LỄ GIÁNG SINH – LỄ BAN NGÀY
Lời Chúa: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
1. Sự khiêm nhường của Thiên Chúa (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Noel: Lễ nhập cuộc (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)
3. Lời ngỏ của Tình yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
4. Mầu nhiệm Giáng sinh ảnh hưởng gì trên cuộc đời tôi? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
5. Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Ánh sáng Giáng sinh (Trầm Thiên Thu)
7. Tình Giêsu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
8. Verbum Dei – Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB)
9. Noel an bình (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
10. Đánh mất cơ hội ngàn vàng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
11. Nhân vật vạn tuế (AM. Trần Bình An)
12. Ngôi Lời đã làm người (P.Trần Đình Phan Tiến)
13. Mùa Sao Sáng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
14. Tại sao Thiên Chúa làm người? (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
15. Phục hồi phẩm giá làm người (Lm. Giuse Nguyễn)
16. Hãy thắp lên ngọn lửa yêu thương nơi tha nhân (Lm. Đan Vinh)
17. Lễ Giáng Sinh (Lm. Antôn)
SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Vào đêm Chúa giáng sinh tại Belem, những mục đồng thức đêm canh giữ đàn vật được sứ thần đến báo tin. Họ đã vội vã đến xem, như lời hướng dẫn của sứ thần. Điều họ thấy, không phải là một vị vua quyền uy sang trọng, chẳng phải là một vị thần hiển linh huy hoàng, mà đơn giản chỉ là một trẻ thơ, bọc trong chiếc tã và nằm trong máng cỏ. Những người chăn chiên đơn sơ chất phác này đã nhận ra Hài Nhi ấy là Đấng Cứu thế, và đã tôn vinh Thiên Chúa.
Mỗi mùa Giáng sinh, chúng ta lại đến chiêm ngưỡng hang đá máng cỏ, là biểu tượng nhắc nhớ chúng ta về sự kiện lịch sử này. Cũng như những mục đồng thuở xưa, chúng ta không thấy nơi hang đá một vị vua quyền uy sang trọng, cũng không thấy một vị thần hiển linh huy hoàng. Điều chúng ta chiêm ngắm và suy niệm, đó vẫn là một hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu ngự nơi đây để dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường của Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng, Thánh Gioan đã dẫn chúng ta về cội nguồn của Ngôi Lời. Người là Đấng vô thủy vô chung, là Đấng hiện hữu từ ban đầu, là Nguyên lý sáng tạo muôn loài muôn vật, và là Ánh Sáng chiếu soi trần thế. Sau khi đã khẳng định những điều đó, tác giả nói với chúng ta: “Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta”. Vâng, Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ, chính là Con Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời đã hóa thành người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa có thể cứu chuộc con người bằng nhiều thể nhiều cách, nhưng Ngài đã chọn con đường nhập thể để chứng tỏ tình thương của Ngài đối với nhân loại. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó khi ngỏ lời với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Trong suốt bề dày lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ, Thiên Chúa vẫn thể hiện sự khiêm nhường của Ngài. Khi sáng tạo mọi sự từ hư vô, Thiên Chúa giống như nước thủy triều, tự thu mình lại để nhường chỗ đất khô cho con người có nơi ở. Khi ký kết giao ước với con người (Abraham, Môisen), Thiên Chúa hạ mình, trở nên đối tác của con người. Qua những giao ước đã ký kết, Thiên Chúa tự ràng buộc mình phải tuân giữ những điều đã hứa. Ngài luôn trung thành với giao ước, mặc dù có những lúc con người bất trung.
Tác giả thư Do Thái (Bài đọc II) đã khẳng định với chúng ta: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Với mầu nhiệm Giáng sinh, mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại đã sang một trang sử mới. Tác giả gọi đây là “thời sau hết”. Điều đó có nghĩa, thế gian không còn phải đợi chờ đấng cứu độ nào khác, ngoài Đức Giêsu, Đấng Thiên sai mà Chúa đã hứa từ ngàn xưa.
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa còn được thể hiện trong suốt cuộc đời dương thế của Đức Giêsu. Là Thiên Chúa cao cả, Người đã sống thân phận con người như chúng ta. Người cũng mệt mỏi khi đi đường xa, buồn giận khi con người cứng lòng, thương xót rơi lệ trước nỗi thống khổ của con người. Đức Giêsu trở nên giống chúng ta mọi đàng để cảm thông và chia sẻ những trăn trở âu lo trong cuộc sống của chúng ta. Ngày hôm nay, Người vẫn đang hiện diện trong cuộc đời, để tiếp tục đồng hành, nâng đỡ và an ủi chúng ta trong chốn khách đày này.
Con Thiên Chúa làm người để dạy chúng ta bài học khiêm nhường. Hài Nhi trong hang đá máng cỏ khẳng định với chúng ta: sống trên đời, trước khi làm ông nọ bà kia, hãy LÀM NGƯỜI. Quả thật, có người đỗ đạt bằng cấp, học hành uyên thâm, nhiều chức tước bổng lộc và quyền hành, mà không khởi đi từ làm người. Họ cậy quyền cậy của để sống gian dối, trụy lạc, ích kỷ. Vì thế, họ giàu có mà không hạnh phúc, tiệc tùng suốt ngày mà không vui, bổng lộc nhiều mà không đủ lấp đầy khát vọng. Làm người có nhân có nghĩa, biết sống trước sau trên dưới hài hòa, đó là nền tảng quan trọng để có thể tiến thân trong xã hội, nên hoàn thiện trước mặt Chúa và trước mặt tha nhân.
Tác giả Gioan cũng nói với chúng ta: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Vâng, chúng ta hãy đón nhận Chúa đến trong đời, để Người soi dẫn chúng ta biết học bài học khiêm nhường, sống làm người đúng nghĩa nơi trần thế. Đón nhận Đức Giêsu và tuân theo giáo huấn của Người, chúng ta không bao giờ phải thất vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm vui thiêng liêng và nghị lực để vượt lên những khó khăn của cuộc đời.
Mừng lễ Giáng sinh, vừa là thiện chí đón Chúa đến trong cuộc đời, vừa là nhiệt thành loan báo tình thương của Chúa cho những người xung quanh. Chỉ khi nào thực sự đón Chúa đến trong tâm hồn, lời rao giảng của chúng ta mới “có hồn” và mang tính thuyết phục. Cũng giống như các mục đồng, sau khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy tôn vinh Thiên Chúa. Hãy lên đường để kể lại những gì đã suy tư cảm nghiệm bên hang đá. Những bước chân loan báo Chúa Giêsu được diễn tả là những bước chân tuyệt đẹp, vì đó là những bước chân của tình Chúa, tình Người (Bài đọc I).
.
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
(Trích trong ‘NÚT VÒNG XOAY’ – Trg. 35)
.
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
.
MẦU NHIỆM GIÁNG SINH ẢNH HƯỞNG GÌ TRÊN CUỘC ĐỜI TÔI ?
Đối với phần nhiều bạn trẻ Việt Nam thì đêm Giáng Sinh được coi là đêm “đi chơi Noel”. Đó là một cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, từ nhà hàng qua quán bar, rồi vào khách sạn, nhà nghỉ. Họ có đến khu vực nhà thờ cũng chỉ là đi tham quan, còn những bạn chủ tâm đi lễ có lẽ không nhiều.
Ngày lễ Giáng Sinh đang dần dần trở thành một ngày lễ hội. Nó có nguy cơ làm cho chúng ta quên mất ý nghĩa tôn giáo của ngày lễ. Có lẽ ít người có thời giờ để suy nghĩ và tự hỏi mình xem : Lễ Giáng Sinh là lễ gì ? Việc Chúa Giáng Sinh có ảnh hưởng gì trên cuộc đời tôi ?
Người Kitô hữu có thể trả lời được ngay : Giáng Sinh là lễ kỷ niệm Thiên Chúa xuống thế làm người. Nếu dừng câu trả lời ở đó thì chưa đủ, mà còn phải thêm một cụm từ rất quan trọng đó là : Ngày Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Chính Kinh Thánh đã nhiều lần khẳng định cho chúng ta mục đích quan trọng này, như tiên tri Isaia đã nhấn mạnh : Hãy loan truyền cho khắp cùng cõi đất…kìa ơn cứu độ của Người đang tới… các người sẽ được gọi là dân thánh, là những người được Đức Chúa cứu chuộc.
Ngay từ khởi đầu, nguyên tổ loài người đã bất tuân lệnh Chúa, không muốn chấp nhận thân phận thụ tạo của mình, hồ nghi tình yêu của Thiên Chúa, họ đã quay lưng phản bội Thiên Chúa. Từ đó, con người rơi vào sự trói buộc của ma quỷ, dục vọng và phải chết. Chính vì thế mà Ngôi Hai Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để giải thoát nhân loại khỏi án phạt của sự chết, khỏi tình trạng nô lệ của ma quỷ và dục vọng.
Tin Mừng của đêm hôm qua và hôm nay cho thấy, các mục đồng đã tìm đến Belem và nhìn thấy một khung cảnh đơn sơ : họ đã gặp Bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh đặt nằm trong máng cỏ. Các mục đồng đã tin và đã kể lại cho mọi người về những gì họ đã nghe và đã thấy. Họ ca tụng Thiên Chúa. Tuy nhiên nhiều người đã không dễ dàng chấp nhận Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa. Vì thế Phúc âm Thánh Gioan đã minh chứng rằng : Đức Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa và là Thiên Chúa, là Đấng quyền năng và là Đấng tạo thành vũ trụ. Ngài chính là ánh sáng và là sự sống cho nhân loại. Ngài là Đấng đã có trước từ muôn đời, nay trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Ngài đã đến nhà của mình, nhưng người nhà đã không đón nhận Người.
Mừng Mầu Nhiệm Giáng sinh không phải là chúng ta kỷ niệm một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, mà đây là dịp để chúng ta làm cho mầu nhiệm Giáng sinh và ơn cứu chuộc của Thiên Chúa thực sự sống động và sinh hoa kết trái trong cuộc đời chúng ta. Vì ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Chúa đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay, lúc này. Vì thế, mầu nhiệm Giáng sinh phải thực sự là niềm vui mừng hân hoan cho chúng ta, không chỉ là niềm vui bên ngoài, mà là niềm vui bắt nguồn từ trong tâm hồn lan tỏa ra bên ngoài. Chúng ta vui vì chúng ta biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Chúng ta vui vì Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, không để chúng ta phải chết, mà Ngài đã đem đến cho chúng ta sự sống. Ngài không để chúng ta phải bước đi trong tăm tối, nhưng Ngài chính là ánh sáng dẫn đường cho chúng ta.
Đã bao nhiêu Mùa Giáng sinh đi qua trong cuộc đời, chúng ta đón nhận được gì cho mình và cho gia đình ? Mùa Giáng sinh là mùa của tình yêu thương và mùa an bình. Mỗi người hãy đem tình yêu thương và sự an bình của Chúa Giáng sinh về gia đình của mình. Hãy cố gắng vun trồng và làm cho tình yêu thương được nảy nở trong gia đình. Hãy quan tâm nhiều hơn đến bầu khí yêu thương ấm cúng của gia đình, đừng để cho những thú vui riêng như rượu chè, cờ bạc làm mất đi bầu khí thân thiện, hạnh phúc và bình an trong tổ ấm. Hãy quan tâm đến từng thành viên trong gia đình, đối thoại và cảm thông. Hãy làm cho bữa cơm của gia đình không chỉ ngon miệng vì có nhiều thức ăn, mà ngon vì có nhiều niềm vui và nụ cười.
