trống vẫn không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng vẫn im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng vẫn chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng phục sinh, với Maria Mađalêna, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa – Ðấng xóa tội trần gian – đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài phục sinh vinh hiển.
Cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày phục sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự sống lại của Chúa Kitô trong cuộc đời mình. Ðể được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đón nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, phục sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu phục sinh và vinh hiển.
Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra dấu chứng của Chúa phục sinh.
NGÀI ÐÃ PHỤC SINH
Các Thánh Ký khi nói về biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu đều diễn tả bằng những hình ảnh vui tươi và linh thánh. Sự vui mừng hiển lộ trên khuôn mặt của những phụ nữ mới sáng tinh sương ra thăm mộ.
Nỗi lo sợ, hồi hộp chen lẫn chút nghi ngờ của những phụ nữ này khi nhìn thấy tấm đá lớn che ngôi mộ được mở sẵn, thấy thiên thần trong mộ, thấy các dấu vết khăn liệm và khăn phủ mặt Chúa được cất xếp gọn ghẽ. Không những các bà, mà cả Phêrô và Gioan cũng có cùng một cảm nhận như vậy khi hai ông vội vàng chạy đến mồ sau khi đã nghe các bà kể lại những gì họ đã thấy và đã nghe. Tất cả đều làm chứng một điều là Chúa Giêsu đã sống lại: “Ðừng sợ. Các bà tìm Chúa Giêsu Nazaréth, người đã bị đóng đinh. Ngài đã sống lại. Ngài không ở đây. Hãy nhìn xem nơi đã an táng Ngài” (Mc 16:6). Thánh Luca đã nhấn mạnh với các phụ nữ ấy như sau: “Ðừng tìm người sống nơi kẻ chết” (Lc 24:5).
Chúa đã phục sinh từ cõi chết. Cũng như Ngài đã chết cho mỗi người và từng người chúng ta, Ngài đã sống lại cho tất cả nhân loại và cho mọi người. Ngài hấp hối trong vườn Giệtsimani, vì nhìn thấy tội lỗi nhân loại qua mọi thời đại xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị tra tấn, cực hành và đội mão gai trong dinh Philatô, vì muốn cảm nhận nỗi đau tột cùng và sự xỉ nhục mà con người xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài vác lấy thập giá, vì muốn mang vác tội lỗi nhân loại lên núi Sọ để thánh hiến và đền bù. Và khi Ngài bị đóng đinh vào thập giá, là Ngài đã đóng đinh tất cả những tội lỗi của nhân loại vào thập giá Cứu Ðộ, để Thiên Chúa không còn nhìn thấy mà tha thứ cho nhân loại tội tình. Nhưng khi Ngài sống lại từ cõi chết, là Ngài muốn phục sinh nhân loại trong đời sống ân sủng, tình thương và cứu độ.
Theo Thánh Phaolô, nếu Chúa đã chết là chết cho tội lỗi con người, mà nếu Chúa sống lại, là phục hồi sự sống trường sinh cho con người. Ðây là cốt lõi của mầu nhiệm Phục Sinh. Cũng theo Thánh Phaolô, nếu Chúa không sống lại như lời Ngài đã hứa, thì việc chúng ta tin vào Ngài đều trở thành vô nghĩa.
Nhưng Chúa đã chết, đã được mai táng trong mồ, và đã sống lại. Sự sống lại của Ngài là niềm vui, tin tưởng, hy vọng và sự sống cho những ai tin nhận ở nơi Ngài. Cái chết và sự sống lại của Ngài không những chỉ mang sự vui mừng, kinh ngạc cho nhiều người, nó chính là một mầu nhiệm sự sống đưa con người đi vào nguồn sức sống sung mãn của phục sinh. Nhân loại mãi sẽ đi trong tăm tối dưới quyền lực của Satan, nếu không được Chúa Cứu Thế cứu chuộc và giải thoát. Ánh sáng phục sinh của Ngài đã xua tan bóng đêm tội lỗi. Ánh sáng đó chiếu sáng tới đâu là có sự đổi mới về con người, và về tâm linh. Sự giải thoát mà con người nhìn thấy ngày nay không chỉ riêng về tâm linh, nó còn đưa đến sự đổi mới về xã hội và văn minh nhân loại. Nhờ tư tưởng và ảnh hưởng của Kitô Giáo, phẩm giá con người được đề cao, giá trị luân lý và đạo đức được củng cố, tình thương và bác ái được thực hiện giữa con người với con người, công bằng xã hội được phổ biến và tôn trọng.
Ảnh hưởng Phục Sinh còn trực tiếp đi vào cuộc đời và nếp sống con người trong mọi góc cạnh của môi trường gia đình, và xã hội. Nó là sức sống và sự đổi mới. Thiên Chúa không phải là Chúa của sự chết như lời Thánh Kinh đã nói. Ngài cũng không phải là Thiên Chúa của những tâm hồn chết trong tội lỗi. Ngài muốn hiển trị nơi các tâm hồn sống động, mang trong mình sức sống của Ngài như Ngài đã nói với Philatô: “Ta là vua. Ta đến trong thế gian này là để làm vua. Nhưng nước ta không thuộc về thế gian này” (Gio 18:36).
Mầu nhiệm Phục Sinh – Mầu nhiệm Ánh Sáng – phải là mầu nhiệm của sự sống đổi mới nơi mỗi Kitô hữu. Nó đòi hỏi chúng ta phải hòa nhập vào với sức sống mới, vào đời sống mới mà Chúa Giêsu đã phục hồi qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nhưng để được đổi mới, con người phải chết đi cho quá khứ tội lỗi và đam mê, dục vọng bất chính, nếu không biến cố Phục Sinh vẫn chỉ là một nghi vấn lớn lao không có câu trả lời của trí khôn con người. Hoặc nó cũng chỉ là một nghi lễ mang tính chất hình thức và tưởng niệm.
Nếu Chúa Giêsu không sống lại, thì niềm tin của chúng ta không có ích gì. Nhưng nếu Chúa đã sống lại mà chúng ta không sống lại với Ngài thì đời sống tâm linh, đức tin của chúng ta sẽ không giúp gì cho phần rỗi của chúng ta. Chúa Giêsu đã phục sinh. Ngài đã sống lại, chúng ta cũng phải phục sinh tư tưởng và nếp sống của mình sao cho phù hợp với Tin Mừng đã được loan báo. Sao cho phù hợp với ơn Cứu Ðộ mà Ngài đã đánh đổi bằng cuộc Nhập Thể và Tử Nạn của Ngài.
