LỄ LÁ – Năm B
Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
1. Đám đông cuộc đời (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Ngã rẽ cuộc đời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Thế thái nhân tình là thế (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Chúa Nhật Lễ Lá (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)
5. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB)
6. Màu xanh hy vọng (Trầm Thiên Thu)
7. Lời Thánh kinh ứng nghiệm (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Lý kẻ mạnh (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
9. Sự thúc đẩy của tình yêu (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
10. Góp phần xây dựng Vương Quốc Tin Yêu Hạnh Phúc (Lm. Đan Vinh)
11. Chúa Nhật Lễ Lá Năm B (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Bài Thương khó được đọc trong phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá giống như một vở kịch dài có nhiều tình tiết, chương đoạn. Đức Giêsu Kitô thành Nagiarét là nhân vật chính của vở kịch này. Khi lắng nghe và suy tư Bài Thương khó, tôi lưu ý đến sự hiện diện của đám đông, là những nhân vật phụ nhưng không kém phần quan trọng để làm nên vở kịch này.
Họ là ai?
Họ là những kinh sư, luật sĩ và biệt phái. Đây là những người học hành uyên thâm. Họ có vị trí ưu tiên trong các buổi hội họp. Họ được công chúng kính trọng và coi là những bậc nhân đức, thánh thiện. Tuy vậy, những người này nhiều lần bị Chúa Giêsu lên án kịch liệt. Người phê phán họ là những kẻ giả hình, giống như những nấm mồ tô vôi, bên ngoài hào nhoáng, nhưng bên trong đầy thối tha. Họ cũng bị lên án vì hay chất lên vai người ta những gánh nặng chính bản thân mình không mang nổi. Họ là những người áp dụng một cách cứng nhắc các khoản luật, thậm chí còn bày đặt thêm những quy định để bắt người ta tuân giữ. Trong đám đông này, vị Thượng tế là người đứng đầu trong dân của Do Thái giáo. Nhưng vị thượng tế cũng đã lạm dụng chức năng cầm cân nảy mực trong vụ lên án Chúa Giêsu, người đang bị vu khống cách bất công.
Chủ tọa phiên tòa là Philatô, quan tổng trấn. Ông là đại diện của đế quốc Rôma. Ông cũng là người đại diện của luật pháp, có quyền tha bổng và có quyền kết án một con người, như chính ông đã nói với Chúa Giêsu. (x. Ga, 19-10). Vậy mà trước sức ép của đám đông, ông đã không can đảm bênh vực người vô tội. Philatô đại diện cho những người cầm quyền nhưng hèn nhát và nhụt bước trước bạo quyền. “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” là như thế đó.
Tôi còn thấy những người dân thành Giêrusalem. Trong số này, có những kẻ xu thời, “khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai”. Lúc Chúa Giêsu vinh quang tiến vào thành thánh, họ vui mừng vỗ tay ủng hộ, vì coi Người như Đavít tái giáng để lật đổ quyền thống trị của Rôma. Thế nhưng, trước tòa Philatô, họ lại giơ cao những cánh tay để xin tha cho Baraba, lên án tử hình cho Chúa.
Tôi thấy những môn đệ của Thày Giêsu. Họ vui mừng lúc cùng Chúa bước vào thành thánh, nhưng đó lại sợ hãi hoang mang và bỏ chạy thoát thân. Thế mới biết “khi hoạn nạn mới biết ai là bạn thật”. Trong số họ, có người can đảm như Phêrô, mạnh mẽ kiên quyết là thế, mà lại chịu đầu hàng trước câu nói vu vơ của một cô hầu. Sau này, lúc Chúa chịu đóng đinh, ông và vài môn đệ chỉ đứng xa xa, không dám đến gần (x. Ga 23,49).
Tôi còn thấy những người phụ nữ và trẻ em trong đám đông này. Họ là những người dân thành Giêsusalem thương cảm trước một người bị đem đi giết. Có lẽ họ chẳng có dịp được nghe những lời tố cáo của các kỳ mục Do Thái. Họ cũng không cần biết người này có tội hay không. Trước mắt họ là một con người bầm dập, tàn tạ và bị bạo hành dã man. Một người phụ nữ trong họ, Bà Vêrônica, đã mạnh dạn len qua giữa đám đông để lau mặt Chúa. Thế rồi, cũng có một người đàn ông nông dân, đi làm đồng về, bị quân lính bắt vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu. Đây là những người chân chất, thật thà và ngay thẳng. Họ chẳng cần triết lý cao siêu. Họ chỉ hành động theo lời mách bảo của trái tim và lòng nhân hậu.
Trong số đám đông hỗn tạp ấy, Chúa Giêsu vác thập giá bước đi. Trước những lời phỉ nhổ chế nhạo, Người vẫn âm thầm, thinh lặng, như con chiên bị đem đi giết. Đây là lúc Chúa thực hiện điều chính Người đã giáo huấn: “Anh em hãy tha thứ cho kẻ thù!”; Hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”; “Ai theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Trước đám người đang thương cảm, Chúa an ủi họ và nhắc bảo hãy nghĩ đến cuộc đời của chính họ.
Và, may thay, trong đám đông này, vẫn có những tâm hồn cao thượng và trung thành. Họ là Nicôđêmô, trước đây chỉ âm thầm thiện cảm với Chúa, nhưng sau cái chết của Chúa, ông đã công khai nhận mình là môn đệ. Họ là Giuse Arimathia, là những người phụ nữ từ trước đi theo và giúp đỡ Chúa. Trong đám đông, còn có những người vì miếng cơm manh áo phải cộng tác trong việc giết Chúa, nhưng chứng kiến cái chết của Chúa, họ đã giác ngộ và nhận ra Người là Con Thiên Chúa (x. Mt 27,54). Họ còn là Maria Mađalêna, một nữ môn đệ trung thành với Chúa. Bà là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh.
Đã hai ngàn năm, đám đông trong ngày Đức Giêsu chịu khổ nạn vẫn còn đó. Đó chính là đám-đông-cuộc-đời. Trong đám đông hỗn loạn ấy, tôi thấy chính tôi. Có những lúc tôi nhát đảm như Philatô, không dám bênh vực người vô tội. Có những lúc tôi hừng hực căm thù, như những kỳ mục Do Thái. Lòng ghen ghét đã làm mờ lương tâm của họ, cố tình nói “có” thành “không”. Có những lúc tôi giống như những người “ba phải” ở Giêrusalem, lúc vui thì ủng hộ, lúc trái ý thì chống đối. Có lúc tôi không dám nhận mình là môn đệ của Chúa, như Phêrô đã chối thầy mình. Tôi tìm thấy tôi trong đám đông cuộc đời này. Tuy vậy, tôi không thất vọng, vì Chúa đã đưa mắt bao dung nhìn Phêrô ngay khi ông vừa chối Chúa, Chúa cũng đưa mắt nhìn tôi như thay lời muốn nói: “Ta tha tội cho con, vì Ta yêu con từ ngàn đời”. Lời nói của Chúa giúp lau khô dòng lệ sám hối và ban cho tôi niềm vui khôn tả của sự tha thứ. Tuy vậy, tôi phải luôn thận trọng và tỉnh thức, vì trong đám đông cuộc đời, giữa tiếng hò la, nhiều khi tôi để mình bị đám đông lôi kéo. Đây là một hiện tượng xã hội mang tên “tâm lý đám đông”, có nghĩa là một hành động xấu, nhưng xung quanh tôi người ta đều làm thế cả, bỗng dưng trở thành một hành động bình thường được mọi người chấp nhận. Đám đông là môi trường làm tôi dễ “đánh lận con đen”, là nơi “vàng thau lẫn lộn”. Đám đông cuộc đời vừa là cơ hội giúp tôi học hỏi, vừa là nguy cơ làm tôi đánh mất chính mình.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang vác thập giá trong lòng cuộc đời. Gương mặt tàn tạ của Người đang tái hiện nơi những người già cô đơn, nơi những người phong cùi, những người nghèo khó bất hạnh cần sự nâng đỡ. Chúa đang mời gọi tôi lau mặt cho Chúa hoặc vác đỡ thập giá cho Người nơi những anh chị em đó. Cây thập giá rất đẹp khi tôi đeo như đồ trang sức, nhưng rất nặng nề khi chấp nhận dấn thân để nên giống Đấng đã chịu chết trên thập giá vì tôi.