Chỉ có niềm vui thực sự trong tâm hồn mới là niềm vui có thể xua đi những buồn bã, chán nản và trống rỗng trong cuộc sống. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho cuộc đời chúng ta trở nên có ý nghĩa. Thiên Chúa làm người, để cho chúng ta được làm con cái Chúa. Đó là một sự đánh đổi mà Thiên Chúa đã thực hiện trong mầu nhiệm Giáng sinh của Người. Vì thế, hân hoan mừng lễ Giáng sinh, chúng ta không thể vui trong sự buông thả theo kiểu thế gian, để rồi vùi dập cuộc đời mình trong tội, mà phải vui trong tư cách là người con của Thiên Chúa, vui trong sự thánh thiện của đêm thánh.
Chúa Giáng sinh để đem ơn tha thứ và bình an, hãy đến với Chúa để lãnh nhận, để cảm nếm hạnh phúc vì biết mình được yêu thương, tha thứ. Chúa Giáng sinh để đem đến cho nhân loại sức sống mới, sức sống ấy ngày nay vẫn được ban tặng cho nhân loại qua Bí Tích Thánh Thể. Hãy siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ, Chúa sẽ Giáng sinh vào trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sức sống thần linh của Ngài, để chúng ta sống tốt ngay hôm nay và là bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời của chúng ta mai sau.
Xin cho mỗi người luôn xác tín rằng Chúa Giáng sinh là vì chúng ta và để cứu chuộc chúng ta. Amen.
.
MỘT TRẺ SƠ SINH BỌC TÃ, NẰM TRONG MÁNG CỎ
Ngày nay, nói đến Noel là cả người giáo lẫn lương đều nghĩ ngay tới hang đá, máng cỏ, đèn sao, nghĩ tới các nhân vật trong hang đá là Chúa Hài Đồng Giêsu, Thánh Giuse, Mẹ Maria, các Thiên thần, các mục đồng và chiên bò lừa. Hang đá gợi nhớ cảnh giáng sinh nghèo khó của Con Thiên Chúa làm người. Chính Thiên Thần loan báo cho các mục đồng: ‘‘Anh em cứ dấu này mà nhận ra Đấng Cứu Thế : Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Đấng Kitô là Đức Chúa, thật khiêm nhường hạ sinh trong máng cỏ bò lừa ngoài đồng vắng giá rét đêm đông.Ngài là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền kiểm tra dân số (2 Sm 24,10) nhưng đã cùng với cha mẹ tuân lệnh hoàng đế Augúttô đi khai dân số (Lc 2,5). Ngài là Thiên Chúa, không chọn sinh ra trong cung điện cao sang nhưng lại sinh ra ’trong máng cỏ’, ngoài đồng vắng ‘vì hai ông bà không tìm được chỗ trọ’ (Lc 2,7).
Thánh Phanxicô Assisi đã làm máng cỏ đầu tiên vào năm 1223. Từ Rôma về Assidi để mừng lễ Noel, ngài nói với các thầy: “để thể hiện nỗi cơ cực và khổ đau của Chúa ngay từ lúc còn thơ để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy làm một hang đá giống như thật với cỏ khô, rồi chúng ta dẫn một con lừa và một con bò vào để cho giống với con bò con lừa đã chầu quanh Chúa Hài Đồng năm xưa”. Từ đó mỗi dịp Noel về là khắp nơi trên thế giới đều làm hang đá, máng cỏ.
Bên Hang Đá, thinh lặng chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu giang đôi tay chúc lành; Máng Cỏ Bêlem tỏ bày nhiều ý nghĩa.
- Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa yếu đuối
Hài nhi nằm trong máng cỏ biểu thị sự yếu đuối của Thiên Chúa. Một sự yếu đuối mà Người đã tự ý chọn lựa. Thiên Chúa trong hình hài một bé thơ. Một Thiên Chúa yếu đuối. Trí khôn con người không thể nào hiểu và chấp nhận nổi. Mọi lý luận đều bất lực trước nghịch lý thần linh này. Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được.Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình. Thiên Chúa Đấng cứu độ đã mạc khải qua các ngôn sứ giờ đây ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong Máng Cỏ. Chúng ta hãy từ bỏ ngôn ngữ của lý tính ở đây và thinh lặng để cho con tim thán phục. May chi ngôn ngữ tình yêu có thể bập bẹ đuợc điều gì đó chăng? Quả thực, sự yếu đuối của Thiên Chúa là sự yếu đuối của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ dưới những hình thức khác nhau, như lòng thương xót, lòng trắc ẩn và sự âu yếm. Một Thiên Chúa uy quyền trong sự yếu đuối của tình thương…Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ lên ngôi trên thập giá.Thành công cuối cùng của Chúa Cứu Thế là sự phục sinh nằm bên kia cái chết, và con đường dẫn tới đó phải khởi đi từ Máng Cỏ đến Núi Sọ. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau.
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
– Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài Nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nổi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài Nhi bằng đôi bàn tay trắng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
– Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
- Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Tình Yêu
Trong đêm Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2,12).
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu. Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng. Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi hài nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
- Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Cứu Độ
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang….Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ.Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Máng Cỏ luôn làm cho con người thổn thức bùi ngùi xúc động, vì đối diện với một Tình Yêu khiêm tốn. Máng Cỏ mang ý nghĩa của thập giá và hướng về mầu nhiệm Thánh Thể. Qua Hài Nhi Giêsu trong Máng Cỏ Bêlem, chúng ta hiểu được phần nào tâm tình của Thiên Chúa muốn ngỏ với loài người.Qua Máng Cỏ Bêlem, Thiên Chúa trở nên thật gần gũi và đáng yêu. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa “tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” (Ga 1,16).Tình yêu thương ấy là ánh sáng soi đường và là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn chúng ta. Niềm vui giáng sinh không nhất thiết phải đến từ những bữa tiệc thịnh soạn hay khung cảnh huy hoàng lộng lẫy bên ngoài. Niềm vui giáng sinh đến từ nội tâm khi chiêm ngắm Máng Cỏ Bêlem. Noel này, bạn hãy dừng lại nơi hang đá máng cỏ, dành thời gian thinh lặng để ngắm nhìn và suy niệm, bạn sẽ khám phá thật nhiều sự kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và ở cùng chúng ta.
.
Ánh sáng và bóng tối đối nghịch nhau, không thể hòa chung. Ánh sáng luôn mạnh hơn bóng tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5). Bóng tối không thể ở nơi nào có ánh sáng. Đêm đen phải lùi xa khi ánh bình minh sáng ngời. Bóng đen tội lỗi phải biến mất khi Ánh Sáng Giáng Sinh xuất hiện. Vâng, thật hạnh phúc vì hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9).
Ngày xưa, giữa đêm đen thăm thẳm, trong hơi sương giá rét, Ánh Sao Lạ đã xuất hiện làm dấu chứng để các mục đồng nhận biết nơi sinh của Đấng Cứu Độ. Ngày nay, chúng ta cũng thực sự hạnh phúc vì có Ánh Sao Lạ dẫn đường: Ánh Sáng Đức Tin. Nhờ đó, chúng ta nhận biết Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng hóa thành nhục thể để cứu độ chúng ta. Chính Ngài là Ánh Sáng Cứu Độ dẫn chúng ta về với Thiên Chúa Cha.
Hôm nay, niềm hạnh phúc đó đang tràn đầy thế giới, từ đất tới trời, và ngập cõi lòng những người thành tâm thiện chí. Niềm vui cứ ngồn ngộn!
Niềm vui sướng vỡ òa khắp nơi, như ngôn sứ Isaia đã nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt. Chúng sẽ được gọi là dân-thánh, là những-người-được-Đức-Chúa-cứu-chuộc. Còn ngươi sẽ được gọi là cô-gái-đắt-chồng, là thành-không-bị-bỏ” (Is 62:11-12). Những người hạnh phúc đó chẳng ai xa lạ, đó cũng là chính chúng ta ngày nay. Thế thì làm sao chúng ta lại không vui sướng cho được!
Hài Nhi Giêsu nơi hang đá Belem là Con Thiên Chúa, là Đấng Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta. Hãy chứng tỏ niềm vui đó và mời gọi muôn vật cùng đồng thanh tán dương: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo!” (Tv 97:1). Chứng cớ không mơ hồ, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:6). Không nhận ra Thiên Chúa qua vạn vật chỉ vì người ta cố chấp hoặc cố ý nhắm mắt làm ngơ mà thôi.
Niềm vui tăng dần, hạnh phúc trào dâng như triều cường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12). Vui mừng rồi phải biết tạ ơn. Rõ ràng tâm tình tạ ơn rất quan trọng, nhưng chúng ta lại thường quên điều này. Niềm vui đó rõ nét cả ở những người không tin Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa. Điều này thấy rõ ngay ở đời thường này.
Nhờ Ánh Sáng Đức Tin sáng soi từ khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, chúng ta trở thành tín hữu – những người “có niềm tin”. Là tín hữu thì cũng có những bổn phận chung và riêng, đơn giản nhất là sống đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3:4-6).
Dù trước mặt người đời, chúng ta có làm được những việc mà người ta cho là tài giỏi, nhưng cũng chẳng là gì đối với Thiên Chúa. Do đó, chúng ta không có lý do gì để mà vênh vang tự đắc hoặc kiêu ngạo. Nếu chúng ta có làm được điều gì hơn người khác thì cũng là nhờ ơn Chúa, có tài năng gì thì cũng là để phục vụ tha nhân, và luôn phải nhớ kỹ rằng “được nhiều thì bị đòi lại nhiều” (x. Mt 25:14-30; Lc 19:12-27). Đừng tưởng được nhiều thì sướng đâu đấy! Thánh Phaolô kết luận: “Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:7).
Trình thuật Lc 2:15-20 là đoạn Kinh Thánh tiếp theo Tin Mừng lễ đêm Giáng Sinh. Trình thuật sáng nay đề cập các nhân chứng sống đầu tiên đối với việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người: Các mục đồng – những người nghèo khổ và hèn mọn trong xã hội.
Nửa đêm giá lạnh, chắc chắn con nhà nghèo thì quần áo không đủ ấm, thậm chí có thể cũng chẳng đủ no bụng chứ nói chi đồ ăn ngon, nhưng các mục đồng vẫn ngủ say sau một ngày chịu mệt mỏi vì phải chăn chiên, đường xa lại đồi núi hiểm trở, họ phải ngủ lại nơi hang động. Các mục đồng đang ngon giấc thì chợt tỉnh giấc vì đất trời khác thường, tiếng động và ánh sáng bao trùm, lại có các thiên thần xuất hiện, ngạc nhiên hơn là có tin lạ. Các mục đồng đơn sơ và thật thà nên dễ tin, nhưng không phải họ tin vô cớ.
Sau khi các thiên thần từ biệt họ để về trời, họ liền bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Họ liền hối hả ra đi. Kinh Thánh dùng trạng từ “hối hả”, chứng tỏ họ đã tin nên mới đi ngay giữa đêm khuya, không so đo, không tính toán, không cần ngủ thêm nữa dù họ đang ngái ngủ vì dở giấc. Một bài học sống động về đức tin của các mục đồng khiến chúng ta phải tự xem lại đức tin của chính mình.
