Lời Chúa Năm B CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN. NĂM B

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN. NĂM B

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_B

Lời Chúa: St 2,18-24; Dt 2,9-11; Mc 10,2-16

—–

Mục lục

1. Hôn nhân bình đẳng và bền vững  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích (Jorathe Nắng Tím)

3. Nên một huyết nhục (Lm. Thái Nguyên)

4. Không được phân ly (Lm. Vũ Đình Tường)

5. Thủy chung  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

6. Hôn nhân một vợ một chồng trong ý định của Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Kê tình  (Trầm Thiên Thu)

8. Khi ta yêu thương  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

9. Hôn nhân, sự chúc lành của Thiên Chúa (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

10. Tìm về ý định của Thiên Chúa  (Lm. Ngọc Dũng, SDB)

11. Làm cha với sự hy sinh trưởng thành (Lm. Dương Trung Tín)

 

Mục lục

1. Ơn gọi thủy chung (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

2. Giá trị của gia đình (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

3. Hôn nhân  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

4. Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Sự chung thủy của tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

6. Sự bền vững của hôn nhân (Lm. Trần Thanh Sơn)

7. Đức Giêsu giải thích lề luật với uy quyền  (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

8. Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp  (Lm. Nguyễn Cao Siêu)

9. Phép tình kỳ diệu  (Trầm Thiên Thu)

10. Sống đạo trung tình nghĩa vợ chồng  (Lm. Trần Bình Trọng)

11. Gia đình – Hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

12. Mors sola – chỉ có sự chết  (Lm. GB. Trần Văn Hào)

13. Vấn đề gia đình  (Trầm Thiên Thu)

14. Hôn nhân trong Tin mừngnhân ái  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

15. Chúa Nhật 27 Thường niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

16. Chung thủy (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Phòng tránh ly hôn trong đời sống hôn nhân (Lm. Đan Vinh)

18. Nguồn gốc và cùng đích của ta (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

 

HÔN NHÂN BÌNH ĐẲNG VÀ BỀN VỮNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi nhận định về tình trạng hôn nhân và gia đình hôm nay, hầu hết những nhà nghiên cứu và những người có trách nhiệm đều có một cái nhìn tiêu cực. Quả vậy, trong cơn bão hưởng thụ và với quan niệm mang danh “tự do” gia đình truyền thống Việt Nam đang đứng trước nhiều nguy cơ: ly dị, phá thai, đồng tính, sống chung không đám cưới. Có những người được mệnh danh là “người của công chúng” mà kết hôn đến 5 lần. Điều đáng lo ngại là những người này lại lập luận đó là chuyện bình thường. Nguy hiểm hơn nữa, tình trạng thay vợ thay chồng như thay áo lại được quần chúng xã hội chấp nhận dễ dàng!

Khi nói đến những khó khăn trong đời sống hôn nhân, nhiều bạn trẻ lập luận: thời ông bà chúng ta ngày xưa rất dễ dàng, bởi các cụ không mấy khi ra khỏi làng, những nhu cầu vật chất của các cụ không nhiều, lại không có những hình thức giải trí và giao lưu như ngày nay, nên các cụ có thể sống với nhau trọn đời. Đối với nhữung người này, đời sống vợ chồng sống chung thuỷ đã trở thành câu chuyện cổ tích. Lối lập luận này chỉ là một nguỵ biện. Bởi lẽ thời nào cũng thế, đời sống hôn nhân luôn đầy những sóng gió bão táp. Thời ngày xưa thì bão táp mang khuôn mặt của thời xưa. Bí quyết để chung thuỷ trong hôn nhân luôn là sự khiêm nhường, bao dung, thiện chí và tôn trọng lẫn nhau.