Đã hai ngàn năm, vẫn còn đó những kẻ lên án, vẫn còn đó những kẻ sợ sệt, vẫn còn đó những người đe dọa đóng đinh Chúa và còn tuyên bố Chúa đã chết lâu rồi. Ánh sáng và bóng tối vẫn giao tranh quyết liệt. Sự sống và sự chết vẫn chiến đấu không ngừng. Tin Chúa Giêsu là can đảm đứng về phía ánh sáng và sự sống, nhờ đó, chắc chắn tôi sẽ tìm được niềm vui và an bình.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha. Cuộc sống thì bon chen, tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay
Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc trần gian.
Cuộc đời Chúa Giê-su dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc . . .
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.
.
Lm. Giuse Dương Hữu Tình
Sau bốn mươi ngày chay thánh, chúng ta cùng cả Giáo hội bước vào tuần thánh. Tuần thánh khai mạc bằng Lễ Lá với nghi thức làm phép lá và rước lá. Tuy nhiên, nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra thánh lễ hôm nay gồm hai phần, phần làm phép lá, rước lá và phần thánh lễ. Xét bề ngoài, hai phần này có hai bầu khí khác nhau. Phần làm phép lá và rước lá thì vui tươi, phấn khởi, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành thánh cách trọng thể. Còn phần thánh lễ với bài thương khó dài, bầu khí mang màu sắc tử nạn đau thương. Khi đặt hai sự kiện trong cùng một thánh lễ, Giáo hội đã muốn trình bày cho chúng ta khuôn mặt của một Đấng Mêsia đích thực. Nhưng trước tiên chúng ta hãy trở lại với phần nghi thức đầu tiên, đó là nghi thức làm phép lá và rước lá.
Dầu không tường thuật sự kiện một cách hoành tráng như thánh sử Mát-thêu (21,1-11), thánh Mác-cô vẫn có thể giúp chúng ta hình dung lại sự kiện này một cách khá đầy đủ: Chúa Giêsu cỡi trên một con lừa con, nhiều người lấy áo choàng trải xuống mặt đường cho Chúa đi, một số khác thì chặt cành chặt lá mà trải xuống đường. “Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa…”. Chúng ta vẫn quen gọi sự kiện Chúa vào thành thánh như vậy là trọng thể. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: Trọng thể ở chỗ nào? Tiến vào thành thánh như vậy mà đáng gọi là trọng thể sao? Một cuộc rước như thế chỉ tổ làm cho mấy anh lính Rôma phì cười. Bởi họ quá quen những cuộc đón rước hoàng đế với không biết bao đoàn kỵ binh hộ tống, dân chúng reo hò tung hô hai bên đường dễ dài đến 30 dặm. Không nói ở Rôma mà ngay tại Giê-ru-sa-lem này, mỗi khi quan Philatô diễu hành ngoài phố, quan ngồi trên một cỗ xe do bốn con ngựa kéo, hai bên là một đoàn kỵ binh 666 lính với đầy đủ khí giới. Đoàn diễu hành đi tới đâu là hò hét vang tới đó.
Như thế ta mới thấy cuộc vào thánh thánh của Chúa không thể so sánh với các cuộc diễu hành của quan chức bấy giờ. Tuy nhiên, một điều lạ lùng mà ta không thể không nhận ra, đây lại là một sự kiện được cả bốn thánh sử ghi lại một cách rất hào hứng. Chứng tỏ các ngài cũng như những người Do-thái khác đã có cái một nhìn rất khác về sự kiện này.
Trước tiên, lịch sử cũng vén mở cho chúng ta hay rằng mỗi khi quan Philatô đi diễu hành trở về, ông đều cảm thấy rất nhục nhã và uất ức, ức đến nổ ruột. Tại sao vậy? Là vì khi đi diễu hành, diễu hành để thị uy, để biểu dương lực lượng, để hù dọa người dân bị áp bức, Philatô đều thấy rõ những người dân này không sợ, lại còn tỏ vẻ coi thường, người thì nhắm mắt không thèm nhìn, kẻ thì quay đi. Dân này xem ra không bao giờ chịu khuất phục người đang đô hộ mình. Vũ lực quân sự không làm cho dân này kinh sợ. Họ không mong đợi ở sức mạnh quân sự mà mong đợi một điều khác, một điều đã được tiên báo và được truyền thống hàng nghìn năm truyền lại. Họ đợi Đấng phải đến, Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Bởi thế khi họ thấy Chúa Giêsu xuất hiện trong dịp lễ, vị mà họ đã nghe rất nhiều, ít là đã ba năm nay, họ hy vọng và chờ đợi. Bỗng họ thấy Người cỡi trên một con lừa con mà tiến vào thành thánh, họ giật mình sực nhớ ngay lời tiên báo trong sách tiên tri Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9,9-10). Lại thêm chi tiết làm họ không còn nghi ngờ gì nữa, Đấng phải đến đang đến, đó chính là nơi Chúa xuất phát để vào thành thánh. Chính nơi này, khoảng một nghìn năm về trước, vua thánh Đa-vít cũng được rước vào thành thánh cách long trọng. Hai dấu hiệu đó làm người Do-thái giật mình nhận ra: thôi chết rồi, chính người này là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng được Thiên Chúa sai đến. Thế là người già, con trẻ bảo nhau cởi áo khoác trải xuống đường, người thì vội chạy chặt cành chặt lá trải hết ra đường cho Người đi. Đây là những cử chỉ rất giàu ý nghĩa. Áo của người dân nghèo chính là thảm. Con không có tiền mua thảm thì đây áo của con chính là thảm. Cành lá được trải xuống đường, được cầm tung hô reo hò vì lá chính là cờ của dân nghèo. Cành lá nói lên nguyện vọng, yêu sách của dân nghèo. Nó là biểu tượng nói lên khát vọng của dân nghèo, những người thấp cổ bé miệng của con cái Thiên Chúa. Khi giơ cao những cành lá để tung hô, đón Chúa, người dân nghèo như muốn thốt lên với chính Đấng được Thiên Chúa sai đến: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới là Đấng có thể đáp ứng mọi nhu cầu, mọi khát vọng của loài người chúng con.