Khi đến nơi có Ánh Sao Lạ tỏa sáng trên cao, các mục đồng trực tiếp gặp Cô Maria, Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Một gia đình quá nghèo, nói theo ngôn ngữ ngày nay là “nghèo rớt mồng tơi”. Te tua tơi tả thật! Nhưng họ vẫn tin, tin ngay, không một chút do dự. Thế mới lạ! Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có đủ tin? Chưa chắc. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu tha nhân, yêu cả kẻ thù, và làm điều gì cũng là làm cho Chúa, thế nhưng mấy ai thực sự nhìn thấy Chúa nơi những người nghèo khổ và hèn mọn mà hằng ngày chúng ta gặp? Đôi mắt Đức Tin của CP Mẹ Teresa Calcutta thật “sáng” khi Mẹ dặn các nữ tu: “Hãy phục vụ những người nghèo như phục vụ Đức Giêsu Kitô”. Còn chúng ta?
Các mục đồng không chỉ là chứng nhân về Con Thiên Chúa giáng sinh, là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo, mà có thể nói rằng họ là những “thầy dạy” về Đức Tin đối với chúng ta. Họ nhãn tiền thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Biết Chúa rồi, họ không giữ cho riêng mình, mà họ chia sẻ Chúa với người khác. Mà cũng thật lạ là khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên, nhưng họ tin. Những người này cũng có con mắt Đức Tin kỳ diệu, họ tin lời các mục đồng thuật lại chứ không cho rằng các mục đồng thế này hoặc thế nọ, họ không cần phải cân nhắc chi cả. Cả các mục đồng và những người nghe kể lại đều thấy lạ theo con mắt Đức Tin chứ không vì hiếu kỳ hoặc tò mò. Những bài học về Đức Tin thật đắt giá!
Thánh sử Luca cho biết thêm “sự lạ” khác: “Còn Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Ghi nhớ và suy tư là hai động thái cần thiết, nhưng người ta lại thích hành động ngược lại. Im lặng và lắng nghe để Chúa Thánh Thần hành động, chứ không ba hoa chích chòe, nhiều chuyện như “bà Tám”.
Sự thật tỏ tường, các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Cuộc đời nghèo khổ của họ đã khiến Thiên Chúa động lòng trắc ẩn mà ban cho họ niềm hạnh phúc khôn tả, những người khác không thể có được. Nghèo khó là nhân đức, là con đường dẫn tới Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Ánh Sáng Giáng Sinh đang chiếu tỏa khắp thế gian. Noel – Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin giúp chúng con biết sống đúng tinh thần nghèo khó, xin giúp chúng con nhận ra Chúa nơi những người bé mọn trong cuộc sống đời thường, đồng thời xin giúp chúng con biết mở rộng con tim và đôi tay đối với họ. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Ngôi Ba, đến thiên thu vạn đại. Amen.
.
Người Việt Nam chúng ta đại đa số đã nghe câu nói : “người lùn dễ kiếm, củi mục khó đun”; tuy hôm nay xã hội cho thấy không còn nhiều đối tượng phải đói cơm bánh, nhưng đói tinh thần thì không hiếm. Xã hội thời nào cũng có những trường hợp đang rối loạn chỉ vì 2 chữ “t” tiền và tình, thế mà vẫn có nhiều người chủ trương “làm tà tà ăn cơm cà với muối”.
Trong khi giới trẻ phục sát đất những người nhanh lẹ và họ đặt ra câu châm ngôn : “nhất cự ly, nhì tốc độ”. Một số bạn lại tự tin cho rằng : “đẹp trai không bằng trai mặt”. Thật là mâu thuẫn khi có nhiều người tranh dành chỗ cao, chỗ nhất trong mọi lãnh vực vì họ tài giỏi, giầu sang; thì những người nghèo đói tinh thần, bé nhỏ đơn sơ lại được Thiên Chúa chú trọng hơn cả…… Điều rất tự nhiên ở ngôi thánh đường lúc này, có người đã có vài chục năm, mười mấy năm mừng Chúa Giáng Sinh; nhưng với tâm hồn tín thác, họ vẫn thấy Hài Nhi Giêsu thật ấm áp trong tâm hồn, không có gì là cổ xưa, và không thấy tình yêu có gì là trừu tượng lý thuyết.
Nhân loại từ lâu lắm rồi, vẫn cho rằng : đồng tiền vẫn làm đảo điên xã hội; quyền lực thuộc về người giầu có; chân lý ở trong tầm tay người tri thức. Với ơn lộc, với ơn nghĩa thiết thì không thuộc về riêng ai, dù người giầu kẻ nghèo, người bần nông hay người trí thức. Nhưng trước hết Ngài tỏ mình và ban ơn cho người khiêm tốn, cụ thể là các mục đồng chất phác. Đó cũng là câu trả lời để chúng ta yên tâm hơn : Ngôi Hai đến trần gian là để thông chia tình yêu thương của Thiên Chúa và cứu độ tất cả : các mục đồng, các luật sĩ biệt phái, và cả chúng ta hôm nay.
Các mục đồng đã có được một tầm nhìn mới, một niềm hy vọng mới, một sự hiểu biết mới về tình yêu của Thiên Chúa làm người đối với họ. Vì ngày nay khoa học kỹ thuật đã tiến bộ rất nhiều, cung cấp cho con người đủ mọi thứ tiện nghi vật chất, nhưng không ai có thể đem an vui, hạnh phúc thật, cùng lắm chỉ là hạnh phúc thoáng qua mà thôi. Xã hội cũng đã từng áp dụng nhiều giải pháp : cải cách, đòi nhân quyền, bình đẳng, tu thân tích đức, nhưng xem ra các phương pháp ấy vô hiệu lực đối với con người.
Nhân loại tội lỗi của thời nào cũng chỉ có một giải pháp độc nhất để thoát khỏi xiềng xích tội lỗi là đến gặp Hài Nhi Giêsu. Cuộc sống của các mục đồng năm xưa được nồng ấm là nhờ ánh sáng Belem, còn tất cả chúng ta hôm nay có hạnh phúc, bình an hay không cũng bởi từ ánh sáng, từ Hài Nhi Giêsu. Mừng Chúa Giáng Sinh ta có ao ước gì, nếu chúng ta không gặp được Chúa Hài Nhi, vì Ngài là tình yêu, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Niềm vui mà chúng ta nói đến đó là thành phần chủ yếu của bình an, của sự công chính, là mối tương quan giữa tình Chúa và tình người.
Đức Khổng Tử có dạy các học trò : “trước hết phải có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức hoạ”. Bức hoạ sắc nét, mới làm nổi bật hình ảnh sống động và giá trị của bức tranh; người hoạ sĩ nào cũng phải bắt đầu từ một nền trắng. Và chính sứ thần mới đủ lý đủ tình để loan báo, để giúp các mục đồng vẽ về bức hoạ Hài Nhi Giêsu vừa hạ sinh. Chúng ta cũng rất cần một cảm nhận : cuộc sống thật tươi đẹp có ý nghĩa, không phải là do sự nỗ lực của ta, không phải vì ta tài giỏi đức độ, nhưng vì là mỗi chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Kinh nghiệm của người xưa : “khô chân gân mặt đắt tiền cũng mua”, còn người thành công, người đáng được trân trọng là “được không kiêu, thua không nản”. Nơi máng cỏ hang lừa năm xưa, giúp các mục đồng xác thực rõ hơn về lời loan báo của sứ thần về Hài Nhi Giêsu. Nơi máng cỏ hôm nay, có khác đôi chút về sự hào nhoáng của ánh đèn điện, nhưng sứ điệp tình yêu và ơn an bình của Hài Nhi Giêsu ban tặng thì không có gì khác nhau…. Cùng với các mục đồng đến hang Bêlem, chúng ta hãy cầu xin cho mình, cho mọi người được phép lạ, được một tình yêu khiêm tốn, một hạnh phúc ấm êm của gia đình Thánh Gia.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi, nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; chứng nhân về Chúa Hài Nhi là các mục đồng, còn chúng ta, cũng không thể đến ngắm nhìn hang đá rồi thôi, mỗi người cũng phải làm gì đi chứ ? Hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho, nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta là hành động, là chung tay góp sức xây dựng một tình yêu có Chúa. Người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta hôm nay. Amen.
.
VERBUM DEI – LỜI THIÊN CHÚA Ở GIỮA CHÚNG TA
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khẳng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giê-su xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt đến đâu đi nữa. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được nội dung chính của Lời đó là gì?
Một số khẳng định liên quan tới Lời – Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1:3; Cl 1:15). Chính Đức Giê-su sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14:9)
Lời – Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác!) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời – Giê-su từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2:12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19:34). Ma-ri-a là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giê-su trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1:47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giê-su nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1:1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4:8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3:16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19:35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giê-su với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi chỉ là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giê-su ngày xưa, hoặc có thể cả các triết – thần học gia lỗi lạc ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy cho người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời – Giê-su, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giê-su đề cập tới (xem Mt 7:15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian nhưng khi Lời tình yêu đến ‘thế gian lại không nhận biết Người’. Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi, quá quen với ý niệm về một Thiên Chúa cao sang quyền phép rồi, thì làm sao nhận ra ‘Hài Nhi bọc trong tã’ chính là Ngài?
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giê-su như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa từ suy luận triết thần, qua Thiên Chúa từ nhân của Đức Giê-su Ki-tô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Lời – Giê-su để, như Ma-ri-a, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giê-su chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giê-su và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Ki-tô hữu thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dẫn dắt con tiến bước trên con đường chiêm niệm và sâu lắng, mà Mẹ đã từng bước đi. A-men.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Noel một tên gọi, một lời nói được thốt lên trong vui mừng nơi từng người. Noel đã trở thành lễ hội, trở thành niềm vui cho mọi quốc gia, mọi dân tộc. Có lẽ từ đông chí tây chỉ có lễ Noel là lễ hội mang bầu khí rộn ràng và hoành tráng nhất. Không gian đầy ắp những tiếng nhạc du dương hòa quyện với muôn màu đèn sao lấp lánh, với muôn ngàn hang đá đủ loại, đủ kiểu. Tất cả làm nên một bầu khí Noel tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.
Trong không khí Noel ai cũng mong ước bình an, hạnh phúc. Người người chờ mong niềm vui hạnh phúc sẽ đến trong mùa Noel. Noel người ta chúc nhau vui tươi, bình an. Không phân biệt tôn giáo hay sắc tộc. Ai cũng thầm mong ước Noel sẽ mang lại điều lành, điều tốt cho nhau.
Noel là gì mà kỳ diệu vậy? Thưa, Noel được viết tắt bởi chữ Emanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây là niềm vui, sự khích lệ cho kiếp người chúng ta. Vì Chúa đã đến để cứu độ nhân gian. Vì Chúa đã đến để mang lại lời chúc hòa bình đến cho nhân thế. Đây chính là lời mà các thiên sứ đã loan tin cho các mục đồng: “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Vâng, Chúa Giê-su là Con Vua Trời đã giáng thế mang lấy thân phận con người chúng ta. Ngài cúi xuống trần gian để mang bình an, hạnh phúc đến cho con người. Ngài đến để hàn gắn những đổ vỡ do tội ADAM và mang lại niềm vui trọn vẹn cho con người. Nếu vì tội Adam mà cửa trời đã đóng thì việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã mở rộng cửa trời để từ nay “Con Thiên Chúa làm người để con người trở thành con Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa đã cúi xuống nhân loại để giữa Thiên Chúa và loài người không còn xa cách. Thiên Chúa có thể đến viếng thăm mọi người, mọi gia đình, nhất là những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Lời hát loan tin vui của các thiên thần năm xưa “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” không chỉ dành cho các mục đồng, mà dành cho mọi phận người đang lao đao vất vả vì cuộc đời đầy bể dâu. Tất cả hãy vui lên, chỉ cần thiện chí sống theo đường ngay nẻo chính sẽ tìm được niềm vui của ơn cứu độ.