Trong Tin Mừng hôm nay, những người Biệt phái muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Họ muốn đưa Ngài vào một “thế khó” khi đưa ra vấn nạn về ly dị. Điều này cho thấy thời nào cũng có những tranh chấp bất đồng trong đời sống hôn nhân. Không chỉ những người Biệt phái đặt ra vấn nạn này, mà cả những môn đệ cũng làm như vậy. Như thế, xem ra các ông không hiểu lời giải thích của Chúa với những người Biệt phái, cho nên các ông mới hỏi Người khi về đến nhà. Với các môn đệ, Chúa nói một cách ngắn gọn nhưng dứt khoát: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ người khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình“. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, không có sự phân biệt về trách nhiệm giữa người nam và người nữ. Nền tảng để nhận xét trách nhiệm luân lý của một hành vi không phân biệt người đó là vợ hay là chồng, nhưng tất cả đều như nhau.

Từ một vài thập niên trở lại đây, có những tổ chức, phong trào đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ. Vấn đề này đã được nêu từ thời Cựu ước. Bài đọc I trích sách Sáng thế, là cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh, đã nói lên điều này. Sự bình đẳng nam nữ trước hết là trong công trình sáng tạo. Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ. Tác giả trình bày việc Thiên Chúa lấy chiếc xương sườn của ông Ađam – người đàn ông đầu tiên – để tạo nên bà Evà. Cách diễn tả này muốn khẳng định sự bình đẳng giữa cặp vợ chồng đầu tiên này. “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”. Câu cảm thán của Ađam như một tiếng kêu vui mừng hân hoan vì từ nay có người trợ tá, đồng thời cũng nói lên sự bình đẳng ngang hàng.

Bình đẳng và bền vững, đó là hai yếu tính của hôn nhân nói chung, nhất là đối với hôn nhân Công giáo. Bởi lẽ, Bí tích hôn nhân là mối giây ràng buộc thiêng liêng gắn bó hai người, một nam và một nữ, đến nỗi họ trở nên một xác thịt. Đây là ý định của Thiên Chúa từ khởi đầu của lịch sử. Đức Giêsu nhắc lại giáo huấn này, đồng thời khẳng định, nếu ông Môisen có cấp giấy ly dị cho một số trường hợp là vì sự yếu đuối và cứng lòng của con người.

Là thân phận tạo vật, con người không thể nhân danh tự do để làm bất kỳ những gì mình muốn. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta: hãy làm những gì Chúa muốn, để được hạnh phúc lâu bền. Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu nỗi lòng, cùng với những khó khăn của mỗi chúng ta, Thiên Chúa không phải là một ý tưởng hay một ngẫu tượng, nhưng là Đấng Tạo thành và là Cha giàu lòng thương xót. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên gần gũi đối với con người, để đồng hành, lắng nghe, nâng đỡ và an ủi họ. Chính Đức Giêsu đã sống kiếp phàm nhân, đã thấu hiểu nỗi đau của con người trong cuộc đời nhân thế. Thiên Chúa không chỉ cho chúng ta những điều răn và những huấn lệnh, nhưng còn cho chúng ta chính Con Một của Ngài, tức là Ngài ban chính mình Ngài cho chúng ta. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc II) đã diễn tả điều ấy.

Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly“. Trước tình trạng người ta thay vợ thay chồng như thay áo hôm nay, Giáo Hội vẫn rao giảng giáo huấn của Chúa, bởi vì đây là Thiên Luật, tức là luật của Thiên Chúa, bền vững vĩnh cửu. Giáo Hội có bổn phận khẳng định rằng, con người phải phụng sự Thiên Chúa, chứ không được phép bắt Thiên Chúa phải phụng sự mình. Những ai muốn đạt được hạnh phúc đích thực đời này và đời sau, phải tuân giữ những gì Chúa đã truyền dạy. Nếu họ chưa gia nhập Giáo Hội, ít là họ phải sống theo lương tâm, vì lương tâm cũng là lề luật của Thiên Chúa in vào tâm khảm của con người, nhằm giúp con người nên hoàn thiện.

Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo nêu rõ: “Chủ trương sống phóng túng phát xuất từ quan niệm sai lạc về sự tự do của con người. Muốn có tự do đích thực, điều tiên quyết là con người phải được giáo dục về luật luân lý. Phải đòi hỏi những người có trách nhiệm giáo dục dạy cho người trẻ biết tôn trọng sự thật, các phẩm chất của trái tim và phẩm giá luân lý và thiêng liêng của con người” (số 2526). Theo giáo huấn trên đây, một xã hội lành mạnh phải khởi đi từ ý thức của những thành viên trong xã hội đó. Giáo dục nhân bản và giới tính là điều kiện căn bản giúp con người hiểu và sống tự do, nhờ đó họ trưởng thành và cùng cộng tác xây dựng một cuộc sống nhân ái và hoà bình.

Qua cuộc sống trần thế, Chúa Giêsu diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Đó không phải là mối tương quan nô lệ hay cưỡng ép, nhưng là tự do và sự phó thác, với xác tín rằng Thiên Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp cho những ai tin cậy nơi Ngài.

Nên giống như trẻ em, đồng thời đón nhận Nước Trời với tâm hồn trẻ thơ, đó là bí quyết để nên hoàn thiện. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã cảm nhận được điều này. Tâm tình trẻ thơ đã làm cho Bà trở thành một đấng thánh và là mẫu mực cho những ai muốn nên giống Chúa Giêsu.

Nên giống như trẻ thơ, đó cũng là một điều kiện để trở nên môn đệ Đức Giêsu. Chúng ta nhớ lại, cũng trong Tin Mừng Thánh Máccô (x Mc 9,35-37), trong lúc các môn đệ tranh cãi xem ai là người lớn nhất, Chúa Giêsu đã đặt một em nhỏ vào giữa các ông, đồng thời Người cho thấy Người đồng hoá với các em nhỏ này. Không những thế, “ai đón tiếp em nhỏ này là đón tiếp Thày, ai đón tiếp Thày là đón tiếp Đấng đã sai Thày“. Tinh thần trẻ thơ không phải là sự ngây thơ ấu trĩ, nhưng đó là sự tin tưởng hoàn toàn, sự vâng lời tín thác, sự đơn sơ khó nghèo và lắng nghe chân thành.

Gia đình là nền tảng của xã hội và của Giáo Hội. Gia đình cũng là trường học đầu tiên, nơi con người được rèn luyện và hình thành nhân cách. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người ý thức được sự thánh thiêng của gia đình và giá trị của hôn nhân, để một khi gia đình bền vững, tương lai xã hội và Giáo Hội sẽ tốt đẹp và tươi sáng.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH

Jorathe Nắng Tím

Tin Mừng hôm nay xoay quanh Nguồn Gốc của con người, Liên Đới giữa người nam và người nữ, để hướng về Thiên Chúa là Cùng Đích của tất cả mọi thụ tạo.

Về nguồn gốc con người, Tin Mừng khẳng định: “Ngay lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ” (Mc 10, 6), và sách Sáng Thế đã mô tả nguồn gốc ấy, như trong bài đọc thứ nhất (x. St 2,18-24).

Nhưng nguồn gốc của con người chỉ có giá trị và ý nghiã khi con người nhận biết chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người mới thực là nguồn gốc ơn cứu độ của họ, như thánh Phaolô đã quả quyết: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc” (Dt 2, 10-11).

Như thế, con người không chỉ được tạo dựng để sống như cỏ cây, nhưng còn để được thông dự  vinh quang đời đời  của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của con người: Nguồn Gốc từ đó con người được tạo dựng, Cùng Đích con người phải đạt tới, tiến về, bởi con người là con cái của Thiên Chúa mang hình ảnh của Ngài, nên chỉ hạnh phúc, thoả lòng khi được về với Ngài, ở với Ngài.

Vì thế, cuộc sống con người sẽ chỉ có ý nghĩa đích thực khi con người biết mình là con Thiên Chúa, được Cha trên Trời sinh ra, và sẽ về Trời với Cha mình. Ý nghĩa này không thể gặp được ở đời sống của người vô thần khi họ chủ trương con người chỉ là kết qủa của một “bùng nổ tự nhiên”, con nguời chết là hết, con người sống chết như thực vật, động vật không linh hồn, không Nguồn Gốc, Cùng Đích không hy vọng sự sống đời sau.