Khát vọng này sẽ được lấp đầy khi chúng ta bước vào phần thánh lễ. Người Do-thái sẽ ngỡ ngàng khi thấy Chúa không làm gì khác lạ sau sự kiện vừa rồi. Họ thất vọng, và nghĩ có lẽ đây không phải là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Những biến cố đau thương và tử nạn liên quan tới Người, đối với họ như một lời xác nhận họ nghĩ đúng. Chắc chắn đây không phải là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Nhưng họ đâu ngờ được rằng, chính trong sự kiện thương khó và tử nạn này, lời tiên báo của Người đã trở thành sự thực: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Thứ sáu tuần này, chúng ta cùng cả Giáo hội sẽ tưởng niệm sự kiện trọng đại này, sự kiện Người được giương cao lên khỏi mặt đất và cũng là sự kiện Người chính thức giơ hai tay kéo cả nhân loại lên với Người. Đó chính là giờ ơn cứu chuộc tuôn trào xuống thế gian như một dòng thác, là giờ sức mạnh của ân sủng tẩy xóa hết mọi nhơ bẩn của thế trần, là giờ của sự giải phóng đích thực và cũng là giờ Thiên Chúa tỏ hiện rõ nhất: Ngài là một Thiên Chúa Tình Yêu.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong trình thuật đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-.cô và Lu-ca còn xác định chi tiết hơn Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh đức Giê-su khải hoàn tiến vào Thành Thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (bức tranh Na-pô-nê-ôn vượt qua dãy Alps của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì sâu sắc khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9,9). Ý nghĩa là như thế, nhưng tại sao? Các chú giải quen thuộc như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible) thực ra chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy một nét bên ngoài đã từng được nhắc đến (như thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết trong đời thường, và đối với người Do Thái, việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay những người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Kể từ thời hậu Sa-lo-mom sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giê-su tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Vua Hòa Bình, khác xa quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18,36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại: Ap-ra-ham sát tế I-xa-ác và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ.
Như vậy cảnh tượng đức Giê-su khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3, 14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt. Nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ. Đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể khác được.
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị chai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con. Amen
.
Trầm Thiên Thu
Hy vọng là khởi đầu ước mơ, là đường dẫn tới mục đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn ý tưởng hay đối với cuộc sống: Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, nhìn lên phía trước để có hy vọng, nhìn ra xung quanh để thấy thực tế, nhìn vào nội tâm để thấy chính mình.
Màu xanh tượng trưng cho niềm hy vọng. Lễ Lá là khởi đầu Tuần Thánh, khởi đầu khoảng buồn thương vô tận, đầy tang tóc và chết chóc, nhưng màu xanh của lá cho chúng ta niềm hy vọng tràn trề: Đức Kitô phục sinh.
Trước lễ Vượt Qua một tuần, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, có các môn đệ lội bộ theo sau. Thánh Gioan nói rõ: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!” (Ga 12:12-13).
Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Cũng vậy, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Đó là sự tất yếu, và cũng là Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm.
Trình thuật Is 50:4-7 là phần đầu của bài thứ ba trong số các Bài Ca Người Tôi Trung. Đó là nói về đau khổ của Người Tôi Trung – Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”. Những động thái đó không phải là miễn cưỡng, nhưng là tự nguyện – vì yêu thương và thương xót những người mà Người Tôi Trung quý mến. Kẻ được yêu đó là chính mỗi tội nhân chúng ta.
Đau khổ lắm. Đau khổ đến tột cùng. Phàm ngôn không đủ lời để diễn tả. Nhưng dù đau khổ tới đâu, Người Tôi Trung vẫn một lòng tín thành và tín thác: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng”. Chẳng ai muốn khổ, chẳng ai mong sầu, nhưng có đau khổ mới biết thương người khác. Nếu chưa đau khổ, người ta không thể hình dung ra đau khổ thế nào. Chưa đi tù thì không thể hiểu hết cảnh tù đày, chưa hiểu hết nghĩa của sự tự do. Bị tù là bị khổ.
Có lẽ chúng ta nghe Kinh Thánh kể hoặc nghe nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu nhiều lần rồi, hầu như thuộc lòng, nhưng có thể nói rằng vẫn có chút gì đó “mơ hồ” nếu chưa xem phim “The Passion of Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Mel Gibson (1). Xem cảnh quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có ai có thể tưởng tượng được như vậy. Mel Gibson có trí óc rất tinh tế. Giỏi thật!
Khi gặp đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, và vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì cam chịu, tủi thân, có trách thì chỉ trách mình mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9). Buồn lắm, buồn đến chết được!
Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Chuỗi buồn này tiếp chuỗi sầu khác. Nước mắt không chỉ mặn, mà còn chua và cay. Cô đơn và lạc loài, thế mà đau khổ cứ tiếp tục chồng lên đau khổ: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20). Đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Dù là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn phải chịu đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chắc chắn không một phàm nhân nào phải chịu đau khổ như Ngài. Nhân tính nơi Ngài cũng phải chịu đựng lắm, cả tinh thần và thể lý, chúng ta không thể tưởng tượng được. Ngay cả những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) chỉ là một phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi, chưa thấm vào đâu!
Dù cô đơn, lạc loài, nhục nhã, đau khổ, nhưng Người Tôi Trung vẫn quyết vì Danh Chúa. Hình ảnh này đã và đang được thể hiện nơi các vị tử đạo. Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương” (Tv 22:23).
Thánh Phaolô cho chúng ta biết về sự tự nguyện của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Dù là loại tình yêu nào thì cũng phải tiết ra “chất” hy sinh, nếu không có sự hy sinh thì không đáng gọi là tình yêu. Hy sinh cao nhất là “dám chết” vì người khác. Thật vậy, khi nói về tình yêu, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Đức Giêsu Kitô đã nêu gương để chúng ta noi theo. Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11).
Thật lạ, chuỗi đau khổ bắt đầu chính từ khoảnh khắc hiển hách. Trình thuật Mc 14:1-15 như một đoạn phim sống động, cho chúng ta thấy rõ điều đó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động”. Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Lúc đó, ngay tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Giữa lúc Đức Giêsu dùng bữa, có một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng (2) nguyên chất, thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Chắc hẳn cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Không biết cô có biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không, nhưng cô thực sự tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới “ngồi lì” để xin Ngài thương xót. Niềm hy vọng của cô rất lớn, rất cao, rất rộng, rất sâu.
Đám bạn của ông Simon Cùi biết rõ cô nàng này, thế nên có vài người lấy làm bực tức và xì xầm: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo”. Ra cái điều nhân đức lắm. Bảo là thương người nghèo hay tiếc của? Họ hy vọng điều gì? Chúng ta cũng thường có động thái này khi muốn chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay “phong cách” của chúng ta tinh vi hơn thời xưa. Thử “nhìn” các thành viên trong hội này hoặc đoàn nọ mà xem. Chẳng oan uổng chi mô!
Tức trong lòng chưa đủ, họ còn thốt ra lời họ gắt gỏng với cô. Lòng ghen tức của con người kinh khủng, thật đáng sợ! Nhưng Đức Giêsu ôn tồn bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”. Chúa Giêsu không thích nói nhiều, nhưng lúc này Ngài phải nói “dài hơi” một chút để những người có “óc bã đậu” (dốt thật hoặc cố chấp) có thể hiểu.
Nữ tội nhân này bị chúng ta khinh miệt và ghét bỏ, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”.
Điều gì sẽ đến rồi sẽ đến. Thánh sử Mác-cô kể ngắn gọn sang một cảnh khác: “Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện” (Mc 14:10-11). Vì mê tiền, ông Giu-đa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông cũng có cách hy vọng riêng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Tiền dù rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó có thể cưỡng lại, và Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Lơ là một thoáng là chết chắc – bất kỳ ai!
Rồi đến hôm đó là ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”. Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ vào thành, sẽ có một người mang vò nước đón gặp họ, và bảo họ cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho Ngài ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ có nhiệm vụ dọn tiệc.