Lời loan tin ấy cũng đang vang lên rộn ràng trong thánh lễ hôm nay. Lời hát mừng Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người đang tràn ngập tâm hồn chúng ta. Ngài giáng sinh đã mang lại niềm vui chung cho cả nhân loại. Ngài đã gắn kết tình người để dù con người có khác niềm tin, khác quan điểm nhưng chung một sứ điệp bình an mang đến cho nhau trong ngày đại lễ hôm nay. Ngài là Emanuel sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi. Ngài hằng mời gọi chúng ta đón nhận Ngài trong từng biến cố cuộc sống, và nhất là trong từng phận người. Ngài đã đồng hóa mình trong thân phận kẻ khó khăn, bất hạnh, cùng khổ. Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đón nhận họ, hãy thi ân cho họ là thi ân cho chính Ngài.
Có lẽ, nếu Chúa giáng sinh hôm nay vẫn cần chúng ta như cho các mục đồng hãy loan tin vui cho nhân thế. Chúa cần chúng ta không chỉ làm điều gì đó để chia sẻ với Chúa mà nhất là hân hoan ra đi loan tin cho trần thế về niềm vui Chúa giáng sinh làm người. Thánh Phaolo đã từng nói: “làm sao có người nghe tin mừng nếu không có người rao giảng”. Vậy làm sao nhân loại có thể nhận ra Chúa đang ở giữa chúng ta nếu không có người sẵn lòng ra đi giới thiệu Chúa cho họ.
Ước gì lòng chúng ta tràn ngập niềm vui khi nhận ra Chúa đang giáng sinh từng ngày trong đời chúng ta, thì cũng hãy mạnh dạn như các mục đồng hân hoan loan báo niềm vui ấy cho anh em. Ước gì niềm vui Chúa giáng sinh luôn rộn rã trong tâm hồn chúng ta sẽ là động lực giúp chúng ta trở thành sứ giả của niềm vui loan tin bình an cho đến tận cùng thế giới. Amen.
.
Lm Inhaxiô Trần Ngà
Có một vị thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ giây phút gặp mặt đầu tiên.
Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.
Chúa Giê-su khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài. Những ai cho người đói lang thang vất vưởng trên vỉa hè một bát cơm thì Ngài nói là họ đã cho Ngài ăn. Những ai cho kẻ bần cùng thiếu thốn một tấm áo, thì Ngài nói là họ đã cho Ngài mặc. Những ai cho người vãng lai một chỗ trọ qua đêm thì Ngài nói là họ đã tiếp rước Ngài… (Matthêu 25, 34 – 40).
Và hôm xưa, đang khi Sao-lô rong ruổi trên đường Đa-mát, tìm bắt các môn đệ của Chúa, thì chính Chúa Giê-su quật ngã ông xuống và cảnh cáo ông: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (chứ không nói là tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ Ta) (Rm 9,4).
Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II cũng dựa vào giáo huấn nầy để nhắn nhủ các gia đình: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.” (trích “Tâm thư gửi các gia đình”) Vậy thì những gì người nhà làm cho nhau là làm cho chính Chúa.
Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy hình ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ. Mẹ còn dạy các tập sinh hãy trân trọng những người hấp hối cùng khổ trong nhà Lâm chung như tôn trọng Mình thánh Chúa Giê-su.
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là “Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gioan 1, 11).
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
.
AM Trần Bình An
Mới đây, tạp chí TIME đã bình chọn ông Donald Trump là “Nhân vật của năm 2016”. Đại diện của tạp chí Time cho biết, việc lựa chọn một nhân vật của năm là truyền thống hàng năm của tạp chí này trong vòng 90 năm qua. Nhân vật được chọn sẽ là nhân vật “có ảnh hưởng nhất trong các sự kiện năm 2016” bất kể có là ảnh hưởng xấu hay tốt.
Năm 2016, để trở thành nhân vật năm 2016 của TIME, tỷ phú người Mỹ đã phải “vượt qua” nhiều “gương mặt quen thuộc” như Tổng thống Nga Vladimir Putin, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Tayyip Erdogan, người sáng lập Đảng Độc lập Anh (UKIP) Nigel Farage, cựu ứng cử viên tổng thống Mỹ Hillary Clinton, và nhà sáng lập mạng xã hội Facebook Mark Zuckerberg.
Có lẽ, trong thời gian tới, câu chuyện tỷ phú Donald Trump lên làm Tổng thống nước Mỹ, hay chuyện ông được TIME chọn là gương mặt của năm vẫn chưa thể khiến dư luận hết xôn xao về điều này. Người đàn ông 70 tuổi, sở hữu một căn penthouse sang trọng trên tòa cao ốc mang tên mình, giờ đây đã trở thành Tổng thống đắc cử của một cường quốc. Chỉ còn ngót một tháng nữa, ông Trump sẽ chính thức điều hành một lực lượng quân sự mạnh, một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trợ lý biên tập của TIME, Ben Goldberger cho biết lý do mà TIME chọn ông Trump không chỉ vì ông ấy sắp đảm nhận một vị trí quyền lực cao, mà còn là vì cách mà ông Trump bước lên vị trí ấy.
Theo ông Ben Goldberger, đây là sự lựa chọn không cần phải bàn cãi, rõ ràng ông Trump đã phá vỡ những lối mòn để đến với chiếc ghế Tổng thống nước Mỹ. Việc ông Trump ngồi vào chiếc ghế quyền lực ấy đã thay đổi và góp phần tạo nên sự thay đổi trong trật tự chính trị hiện nay.
Tổng biên tập TIME, bà Nancy Gibbs nhấn mạnh: “Tôi không nghĩ rằng chúng ta đã từng thấy một người có con đường đi độc đáo như vậy, và có thể gây ảnh hưởng lớn đến các sự kiện của năm đến thế này”. Bà Gibbs cho biết thêm, trong năm nay, ông Trump đã có mặt trên trang bìa của TIME ít nhất 5 lần. Biên tập viên kì cựu của TIME nhận định, ông Trump là lựa chọn “quá rõ ràng”. Năm nay, bà và đội ngũ giám khảo không phải tranh cãi quá nhiều về việc lựa chọn ông Trump là “Nhân vật của năm 2016.” (Internet)
Thành công của ông Donald Trump dựa trên quần chúng thầm lặng, bất mãn hai nhiệm kỳ Obama yếu kém đối phó với bên ngoài và trì trệ bên trong. Dẫu truyền thông, đảng phái quay lưng lại, ông Trump vẫn được đông đảo dân chúng ủng hộ thông qua lá phiếu cử tri. Nhưng rồi vinh quang cũng chỉ tồn tại tối đa trong tám năm. Tin Mừng Luca hôm nay tường thuật Sinh Nhật Đức Emmanuel, Nhân Vật không phù phiếm nổi tiếng dăm năm, mà vang danh hơn hai ngàn năm và còn vạn tuế muôn năm, tràn đầy tình yêu, khiêm hạ, phục vụ, cứu độ mọi người, nhất là ưu ái những người bé mọn, cô đơn, yếu đuối, thấp kém, bị bỏ rơi.
Yêu thương
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16) Vâng Thánh Ý Chúa Cha, Hài Nhi Giêsu nhập thể giáng sinh tại Bêlem, đem tình yêu đến nhân loại, đang khao khát lòng mến, tình người. Thiếu lòng nhân ái, con người trở nên hung bạo, tàn nhẫn với đồng loại, sẵn sàng tiêu diệt nhau bằng tiếng nói, bằng thái độ thù địch bất nhân, bằng hành động trừ khử lẫn nhau. Hài Nhi đã đến thoả mãn ước nguyện muôn đời con người: Tình Yêu.
Hài Đồng Giêsu không ồn ào chào đời bằng lễ lạc tưng bừng kèn trống, cờ xí, pháo hoa, nhưng âm thầm nơi hang đá chiên bò xoàng xĩnh, vắng vẻ, hoang sơ. Tình yêu chân thành luôn êm ái, lặng lẽ, thân mật, nhè nhẹ bước vào lòng người. Tình yêu chân chính không cần hào nhoáng, kệch cỡm, sôi nổi, phô trương. Yêu thương, Hài Nhi kín đáo đến cứu thế gian, mà con người còn mãi hờ hững vô ơn, vô tâm, vô tình chẳng nhận ra, đến nỗi “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 11)
Khiêm hạ
“Bấy giờ trong miền đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.” Không có những danh gia thế giá, chẳng có lãnh đạo đạo, đời trân trọng đến chào mừng. Chỉ có những trẻ mục đồng nghèo nàn, thấp kém, được thiên sứ báo tin, kêu gọi thăm Đấng Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng nhân loại.
“Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân.” Tin Mừng tuy dành cho mọi người, nhưng ưu tiên những tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhu, đơn sơ, trong sạch và chân thành. Còn người kiêu căng, tự cao tự đại, giả hình, gian manh, dối trá thường luôn khước từ Tin Mừng.
Phục vụ
“Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít.” Thiên thần công bố sứ mạng cao cả của Đức Chúa Ở Cùng, là dấn thân phục vụ, loan báo Tin Mừng, chịu chết và phục sinh, cứu độ nhân loại được sống dồi dào viên mãn.
Đức Giêsu đến thế gian không để thống trị, làm vua chúa lãnh đạo cõi trần, nhưng là Vua Tình Yêu, ban phát nhưng không lòng nhân ái, an ủi, nâng đỡ, cứu giúp những ai khốn khổ, hèn mọn. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45)
Hơn nữa, Đức Giêsu nhập thể còn đi tìm những tâm hồn lạc loài, hư hỏng, đi hoang, như Người thương yêu nói với viên trưởng ty thuế vụ Giakêu, đã sớm cải hối khi gặp được Người: “Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.” (Lc 19, 10)
Để xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu độ qua mầu nhiệm Giáng Sinh, người Kitô hữu vui vẻ chấp nhận thân phận, dẫu khó khăn, nghèo đói, thiếu thốn, chịu xua đuổi, bị khai trừ, như Thánh Gia Thất từng kiên cường trải qua. Sống khiêm tốn, tự hạ và hy sinh, nhẫn nhục, chấp nhận đau khổ, cùng xác tín với Chúa: “Ơn của Thầy đủ cho con.”(2Cr 12, 9) Cùng yêu thương, đồng cảm, chia sẻ, phục vụ những thân phận khốn khó, thua thiệt, hẩm hiu, lân cận.