Cũng theo Tin Mừng, sự liên đới giữa con người, đặc biệt giữa người nữ và người nam trong hôn nhân được đặt trên nền tảng Thiên Chúa là Nguồn Gốc, Cùng Đích của con người, và Đức Giêsu là Đấng đảm bảo tương quan Cha Con giữa con người với Thiên Chúa. Nói cách khác, liên đới giữa con người với con người, cũng như tương quan hiệp nhất giữa người nữ và người nam trong bậc sống hôn nhân, gia đình được bảo đảm bởi Giao Ước giữa Thiên Chúa và con người đã được Đức Giêsu thực hiện bằng chính máu Ngài, máu của Con Thiên Chúa làm người đã chết như con người để đem lại ơn cứu độ cho con người. Nhờ thế, con người được trở thành con của Thiên Chúa Cha, và anh em của Đức Giêsu như Tin Mừng Máccô ghi lại: “Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.” (Mc 10, 11).

Thực vậy, một khi Thiên Chúa được chân nhận là Nguồn Gốc và Cùng Đích của con người, thì đời sống của mỗi người sẽ là những bước chân tiến dần về Thiên Chúa được ơn phù trợ của Ngài hướng dẫn, che chở. Trên con đường của đời sống có Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích ấy, mọi liên đới, tương quan giữa người với người, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ, con cái, tất thảy đều quy hướng về Giao Ước yêu thương giữa Thiên Chúa với con người là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người. Với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, con người chắc chắn  không mất hướng đi, không lạc lối trên đường về với Thiên Chúa là Cùng Đích, và trong liên đới với nhau, con người mới không đánh mất chính mình và đánh mất nhau.

Nhưng để đi vào Giao Ước liên đới, và hiệp nhất ấy, mỗi người được mời gọi vượt qua với Đức Giêsu, như Ngài đã vượt qua thử thách, đau khổ để đến vinh quang, vượt qua sự chết để đến phục sinh, bởi không hiệp nhất nào không đòi từ  bỏ chính mình, không liên đới mật thiết nào không đòi những tháo gỡ, cởi bỏ không ít những gì thuộc về mình, không tương quan ân tình nào không đòi hỏi hy sinh, và đó chính là lý do Đức Giêsu nhắc bảo những người sống đời hôn nhân, là dấu chỉ  rõ nhất của Giao Ước Hiệp Nhất phải biết từ bỏ: “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình” (Mc 10,8). Nhắc nhủ người đàn ông cũng là khuyên bảo người đàn bà, vì cả hai đều phải từ bỏ rất nhiều để có thể gắn bó, “trở thành một xương một thịt” (Mc 10,8).

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn xác tín chân lý căn bản, đó là “Chính Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của đời chúng ta”, và niềm Hy Vọng vào Thánh Giá của Đức Giêsu là nguồn Tình Yêu, bởi trên Thánh Giá, tình yêu đã trở nên cao cả khi sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho người mình yêu; cũng trên Thánh Giá, tình yêu đã trở nên mạnh mẽ vô địch khi chiến thắng sự chết, để chúng ta có thể kiên trì ở lại trong tình yêu của Chúa và của nhau.

Về mục lục

NÊN MỘT HUYẾT NHỤC

Lm. Thái Nguyên

Trong xã hội và Do Thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không có quyền bình đẳng với nam giới, vì vợ là một thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng. Chỉ người vợ mới phạm tội ngoại tình đối với chồng, và chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ. Đức Giêsu không chấp nhận như thế, vì “Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ”, nghĩa là có sự bình đẳng giữa đôi bên, và hôn nhân là một khế ước cam kết trọn đời, vì vợ chồng sẽ trở nên một huyết nhục.