.
JM. Lam Thy
Trình thuật về hiện tượng Phục Sinh, cả 4 sách Tin Mừng (Mt 28, 1-8; Mc 16, 1-8; Lc 24, 1-11; Ga 20, 1-9) tuy có đôi nét khác biệt, nhưng nhìn chung đều thể hiện tính trung thực (phản ảnh sự thật khách quan). Đó là cảnh tượng các bà (bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê và các bà khác) đi ra mộ thấy tảng đá chắn cửa mộ đã lăn ra một bên, vào trong mộ thì không thấy xác Đức Giê-su. Các bà lo lắng hoảng sợ thì Thiên thần hiện ra và báo cho các bà biết Đức Giê-su đã sống lại. Nhưng khi về thuật lại cho các Tông đồ nghe thì các ông không tin. Hai môn đệ là Phê-rô cùng với “người được Chúa yêu” (Gio-an) chạy vội ra mộ thì thấy đúng như lời các bà đã nói. Tông đồ Phê-rô thì “rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra” (Lc 24, 12), còn môn đệ Gio-an thì “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8). Trước những hiện tượng và dấu chỉ ngày Chúa Phục Sinh, có ba nhân vật (bà Ma-ri-a Mac-đa-la, ông Phê-rô và “người môn đệ Chúa yêu”) nổi bật với ba nhãn quan khác nhau:
1- Bà Ma-ri-a Mac-đa-la thì cứ đinh ninh xác Chúa đã bị người ta đánh cắp nên hoảng sợ, ngay tức thì bà được thiên thần trấn an: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.” (Lc 24, 5-7). Sau đó, Đức Giê-su đã hiện ra với bà (“Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” – Mc 16, 9). Khi từ mộ trở về, Ma-ri-a Mac-đa-la hết hoảng sợ vì đã tin, liền cùng với các bà khác kể cho Nhóm Mười Một và mọi người biết tất cả những sự việc ấy, “Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin” (Lc 24, 11).
2- Con người bộc trực Phê-rô thì vẫn với nhãn quan bán tín bán nghi (nửa tin nửa ngờ), liền cùng với “người môn đệ được Chúa yêu” chạy đến mộ xem sự việc ra sao. Ông đã thấy đúng như lời các bà đã nói (tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên, ngôi mộ trống trơn không thấy xác Đức Giê-su đâu, các băng vải và khăn che đầu của Chúa được xếp gọn gàng), nên “rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra”. Rất đỗi ngạc nhiên thì chứng tỏ ông vẫn chưa tin, cũng chẳng hơn gì những kẻ “cho là chuỵên vớ vẩn, nên chẳng tin”. Thậm chí, đến lúc Đức Giê-su hiện ra với các ông và chúc “bình an cho anh em” thì các ông lại “kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37).
Với trường hợp Ma-ri-a Mac-đa-la thì có thể hiểu được, vì bà không ở liền bên với Đức Giê-su như các môn đệ thân tín của Người. Vả lại, với lòng kính mến thương yêu Người đã chữa lành cho bà căn bệnh bị quỷ ám, bà và các bà khác khi không thấy xác Đức Giê-su thì chỉ nghĩ là người ta đã đánh cắp, và đến khi được thiên thần báo cho biết Người đã sống lại, nhất là khi được Người hiện ra với các bà thì các bà đã yên tâm và mừng rỡ tin rằng đó là chuỵên hiển nhiên. Nhưng đến như Phê-rô và các môn đệ khác ở liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, ngày ngày được nghe lời dạy bảo, được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Thầy Chí Thánh đã làm; vậy mà vẫn còn bán tín bán nghi (khi thì coi Thầy mình đúng là Con Thiên Chúa, khi thì lại coi đó là ma), thì quả thật… hết biết!
3- Còn “người môn đệ được Chúa yêu” (Gio-an) thì “Ông đã thấy và đã tin”. Ông đã thấy và tin vào cái gì? Ông đã thấy mọi sự như Phê-rô; nhưng ông tin Đức Giê-su đã từ cõi chết trỗi dậy, vì ông là môn đệ đã nghe Lời Chúa giảng dạy bằng cả con tim và khối óc, nhất là khi đứng dưới chân thập tự còn được Người trao cho Đức Mẹ Thiên Chúa nhận làm con. Chỉ có con tim mới đọc được ý nghĩa của những bằng chứng tình yêu; nhưng chỉ với con tim thì cũng rất có thể có những nhận định, những phán đoán sai lầm, nếu thiếu một khối óc biết phân biệt thiện ác, đúng sai. Thực thế, nếu chỉ với con tim, thì bà Ma-ri-a Mac-đa-la và thánh Phê-rô không thua gì thánh Gio-an, nhưng vì chưa được Thánh Linh soi sáng cho khối óc thì vẫn có những sai lầm đáng tiếc. Chỉ đến sau ngày Lễ Ngũ Tuần, được Thánh Thần gột rửa tận căn con người phàm tục (như lời tiên báo của thánh Gio-an Tẩy giả: “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11), các môn đệ mới thực sự trở nên sáng suốt và dũng cảm đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ bằng cả con tim và khối óc, thậm chí bằng cả mạng sống của mình.
Như vậy là đã rõ, yêu Chúa nhưng trong óc vẫn còn phân vân, vẫn còn để ngoại cảnh chi phối, để rồi thì nhìn sự việc với nhãn quan bán tín bán nghi, thì chưa thể gọi là “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực” được. Nếu chỉ là “yêu Chúa hết lòng hết sức” thì vẫn chưa đủ; mà còn cần phải “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn” nữa. Nói đến trí khôn tức là nói đến khối óc biết nhận định, suy tư để nhìn ra được chân giá trị của vấn đề. Tóm lại, trước những hiện tượng của biến cố Phục Sinh, Đức Giê-su muốn dạy bảo các môn đệ, và nói chung là con người trần thế, hiểu rằng Thiên Chúa luôn muốn và sẵn sàng đến với con người bằng con đường mạc khải qua những dấu chỉ và hiện tượng thiên nhiên và bằng chính Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô. Và để đến với Thiên Chúa, đáp trả ân tình Người rộng ban, thì con người cần phải có một đức tin – một đức tin vững mạnh được xây dựng trong đức mến – và chỉ có như thế mới có hy vọng được cứu rỗi. Ấy cũng bời vì “Đức Tin ‘hành động qua đức ái’ (Gl 5, 6) trở thành một chuẩn mực mới giúp thông hiểu và hành động, làm thay đổi toàn thể cuộc sống con người.” (Tông thư “Porta Fidei”, số 6).