“Lời chào của Thiên Thần:“Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà…” và lời chào của Hội Thánh:“Chúa ở cùng anh chị em” có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không?” (Đường Hy Vọng, số 238)
“Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israen đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ phán hứa tự ngàn xưa.” (Lc 1, 68-70)
Kính xin Mẹ Maria cầu bầu, giúp đỡ chúng con chuẩn bị đón chào Hài Nhi Giêsu sao cho xứng đáng, như Mẹ đã toàn lực, toàn tâm, toàn ý, trân trọng chào đón Người ngự vào lòng Mẹ. Amen.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, các bạn , nhập đề Tin Mừng theo thánh Gioan Tông đồ là Đoạn lời Chúa quá tuyệt vời, tuyệt vời không phải thánh Gioan là ”tác giả siêu việt “ hơn 3 thánh sử của Tin Mừng Nhất Lãm, mà là “tuyệt vời” vì ngài có một lối văn duy nhất, tức văn phong duy nhất trình thuật về Đấng Cứu Thế, nói về Chúa Giêsu theo cách riêng biệt của ngài.
Vâng, thế nào là “ riêng biệt” ? Thưa, một nét riêng biệt của Đọan mở đầu, hay lời tựa của Tin Mừng theo thánh Gioan là ngài không thuật lại cảnh Giáng Sinh, gốc tích , hoàn cảnh địa điểm, chi tiết Giáng Sinh. theo thánh Gioan, ngài không chú trọng đến thời thơ ấu, cảnh cơ hàn của Đấng Cứu Thế. Đọc Tin Mừng thánh Gioan, người ta thấy ngay một uy quyền toàn năng, một xuất thân từ Thiên Chúa. Điểm xuất phát từ uy quyền của Đấng Tối Cao, là Thiên Chúa, vì :
“ Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời,
Ngôi Lời vẫn thuộc về Thiên Chúa,
Vì Ngôi Lời là Thiên Chúa thật.” (c 1)
Vâng, thánh Gioan xác tín “Ngôi Lời “ là hằng hữu, Người thuộc về Thiên Chúa và từ Thiên Chúa mà đến.
“ Lúc khởi nguyên, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” ( c 2)
Vâng, chính xác là như vậy , bởi vì “Ngôi Lời ” là Lời Hằng Sống từ Thiên Chúa, là “Lời” từ Thiên Chúa, Lời đó chính là một “Ngôi Vị” đích thật từ Thiên Chúa. Vì “Lời” chính là Thần Khí, là siêu việt, vô biên tuyệt đối từ Thiên Chúa. Người đến trần gian là mang đến một “ Ngôi Lời ”, một ý định, sự phán truyền của Thiên Chúa cho con người và vì con người nhân thế. Từ đó , suy ra chúng ta thấy, khi tạo thành vũ trụ và con người, Thiên Chúa chỉ cần “Phán “ bằng Lời, tức thì trời đất được tạo thành, trong bảy ngày tạo dựng, phàm nhân là loài được tạo dựng sau cùng.
Nhưng, trong kế hoạch cứu độ nhiệm mầu, Thiên Chúa muốn cho phàm nhân “chứng kiến “ sự hữu hình của “ Ngôi Lời” là Đấng Cứu Chuộc.
Vì : “ Nhờ Ngôi Lời, muôn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành.” ( c 3)
Rõ ràng, cũng như khi tạo thành, Thiên Chúa muốn cứu chuộc loài người, thì Ngài cũng chỉ phán một Lời. Nhưng, như vậy, thì Ngôi Lời không trở nên hữu hình, mà vẫn siêu nhiên, vô biên, thì loài người không nhìn thấy, mặc nhiên điều ấy vẫn là “Cựu Ứơc”. Thiên Chúa muốn thực hiện một Giao Ứơc mới, gọi là “ Tân Ứơc”, vì vậy, “Ngôi Lời đã làm Người , và cư ngụ giữa chúng ta.” ( c 14a)
“ Điều đã được tạo thành ( c 4) ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.”
Như vậy, sự sống từ Thiên Chúa là sự sống vĩnh cửu, sự sống vĩnh cửu là ánh sáng. Rõ ràng, không ai tiêu diệt được ánh sáng, vì ánh sáng là sự sống từ Thiên Chúa. Như vậy, Ngôi Lời là Sự Sống và Ánh Sáng từ Thiên Chúa. Từ sự sống và ánh sáng ấy, Ngôi Lời đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần. Như vậy, Người đã trở nên hữu hình giữa nhân loại.
Vì thế, rõ ràng, “ Ánh sáng đã chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối không tiêu diệt được ánh sáng” ( c 5).
Vì vậy, khi đến thế gian, Ngôi Lời đã có một vị Tiền Hô, mà ngôn sứ Isaia đã loan báo từ ngàn xưa : “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan “ ( c 6). Như vậy, sứ mạng của Tiền Hô Gioan là, minh chứng sự hữu hình của Đấng Cứu Thế có từ ngàn xưa.
Rõ ràng, Gioan đến để làm chứng cho ánh sáng : “Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người người nhờ ông mà tin.” ( c 7). Vì quả thật, ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến hầu làm chứng cho áng sáng thật là Ngôi Lời. Chúng ta thấy, ánh sáng “siêu nhiên “ là sự thật, công lý và bình an là “Ngôi Lời Nhập Thể ” cũng cần người làm chứng. “ Ông không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng” ( c 8)
Vậy, ánh sáng “tâm linh” cũng cần nhân chứng, vì bóng tối “bao phủ” xung quanh, nếu không có “ những dấu hiệu “nhân chứng” như Tiền Hô Gioan, chắc chắn chúng ta không nhận ra “ánh sáng “ thật.
Như vậy, vai trò chứng nhân của thánh Gioan tiền Hô thật cần thiết để làm chứng cho Ngôi Lời là ánh sáng thật. Vì, “ Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian để chiếu soi mọi người.” ( c 9). Chúng ta thấy, những hành vi đen tối trong thế gian luôn xuất hiện , vì nó vốn ở trong thế gian như bóng đêm hiện hữu. Vì sự hiện diện của bóng tối luôn làm cho giá trị của ánh sáng phản chiếu, hầu toả ra một một chân lý của tình yêu. Đó là ánh sáng chân lý.
Đó là Ánh Sáng GIÊSU, ánh sáng Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể đã đến thế gian hầu chiếu soi nhân loại. Nhưng, nhân loại đã thờ ơ, đã lú lẫn , đã khờ khạo. Rõ ràng, một sự khờ khờ tối tăm, đó là tiền tài , vật chất. “ Người đã ở giữa thế gian, và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người.” ( c 10)
“ Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không chịu đón nhận “ ( 11 ), đó là sự bất hạnh của thế gian, thế gian là một mớ hỗn độn. Ở giữa thế gian, nhưng , Người không thuộc thế gian, bởi vì, Người thuộc về Thiên Chúa. Nhưng, quả thật, chân lý của Người là tình yêu và bình an, thì những ai bước theo Người, thì họ được đón nhận bởi Chính Người, là tình yêu và ân sủng, thứ ân sủng chỉ đưcợc ban tặng bởi Thiên Chúa. “Còn những ai đón nhận , tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” ( c 12).
Rõ ràng, ân sủng là thứ được trao ban, cho những ai thành tâm đón nhận. Đón nhận Thiên Chúa, thì mặc nhiên được nhận lấy ân sủng. Vì , ân sủng là thứ không được mua bằng quyền lực thế trần. Ân sủng được trao ban bởi lòng tin. Vì, những ai “tin “ vào Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Vâng, ân sủng chính là được “ làm con Thiên Chúa”. Đó là thứ ân sủng quan trọng nhất, nếu thiếu thứ ân sủng nầy, phàm nhân dù có tài, lực đến đâu, cũng sẽ trở nên vô nghĩa.
Như vậy, kẻ được đón nhận ân sủng bởi Thiên Chúa là kẻ được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải do khí huyết nhục thể của loài người.
Như vậy, câu nầy xác tín, Ngôi Lời được sinh ra bởi Thần Khí Thiên Chúa, vì những kẻ tin vào Ngôi Lời, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Rõ ràng, những kẻ được sinh ra bởi Thiên Chúa là hoàn toàn do Thần Khí, chứ không do nhục thể. Vì, “ Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chùa.” ( c 13)
Vì vậy, “Ngôi Lời đã trở nên phàm nhân, và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.” ( c 14). Như vậy, ân sủng và sự thật chính là nguồn siêu nhiên từ Thiên Chúa Cha, Đấng là cùng đích của vạn vật, Đấng tác thành muôn loài, cũng là Đấng tuyệt đối trên vạn vật, chứ không phải ai khác. Vâng, chỉ có Đấng ấy, chứ không phải là vua chúa trần gian. Vua chúa trần gian là những kẻ ngụy biện, xảo trá, dù phong kiến, hay thuộc địa, cách mạng , hay đế quốc, ngoại xâm hay chủ nghĩa xã hội, tư bản hay dân chủ, quân chủ hay lập hiến, đều là xảo trá. Bởi những kẻ đó, chỉ muốn bóc lột con người, tranh giành tài sản, để mưu ích cho cá nhân, con cháu của chúng. Còn chính Thiên Chúa là Đấng cho đi, Đấng ban tặng từ khởi nguyên cho đến cùng tận.
Vì vậy, chính những con người là phàm nhân, mang lấy ân sủng từ trời cao đã làm chứng về Ngôi Lời như Gioan Tiền Hô. “ Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố : “ Đây là Đấng mà tôi đã nói, đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi , vì có trước tôi .” ( c 15).
Vâng, chính vị ngôn sứ là Gioan Tẩy giả, người được làm chứng nhân cho Ngôi Lời, là vị ngôn sứ sau cùng của Cựu Ứơc, là gạch nối giữa Tân Ứơc và Cựu Ứớc. Chính ngài đã lấy mạng sống của mình làm chứng cho sự thật về Ngôi Lời.
Vì , “ Từ nguồn sung mãn của Người (Ngôi Lời ), tất cả chúng ta được lãnh nhận từ ơn nầy đến hết ơn khác “ ( c 16). Như vậy, Đấng Cứu Thế , Ngôi lời của Thiên Chúa, mặc nhiên, là một nguồn ân sủng đồi dào bởi Thiên Chúa, Đấng mang đến cho nhân loại một kho tàng từ trời cao.
Vì, “Quà thế, Lề luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môi-se, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu – Kitô mà có “ ( c 17).
Như vậy, “ ân sủng và sự thật “ là gì ? Há không phải là “ Chân lý và tình yêu “ hay sao ? Vậy, chân lý và tình yêu chính là nhờ Đức Giêsu- Kitô đó sao ?! Vậy, Ngôi Lời đã làm Người và cư ngụ giữa chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi để làm gì ? Há chẳng phải là để ban ân sủng và sự thật đó sao ?
Đêm Cực Thánh là Đêm mà Ngôi Lời của Thiên Chúa đã Giáng Sinh cho nhân loại. Vậy, Ngôi Lời Giáng Sinh trong đêm Cực Thánh nầy 2016, là để Giáng Sinh “ ân sủng và chân lý ” cho nhân thế.
Vì không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng, quà tặng Đêm Giáng Sinh của Ngôi Lời Hài Nhi Giêsu là “ ân sủng hữu hình”, mà nhân thế không thể chối cãi được.