Buồn thay, số vụ ly hôn nơi Kitô hữu ngày càng gia tăng đáng kể, và để lại một hậu quả khốn đốn cho thế hệ tương lai. Ở đây, chúng ta có thể lấy làm lạ tại sao việc ly dị đã được luật Môsê cho phép (Đnl 24,1) mà người Pharisêu còn “hỏi thử” Chúa Giêsu có chấp nhận hay không. Nếu đã cho phép thì cứ theo luật mà thực hành, hà tất phải đặt vấn đề? Khoa chú giải Thánh Kinh cho biết trong nội bộ phái Pharisêu bấy giờ quả thực đang có tranh cãi kịch liệt về vấn đề này. Phải chăng tự thâm tâm người ta vẫn ray rứt khi họ “phân ly những gì Thiên Chúa đã kết hợp”? Chúa Giêsu cho biết hiện trạng của luật Môsê chỉ là một sự nhân nhượng, vì “lòng chai dạ đá” của họ. Ngài nhắc lại nguyên lý đã có ngay từ đầu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”, để dứt khoát xoá bỏ quan điểm mập mờ cũng như lối thực hành phóng khoáng của luật cũ, đồng thời cho thấy hôn nhân là điều cao quí và thánh thiện.

Hôn nhân Kitô giáo còn có một ý nghĩa siêu vượt, đó là sự phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở:“Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội Thánh”. (Ep 5, 25). Tình yêu là hy sinh, không hy sinh thì chẳng có tình yêu, hoặc đó chỉ là tình yêu trá hình và vị kỷ.

Cốt lõi của tình yêu còn là lòng trung thành: trung thành khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan; khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu; khi buồn chán và thất vọng về nhau; khi yếu đuối và vấp ngã; khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được… Nhưng không có gì là không giải quyết được trong đời sống vợ chồng: chỉ cần bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương; bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ, thì có thể trung thành với nhau, và đem lại cho nhau an vui và hạnh phúc.

Hôn nhân là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, nhưng con người phải góp phần để gìn giữ và tô điểm thêm luôn. Chính Chúa đã thiết lập giao ước hôn nhân thì chính Ngài cũng ban ơn để vợ chồng có thể “yêu thương và kính trọng nhau suốt đời”. Đó là yếu tố cơ bản để các Kitô hữu có thể tân Phúc-Âm-hoá gia đình mình và đồng thời góp phần Phúc-Âm-hoá các gia đình lương dân.

Để thực hành lời cam kết trong bí tích hôn nhân, vợ chồng cần có thời giờ ngồi lại với nhau để trao đổi những khúc mắc trong cuộc sống hằng ngày. Va chạm với nhau trong đời sống vợ chồng là điều không thể tránh khỏi, nhưng va chạm là điều cần thiết để hiểu nhau hơn, để nhìn thấy sự thật, để biết sửa sai, đưa tới hòa hợp và yêu thương nhau hơn, chứ không phải tìm cách để hơn thua khiến cho nghĩa vợ tình chồng ngày càng thêm sứt mẻ và khó mà hàn gắn.

Cần tìm hiểu lý do sâu xa của vấn đề và đặt mình trong tình cảnh của nhau, để có sự đồng cảm và thương mến nhau hơn sau những lần va chạm và sứt mẻ. Vợ chồng cần ngồi lại với nhau và với Chúa trong giờ kinh tối trong bầu khí giao hòa và nối kết lại yêu thương, xóa bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ, để tiếp tục làm mới lại tình yêu ban đầu của mình, với tâm tình tha thiết cầu nguyện cho nhau. Vợ chồng biết sống trung thành với Chúa thì càng biết sống trung thành với nhau. Lòng yêu mến Chúa và quyết tâm xây dựng một gia đình tốt đẹp là động lực để vợ chồng dám vượt qua tất cả để sống cho nhau, vì nhau. Đó là điều kiện thiết yếu để đem lại bình an và hạnh phúc cho gia đình trong cuộc sống xã hội ngày càng có những phức tạp.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Chúng con cảm tạ Chúa sao cho vừa,
về ơn gọi Chúa ban cho tình yêu đôi lứa,
để nâng đỡ nhau trên đường hoàn thiện,
đạt tới thiên đường mơ ước ở cõi Thiên.