Tuy nhiên, là con người với thân phận mỏng giòn yếu đuối, thì cũng không thể ỷ vào sức mình để có thể có được những phán đoán chính xác trước muôn hình ngàn trạng của thế giới tự nhiên cũng như thế giới siêu hình. Vì thế, rất cần sự soi sáng và trợ giúp đắc lực của Thánh Thần, mà muốn có được cứu cánh ấy thì phải biết cầu nguyện. Vâng, “Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần” (Gđ 1, 20). Sẽ có một câu hỏi mà Người Thầy Chí Thánh sẽ hỏi khi người tín hữu cầu nguyện: “Anh em xin gì?”; xin hãy mở hết tâm hồn, hết trí khôn ra và khẩn thiết thưa: “Thưa, chúng con xin ĐỨC TIN”. Đó là điều tiên quyết, đừng hoài nghi nữa, đừng bán tín bán nghi nữa, nhất là đừng ỷ tài cậy sức của mình, mà hãy dốc lòng tin và cầu nguyện, nhiên hậu chúng ta sẽ được toại nguyện, bởi “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được” (Mt 21, 22), và “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7).
Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa – Người đã vì Tình yêu mà vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, rồi cũng vì tình yêu mà Người chấp nhận chịu khổ hình thập giá cho đến chết. Quả thật “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15, 13). Và cũng vì thế, Người đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển. Từ mầu nhiệm Phục Sinh, một chân lý bất biến được khắc hoạ: “Tình Yêu phục hồi Sự Sống”. Tóm lại, nếu đã hiểu “Sự Sống được Phục Hồi” là “Sự Sống Lại” (tức là “Phục Sinh”), thì phải tin nhận tất cả đều phát xuất từ Tình Yêu và hướng về Tình Yêu. Tình Yêu nhưng không của Thiên Chúa được truyền đạt cho người tín hữu qua việc rao giảng Tin Mừng. Khi biết chào đón Tình Yêu Phục Sinh bằng đức tin, người Ki-tô hữu nhận được sự tiếp xúc đầu tiên và cần thiết với Thiên Chúa, làm cho bản thân có thể sống và lớn lên trong Tình Yêu này và vui mừng truyền thông Tình Yêu này cho mọi người.
Ôi! “Lạy Chúa từ ái, ngày hôm nay, Ðức Giê-su đã đánh bại thần chết, khai đường mở lối cho chúng con vào cuộc sống muôn đời. Nay chúng con đang hoan hỷ mừng Người sống lại, xin Chúa ban Thánh Thần làm cho chúng con trở nên người mới để sống một cuộc đời tràn ngập ánh sáng Ðấng Phục Sinh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Phục Sinh).
Lm. Jos. DĐH.
Tình yêu là đề tài thích hợp cho mọi đối tượng, con người thời nào cũng hướng tìm hạnh phúc, nhưng chẳng ai có thể nói rõ ràng hoặc định nghĩa một cách thuyết phục về tình yêu ! Dù chưa yêu, chưa hiểu, chưa gặp, hoặc bạn đang lẫn lộn giữa tình yêu với tình cảm, thì tình yêu vẫn thật quan trọng đối với cuộc sống. Trong thi ca họ nói rằng: khi đã yêu thì mơ mộng nhiều, cha ông ta thì nói: khi yêu củ ấu cũng tròn, thực tế thì cuộc sống đâu phải lúc nào cũng đẹp như mơ, vì vậy mà ai cũng cần phải có một lập trường vững chắc.
Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, chắc không phải là câu thành ngữ thừa đối với chúng ta. Chúa phục sinh có liên quan gì đến tình yêu không ? Dấu hiệu của sự sống lại có phải là một bí mật không ? Mađalêna, Phêrô và Gioan, có phải họ yêu Thầy Giêsu nhiều hơn chăng ? Đức Giêsu đã yêu đến chết, Ngài không bạo động, không thách đố nhà chức trách, nhưng đá to, lính canh, không ngăn cản được sự sống lại của Đấng phục sinh, niềm vui phục sinh không thể chia cắt được những người yêu nhau. Mađalêna ra mồ từ tảng sáng, trăn trở của chị là ai sẽ đẩy tảng đá ra ? Phêrô và Gioan biết tin “Ngôi mộ trống” họ cũng vừa hoảng sợ vừa lóe lên chút hy vọng nào đó, khi vội chạy tới nơi, cả ba người nhận ra Chúa đã yêu họ, dù cảm nghĩ, tình yêu của họ có khác nhau.
Tình yêu thuộc phạm vi tinh thần nên đã là điều khó hiểu, vấn đề kẻ chết sống lại còn “nhạy cảm” cỡ nào ! Ba đối tượng hôm xưa đã gặp dấu hiệu của sự sống lại, nhưng với con người của mọi thời đại, sự sống lại vẫn mãi là “mầu nhiệm”. Người Việt chúng ta ai cũng biết câu truyện cổ tích “Tấm Cám”, câu truyện được xây dựng hình ảnh rất đẹp về cô Tấm, đẹp cả người, đẹp cả nết. Tình tiết câu truyện chuyển tải đến một triết lý trong sáng: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Nhưng xa hơn, hình ảnh xinh đẹp, hiền lành, câu truyện như muốn phải sống mãi, tồn tại mãi ở đời này. Rõ ràng, mẹ con Cám đã nhiều lần hãm hại, giết Tấm, nhưng Bụt-Thần vẫn giải thoát, làm cho Tấm hồi sinh và lấy được Hoàng tử.
Tuy sự hồi sinh của Tấm không thể so sánh với sự sống lại của Chúa Kitô. Câu truyện “Tấm Cám” muốn nhắc nhớ một thông điệp: sự sống cao quý đã vậy, nhưng sự sống có tồn tại là do tình yêu thương mà người ta đang thể hiện nơi anh chị em xung quanh mình. Con người mọi thời có thể giết được thân xác của nhau, nhưng không ai giết chết hoặc chia cắt được những tâm hồn chân thật đang yêu nhau. Con người có thể ăn ngay ở lành, nhưng không ai tự sống lại được, nếu không kết hiệp với Đấng phục sinh là Đức Kitô. Chúa đã sống lại, nhưng các phụ nữ, các tông đồ, tất cả chỉ được diễn tả bằng một tác động vui mừng, hoặc bằng cảm giác dám nói, dám làm vì tình yêu Đức Kitô.