Rõ ràng câu 18 đã xác tín như vậy. “ Không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa bao giờ ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” “ ( c 18)
Vâng, rõ ràng là như vậy, Thiên Chúa chỉ dùng Lời phán, vì Người siêu nhiên, vô hình, như đã nói ở trên. Vì vậy, Ngôi Lời Giáng Sinh là một minh chứng rõ nét về “ Ân sủng và sự thật “ là chân lý và tình yêu nơi Thiên Chúa siêu nhiên./. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Có thứ ánh sáng nhằm soi dẫn người đi đêm luôn tự tin, gọi là đèn điện, có những người cùng đồng hành với ta, sẽ mang lại sự an toàn hơn, đó là các vệ sĩ. Ấy vậy, đi đêm, hoặc xuất hiện bất cứ nơi đâu, mỗi người đều cần đến một niềm vui, sự bình an tâm hồn, dù quan niệm bình an hạnh phúc có khác nhau. Ngoài xã hội, người ta vẫn nói tới mùa xuân, mùa hè, mùa cưới, mùa sao sáng hay mùa No-el, thực tế, mùa nào cũng gợi mở ra một vòng xoay của quy luật. Có qua mùa đông mới tới mùa xuân, có hết mùa mưa bão mới thấy trăng sao xuất hiện. Có quan tâm đến Ngôi Lời nhập thể, mới thấy tình Chúa liên đới với tình người, mang lại sự trọn vẹn trong tình yêu cứu độ.
Khái niệm về ngày sinh nhật có thể không xa lạ đối với con người, vì ta từng cầu chúc ông bà cha mẹ, người thân, mỗi dịp mừng sinh nhật. Hôm nay mừng Sinh Nhật Chúa, chúng ta thấy khác hơn, cao trọng hơn, hẳn không phải do trên bầu trời có sao sáng hơn, hay ánh đèn chớp nháy rạo rực khắp nơi, mà từ ngữ hôm nay vẫn gọi là Mùa Giáng Sinh, Mùa No-el. Phụng vụ bài đọc thứ ba hôm nay quả quyết với chúng ta: “từ khởi thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa”. Mừng Sinh Nhật Chúa Ngôi Hai, Giáo hội muốn dẫn dắt chúng ta đi trong ánh sáng của Ngôi Lời, ánh sáng có tính trường cửu, thật xứng hợp khi tiền nhân ta gọi là Mùa Sao Sáng, Mùa Giáng Sinh.
Tin hay không tin, Sinh nhật Chúa đã thực sự trở thành ngày lễ hội ánh sáng, tưng bừng rạng rỡ niềm vui bên ngoài, đang khơi dậy ánh quang rung rinh nhiều tâm hồn ngập tràn bình an có Chúa. Yêu vẻ đẹp đầy sắc mầu Mùa No-el, yêu “nhè nhẹ” mối tình vừa chớm nở nhân Mùa Sao Sáng năm nay, yêu một tình yêu thật trong sáng, chính là ta đã phản ánh được vẻ đẹp của Hài Nhi Giêsu. Cha ông chúng ta có câu: biết tội đâu mà tránh, biết phúc đâu mà tìm. Thực ra thì người ta vẫn phải lần mò đi trong đêm tối, nếu bao lâu chúng ta chưa định hướng tình yêu bắt nguồn từ đâu.
Thực tế cho ta thấy, nếu ta từng ở trong đêm đen sợ hãi, hẳn ta sẽ yêu quý ánh sáng biết bao, và sẽ quyết tâm giữ mãi thứ ánh sáng mà ta vừa tìm thấy. Khi nhận biết tâm hồn mình thật dơ bẩn, ta mới khao khát được tẩy rửa, khi cuộc sống đầy thất bại, khổ đau vây hãm, hẳn ta sẽ thao thức được giải thoát biết chừng nào. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, hẳn ông phải có nhiều tâm sự về tình yêu thời chiến tranh, ông đã đặt lời ca thật thấm thía: một mùa sao sáng, đêm No-el Chúa sinh ra đời, Người hẹn cùng tôi: ngày về khi đất nước yên vui.
Một Mùa Sao Sáng, một mùa Giáng Sinh, luôn là một cơ hội để chúng ta chứng minh thời giờ, khả năng, hoàn cảnh của ta luôn có ích, có hy vọng cho đời. Nếu không được thu hút bởi Hài Nhi Giêsu, không được phản chiếu ánh quang từ hang đá Belem, từ tổ tiên dòng tộc, có lẽ bụi thời gian đã vĩnh viễn che đậy, phủ lấp Mùa Sao Sáng, Mùa Giáng Sinh rồi. Nếu không có sự chuẩn bị, thiếu đi lời nhắc nhớ của các ngôn sứ, của tiền nhân, tâm hồn người thế sẽ vẫn trống vắng, không thể hiểu Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa. Giá trị cuộc đời một con người có ý nghĩa hay không, tùy thuộc ta có muốn cộng tác để trở thành nhiệt lượng và ánh sáng cho đời như thế nào.
Đến nhà thờ thông hiệp mừng Chúa Giáng Sinh mà không có hang đá, đến hang đá chiêm ngắm thờ lạy mà thiếu Hài Nhi Giêsu thì thật đáng tiếc ! Hang đá tâm hồn người tín hữu thiếu sự hiện diện của Chúa, thì có khác gì bầu trời đêm đông chỉ có mầu đen sự chết ? Hang đá Belem năm xưa bừng sáng không phải vì tác động của con người, nhưng rạng ngời vì hang đá có sự hiện diện của Ngôi Lời là Ánh Sáng đến soi chiếu cho nhân loại. Hang đá tâm hồn chúng ta hôm nay có bừng sáng, có an vui, là do chúng ta đã chuẩn bị trong suốt 4 tuần vừa qua như thế nào ? Ngôi Lời là Ánh Sáng, nhưng không như ánh sáng của đèn điện, mà là Ánh Sáng của sự sống, Ánh Sáng tiêu diệt tội lỗi, tiêu diệt sự chết, và trở nên ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại con người chúng ta. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc : Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng : “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít” (Lc 2,10-11).
Câu “Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi “, gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng : Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói : “Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…” Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo : Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: “Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó” (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại : “Người đã đến nhà các gia nhân Người” (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta “; “ Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người “quyền trở nên con cái Thiên Chúa“(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào “gen”, đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Ðấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Ðấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Ðấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Ðấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
.
Lm. Giuse Nguyễn
Lời tổng nguyện của Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh ban ngày cho chúng ta biết được ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể mà chúng ta đã chuẩn bị và đang mừng kính: “Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa; xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Đức Kitô là Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con”. Trong ý nghĩa đó, tôi nhớ lại lời của thánh Irênê: “Con Chúa làm người để con người được làm con Chúa”. Vì vậy mỗi dịp mừng lễ Giáng Sinh là mỗi lần nhắc lại cho tôi về việc Thiên Chúa đã phục hồi phẩm giá làm người cho tôi và cho bạn.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: Is 52, 7-10
Đoạn sách Isaia trong bài đọc thứ nhất nói về việc Thiên Chúa muốn phục hồi thanh danh của Người vì dân của Người trước đó đã bị đàn áp và lưu đày. Theo cái nhìn linh thánh, mọi sự đều do bởi chúa. Vì vậy sau khi để cho thù địch thống trị dân Người vì tội lỗi của họ, chính Người sẽ đích thân trở về Xion làm vua. Đó là Tin mừng mà dân sắp được nghe loan báo: “Họ sẽ được tận mắt thấy Đức Chúa đang trở về Xion” (Is 52, 8b). Ngài sẽ phục hồi phẩm giá cho họ và cũng là phục hồi danh dự cho Ngài, vì “vinh quang Thiên Chúa là con người sống”.
- Tin Mừng: Ga 1, 1-18
Đoạn Tin mừng được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là lời tựa của Tin mừng theo thánh Gioan. Trong lời tựa này chúng ta sẽ biết được một số chủ đề xuất hiện trong Tin mừng Gioan, mà nổi bật là sự sống, ánh sáng và bóng tối: “Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1, 3b); và một số chủ đề khác…
Trong năm mục vụ gia đình này, chúng ta hãy dừng lại ở chủ đề sự sống mà Gioan muốn giới thiệu cho chúng ta, vì mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm Sự Sống đến trong thế gian này. Sự sống đó được các gia đình lãnh nhận, cưu mang và làm cho sống động trong chính ơn gọi của họ.
II. SÁNG TẠO VÀ TÁI TẠO
Thánh Kinh cho chúng ta biết “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”, và Ngôi Lời chính là sự sống, vì “nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 3). Sự sống đó được Thiên Chúa thông ban cho tổ tông loài người là Ađam và Eva qua việc “thổi hơi vào lổ mũi”. Sự sống đó làm cho 2 ông bà được hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật, từ đó họ được hạnh phúc viên mãn. Thế nhưng vì nghe lời của ma quỷ mà 2 ông bà đã đánh mất đi sự sống đó, đã phải đau khổ và phải chết.
Tuy nhiên Thiên Chúa đã phục hồi sự sống đó cho con người qua việc trao ban chính Nguồn Sống là Đức Giêsu Kitô để Ngài làm cuộc tái tạo mới. Vì vậy đón nhận mầu nhiệm Giáng Sinh là đón nhận mầu nhiệm tái tạo nơi chính cuộc đời của mỗi chúng ta để được quay trở lại hiệp thông với Thiên Chúa, với con người và với vũ trụ vạn vật.
III. PHỤC HỒI PHẨM GIÁ LÀM NGƯỜI
Với bài hát “Ông bà anh” trên chương tình “Sing My Song”, chàng ca sĩ Lê Thiện Hiếu đang gây bão trên cộng đồng mạng. Lời bài hát này phác họa lại một tình yêu “thời chưa có Tivi, chưa có xe hơi, chưa có Facebook, Zalo”; thời tình yêu còn tỏ tình bằng “những dòng thư tay viết vội”, thể hiện bằng việc “mua tặng một đóa hoa” bình dị và mộc mạc; thời tình yêu hết sức trong sáng: “Chạm tay nhau một giây thôi là nhớ nhau cả đời”. Tình yêu “cổ lổ sĩ” của ông bà xưa lại là một “tình yêu xanh ngát xanh”. Thay vào đó, tình yêu của các bạn trẻ ngày hôm nay là tình yêu “thời xe máy, ô tô, thời Facebook, Zalo, thời tay cầm Oppo”; thời tình yêu được chứng minh bằng việc nếm thử trái cấm mà không cần hôn nhân; thời hẹn hò “gặp nhau mà chẳng nói gì với nhau, ngồi bên nhau cầm điện thoại thật lâu”... Thứ tình yêu đó làm cho chàng trai trẻ thốt lên: “Ôi tình yêu thời nay mệt quá ai ơi!” Chính vì vậy “Anh muốn có một tình yêu xanh ngát xanh….như ông bà anh” ngày xưa. Người ta muốn quay lại tình yêu thuở ban đầu vì nó quá đẹp!
Con người ngay từ đầu vốn rất đẹp, vì họ là “hình ảnh của Thiên Chúa”, họ đã được phú bẩm cho sự sống của Thiên Chúa. Theo lời của Đức Khổng Tử thì: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng theo dòng thời gian, hình ảnh đẹp đó, bản tính tốt đó bị ảnh hưởng của nhiều thứ, nói chung là sự dữ làm cho trở nên hư hoại.
Mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa chính là quyền năng của Thiên Chúa không bị khuất phục bởi ma quỷ, là tình yêu muốn phục hồi những gì bị ma quỷ làm cho hư hoại, để trả lại tất cả những gì tốt đẹp cho con người. Hay nói cách khác Mầu nhiệm Giáng sinh là Mầu nhiệm phục hồi phẩm giá làm người một cách tốt đẹp nhất.