Hôn nhân đâu phải là chuyện tình cao hứng,
mà là dấu chứng của tình trời với đất
là khế ước để yêu thương và hợp nhất,
mà Thiên Chúa đã tác hợp cho con người.

Tình yêu vợ chồng có nhiều hoan lạc,
nhưng cũng kèm theo bao thử thách,
và xem ra hạnh phúc thật mong manh,
biết bao nhiêu ước hẹn đã không thành.

Nhưng con tin trong gia đình Kitô hữu,
dù tình yêu có khi nhạt nhòa như nước lã,
thì Chúa Giêsu vẫn làm lại thật đậm đà,
biến nước thành rượu như tiệc cưới Cana.

Ước chi mọi gia đình Kitô hữu,
phản ảnh tình yêu Đức Kitô và Hội Thánh,
như thể bức tranh luôn tươi sáng rạng ngời,
để đem lại cho các gia đình cuộc sống mới,
cuộc sống trọn đời vẹn thuỷ chung,
cuộc sống tín trung đẹp mãi đến vô cùng.

Xin cho các bạn đang hướng đến hôn nhân,
chuẩn bị cho mình một hành trang tinh thần,
biết siêng cầu nguyện và tìm hiểu học hành,
biết lãnh trách nhiệm và sống trưởng thành,
để xây dựng một Hội Thánh tại gia,
theo mô mẫu của gia đình thánh Cả.

Xin Thánh Thần luôn soi đường dẫn lối,
để gia đình nên hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY

Lm Vũđình Tường

Kết hợp hôn nhân giữa một người nam và một người nữ được hiểu là hôn nhân. Mối liên kết bền vững, thánh thiện này Thiên Chúa thiết lập cho toàn thể nhân loại. Ngày nay đã bớt nhiều nhưng chưa hết hẳn cảnh coi thường nàng dâu. Hôn nhân bị lạm dụng khi người ta mang phong tục, văn hoá ra bào chữa cho việc đúng ra không nên làm. Đối xử tàn tệ, tàn nhẫn với nàng dâu, dưới bất cứ hình thức nào, cũng hoàn toàn trái nghịch í Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng mối liên kết thánh trong hôn nhân. Thiếu tôn trọng người phối ngẫu, thiếu bình đẳng trong hôn nhân, lợi dụng thân xác người khác là sai, trái, nghịch í định của Thiên Chúa trong chương trình tạo dựng xã hội nhân loại.

Li dị vì bất cứ lí do gì, trước khi li dị thực sự xảy ra, người ta đã li dị trong tâm hồn. Thiên Chúa liên kết hôn nhân, con người mai táng hôn nhân. Nhóm Pharisiêu thử Đức Kitô khi họ hỏi Ngài cho biết í kiến về li dị. Đức Kitô bảo họ, từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng hôn nhân. Mối liên kết vĩnh cửu này không hề thay đổi, và sẽ không bao giờ thay đổi. Họ đáp lại Ngài. Vậy tại sao tổ phụ Môisen cho phép li dị trong trường hợp ngoại tình (Mc 10:4). Đức Kitô vạch rõ cho họ biết,

‘Chính vì các ông lòng chai, dạ đá nên Môisen mới viết điều răn đó cho các ông’ Mc 10:5
Lí luận luật pháp cho li d ị. Điều này hợp pháp nhưng không hợp lí. Luật pháp không liên kết hôn nhân. Đôi tân hôn liên kết hôn nhân. Làm thế nào luật pháp có thể cho phép điều nó không liên kết.

Rõ ràng Môisen không hỗ trợ việc li dị, mà chính là do sức ép của một số cá nhân có thế lực, buộc Môisen làm điều ông không muốn. Có lẽ Môisen muốn giữ hoà khí chung trong cộng đồng nên đành chấp nhận thoả mãn yêu sách của một số, để tránh chia rẽ, đổ vỡ trong hành trình về Đất Hứa.