Chúa sống lại, là một cảm nhận lâng lâng nơi các học trò, từ nay các ông không còn bị ám ảnh bởi sự bội phản bất trung, các ông thấy rõ hơn về trách nhiệm phải loan báo Tin mừng phục sinh. Chúa sống lại vì yêu nhân loại tội lỗi, các phụ nữ, các tông đồ, và chúng ta hôm nay đều phải thể hiện niềm tin, nếu không hình ảnh Đấng phục sinh chỉ là một kỷ niệm đẹp, chỉ là hoài bão mông lung. Chúa phục sinh thật quan trọng đối với các tông đồ, những người sống mến yêu, nhờ Đấng phục sinh yêu thương. Các ông được biến đổi nên sứ giả Tin mừng, không còn nhút nhát sợ đòn vọt, sợ bắt bớ hay sợ chết nữa, dù các ông còn phải minh chứng đức tin của mình vào Đấng yêu thương các ông.
Ngày hôm “Ngôi mộ trống” vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta khám phá bí mật tình yêu để sống, để chia sẻ cho anh chị em mình. Chúng ta chiêm ngắm, dõi nhìn “dấu hiệu của sự sống lại” không thể bằng mắt thường, nhưng bằng mắt đức tin, vì ơn cứu độ và tình yêu Đấng phục sinh không thể đến, khi chúng ta thụ động. Chúa Giêsu chiến thắng đau khổ sự chết bằng tình yêu, Ngài cho các môn đệ, cho chúng ta hiểu rằng, tất cả đều là đối tượng của Thiên Chúa cứu độ, dù ta vẫn bất xứng, tội lỗi. Chúa Giêsu chiến thắng sự chết chính là hình ảnh Giáo hội đang được biến đổi nên xứng đáng với hồng ân cứu độ, mang lại sức sống mới cho những ai đang hiệp thông trong đức ái Kitô.
Con người có sinh ắt có tử, mọi người dễ dàng nhận ra đó là một quy luật, nhưng để nói một cách mạnh mẽ, có chết đi mới sống lại, dám chắc chỉ mình Đức Giêsu mới nói được điều đó: “cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Câu truyện kẻ chết sống lại, sẽ mãi mãi còn là lời mời gọi chúng ta suy gẫm, nhìn nhận về Đấng hằng yêu thương ta, Đấng cho ta tình yêu và hạnh phúc đời đời, khi mỗi người biết cộng tác, hiệp thông, làm đức tin lớn hơn, trưởng thành hơn trong tình yêu Đấng phục sinh. Amen.
.
NGƯỜI ĐÃ SỐNG LẠI NHƯ LỜI KINH THÁNH
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : “Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ” (Mt 28,1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc “lính canh khiếp đảm” (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an : “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói” (Mt 28,5-6).
Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong“(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?
Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời
Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin : “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.
Sống Tin Mừng Phục Sinh
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh“ (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : “Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!
.
NHỊP CẦU DẪN VÀO CÕI HỒNG PHÚC
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có một đại lộ thênh thang xuất phát từ miền cao chạy xuống miền xuôi, băng qua cây cầu bắc qua vực sâu Âm Phủ để dẫn vào Vùng Đất Hứa. Vùng Đất Hứa này là nơi vắng bóng sự chết và đau khổ nhưng tràn đầy hoan lạc hồng phúc.
Từ trên cao, một đoàn xe dài hun hút, nhưng chẳng chiếc nào có thắng, nối đuôi nhau chạy theo đại lộ nầy, lao vun vút xuống bằng, nhắm vượt qua cây cầu bắc ngang vực sâu Âm Phủ để tiến về Miền Đất Hứa đáng mơ ước ở bờ bên kia.
Nhưng than ôi, chiếc cầu nầy đã gãy đổ từ lâu nên tất cả những chuyến xe đầy khách từ trên cao lao xuống, nhắm vượt qua cây cầu nầy để tiến về Miền Đất Hứa đều phải lao xuống vực sâu Âm Phủ và tất cả hành khách trong xe phải tiêu vong đời đời dưới đáy vực chất đầy xương khô.
Vận mệnh con người, ai cũng như ai, là phải xuất phát từ đời tạm nầy tiến vào cuộc đời vĩnh cửu, từ cuộc sống bấp bênh bèo bọt bước sang cuộc sống hạnh phúc muôn đời. Nhưng tiếc thay chiếc cầu lịch sử nối liền đôi bờ cách biệt nầy đã bị tội nguyên tổ làm cho sụp đổ hoàn toàn và không ai có thể xây dựng lại được.
Thế là mọi người, kẻ trước người sau, không sớm thì muộn, đều như những người lái xe xổ đèo mà không có thắng. Đoàn xe lao xuống càng lúc càng nhanh và cuối cùng ai cũng như ai đều phải lao xuống vực u tối muôn đời vì chiếc cầu bắc ngang vực sâu Âm Phủ đã gãy đổ từ lâu. Số phận con người đều phải kết thúc bi đát như thế đó!
Thế rồi, thời hồng phúc đã được bắt đầu khi Chúa Giê-su dùng cuộc tử nạn và phục sinh của mình để xây dựng lại cây cầu đó, để nối lại đôi bờ vô cùng cách biệt; nối cuộc sống tạm bợ ở đời nầy và cuộc sống vĩnh cửu mai sau; nối thế giới đầy sóng gió gian truân nầy với cõi hồng phúc hoan lạc; nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với loài người; dẫn đưa con người vào đời sống đời đời vinh phúc.
Cầu mới đó được đặt tên là cầu Phục Sinh. Ai đi qua cầu Phục Sinh sẽ không còn phải lao xuống vực thẳm chết chóc nữa, nhưng được tiến thẳng vào thiên quốc.
Chiếc cầu Phục Sinh là một kỳ quan tuyệt vời hơn hết mọi kỳ quan, là một công trình vô cùng cao đẹp vì đã cứu loài người khỏi lao mình xuống vực sâu Âm Phủ nhưng đưa họ vào Miền Đất hồng phúc hoan lạc muôn đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con hân hoan dâng lời cảm tạ tôn vinh Chúa đã xây dựng cho chúng con nhịp cầu quý giá nầy.
Xin cho chúng con hăng hái loan tin vui này cho mọi người được biết và đi theo Chúa để được tiến vào Vương Quốc hằng sống muôn đời vinh hiển. Alleluia.