Chiều đến, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy”. Tá hỏa tam tinh. Giòi trong xương giòi ra thật ư? Đáng sợ thật! Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì biết họ trở tay lúc nào mà đề phòng? Rất nguy hiểm. Quả thật, bạn bè và người thân đôi khi còn đáng sợ hơn kẻ thù!
Và rồi sau Bữa Tiệc Ly, qua việc chỉ điểm của ông Giu-đa, bọn thủ ác đã tra tay bắt Chúa Giêsu. Thấy chướng mắt, ông Phêrô có sẵn gươm liền tuốt ra, vung chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Hú hồn! Có lẽ Phêrô chỉ hoảng mà chém đại thôi, chứ cũng đang run thí mồ! Nhưng rồi Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, không chịu sám hối, vẫn quyết bắt giết Con Thiên Chúa!
Đoạn phim buồn chưa khép lại ở “khoảng tối” này, và còn một “khoảng đen” khác, nhưng cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng. Màu xanh hy vọng vẫn tươi sắc xanh biếc…
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chấp nhận đau khổ với lòng tự nguyện, vì yêu Chúa, vì thương người, vì muốn cứu các linh hồn và để đền tội chính mình. Xin ban thêm lòng can đảm để chúng con đủ sức duy trì niềm hy vọng vào Danh Đức Giêsu Kitô cho tới hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
———————-
(1) Phim lồng tiếng Việt – https://www.youtube.com/watch?v=YthiJ07xRAs
(2) Cam tùng (tên khoa học là Nardostachys) là một chi thực vật thuộc họ Kim Ngân. Chi này gồm hai loại có thể gọi là cam tùng hoặc cam tùng hương, được sử dụng để chiết xuất lấy tinh dầu màu hổ phách, mùi rất thơm.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1/ Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu ? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2/ Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a/ Đau khổ về thân xác
Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b/ Đau khổ về tinh thần
Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào !. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền ! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3/ Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá” (Pl 2,8).
4/ Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu : bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô (Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5/ Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
—————–
[i] Tác giả An Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
[ii] sđd trang 232-269.
.
Lm. Jos. DĐH.
Nhất lé nhì lùn, hay nhất lý nhì lỳ, từ trong gia đình tới ngoài xã hội đều phải nể; người có sức mạnh về tiền của, sức mạnh cơ bắp, hay sức mạnh tâm trí, luôn được coi là một lợi thế. Ở thời nào cũng vậy, bạo động hay bạo lực đều đáng sợ, nguyên nhân dẫn tới bạo động, bạo lực, là do không hiểu biết, hoặc thiếu lập trường. Chẳng ai có thể sống an vui trong hoàn cảnh : một gia đình hai chủ, một đất nước hai vua ! Gia đình xã hội theo bản chất phải gồm những người yêu thương nhau mà tiền nhân ta gọi là tứ hải giai huynh đệ, vì mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ giúp nhau đạt tới hạnh phúc.
Để dĩ hòa vi quí trong ứng xử, các bậc tiền bối đã để lại kinh nghiệm cho con cháu câu thành ngữ : khôn làm cột cái, dại làm cột con. Nếu chấp nhận được nguyên lý ấy, gia đình, xã hội, sẽ không còn phải sử dụng lý lẽ, thay vào đó văn hóa ứng xử luôn có cụm từ đáng yêu : bổn phận, nghĩa vụ. Bước vào Tuần Thánh, người Kitô hữu được nhắc nhớ về lập trường tin-yêu và sống-đạo của mình, cho dù là em bé, hay người lớn chúng ta đều hiểu Chúa Giêsu chịu chết là vì tội lỗi của ta của nhân loại.
Đi sâu vào mầu nhiệm thương khó hôm nay, chúng ta sẽ đối diện với nhiều phức tạp, có người cho rằng Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá thuộc về trách nhiệm của các luật sĩ biệt phái và đám đông dân Do-thái. Các nhà đạo đức cho rằng Đức Giêsu chịu chết là vì yêu nhân loại, vì muốn giải thoát con người khỏi tội lỗi sự chết. Sẽ không bao giờ bình thường đối với lý của kẻ mạnh, tình của người đang yêu, và kinh nghiệm của tiền nhân còn cho biết : khôn ngoan đừng cãi người già, chớ dại mà chửi nhau với người trẻ.
Giới lãnh đạo tôn giáo đã dùng sức mạnh của quyền lực, dùng mưu mô kích động dân chúng, kết án Đức Giêsu phải chết và tha Baraba. Đức Giêsu thì sẵn lòng chịu chết để diễn tả tình yêu Thiên Chúa, đó là lý chứng mạnh mẽ và vĩ đại nhất. Rất nhiều người đã đọc và hiểu : chân lý không thuộc về đám đông, thế mà không phải xưa, mà nay, thiên hạ vẫn lên án người tốt một cách vô căn cứ…
Nếu hiểu theo lý lẽ tự nhiên : cha mẹ hy sinh cho con cháu không bao giờ là vô nghĩa, con cái nhớ tới công sinh thành dưỡng dục sẽ chẳng khi nào mất ơn phúc. Chúa Giêsu vì yêu các tông đồ, vì yêu thương nhân loại, nên dù hiểu sai, dù đám đông dân chúng có a-dua tham dự vào việc giết Chúa, cuộc tử nạn phục sinh của Chúa vẫn mang lại giá trị cứu độ cho những ai biết thật lòng sám hối ăn năn.
Từ lâu người ta vẫn nói : quân tử phòng thân, chứ không ai nói : quân tử liều thân, hay không bao giờ người quân tử tự đi tìm cho mình cái chết vô lý…. Đồng ý rằng ai sống trên đời rồi cũng phải chết, và Chúa Giêsu có từ chối không để người Do-thái đóng đinh thập giá, thì mang thân xác loài người, Đức Giêsu cũng sẽ đối diện với sinh lão bệnh tử. Sở dĩ có Tuần Thánh là để con người suy xét về cách sống niềm tin của mình, biết đến căn nguyên tội lỗi của mình. Hiểu biết tình yêu của Chúa mạnh hơn sự chết, mọi người luôn cần được cứu độ, được hưởng ánh sáng tự nhiên, nên rất cần được ánh sáng phục sinh soi chiếu tâm hồn và cuộc đời hiện tại.
Nhiều người đã chia sẻ, tôi thấy thật là khủng khiếp khi nghĩ tới gánh nặng gia đình : còn tiền còn của, thì còn anh anh, em em, hết tiền hết tình, hết vợ hết chồng, hết con yêu ! Đúng, chỉ một số ít người theo Đức Giêsu tới chân thập thập giá đồi Canvê, còn lại vì sợ liên luỵ, sợ nguy hiểm tới tính mạng, kể cả 12 tông đồ, lúc ấy các ông cũng nhát như thỏ mà thôi. Trong đời sống siêu nhiên, lý của kẻ mạnh nhất định không phải do tài giỏi, giầu có, sức khỏe cơ bắp; lý của kẻ mạnh là biết khiêm tốn cậy trông vào sức mạnh của đau khổ thập giá Đức Kitô.
Không biết có khi nào chúng ta đặt vấn đề, nếu tôi có mặt ở thời Chúa Giêsu, tôi có là một Philatô sợ mất ảnh hưởng ? tôi có là môn đệ nhút nhát ? hay tôi sẽ là một người dân vô tội dửng dưng đứng ngoài cuộc ? Gợi lên như thế, cũng là dịp để chúng ta suy xét về con người thật của mình vô cùng yếu đuối, là dễ dàng đứng về phe kẻ mạnh thế, khó lòng đủ can đảm đứng lên bênh vực cho công lý tình yêu thương.