Phục hồi phẩm giá làm người là trả lại mối tương quan tốt đẹp thuở ban đầu với Thiên Chúa, với tha nhân và với vũ trụ vạn vật.
- Trong tương quan với Thiên Chúa
Con người phạm tội đã xa lánh, chạy trốn Thiên Chúa. Đức Giêsu phục hồi bằng cách đến sống giữa con người, mời gọi họ sám hối, quay trở về với Thiên Chúa. Hình ảnh Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ, xung quang có Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse, các mục đồng, Ba Vua, các thiên thần với lời tung hô: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” cho thấy sự bình an đích thực và sâu thẳm là quây quần bên Chúa.
Ai trong chúng ta cũng có những kỷ niệm đẹp về một thời sống đạo hết sức là sốt sắng, siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, tham gia các hội đoàn, thường xuyên đến nhà thờ… Nhưng vì nhiều lý do có những người trở nên bê bối, khô khan, nguội lạnh, không đọc kinh cầu nguyện, bỏ nhà thờ; thậm chí còn trở nên gánh nặng cho gia đình, cho xã hội với cuộc sống bê tha, tội lỗi của mình…
Ánh sáng đã đến thế gian là Đức Giêsu Kitô, hôm nay dọi chiếu một cách đặc biệt đến những tâm hồn như thế để họ quay về với “ngày xưa thân ái”, được giao hòa với Thiên Chúa và sống trong tình nghĩa với Ngài.
Trong năm mục vụ gia đình này, Họ đạo chúng ta mời gọi các gia đình tái lập việc đọc kinh hôm trong gia đình cũng với mục đích giúp cho mỗi người trong gia đình có thời gian quây quần bên nhau và bên Chúa để thánh hóa đời sống của họ. Khi quây quần bên nhau trong giờ kinh tối, người ta sẽ bớt đi những mệt mỏi, những lo toan, những muộn phiền trong cuộc sống. Vì vậy hãy cố gắng thực hiện giờ kinh hôm trong gia đình.
- Trong tương quan với tha nhân.
Hai ông bà nguyên tổ sau khi phạm tội đã đổ lỗi cho nhau. Từ đó con người cắt đứt mối tương quan tốt đẹp với người khác, nhìn người khác bằng cái nhìn không còn đẹp nữa. Ánh sáng rực lên trên cánh đồng Bêlem đã quy tụ các mục đồng lại bên nhau để cùng nhau lên đường thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Hay Ba Vua ở 3 đất nước khác nhau, hoàn toàn xa lạ nhưng đã gặp nhau tại hang đá Bêlem nhờ Ngôi Sao chỉ đường… Như vậy Tình Yêu Giáng Sinh đã giúp con người xích lại gần nhau hơn.
Ta có được thân xác như ngày hôm nay trước hết là do sự quan phòng của Thiên Chúa, nhưng còn phải có sự cộng tác của cha mẹ và nhiều người như bác sĩ, thầy cô, bạn bè… Vì vậy sống là sống với. “Không ai là một hòn đảo”. Nếu sống chỉ có trao ban sẽ làm cho người khác bị tổn thương vì ta như một người ban phát, bố thí. Nếu sống chỉ có lãnh nhận sẽ là cho nhiều người đau khổ vì ta như người đào mỏ. Cho nên cuộc sống của ta phải biết lãnh nhận và trao ban, nghĩa là có sự hiệp thông với mọi người.
Thế nhưng cuộc sống ngày hôm nay khiến nhiều người chỉ biết sống cho riêng mình, họ lấy bản thân làm tiêu chuẩn để làm sao họ được thỏa mãn, được vui, được sung sướng, được thoải mái… còn những người khác đau khổ hay bị tổn thương họ không màng đến.
Mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm nối kết yêu thương. Trong năm mục vụ gia đình này, nhắc nhở chúng ta phải biết nghĩ đến trước hết là những người thân trong gia đình, để xem xét từng hành động, từng cử chỉ của tôi có làm ảnh hưởng gì đến những người còn lại trong gia đình hay không? Kế đến còn phải biết hướng đến một cộng đồng rộng lớn hơn là xã hội để ý thức trách nhiệm trong từng hành động của mình, bỏ đi lối suy nghĩ “miễn là có lợi cho mình là được”, còn người khác thì “mặc kệ nó”. Bảo vệ ngôi nhà chung là môi trường sống rất cần tinh thần hiệp thông, cộng tác với nhau để làm cho môi trường sạch đẹp, chứ không phải chỉ nhà mình, gia đình sạch đẹp, còn nhà người khác ra sao thì kệ họ.
- Trong tương quan với vũ trụ vạn vật
Ông bà nguyên tổ sống trong vườn địa đàng rất hạnh phúc. Môi trường xung quanh rất thơ mộng với chim hót líu lo, suối chảy róc rách, muôn thú hiền hòa… Nhưng khi sự dữ đến thế gian, mọi thứ đã thay đổi, kể cả thiên nhiên cũng mất dần sự thân thiện với con người.
Trong những tháng cuối năm 2016, miền Trung và Nam Trung bộ liên tiếp hứng chịu những cơn bão lũ, hoặc những trận ngập lụt do các nhà máy xả lũ “đúng quy trình” khiến cho nhiều người chết, đường xá bị hư hoại, cuộc sống bị đảo lộn… Điều đó là hậu quả của việc con người vì lợi ích cá nhân nên đã khai thác rừng một cách vô tội vạ.
Một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm hiện nay là ô nhiễm môi trường và an toàn thực phẩm. Hằng ngày chúng ta lo sợ vì phải hít vào cơ thể những khí độc do các nhà máy công nghiệp thải ra, những khói thuốc lá, những mùi hôi thối từ các cống rãnh… Chúng ta lo sợ vì ăn thứ gì cũng từ hóa chất, hàng giả, hàng kém chất lượng…
Vì vậy nhiều người muốn quay trở lại ngày xưa để được sống trong bầu không khí trong lành, được ăn thức ăn trong thiên nhiên không nhiễm độc, được ăn cá sạch, được ăn bánh do mẹ, do chị làm nên…
Ngày 24/05/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành thông điệp Laudato Sí về việc chăm sóc ngôi nhà chung là thiên nhiên, vũ trụ vạn vật mà chúng ta đang sống. Trong mùa Vọng 2016, Đức Giám Mục Giáo phận Cần Thơ cũng đã đưa ra những chương trình cụ thể trong 4 tuần Mùa Vọng để mọi người, mọi thành phần chung tay gìn giữ ngôi nhà chung là vũ trụ vạn vật.
Mùa Giáng Sinh với hình ảnh con Chúa sinh ra trong đêm đông giá lạnh, một lần nữa nhắc nhở chúng ta hãy ý thức bảo vệ môi trường để góp phần sưởi ấm cho Chúa Hài Đồng. Một cách cụ thể: không vứt rác bừa bãi, biết tiết kiệm điện nước, dọn dẹp môi trường, khai thông cống rãnh…
Nói tóm lại, mầu nhiệm Giáng sinh trả lại cho chúng ta hình ảnh tốt đẹp thuở ban đầu mà nguyên tổ đã có được. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa và cố gắng để hình ảnh tốt đẹp của chúng ta được phục hồi trong mối tương quan thân tình với Thiên Chúa, với tha nhân và vũ trụ vạn vật.
.
HÃY THẮP LÊN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG NƠI THA NHÂN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 1,1-18
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành. 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
- CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) TẠI SAO THIÊN CHÚA PHẢI NHẬP THỂ TRỞ THÀNH EMMANUEN ?
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: “Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể đã xuống thế làm người”. Người là Con Một của Chúa Cha, vì yêu thương nhân loại, đã từ trời cao xuống đầu thai thành một người phàm, “nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không phạm tội” (Dt 4,15). Tin mừng Gio-an đã diễn tả mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể trong lời tựa mở đầu sách Tin Mừng Thứ Tư như sau: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người đã đến cắm lều ở giữa chúng ta để cứu chuộc chúng ta. Tại sao Chúa lại phải đích thân xuống thế làm người như vậy ? Câu chuyện sau đây của Sadhu Sundar Singh, một nhà huyền bí Ki-tô giáo người Ấn độ trả lời cho vấn nạn ấy:
Xưa kia một ông vua đã chọn một ông quan thông thái và thánh thiện tên là The Vizier để luôn đi theo làm bầu bạn và giải đáp các thắc mắc của nhà vua. Một hôm trên đường đi hành hương thánh địa Palestine, The Vizier đã bị xúc động mãnh liệt khi được nghe biết câu chuyện của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương nhân loại tội lỗi, nên đã nhập thể làm người để ban ơn cứu chuộc cho loài người. Sau đó ông ta đã xin theo đạo Công giáo. Khi trở về triều, nhà vua thắc mắc hỏi quan The Vizier rằng: “Nếu trẫm muốn làm bất cứ điều gì, trẫm sẽ không cần đích thân làm, mà chỉ cần ra lệnh cho quần thần là việc đó sẽ lập tức được thi hành. Vậy tại sao Chúa Giê-su là vua các vua, là Thiên Chúa quyền năng, có thể cứu rỗi nhân loại chỉ bằng một lệnh truyền, nhưng người lại phải nhập thể làm người, trở thành Đấng “Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” như vậy làm chi?” Bấy giờ quan cố vấn The Vizier xin nhà vua cho thời gian suy nghĩ một ngày trước khi trả lời cho nhà vua. Ngay sau đó, ông ta cho người nhờ một người thợ mộc tài giỏi trong nước làm gấp một con búp bê và cho mặc quần áo giống y như hoàng tử một tuổi con trai của nhà vua. Ông cũng căn dặn hôm sau phải mang búp bê đó đến cho ông.
Sáng hôm sau, khi vua và quan cố vấn đang chèo thuyền dong chơi trong hồ lớn bên trong hoàng cung, vua đã yêu cầu quan cố vấn hãy trả lời cho câu hỏi của vua hôm trước. Bấy giờ quan cố vấn ra hiệu cho người thợ mộc đang có mặt ở bờ hồ, trên tay bế con búp bê giống hệt hoàng tử một tuổi con trai của nhà vua. Nhà vua trông thấy hoàng tử con trai của mình trên tay người lạ thì tưởng là thích khách. Nhất là khi thấy tên thích khách kia ném hoàng tử xuống hồ nước, nhà vua liền nhảy xuống hồ bơi nhanh đến để kịp thời cứu hoàng tử sắp bị chết chìm, mà không ra lệnh cho quần thần chung quanh. Sau khi quan quân đưa được nhà vua và hình nộm búp bê hoàng tử kia lên thuyền, quan cố vấn liền hỏi: “Tâu đức vua, thần nghĩ là đức vua không cần phải nhẩy xuống hồ nước, mà chỉ cần ra lệnh cho quần thần làm việc ấy không được hay sao ? Tại sao chính đức vua lại phải nhẩy xuống hồ để cứu hình nộm hoàng tử vậy?” Nhà Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Trẫm nghĩ có lẽ việc trẫm vừa làm là câu trả lời của khanh muốn nói cho trẫm biết lý do tại sao, để cứu nhân loại khỏi chết, Thiên Chúa toàn năng lại phải đích thân nhập thể làm người, thay vì ra lệnh cho ai khác làm điều đó”.