.
Trầm Thiên Thu
Có một câu chuyện vui liên quan sự sống lại như thế này…
Thầy giáo hỏi học sinh: “Nếu thầy sống tốt lành, khi chết thầy có được lên trời không?”. Cả lớp thưa “không”. Thầy lại hỏi: “Nếu thầy sống thánh thiện, yêu thương tha nhân, làm việc bác ái và từ thiện, thầy có được lên trời không?”. Cả lớp lại đồng loạt thưa “không”. Thầy giáo hỏi: “Vậy thầy phải làm sao mới được lên trời”. Cả lớp nhìn nhau. Một em rụt rè thưa: “Dạ, dạ… thầy phải chết trước ạ!”.
Vấn đề hoàn toàn… tất nhiên. Có chết thì mới sống lại. Sống lại mới có thể lên trời. Câu chuyện vui này cũng nhắc chúng ta phải luôn nhớ rằng “ai cũng phải chết một lần” và rồi mới sống lại. Chúa Giêsu đã chết và Ngài đã thực sự sống lại, củng cố niềm tin của chúng ta: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”.
Dù là ai thì cũng chỉ có một cuộc sống, tức là chỉ sống một lần và chết một lần. Đó là điều ai cũng biết dù chưa bao giờ trải nghiệm sự chết (trừ một số người được đặc ân riêng). Và dù có sự sống lại nhưng cũng không ai đã chứng kiến. Chúng ta chỉ biết qua lời Thánh sử Luca kể lại chuyện anh La-da-rô nghèo khổ và ông đại gia giàu có (x. Lc 16:19-31).
Tuy nhiên, sự sống lại đã thực sự xảy ra: chính Đức Kitô đã bị người ta giết chết bằng cách đóng đinh vào Thập Giá và đã được an táng trong mộ đá, thế nhưng Ngài đã sống lại vinh quang. Quả thật, nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là ảo tưởng, là chuyện hoang đường! Nhưng Đức Kitô đã thực sự sống lại, như vậy thì đức tin của chúng ta đã được “đóng ấn tín đời đời”. Điều đó đã được Thánh Phaolô minh chứng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15:17-19).
Mặc dù chỉ là những con người bình thường, nhưng ai cũng có nỗi nhớ. Gọi là nỗi nhớ thì không có giới tính. Vậy tại sao lại người ta lại gọi là nỗi-nhớ-đàn-bà mà không là nỗi-nhớ-đàn-ông? Phải chăng vì phụ nữ có “khoảng nhớ” lớn hơn nam giới? Có phần đúng. Theo khoa học, MỘT bộ óc nhưng có HAI bán cầu não. Phụ nữ “nói nhiều” hơn nam giới vì họ sử dụng cả hai bán cầu não một lượt, còn nam giới chỉ sử dụng một bán cầu não.
Như vậy, có thể nói rằng “khoảng nhớ” của phụ nữ lớn hơn nam giới. Trong tình trường bình thường, khi bị phụ tình (hoặc tình phụ), nỗi nhớ ở phụ nữ vẫn “lâu và sâu” hơn ở nam giới là vậy. Khoa học không có gì trái ngược với đức tin Công giáo. Đức tin vẫn cần có lý trí tỉnh táo. Quả thật, phụ nữ được Thiên Chúa ưu đãi nhiều điều lắm, có lẽ vì họ chịu thiệt thòi nhiều. Âu cũng là công bình hợp lý!
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta (Ep 2:4), nhưng Ngài là Đấng công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không thiên vị bất kỳ ai (Hc 35:12; Lc 20:21; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9), và Thánh Phêrô cũng xác nhận: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Điều này vừa đáng mừng vừa đáng lo. Thật “đáng mừng” vì chúng ta không sợ bị thua thiệt, vì Thiên Chúa công minh và không thiên vị; nhưng lại “đáng lo” nếu chúng ta ngộ nhận mà tưởng mình “ngon” hơn người khác.
Thánh Phêrô nói về biến cố đã xảy ra tại Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng, và nói về lai lịch về Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài.
Ngày xưa, các tông đồ đã can đảm làm chứng về mọi việc Đức Giêsu đã làm trong cả vùng dân Do Thái và ngay tại TP Giêrusalem: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).
Thật là tuyệt vời vì Đức Kitô đã sống lại và chắc chắn chúng ta cũng sẽ được sống lại như Ngài, đó là một ân huệ quá lớn, Vì thế, chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Và còn nữa, chính “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” nên tử thần đã chiến bại ê chề, mất khả năng hoành hành như trước. Do đó, Thánh Vịnh gia rất hân hoan: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17). Những điều kỳ diệu không ngừng nối tiếp nhau: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Và chỉ có Thiên Chúa mới khả thi những điều kỳ diệu như vậy!
Vừa xác định vừa nhắc nhở, Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thật vậy, Đức Kitô là nguồn sống của chúng ta, Ngài xuất hiện thì chúng ta cũng được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang (Cl 3:3-4).
Tiếp tục giải thích, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:7-8). Tất cả đều biến đổi hoàn toàn, điều đó có thể là được biến đổi hoặc tự cố gắng biến đổi.
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 20:1-9, rất ngắn gọn. Chàng Gioan cho biết rõ ràng: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ và thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp người “tổ trưởng” Phêrô và người môn đệ được Đức Giêsu thương mến – tức là chàng trai trẻ Gioan, người tựa đầu vào ngực Thầy Giêsu và nghe được “nhịp tình thổn thức” của Thầy ngay trong Bữa Tiệc Ly.
Thấy ngôi mộ trống trơn, bà Maria Mácđala vừa lo sợ vừa thắc mắc: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Thật tội nghiệp, chắc hẳn bà buồn lắm, và bà thấy nhớ Thầy Giêsu da diết. Các môn đệ nghe nói vậy cũng cảm thấy hoang mang. Vì trong thời gian này, “vụ án Chúa Giêsu” vẫn còn gây chấn động mạnh, chưa thể nào lắng xuống, ai cũng sợ người Do-thái khủng bố và áp bức, thế nên chẳng ai dám đi lại nhiều, có ở nhà thì cũng đóng cửa kín mít, đi đâu thì phải mắt trước mắt sau, đi như chạy, vội vàng như bị ma đuổi vậy.