Xã hội hôm nay cho rằng, người khôn ngoan là người biết sống quan điểm : gió chiều nào theo chiều ấy, đỉa bám chân ai, tự người ấy gỡ. Đức Giêsu bị án chết, thế là đủ, không nên kéo theo kẻ khác phải đau khổ, chết thê thảm theo làm gì. Hiện thân của Chúa Giêsu thời nào cũng là người công chính, người dám sống cho sự thật, tuy nhiên người nghèo, người không có địa vị, họ vẫn đang bị đối xử thiếu công bằng, liệu ai trong chúng ta dám bênh vực cho công lý tình yêu thương ? Sau hết, vì tình yêu của Đức Kitô được ban cho người Kitô hữu, chúng ta phải có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô được lớn mạnh lên như một bổn phận, ta hãy sống yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sẽ còn phải tốn rất nhiều thời gian và giấy mực để viết về đề tài tình yêu, vì người ta sẽ không thể nào giải thích, cũng không thể diễn tả hết được tình yêu cha mẹ dành cho con cái, tình yêu đôi bạn trẻ dành cho nhau. Người ta sẽ không thể giải thích được tại sao có những đôi bạn trẻ dám chấp nhận mọi nguy hiểm kể cả mạng sống để có thể đến được với nhau, hay những người cha, người mẹ chấp nhận đau khổ, hao mòn và cả cái chết để cho con mình được sống. Ngược lại, xã hội không thể hình dung được có những người con đang tâm đem mẹ già bỏ ngoài vỉa hè trong mùa đông giá rét, sau đó, người mẹ chết thì không đứa con nào muốn đưa xác mẹ vào nhà.
Tin Mừng Marcô hôm nay cũng cho thấy những mảng sáng và mảng tối trong một bức tranh về tình yêu, trong đó bao gồm cả sự ngưỡng mộ, yêu mến lẫn sự phản bội bẽ bàng đối với tình yêu của Chúa Giêsu.
Bằng một giọng văn chân chất, tác giả cho thấy tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ và nhân loại như một dòng chảy tự nhiên xuất phát từ trái tim của một người cha dành cho con. Chúa Giêsu được trình bày như một người cha cặm cụi chuẩn bị từng chi tiết, lo lắng hy sinh cho con đủ điều và kết cục là chấp nhận cả cái chết để cho con mình hạnh phúc. Trước khi kể về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Thánh sử đã kể lại hai biến cố tương phản nhau để cho thấy sự đáp trả của con người đối với tình yêu Thiên Chúa.
Trước hết là câu chuyện xảy ra ở Betania, tại nhà ông Simon Cùi. Sự kiện là, đang khi mọi người dùng bữa, thì có một phụ nữ xuất hiện. Trong mắt mọi người, cô ấy là một đứa lăng loàn mất nết, vậy mà, phụ nữ này đã dám đập bể một bình dầu thơm cam tùng hảo hạng để xức chân Chúa. Việc làm này khiến nhiều người ở đó cho là vô lý và phí của. Họ trách cô rằng : Tại sao không bán bình dầu lấy tiền cho người nghèo ? Họ đã mượn danh người nghèo để phê bình hành động của cô, vì người ta không thể hiểu tại sao cô làm như thế. Nhưng Chúa Giêsu đã hiểu, đã cảm nhận được và còn biết thấu tâm hồn cô, Ngài đã nói với mọi người rằng cứ để cho cô làm. Vì những người này đã lấy những lý luận thông thường của lý trí để xét đoán hành động của người khác, còn Chúa Giêsu, Ngài nhìn hành động của người khác bằng con mắt của trái tim để thấu cảm với họ.
Chúa Giêsu cũng điều chỉnh thái độ mượn danh người nghèo để phê bình hành động của người khác khi nói với họ : Người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh, còn tôi thì các ông chẳng có mãi đâu. Cô ấy lấy dầu thơm xức chân tôi là dấu chỉ của việc mai táng… thiên hạ sẽ nhớ đến việc làm này của cô.
Nếu như câu chuyện thứ nhất đem lại cho Chúa Giêsu sự an ủi, thì câu chuyện thứ hai lại gây tổn thương, đau lòng cho Ngài. Giuđa là một trong những môn đệ của Chúa lại trở thành kẻ phản bội, môi giới trao nộp Thầy với cái giá bán một tên nô lệ. Cái đau khổ nhất trong tình yêu đó là khi thấy mình bị phản bội, mà kẻ phản bội lại là kẻ gần gũi nhất với mình. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau bị phản bội ấy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn hy vọng anh ta hối hận khi Ngài dành cho anh cử chỉ của tình yêu. Ngài nhiều lần nhắc anh trong bữa Tiệc Ly, nhưng anh không nhận ra tín hiệu yêu thương của Chúa, anh đã từ chối ánh sáng để chọn bước vào bóng tối. Dù bị phản bội và vấp phải sự cứng lòng của Giuđa, nhưng Chúa Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ tình yêu của Ngài dành cho các môn đệ.
Cao điểm của bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng này, Chúa Giêsu đã thực hiện hết tất cả những gì trái tim mách bảo và tình yêu thúc đẩy. Ngài cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói : Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Ngài cầm chén và trao cho các ông : Đây là chén máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người. Với việc làm cho bánh rượu trở nên mình và máu rồi trao cho các môn đệ để các ông cầm lấy mà ăn mà uống, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọn vẹn cả con người của mình, trở nên như một quà tặng đặt vào tay các ông. Nếu như người phụ nữ chỉ đập bể một bình dầu, các ông đã lấy làm xót xa, thì giờ đây, Chúa còn bẻ nát cả con người của mình để trao cho các tông đồ làm của ăn của uống nuôi các ông. Hành động này chỉ có thể hiểu được bằng trái tim mà thôi.
Liền sau đó, Tin Mừng thuật lại chi tiết việc Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn : kẻ phản bội thực hiện ý đồ của mình ; những thượng tế và luật sĩ là những kẻ chủ mưu thì hả hê vì chiến thắng ; các môn đệ, những người được yêu, thì dửng dưng nằm ngủ, rồi khi thức dậy thì sợ hãi bỏ trốn hết. Lúc này, Thánh Marcô muốn cho thấy : Chúa Giêsu đã bằng lòng bước vào trần gian vì yêu nhân loại, thì giờ đây, Ngài cũng bằng lòng đi hết con đường trần gian vì yêu nhân loại. Đoạn đừng cuối cùng ở trần gian của chúa Giêsu lại là đoạn đường bi thương nhất do chính những kẻ được yêu gây ra cho Ngài. Những luật sĩ, thượng tế đã muốn loại trừ Ngài ra khỏi cộng đồng. Họ hành hạ Ngài cho thỏa cái ác trong lòng họ. Họ trút xuống trên Ngài sự thù hận mà họ nuôi dưỡng.
Câu chuyên Tin Mừng cho thấy một bên là tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Ngài hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả ; còn bên kia là bộ mặt thật của con người khi bị cái ác điều khiển, bị ma quỷ thống lĩnh, khi lương tâm không còn nhạy bén, khi sự thù hằn lên đến đỉnh cao thì sẽ dẫn đế tình trạng loại trừ người khác và hành động dã man như thế.