2) THẮP LÊN NGỌN LỬA TIN YÊU NƠI THA NHÂN BẰNG SỰ THĂM VIẾNG VÀ PHỤC VỤ:
Một ngày kia, tại Melbourne nước Úc, mẹ Tê-rê-sa đến thăm một người đàn ông lớn tuổi nghèo khó và cô độc, đang sống dưới tầng hầm của một chung cư. Căn phòng của ông tối tăm và bề bộn, và ít khi ông bước ra khỏi phòng. Thái độ của ông không mấy phấn khởi khi thấy có người đến thăm. Sau mấy lời chào hỏi, mẹ Tê-rê-sa bắt đầu đi thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Lúc đầu, ông ta tỏ ý không muốn qua câu nói: “Bà cứ để mọi sự như cũ cho tôi. Tôi đã quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Mẹ vừa dọn dẹp, vừa nói chuyện với ông ta ngồi trên nệm kê ở góc phòng. Dưới một đống rác cạnh tường, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm, liền lấy ra lau chùi. Nhận thấy cây đèn khá đẹp, mẹ liền nói với ông ta: “Ông có một cây đèn dầu rất đẹp, vậy ông có thường thắp sáng nó lên hay không?” Ông ta đáp: “Tôi có hay thắp sáng cây đèn đó lên hay không ư ? Có ai đến thăm tôi đâu !” Mẹ nói: “Thế ông có bằng lòng cho chúng tôi thường xuyên đến thăm ông để có dịp thắp sáng cây đèn này lên hay không?” Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ ngày đó hai nữ tu dòng của mẹ Têrêxa đã thường xuyên đến thăm viếng ông lão. Mọi sự đã dần dần được cải thiện. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, ông ta đều thắp sáng cây đèn lên. Thế rồi một ngày nọ, ông đã nói với các nữ tu: “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi đã có thể tự xoay xở mọi việc được rồi. Xin các sơ nói với mẹ bề trên đã đến thăm tôi cách đây ít lâu là: ánh sáng mà bà đã thắp sáng trong tôi từ đó đến nay vẫn đang cháy sáng trong tôi”.
Chính lòng nhân ái thể hiện qua hành động thăm viếng và thái độ đầy tình người của mẹ Têrêxa và các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu trong tâm hồn người đàn ông nghèo khó cô đơn nói trên.
- LỜI CẦU:
Lạy Chúa. Mầu nhiệm Chúa giáng sinh hôm nay mời gọi mỗi người chúng con biết nghĩ đến những người chung quanh, nhất là những người đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, cô độc và những đôi vợ chồng bất hạnh. Xin cho chúng con ý thức Chúa đang hiện thân nơi họ để mời gọi chúng con thăm viếng, động viên an ủi, sẻ chia tinh thần vật chất, để thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu vẫn đang còn âm ỉ trong tâm hồn họ. Xin Chúa cũng giúp chúng con biết nhìn thấy Chúa nơi những người thân trong gia đình chúng con như: chồng vợ, cha mẹ, anh chị em trong cùng một mái nhà, để cảm thông, tha thứ và sẵn sàng chia sẻ lời chúc bình an hạnh phúc cho họ. Nhờ đó, Chúa là tình thương sẽ có thể hiện diện nơi bản thân, gia đình, khu xóm và nơi làm việc của chúng con.- AMEN.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sáng hôm nay, chúng ta hân hoan mừng sinh nhật của Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong Thánh lễ sáng hôm nay, Kinh thánh Lời Chúa dẫn chúng ta đến với Hài Nhi nằm trong máng cỏ và kêu gọi chúng ta suy niệm việc Thiên Chúa giáng sinh làm người. Để đi vào bản chất của mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta phải đi qua câu chuyện và tìm hiểu ý nghĩa việc Thiên Chúa giáng trần.
Trong bài đọc 1, tuy vắn tắt, nhưng tiên tri Isaia muốn thu hút sự chú ý của chúng ta, và kêu gọi chúng ta hãy đặt tâm hồn mình vào tình cảnh chờ đợi hồng ân cứu chuộc của Thiên Chúa đến. Isaia cho chúng ta biết này chân người đem tin mừng đã đến. Chúng ta hãy mở mắt ra nhìn ơn Chúa cứu độ chúng ta. Isaia bấy giờ nói với Giêrusalem trong thời bị bỏ rơi, tiêu điều, xơ xác, và với dân đang chịu cảnh lầm than, khổ sở, mất quyền tự chủ và tự do.
Ông bà anh chị em thân mến. Thành Giê-ru-sa-lem vẫn còn là hình ảnh cuộc đời của tất cả chúng ta, khi chúng ta không làm chủ được bản thân, đời sống và vận mạng của mình, bị vật chất, tiền bạc và các thú vui điều kiển, và khi chúng ta sống trong cảnh sợ hãi, lo âu và sầu khổ. Ai nhận ra và ý thức mình như thế, hãy nghe lời tiên báo của Isaia: đẹp thay bước chân người đem tin mừng, người loan báo hòa bình cứu độ! Chính Chúa đã ra tay trước mặt muôn dân, và khắp chốn đã nhìn thấy Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Bài đọc 2 cho chúng ta biết xưa kia Thiên Chúa đã nói với dân Do thái qua các tiên tri, nay vào thời sau hết, Thiên Chúa không những hành động, mà còn nói với chúng ta qua Con Một của Người. Như vậy lễ Thiên Chúa Giáng sinh làm người cho chúng ta thấy công việc trọng đại cuối cùng mà Thiên Chúa làm, để bày tỏ lòng yêu thương và dứt khoát cứu độ chúng ta. Không ai còn phải chờ đợi hành động giải thoát nào khác, và mọi công việc trước đây chỉ là tạm thời để chuẩn bị hoặc để tiên báo mà thôi. Không còn tìm ra nguồn sự sống và bình an đích thực nào khác ngoài Con Thiên Chúa giáng trần. Ðể thu hút sự suy nghĩ và kêu gọi chúng ta chú ý vào công việc Thiên Chúa làm, bài đọc 2 còn cho chúng ta thấy ngay các thiên thần trên trời bây giờ cũng quì thờ lạy Con Thiên Chúa giáng trần. Nói cách khác, Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ từ nay trở thành trung tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử. Muốn tìm thấy Thiên Chúa, phải chạy đến với Người, muốn biết kế hoạch cứu độ và ân sủng của Thiên Chúa cũng phải tìm hiểu nơi Người Con ấy. Người là mạc khải cuối cùng và toàn vẹn, bao gồm mọi mạc khải từ trước tới nay và mãi mãi đến muôn đời. Chúng ta không thể tìm được sự gì tốt đẹp khác, và chúng ta không thể tìm được hạnh phúc và bình an đích thực ở ngoài Người. Hạnh phúc và ơn cứu độ của chúng ta tùy ở việc tiếp nhận và sống Lời Người và đi theo con đường Người chỉ dạy. Hôm nay Thiên Chúa Cha đã sinh ra làm Người cho chúng ta, để mai ngày cũng chính Thiên Chúa Cha sẽ phán: các ngươi hết thảy hãy nghe Lời Người.
Chúng ta nhận ra rõ ràng thánh Gioan là người hiểu ý nghĩa sâu sa của mầu nhiệm Giáng sinh. Ông không dừng lại ở hiện tượng hay sự kiện đang xảy ra và cũng không mô tả việc Chúa sinh ra. Nhưng đã suy nghĩ và nhìn thấy rõ việc Chúa ra đời là cả một công trình, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho chúng ta từ nguyên thủy. Thánh Gioan đã viết nên bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc, và Giáo hội muốn chúng ta suy niệm bài Tin Mừng ấy để đón nhận hồng ơn Chúa Giáng sinh.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta biết không phải hết mọi người nhận ra mầu nhiệm Chúa giáng sinh, và cũng không phải tất cả đều nhận được hồng ân cao cả này. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy những thái độ của loài người trước kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Vừa nói đến việc Ngôi Lời là ánh sáng và là sự sống thật đến trong thế gian, Gioan đã phải thốt lên: thế mà thế gian lại không đón nhận Người. Người đến trong nhà của Người, mà người nhà đã không tiếp nhận Người. Chúng ta biết Gioan ám chỉ đến người Do thái, nhưng cũng gián tiếp nói về mọi người, ngày xưa cũng như ngày nay, không đón nhận Ngôi Lời, Đấng Cứu Thế, và sứ điệp cứu độ của Người.
Lẽ ra, nếu là loài thụ tạo do Thiên Chúa dựng nên, ai ai cũng phải đón nhận hồng ân của Thiên Chúa khi Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta. Nhưng biết bao người xưa và nay từ khước, không chấp nhận Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế. Gioan cho chúng ta biết những người cứng lòng sống theo ý riêng của họ và suy nghĩ theo thế tục, có nghĩa là họ muốn tự tạo ra sự cứu độ và tự xây dựng hạnh phúc cho chính mình. Nhưng chúng ta biết sự cứu độ và hạnh phúc này là giả tạo và chóng qua. Họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa sinh làm Hài Nhi nơi máng cỏ, trong một khung cảnh quá khó nghèo. Vì vậy, họ từ chối Lời Chúa và từ khước sự hiện diện “Chúa ở cùng chúng ta.” Nói tóm lại, họ ích kỷ, muốn sống theo ý riêng mình, và xây dựng hạnh phúc theo ý họ, chứ không muốn đi chung một con đường của Chúa dẫn tới bình an và hạnh phúc đích thực. Còn những ai tin vào Thiên Chúa và kết hợp với Người Con của Người, thì Gioan cho biết sẽ nhận được khả năng không còn sống theo ý muốn của huyết nhục xác thịt, nhưng theo ý Chúa được tràn đầy ơn sủng và sự thật. Ðó là những người có sự sống và yêu thương của Chúa, Đấng đã sinh ra làm người vì và cho chúng ta.
Như vậy, ông bà anh chị em thân mến, mừng lễ Giáng sinh, đón nhận ơn Chúa ra đời, là tiếp nhận tình yêu, ánh sáng và một sự sống mới mà Chúa Cứu Thế mang đến. Thiên Chúa đã chia sẻ tình yêu và sự sống của Người với chúng ta, bởi vậy, chúng ta được kêu gọi từ bỏ đời sống ích kỷ và tham lam, từ bỏ những ý muốn chỉ tìm hạnh phúc tạm bợ đời này. Và cho được như vậy, chúng ta phải sống thánh ý Chúa, phải sống Lời Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa giữa chúng ta, và đi vào đường lối Người đã đi, mà giờ đây trong Thánh Lễ, Chúa còn khẳng định rõ rệt cho chúng ta biết: “Này là Mình Ta sẽ bị nộp vì các con; này là Máu Ta sẽ đổ ra cho muôn người được khỏi tội.”
Xin Thánh Thể Chúa Ki-tô kết hợp chúng ta vào với Người và kết hợp chúng ta lại với nhau, để không những chúng ta tin mến Chúa hơn mà cũng yêu người nhiều hơn. Thiên Chúa đã xuống thế và đến ở cùng chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng phải đến với và sống cho anh chị em, vì tất cả chúng ta chỉ có một Cha trên trời, Ðấng đã tác tạo lại tất cả trong Người Con duy nhất, là Hài nhi nằm trong máng cỏ, mà Người đã ban cho thế gian trong mầu nhiệm Giáng sinh chúng ta đang cử hành.
Xin kính chúc quí cha, quí thày, quí sơ, quí ông bà anh chị em và gia quyến một mùa Giáng sinh tràn đầy hồng ân của Chúa.
.