Hai ông Phêrô và Gioan liền đi ra mộ xem sự thể ra sao ngay sau khi nghe bà Maria Mácđala thông báo. Cả hai người cùng chạy, nhưng Gioan còn trẻ nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, đợi cho Phêrô đến nơi và vào trước, “kính lão đắc thọ” theo phép lịch sự.
Tới nơi, ông Phêrô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Kinh Thánh cho biết rằng tấm khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ chàng Gioan cũng đi vào, nhìn thấy cụ thể và đã thực sự tin. Lúc này hai người tin thật rồi, chứ không như trước đó. Và hai ông chợt hiểu rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết theo như Kinh Thánh đã nói, và chính Thầy Giêsu cũng đã cho biết trước đó.
Đúng là hai năm rõ mười, mọi điều đã tỏ tường, ai cũng hân hoan tột độ, và cũng không còn cảm thấy sợ hãi chi nữa. Chính Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi họ hoàn toàn, từ con người nhút nhát trở thành con người dũng cảm, từ con người yếu đuối trở nên mạnh mẽ, ngay cả các phụ nữ cũng bỗng nhiên biến thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô Phục Sinh. Chúng ta thấy rằng các phụ nữ có thể “hấp tấp” một chút, dẫu cho “sâu sắc như cơi đựng trầu”, thế nhưng họ vẫn có những điều để cho chúng ta phải học hỏi. Thật vậy, bà Maria Mácđala là người đầu tiên đã được diện kiến Đấng Phục Sinh.
Có mối liên kết với nhau giữa hai động từ THẤY và TIN. Có người thấy mà không tin, vậy là vô ích. Chỉ có ai thấy và tin thì mới đáng nói. Khoảng giữa hai hành động đó là sự biến đổi mau chóng và thực sự là điều kỳ diệu. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa, từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Lạy Thiên Chúa toàn năng chí ái, cúi xin Ngài củng cố đức tin nơi con để con có thể biến đổi mau chóng khi con thấy những điều kỳ diệu mà Ngài vẫn không ngừng thực hiện trong cuộc đời của con và của tha nhân, xin Ngài cũng giúp con can đảm làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh trong suốt cuộc đời con, qua những khả năng mà con được Ngài trao ban. Xin giúp con hành động vì vinh danh Ngài và cứu các linh hồn, xin cho con gặp được Đấng Phục Sinh nơi tha nhân và qua công việc con làm. Con chân thành cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Táng xác Thầy vội vã chưa kịp làm đúng các thủ tục phải có, sáng sớm, ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Macđala và mấy phụ nữ nữa mua dầu thơm để đi ướp xác Thầy. Các bà lo âu : Tảng đá nặng thế, ai sẽ lăn ra được đây. Thật bất ngờ, khi đến mộ, tảng đá đã được lăn ra; nhìn vào trong, các bà chẳng thấy có ai. Ngôi mộ trống. Hoảng hốt, các bà chạy về báo cho ông Phêrô và người môn đệ Thầy yêu mến: “ Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu? “ Có người đã đánh cắp xác Thầy rồi ư! Phêrô và Gioan cùng chạy ra mồ. Còn trai trẻ, Gioan tới mộ trước. Ông thấy những băng vải vẫn còn đó, nhưng không vào. Chờ cho Phêrô đến, cả hai cùng vào. Họ tận mắt nhìn thấy “ngôi mộ trống, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi.” Qua những đấu hiệu ấy và dựa vào lời Kinh Thánh, ông Gioan đã thấy và ông đã tin. “ Những gì ông thấy chỉ để minh chứng cho những gì ông đã được biết qua Kinh Thánhvề những gì Đấng Mêsia sẽ phải trải qua. Ông xác tín Thầy đã sống lại vì ông có một niềm tin vào truyền thống của dân Chúa, và vào những gì Thiên đã Chúa mặc khải qua thời gian.
Chúa Giêsu đã sống lại. Allêluia! Đó là tin vui và niềm hy vọng cho cả nhân loại, và cho những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa như thánh Phaolô đã nói :“Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn con sống trong tội lỗi của anh em.” và ngài làm chứng rằng:“ Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đứng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.” Rồi ngài kết luận: “ Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.”
Chúng ta tin Chúa sống lại nhưng không trực tiếp tiếp cận với những biến cố đã xảy ra, nhưng qua những chứng nhân là các môn đệ và Kinh Thánh. Vì thế mọi sự trở nên bấp bênh và khó khăn hơn; nhưng với thời gian và với niềm tin Con Thiên Chúa đã đồng hành với chúng ta qua thời gian, những điều đó chứng minh rằng chúng ta chứng kiến mầu nhiệm phục sinh bằng niềm tin.
Sự phục sinh của Chúa Giêsu cho phép chúng ta tin tưởng và vui mừng về sự phụ sinh của chúng ta. Nguyên lý của đời sống mới là kết hợp với Đức Kitô phục sinh như thánh Phaolô đã viết: “ Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” nếu chúng ta tin Đức Kitô đã chỗi dậy để chỉ đặt niềm tin vì cuộc đời này hơn là vì cuộc sống ngày mai thì thật tội nghiệp như lời thánh Phaolô đã nói: “ Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.”
Vậy chúng ta phải sống niềm tin ấy như thế nào? Mơ hồ về số phận con người sau cái chết! hay thương nhớ người thân bằng môt tâm tình sẽ phôi phai theo thời gian! Dường như chúng ta vẫn còn nhập nhằng chưa dứt khóat về cuộc sống trần gian và cuộc sống vĩnh cửu trên Nước Thiên Chúa.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Báo Vietnamnet hôm 8/4 đưa tin: Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 40 ngàn người tự tử, đa số những người tự tử là những người trẻ. Một con số đáng để chúng ta suy nghĩ và đặt câu hỏi : Tại sao? Các nhà nghiên cứu tâm lý xã hội cho rằng, những người này bị căng thẳng công việc, gia đình bất ổn, bị stress dưới các áp lực cuộc sống. Nhưng nhìn dưới góc độ tôn giáo, đạo đức, người ta có thể thấy, những người đi đến quyết định tự tử thường là những người cảm thấy trống rỗng trong đời sống. Họ không tìm được ý nghĩa cho cuộc đời, nhất là khi họ thiếu vắng đời sống tâm linh, trống rỗng trong niềm tin, không hy vọng, sẽ dẫn đến tuyệt vọng và tự tử. Cuộc sống không hy vọng là một cuộc sống ngục tù trong chính con người mình.
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Phục Sinh. Tin Mừng Phục sinh chính là Tin Mừng đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng vào cuộc sống và tương lai. Niềm tin này cũng là động lúc thúc đẩy con người sống và đương đầu với những khó khăn trong tin tưởng và hy vọng.