Sự dã man, gian ác đang nằm sẵn trong mỗi người và ma quỷ là kẻ rất xảo quyệt, khéo léo khơi dậy cái ác và sự dã man trong mỗi con người. Cùng với ma quỷ là tình trạng tội lỗi sẽ làm cho lương tâm con người bị chai lì và bóp nghẹt trái tim khiến con người trở nên vô cảm trước nỗi đau của anh em đồng loại. Tình trạng này đang diễn ra ở nhiều nơi và nhiều tâm hồn con người.
Thật đáng buồn khi ta thấy cái ác đang diễn ra trong xã hội và ngay trong khu vực chúng ta đang sống. Cái ác đang xảy ra ngay trong xóm đạo, trong gia đình những người Công Giáo. Điều đó chứng tỏ rằng, nơi đó đang thiếu vắng tình yêu, nhất là thiếu vắng Thiên Chúa. Họ thiếu vắng Thiên Chúa không phải vì Thiên Chúa không có mặt ở nơi đó, mà là do chính những con người ấy đã muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của họ. Họ không muốn Thiên Chúa can thiệp vào đời sống và công việc của họ.
Bạo lực cũng đang xảy ra nơi gia đình. Nhiều cha mẹ đã không còn tình yêu quảng đại và sự hy sinh dành cho con cái, thay vào đó là sự ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn nghĩ đến con cái. Nhiều vợ chồng không còn muốn hy sinh cho nhau, nhiều cha mẹ ngại hy sinh, sợ vất vả vì con. Vì thế, họ đã biến gia đình thành nơi để trút xả những cơn giận dữ. Họ chửi bới, khiến cho gia đình không còn là mái ấm tình yêu nữa. Cũng vậy, nhiều bạn trẻ đã để cho bản năng và sự ác điều khiển, khiến dễ dàng cư xử với nhau bằng bạo lực, cơ bắp, bằng sự nóng nảy thay vì bằng tình yêu thương, sự quảng đại và tha thứ.
Chỉ có tình yêu mới có thể đem đến hòa bình, chỉ có tha thứ mới có thể chữa lành được vết thương của hận thù. Xin cho mỗi người bước vào Tuần Thánh, nhìn lên thập giá Chúa Giêsu để học nơi Chúa bài học yêu thương và tha thứ. Hãy đón Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng và để Ngài hướng dẫn mọi hành động của chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết để cho trái tim và tình yêu thúc đẩy, để mỗi người dám hành động vì tình yêu dù có phải chấp nhận hy sinh. Amen.
.
GÓP PHẦN XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC TIN YÊU HẠHN PHÚC
Lm. Đan Vinh
I/ HỌC LỜI CHÚA
1/ TIN MỪNG: Mc 11,1-11:
(1) Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ (2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và đem nó về đây. (3) Và nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay”.(4) Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền tháo dây lừa ra. (5) Mấy người đứng đó nói với các ông: “Các anh tháo lừa ra làm gì vậy?” (6) Hai ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. (7) Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên. (8) Nhiều người cũng trải áo họ xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. (9) Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! (10) Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (11) Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.
2/ Ý CHÍNH
Phụng vụ Lễ Lá hôm nay gồm hai phần: Rước Lá (x Mc 11,1-11) và Thánh Lễ với Tin Mừng về sự Thương Khó của Chúa Giêsu (Mc 14,1-15,47)
– Phần thứ I (Mc 11,1-11): Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chúng đi theo và hoan hô như đón mừng một ông Vua khải hoàn vào thành để lên làm vua. Nhưng Đức Giê-su không đáp ứng khát mong của dân Do Thái để làm vị Vua Thiên Sai mang tính trần thế, mà Người chọn thái độ hiền hòa của vị Vua Mục Tử khi chọn ngồi trên lưng lừa thay vì trên ngựa chiến.
– Phần thứ II (Mc 14,1-15,47): Đức Giê-su chính là Tôi Tớ đau khổ của Đức Chúa. Người đến không phải để đòi người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta thể hiện qua việc rửa chân cho môn đồ và chấp nhận đi con đường “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh”. Người còn thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng Đức Tin của các tín hữu, và sẵn sàng hy sinh tính mạng bằng việc chấp nhận cái chết thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống muôn đời cho chúng ta.
3/ CHÚ THÍCH
– C 1: + Núi Ô-liu: hay Núi Cây Dầu, nằm về phía Đông thành Giê-ru-sa-lem. Tại đây Đức Giê-su đã trải qua giờ phút hấp hối trước khi bị bắt (x. Mc 14, 26-50), và sau khi sống lại, Người đã ban huấn lệnh cuối cùng trước khi lên trời cũng tại núi này (x. Cv 1,12).
– C 2: + Một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ: Đức Giê-su dùng lừa con thay vì lừa mẹ. Lừa con chưa bị ai cỡi, nên xứng đáng được Đức Giê-su sử dụng trong nghi thức khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem để lên làm Vua. Người cưỡi lừa chứ không cưỡi ngựa để cho thấy Người là ông Vua hòa bình chứ không lên làm vua bằng sự chinh chiến.
– C 3: + “Chúa” cần đến nó: “Chúa” hay “Chúa thượng” (Ky-ri-os) và Đức Chúa (A-do-nai), là hai tước hiệu dành để kêu cầu Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai. Khi tự gán cho mình tước hiệu “Chúa Thượng” (x. Tv 110,1-7), Đức Giê-su muốn nói với người Do Thái rằng: Tuy là “Con Đa-vít”, Người vẫn cao trọng hơn Đa-vít và có trước ông (x. Mt 22,43-45). Thánh Phao-lô cũng đã tuyên xưng: “Đức Giê-su là Chúa” (Rm 10,9). Tước hiệu “Ky-ri-os” (“Chúa Thượng”), ám chỉ quyền tối cao của Đức Ki-tô ngang hàng với Thiên Chúa (x. Pl 2,10). + Người sẽ gởi lại đây ngay”: Đức Giê-su đã liên lạc trước để mượn lừa của một người quen và cho mật khẩu cho hai bên khi trao và nhận lừa. Người cũng hứa khi dùng lừa xong sẽ mang trả lại.
– C 4-8: + Nhiều người trải áo họ xuống mặt đường… Chặt nhành lá ngoài đồng mà rải: Bên Cận Đông, dân chúng thường trải áo hay chặt cành lá trải trên đường để tỏ lòng tôn kính Đức Vua hay vị tướng chiến thắng từ mặt trận trở về (x 2V 9,13). Ở đây, dân chúng đón rước Đức Giê-su như một ông Vua Mê-si-a. Họ hy vọng Người đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma.
– C 9-11: + Hoan hô!: hay Ho-san-na. Chữ này bắt nguồn từ chữ: Ho-si-a-nah” nghĩa là “Xin ban ơn cứu độ” (x. Tv 118,25-26). Lời tung hô: “Ho-san-na!”, nghĩa là “Hoan hô!” hay “vạn tuế!”. (Mt 21,9). + Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta: Vị Vua Thiên Sai mà dân chúng đang mong chờ là con cháu thuộc hoàng tộc Đa-vít, có sứ mạng tái lập vương quyền của Đa-vít. Chính vì quan niệm sai lầm như vậy, nên không lạ gì khi mấy ngày sau, đám đông dân chúng lại vào hùa với bọn đầu mục Do Thái để đòi quan tổng trấn Phi-la-tô tha Ba-ra-ba là kẻ cầm đầu phiến quân và kết án tử hình cho Đức Giê-su, vì Người không đáp ứng tiêu chuẩn Vua cầm quân chiến đấu với người Ro-ma như ý họ muốn (x. Mc 15,9-14).