Tin Mừng Gioan kể lại sự biến đổi của các phụ nữ và các tông đồ sau khi đón nhận Tin Mừng Phục sinh. Trước đó, Tin Mừng cho thấy, ngay từ sáng sớm khi trời con tối, bà Maria Madalena và một số phụ nữ đã ra thăm mộ và thấy tảng đá đã lăn ra. Bà về báo tin cho Simon Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến: Người ta đã đem xác Chúa đi khỏi mộ; chúng tôi không biết họ để Người ở đâu. Chỉ qua một hai câu, Thánh Gioan đã cho thấy các phụ nữ đang sống trong bất an và tuyệt vọng. Đối với các phụ nữ, Thầy Giêsu của họ thực sự đã chết, bao nhiêu tình cảm thương mến dành cho Chúa cùng với bao hy vọng đặt ở nơi Người cũng đã bị chôn vùi. Trước mặt các bà là một bầu trời đen tối và các bà đi ra thăm mộ trong tâm trạng tối tăm mờ mịt của tâm hồn.
Khi thấy tảng đá đã bị lăn ra khỏi mộ, các bà cũng không thể nhìn thấy một dấu hiệu nào của sự hy vọng, trái lại, suy nghĩ của các bà bị sự tối tăm thất vọng bao phủ. Các bà chạy về báo tin cho các môn đệ trong hốt hoảng: Người ta đã lấy xác Chúa đi khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để Người ở đâu. Điều này chứng tỏ, những lời tiên báo của Chúa Giêsu về cái chết thập giá và phục sinh của Người không được các phụ nữ này quan tâm. Họ vẫn suy nghĩ theo thói quen thông thường như bao người khác. Vì thế, họ ra mộ không phải để tìm gặp Chúa Phục Sinh, nhưng chỉ để ướp một cái xác đã chết mà thôi.
Cũng giống như các phụ nữ, cái chết của Chúa Giêsu thực sự đã làm cho các môn đệ kinh hoàng, hoảng loạn. Các ông rơi vào sợ hãi tột cùng khiến người thì bỏ trốn, kẻ thì chối Chúa. Sau khi đã an táng Thầy Giêsu, các tông đồ dù còn sống nhưng tâm hồn của họ đã chết trong sợ hãi. Họ đã quên hẳn những gì Thầy đã truyền dạy cho họ. Vì thế, các ông đã không dễ dàng đón nhận được Tin Mừng Phục sinh. Khi được các phụ nữ chạy về báo tin, chỉ có ông Phêrô và ông Gioan chạy ra mộ để xem sự gì đã xảy ra, các vị khác không phản ứng gì.
Hai người được Thánh Gioan nhắc đến tên, như hai nhân chứng đầu tiên, đó là Simon Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến. Phêrô là người đứng đầu trong các anh em, là thủ lãnh của Giáo Hội, ông cũng là người yêu mến Chúa hơn hết mọi người và Gioan là người được Chúa thương mến hơn hết trong anh em. Chi tiết này cho thấy, những người có một tương quan tình yêu đặc biệt với Chúa Giêsu thì mới có thể đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh. Hai ông đã có hai cách tiếp cận và tin khác nhau khi thấy những dấu chứng của cuộc phục sinh.
Cả hai ông Simon và Gioan đều chạy ra mộ khi vừa nghe báo tin. Điều đó chứng tỏ rằng, với sự thúc đẩy của tình yêu và sự khao khát gặp lại Chúa, các tông đồ đã chạy thật nhanh ra mộ. Với sự kính trọng dành cho Phêrô là thủ lãnh của Giáo Hội và là người có tiếng nói chính thức trong Giáo Hội, Gioan dù chạy nhanh hơn, nhưng đã nhường bước cho Phêrô vào mộ trước. Phêrô bước vào mộ, ông thấy những dấu chỉ còn lại, không phải là dấu chỉ của người đã chết, mà là dấu chỉ của người đang sống, đó là những băng vải, khăn liệm, khăn che đầu không bị xáo trộn, nhưng được gấp gọn gàng và để riêng từng thứ. Dấu chỉ này cũng loại bỏ sự hồ nghi của các phụ nữ cho rằng: Người ta đã lấy xác của Thầy. Nếu đây là một vụ trộm xác như các phụ nữ đã nói, thì hiện trường sẽ là một mớ hỗn độn, xáo trộn chứ không thể mọi thứ được gấp lại và xếp đặt gọn gàng.
Khác với Phêrô đã tin Chúa Phục sinh nhờ các dấu chỉ là ngôi mộ trống, các băng vải được xếp gọn gàng, Gioan đã tin nhờ trực giác của tình yêu và lòng cung kính tôn thờ. Gioan đã đến mộ trước Phêrô, khi nhìn thấy ngôi mộ trống, phản ứng đầu tiên của Gioan là cúi mình xuống. Đây chính là thái độ cung kính của Gioan trước một màu nhiệm vượt quá sức tưởng tượng và lý lẽ thông thường của loài người. Với thái độ cung kính tôn thờ, Gioan đã bước vào mộ theo sau Phêrô. Chi tiết này một lần nữa cho thấy dù Gioan tin nhờ trực giác của tình yêu, nhưng ông vẫn chờ đợi tiếng nói của Simon Phêrô là thủ lãnh của Giáo Hội. Ông kể lại: Ông đã bước vào, ông đã thấy và đã tin. Đức tin của Gioan được củng cố và xác định nhờ đức tin của Simon.
Cả hai môn đệ cùng đi đến niềm tin Chúa đã Phục sinh, tác giả tin Mừng Gioan cho thấy, hai ông đã phải vượt qua rào cản của lý trí tự nhiên và lý luận thực tiễn để có thể đón nhận được tin mừng vĩ đại này. Tin Mừng kết luận: Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Kinh nghiệm đức tin của hai môn đệ chỉ cho các thế hệ sau phương thế có thể đón nhận được niềm tin Phục sinh, đó là hiểu và tin lời Kinh Thánh. Sau khi đón nhận đức tin qua dấu chỉ ngôi mộ trống và những băng vải, các tông đồ cho thấy rằng, Kinh Thánh chính là lời chứng mạnh nhất, uy thế nhất về màu nhiệm Phục Sinh. Những người dù không được thấy mộ trống, cũng không thấy những băng vải liệm vẫn có thể đón nhận được niềm tin phục sinh qua việc suy gẫm, hiểu và tin vào những gì Kinh Thánh đã viết.
Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi hoàn toàn các tông đồ, biến các ông từ những con người nhút nhát trở nên can đảm mạnh mẽ, từ những người nhà quê bình dân trở thành những con người thông thái. Niềm tin Chúa Phục Sinh cũng sẽ biến đổi cuộc đời của mỗi tín hữu, đem lại cho mỗi người niềm vui và hy vọng, giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Đó cũng là điều Thánh Phaolô đã kinh nghiệm và dạy lại cho chúng ta: Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Như thế, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phải trở thành niềm tin thúc đẩy chúng ta sống cao thượng, sống vui và sống đẹp, chú tâm làm điều thiện, điều tốt. Sống như thế là sống có mục đích, có ý nghĩa và là cuộc sống đầy tràn niềm vui. Chúng ta không thể tuyên xưng Chúa Phục sinh mà lại sống trong buồn bã thất vọng, chết chóc. Chúng ta không thể nói về Chúa phục sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu tình yêu, thiếu bao dung và cảm thông với anh chị em.
Cũng vậy, niềm tin Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới lại nếp sống của bản thân và gia đình, đem lại cho gia đình mình một nếp sống mới. Hãy phá bỏ tảng đá chết chóc, giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta để ta bước đi trong ánh sáng của sự thật, bao dung và tha thứ.
Xin Chúa cho chúng ta có một thái độ khiêm tốn như các tông đồ, cúi mình cung kính thờ lạy để đón nhận Màu nhiệm Phục sinh; và xin cho mỗi chúng ta luôn lắng nghe lời dạy bảo của Giáo Hội, đọc và suy gẫm lời Kinh Thánh để đức tin của chúng ta được củng cố và nâng đỡ mỗi ngày. Amen.
.
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
- Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
- CHÚ THÍCH:
– C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
– C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
– C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
– C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
- CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
- CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn… Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
- SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?
- LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt… vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một người đố tôi thế này: Thưa cha, người ta kể rằng sau khi Chúa Giê-su về trời, các thiên thần và các thánh đều nghe nói Chúa Giê-su khi còn ở dương thế có thể đi trên mặt nước, liền đề nghị Chúa Giê-su biểu diễn. Nhưng Chúa Giê-su đã bất lực không thể đi trên mặt nước được nữa! Đố cha lý do tại sao?
Tôi còn suy nghĩ thì người ấy nói: Bởi vì đôi chân của Chúa đã bị lỗ đinh xuyên thủng nên nước tràn qua chân rồi!
Quả thực, nếu nhìn biến cố Phục sinh bằng con mắt phàm trần có lẽ chúng ta khó có thể hiểu được những gì đã diễn ra trong cái chết và phục sinh của Chúa. Chúng ta không thể hiểu được người chết sống lại sẽ như thế nào?
Có người còn đố nhau nếu mai sau sống lại thì mình sẽ sống lại ở lứa tuổi nào để có thể nhận ra nhau? Sống lại với dung nhan ở tuổi 20 đầy sức sống, ở tuổi 40 với vẻ quý phái, hay ở tuổi 60 đầy phúc hậu . . . Có người còn đố nhau sau khi sống lại sẽ ăn gì, mặc gì . . .?
Những câu hỏi thực tiễn ấy đều được trả lời qua biến cố Chúa Giê-su phục sinh. Ngài đã phục sinh nhưng không còn trong thân xác hữu hạn của con người. Thế nên, các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự phục sinh đưa Ngài vào cõi sống trong Thiên Chúa không còn lệ thuộc bởi không gian và thời gian, càng không lệ thuộc bởi cái ăn, cái mặc. Ngài có thể hiện diện ở nhiều nơi cho nhiều người khác nhau. Các tông đồ ở Giê-ru-sa-lem cũng từng thấy Người hiện ra, và hai môn đệ trên đường Emmau cũng từng thấy Người. Họ gặp nhau và kể lại về những cuộc hiện ra của Người.
Hôm nay chúng ta vui mừng cử hành lễ Chúa Giê-su phục sinh. Chúng ta cùng nghe những chứng nhân kể lại việc Chúa đã sống lại thế nào? Và chính họ đã dùng cả tính mạng mình để làm chứng cho điều mà các ngài đã nghe và đã thấy về sự phục sinh của Chúa. Cho dù có bị cấm đoán, bị đe dọa đến tính mạng các ngài vẫn can đảm nghe lời Thiên Chúa hơn là nghe lời phàm nhân.
Sự kiện Chúa Giê-su phục sinh cũng khơi lên trong chúng ta niềm vui về cuộc đời này. Cuộc đời chúng ta không có tận cùng. Chúng ta sinh ra đã là bất tử vì được tạo dựng giống hình ảnh Chúa vĩnh hằng. Cái chết không là tận cùng mà là cửa ngõ đưa ta vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên, trong cõi vĩnh hằng ta sống trong hồng phúc với Chúa hay chịu luận phạt trong biển lửa đời đời? Điều này tùy thuôc vào lối sống của chúng ta hôm nay. Chọn Chúa hay chọn theo ma quỷ? Đi theo lẽ phải hay đi theo tà tâm? Làm việc thiện hay làm điều gian ác? Mọi việc chúng ta làm đều được Chúa phân xử công minh.
Thế nên, muốn có được sự sống đời đời hãy theo gương Đức Ky-tô. Hãy sống một cuộc đời như Đức Ky-tô là tìm kiếm và thi hành ý Chúa. Hãy can đảm từ khước những ước muốn tội lỗi, những cám dỗ mà ma quỷ bày ra để ta phản nghịch cùng Chúa. Xin đừng vì những thú vui trần thế mà đánh mất ơn nghĩa cùng Chúa, đánh mất thiên đàng mai sau.
Ước gì niềm tin Chúa phục sinh sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta như đã từng biến đổi các tông đồ. Biến đổi từ con người nhút nhát trở thành con người kiên cường. Từ con người yếu đuối trở thành mạnh mẽ trong ơn thánh của Chúa. Từ con người tầm thường trở thành những con người làm thay đổi thế giới nhờ văn hóa ky-tô giáo mà các ngài rao giảng. Xin Chúa cũng biến đổi tâm tư và cuộc sống chúng ta theo giáo huấn của Chúa. Xin Chúa cũng dùng chúng ta như khí cụ loan báo tin vui Chúa Phục Sinh đến tận cùng thế giới. Amen.
.