4/ CÂU HỎI: 1) Trong Tin Mừng đọc trước khi rước lá, Đức Giê-su đã làm gì để cho thấy Người là Đấng Thiên Sai, nhưng là vị vua mục tử hiền lành? Còn dân Do thái lại đang trông mong một Vua Thiên Sai như thế nào? 2) Bài Thương Khó trong Thánh Lễ chứng minh Đức Giê-su chính là Ngươi Tôi Tớ Đau Khổ Của Đức Chúa qua những sự kiện gì? 3) Tại sao Đức Giê-su lại cưỡi lừa con thay vì lừa mẹ khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem? 4) Khi dùng lừa khải hoàn vào thành, Đức Giê-su đã thực hiện lời tuyên sấm của vị Ngôn Sứ nào? 5) Khi tự xưng là “Chúa” trong câu nói “Thì cứ nói là Chúa cần đến nó”, Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì về thân thế của Người? 6) Qua sự kiện hai môn đệ thấy mọi việc xảy ra đúng như lời Đức Giê-su đã nói trước cho thấy Người là ai? 7) Khi trải áo choàng xuống mặt đường để đón rước Đức Giê-su, dân chúng thể hiện lòng tin thế nào về Người? 8) Hô-san-na nghĩa là gì? 9) Tại sao dân chúng mới hoan hô Đức Giê-su bằng câu “chúc tụng triều đại vua Đa-vít”vào Chủ Nhật Lễ Lá, mà đến sáng Thứ Sáu lại đòi Phi-la-tô đóng đanh Người vào thập giá?
II/ SỐNG LỜI CHÚA
1/ LỜI CHÚA: Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời !”(Mc 11,9).
2/ CÂU CHUYỆN: CHẤP NHẬN HY SINH VÌ DANH ĐỨC GIÊ-SU
Linh mục G. Par-ker, quản nhiệm giáo xứ thánh Giu-se giáo phận Nor-wich ở Con-nec-ti-cut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đô-la do nghị sĩ Chris-to-pher J.Dodd đã giúp đỡ trường học của giáo xứ, để phản đối vị nghị sĩ Công giáo này, đã bỏ phiếu ủng hộ các dự luật về phá thai. Cha Par-ker đã gọi số tiền Dodd ủng hộ ngôi trường của giáo xứ là “tiền vấy máu các thai nhi vô tội” và không ngần ngại gọi ông nghị sĩ này là “Môn đồ của Tử Thần”. Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng khắp nơi khi nghe biết đã gởi về giúp đỡ cho trường học của giáo xứ số tiền lên tới 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống và nhiều cơ quan truyền thông cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ngài.
3/ THẢO LUẬN: 1) Bạn đánh giá thế nào về hành động của linh mục Par-ker trong câu chuyện trên? 2) Trong ngày Lễ Lá hôm nay, Đức Giê-su đã khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một ông vua thế nào? 3) Để góp phần kiến tạo Vương Quốc Yêu thương hạnh phúc, chúng ta phải làm gì cụ thể để đẩy lùi giặc nghèo đói, lạc hậu, bất công, dối trá, vô cảm, bất nhân… Cụ thể là xua trừ các tệ nạn sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, cướp giật… ra khỏi môi trường ta đang sống?
4/ SUY NIỆM
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay là sự khởi đầu của Tuần Thánh. Sau khi diễn lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, chúng ta sẽ cùng bước theo Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó của Người tại thành Giê-ru-sa-lem:
1) ĐỨC GIÊ-SU KHẢI HOÀN VÀO THÀNH NHƯ MỘT VỊ VUA THIÊN SAI:
Qua việc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã thực hiện lời tiên báo của ngôn sứ Gia-ca-ri-a về Đấng Mê-si-a cỡi lừa tiến vào Giê-ru-sa-lem. Điều này cho thấy Người chính là Đấng Mê-si-a Thiên Sai được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến. Vào thời bấy giờ, nhiều người Do Thái đang trông mong Đấng Thiên Sai đến thiết lập một Vương Quốc giống như thời vua Đa-vít và Sa-lô-môn thời xưa, bằng việc lãnh đạo dân Do Thái đứng lên đánh đuổi quân Rô-ma ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Nhưng khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem trên lừa con thay vì trên mình ngựa chiến, Đức Giê-su lại cho thấy Người là Vua Mê-si-a hòa bình, đến để thiết lập một Vương Quốc Yêu Thương Hạnh Phúc.
2) ĐẶC ĐIỂM CỦA VUA THIÊN SAI GIÊ-SU:
– Là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa: Người đến như một Tôi Tớ khiêm hạ sẵn sàng gánh lấy bệnh tật tội lỗi của loài người, cam chịu nhục hình đau khổ để đền tội cho loài người như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x. Is 53,2-12). Đức Giê-su chấp nhận con đường “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Lc 24,26).
– Là Vua Mục Tử Tốt Lành: Người không đòi được hầu hạ, nhưng để phục vụ chăn dắt và sẵn sàng thí mạng để bảo vệ đàn chiên (x. Mt 20,28), cụ thể qua việc Người quỳ gối rửa chân cho môn đồ và sẵn sàng chịu chết để chiên được sống đời đời (x. Ga 10,11).
– Là Vua xây dựng Hòa Bình: Khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su ngồi trên con lừa biểu tượng hòa bình, thay vì ngồi trên ngựa chiến (x. Mc 11,7-10). Điều đó cho thấy sứ mạng của Người không phải để chinh chiến giải phóng về mặt chính trị như các đầu mục dân Do Thái trông mong, nhưng để thiết lập một Vương Quốc Hòa Bình, trong đó mọi người yêu thương nhẫn nhịn tha thứ cho nhau và giúp nhau ngày càng nên hoàn thiện.
– Là Vua Tình Yêu: Người đến để thiết lập một Vương Quốc Tin Yêu, trong đó mọi người đều là con của một Cha Chung là Thiên Chúa, đều là môn đệ của một Tôn Sư tối cao, đều đi theo một Thủ Lãnh duy nhất trên đường về nhà Cha là Đạo Công Giáo (x. Mt 23,8-10). Người còn thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, và sẵn sàng hy sinh tính mạng, chịu chết đau thương trên cây thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
– Là Vua đến cho chiên được sống dồi dào: Để kiến tạo Nước Trời hay Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã đề ra một bản Hiến Chương gọi là Tám Mối Phúc, để mời gọi mọi người gia nhập vào Nước ấy (Mt 5,1-12). Để được gia nhập Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau, chúng ta cần sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật như sau: Có tinh thần nghèo khó, hiền lành, bị đau buồn khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết thương xót người khác, có lòng trong sạch, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin.
– Là Vua Thẩm Phán xét xử công minh: Đức Giê-su nêu gương tin yêu Chúa Cha và dạy các môn đệ thực thi tình yêu cụ thể đối với tha nhân. Đến ngày tận thế, Người sẽ tái lâm để làm Vua Thẩm Phán xét xử mọi người tùy theo các việc chia sẻ bác ái cụ thể họ đã làm hay không làm đối với những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi… là hiện thân của Người (x. Mt 25,34-40).
3) CON ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ CỦA VUA GIÊ-SU:
Chỉ có một con đường duy nhất đưa chúng ta lên trời là đường Giê-su như Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Con đường của Đức Giê-su chọn theo thánh ý Thiên Chúa là đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi, là Đường Thánh Giá như lời Chúa Giê-su phán: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8,31).
Đức Giê-su đã chấp nhận đau khổ để cho nhân loại được hạnh phúc, chấp nhận chịu chết để mọi người chúng ta được sống đời đời. Vì thế, đối với Đức Giê-su: đau khổ và chết cho người mình yêu là cách tuyệt hảo nhất để biểu lộ tình yêu tột đỉnh: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13). Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần sử dụng thường xuyên cách biểu lộ tình yêu tuyệt hảo này trong cuộc sống đời thường của mình như lời Chúa dạy: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 15,12). Yêu thương trước hết là yêu người thân của mình như cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè… Tiếp đến yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù ghét bách hại chúng ta (x. Mt 5,44). Yêu thương cụ thể là năng nghĩ đến người yêu và làm vui lòng họ, sẵn sàng chia sẻ những gì mình có, hy sinh chịu thiệt cho người yêu được hạnh phúc…
4) TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC TIN YÊU HẠNH PHÚC:
Mỗi tín hữu chúng ta cần tích cực xây dựng Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian bằng việc năng tham dự các nghi lễ phụng vụ, các cuộc ngắm nguyện, đi đàng thánh giá chung cộng đoàn… Tiếp đến, chúng ta cần xây dựng Vương Quốc yêu thương của Chúa bằng việc sống Tám Mối Phúc, nhất là thực hành bác ái yêu thương cụ thể là phục vụ Đức Giê-su bị bỏ rơi trên cây thập giá, hiện thân qua những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi. Đây là điều kiện để trong ngày tận thế Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ đón nhận chúng ta vào Vương Quốc Thiên Đàng đời sau.
Để nên giống Đức Giê-su, mỗi ngày mỗi người chúng ta cần động viên nhau chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Cụ thể là chiến đấu chống lại các sự gian ác, nghèo đói, bất công và thù hận trong xã hội; Tránh kết án và loại trừ lẫn nhau, nhưng sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của tha nhân và an ủi những người đau khổ bất hạnh để làm chứng cho Đức Giê-su, hầu Vương Quốc Hội Thánh ngày một lan rộng đến tận cùng thế giới như lời Chúa dạy.
5/ LỜI CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong ngày Lễ Lá hôm nay, Chúa đã chọn ngồi trên lưng lừa thay vì trên mình ngựa chiến để khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Qua đó Chúa muốn biểu lộ sứ mạng của Chúa là đến thiết lập một Triều Đại Thiên Sai hòa bình. Chúa đến không phải để thống trị, nhưng để phục vụ; để ban bình an và chia sẻ vui buồn với loài người chúng con. Xin cho chúng con luôn biết quên mình để nghĩ đến người khác, biết cư xử bao dung hiền hòa với tha nhân, cho chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân và tha thứ vô điều kiện cho những xúc phạm của kẻ khác đối với chúng con… để chúng con xứng đáng là con ngoan của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người trong Vương Quốc Hòa Bình của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sau 40 ngày chay thánh, hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm sự thương khó, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta suy niệm cuộc đời của Chúa Giê-su trong những ngày cuối cùng của Người. Tất cả lời nói, hành động và việc làm của Người trong tuần thánh này đều có chung một mục đích nói lên và diễn tả tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với chúng ta, trong kế hoạch cứu độ nhân loại. Chúa nhận, chịu tất cả những sự thương khó và chết sỉ nhục trên thập giá vì yêu thương chúng ta.
Nghi thức hôm nay có hai phần: kiệu lá và Thánh lễ. Phần kiệu lá nêu cao vương quyền của Chúa Giêsu, đồng thời giúp chúng ta sống lại cảnh Người khải hoàn vào thành Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu độ, và được dân chúng hoan hô đón rước nồng nhiệt, vì họ tưởng Người đến để lãnh đạo họ và giải phóng họ khỏi sự xâm lăng và đàn áp của đế quốc La mã. Nhưng sau đó họ biết Người là một Vua hiền hòa và khiêm tốn, đến mang ơn cứu độ và giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, cho nên vì thất vọng và tức giận, họ thay đổi thái độ lên tiếng kết án, chung lời phỉ báng, cùng đánh đập, bắt Người vác và đóng đinh Người trên thập giá.
Ông bà anh chị em thân mến. Lời Chúa trong Lễ Lá hôm nay phơi bày và cho chúng ta thấy sự thay đổi tâm dạ con người, từ sự đồng thanh hoan hô đến lời đả đảo, phỉ báng Chúa; từ sự tâng bốc, đưa Chúa lên ngai vua đến sự hạ bệ, đóng đinh và treo Chúa trên thập giá. Đặc biệt qua Bài Thương Khó, chúng ta biết và cảm nghiệm những giờ phút kinh hoàng căng thẳng và cô đơn sau cùng của Chúa. Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín xin đi với Chúa, nhưng không lâu sau đó, họ đã ngủ say để Chúa một mình. Môn đệ Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc, giá của một người nô lệ, bằng một nụ hôn lừa dối. Phêrô đã chối và thề không quen biết Thầy 3 lần trước một đầy tớ gái. Các môn đệ khác sợ hãi bỏ chạy trốn, để Thầy một mình với những người độc ác và với đám đông cuồng nộ, gào thét: “Đóng đinh nó đi.” Họ đã coi Chúa Giêsu ngang hàng hay tệ hơn cả Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Chúng ta còn có thể cảm nghiệm được những đau khổ phần xác và tinh thần thật ghê sợ mà Chúa Giêsu đã chịu trong giờ sau hết. Thứ nhất là đau khổ về thân xác. Chúa bị đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào thân mình. Đầu của Người bị đội mão gai nhọn đâm vào máu chảy xuống mặt. Đôi bàn tay của Chúa bị bầm tím đâm xuyên thâu bởi những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân của Người bị quân lính đóng đinh xuyên qua cây gỗ. Thân mình của Người đã bị lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Và đau khổ thứ hai là về tinh thần. Chúa đã bị người ta khạc nhổ vào mặt, bị sỉ nhục, nhạo báng và khinh khi. Khi bị đóng đinh treo trên thập giá, Chúa đã bị kẻ qua, người lại phỉ bang và nhục mạ. Chúa đã chết, một cái chết cô đơn và tủi nhục trên thập giá. Nhưng ba ngày sau đó, Người đã kết thúc kế hoạch cứu độ bằng việc sống lại. Chúa đã phục sinh. Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, đem ơn cứu độ muôn đời cho nhân loại chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa đã nhận, chịu khổ hình và chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại, như Người đã nói “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng chết cho người mình yêu thương.” Đó là lý lẽ của một con tim yêu thương và nhân từ. Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giê-su, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), và được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giê-su là một hành trình của ân sủng tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho nhân loại chúng ta.
Chúng ta cầu xin Chúa trong Tuần Thánh này biết nhận ra và cảm nghiệm được tình yêu cao siêu của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá, để chúng ta luôn trung thành với Vua Giêsu, và cam đảm sống lời Chúa dạy, trở thành chứng nhân cho Chúa. Chúng ta nhận biết, muốn trở thành môn đệ chân chính của Chúa, chúng ta phải vác thập giá và đi theo con đường Chúa đã đi. Xin Chúa giúp chúng ta cùng chết với Chúa, tránh xa những gương xấu của dân chúng xưa, biết hy sinh, quảng đại và chấp nhận, chịu nhiều khó khăn, đau khổ và thiệt thòi, để sống cho Chúa, vì Chúa đã thương yêu và hy sinh hoàn toàn cho chúng ta, và để chúng ta cùng được sống lại vinh quang với Người. Cầu chúc tất cả mọi người một Tuần Thánh sốt sắng, trong ân sủng tình yêu của Chúa Giê-su Ki-tô.
.