Mối liên kết hôn nhân vừa thánh thiện vừa bền vững. Thánh thiện bởi do lòng thành cầu xin Chúa thánh hiến mối tình của hai người. Bền vững bởi hai người ở tuổi trưởng thành, cả hai đều chân thành, tự do tuyên thề sẽ sống chung, nâng đỡ, hỗ trợ trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc sống.
Li dị chính là:
a/ Đòi tháo bỏ mối liên kết thánh thiện, bền vững.
b/ Từ chối đón nhận điều thánh thiện, tốt lành.
c/Không chấp nhận tính bền vững liên kết trong hôn nhân.
d/Phản lại điều chính họ đã tự do, long trọng tuyên.
e/Chối bỏ chính lời mình thề hứa.
f/Sống trái với í định khởi đầu của Thiên Chúa trong hôn nhân.
g/Chấp nhận sai, trái, nhưng từ chối, trốn tránh hậu quả của sai lầm. Sai đây có thể là sai trong chọn lựa, cũng có thể do lơ là, sai trong việc không chăm sóc, nuôi mối tình cao đẹp của hai người.

Đức Kitô hướng dẫn thêm cho các tông đồ về hôn nhân. Ngài nói,
‘Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình’ Mc 10:12

Cả hai cùng chung trách nhiệm nói lên, vợ chồng bình đẳng về trách nhiệm, cũng như bình dẳng về quyền lợi, không ai hơn ai. Tình trạng chồng ‘chúa’, vợ ‘tôi’ là hình thức lạm dụng, trái nghịch với giáo huấn Chúa ban. Bởi chung trách nhiệm nên chung quyền lợi.
Những gì Thiên Chúa kêu gọi con người thực hiện, Thiên Chúa ban cho con người ân sủng, và khả năng thực hiện điều Chúa mong muốn. Từ chối ơn Chúa, từ chối ân sủng Ngài, nghi ngờ khả năng của bạn. Không gì tồn tại.

Nhiều cuộc hôn nhân tổ chức mừng lễ bạc, lễ vàng, kim cương kỉ niệm ngày cưới cho thấy họ sống trung thành trong hôn nhân, cố gắng giữ trọn lời thề nguyền. Cuộc sống hôn nhân của họ cũng có niềm vui, nỗi buồn, có thuận buồm xuôi gió, có chao đảo, có chung í, có bất đồng, có hãnh diện, có ê chề. Trong hoàn cảnh như thế, cả hai cùng hỗ trợ nhau, biết ca tụng, ngưỡng mộ khi thành công. Khi thất bại không cắn cấu, chì chiết, nhưng ân cần nâng đỡ, ủi an, làm cho sầu khổ vơi đi, cùng ước mơ một ngày mai tươi sáng.

Không phải sắc đẹp, danh giá, thế lực, bảo lãnh di dân, cầm giữ hôn nhân; tình yêu chân thành giúp hôn nhân bền vững. Tình yêu chân thành cần được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ bằng nguồn tình yêu không bao giờ cạn là tình yêu Chúa. Cuộc sống hôn nhân gia đình trở nên thánh thiện, bền vững.

Khi có tranh biện quyền riêng hay trách nhiệm cá nhân. Đó là dấu chỉ của rạn nứt. Chậm chạp, chần chờ sửa chữa là cửa ngõ đến đến cửa toà.

Tất cả là nạn nhân, đôi hôn nhân, gia đình, thân nhân. Con cái dù vô tội cũng là nạn nhân không phải do lỗi của chúng mà của cha mẹ chúng. Đức Kitô đặt trẻ nhỏ vào hôn nhân cho biết xáo trộn, đổ vỡ gia đình biến con cái thành nạn nhân.

Không phải luật thành văn bảo vệ hôn nhân, mà chính là luật không thành văn. Luật đó ở trong tim. Tình yêu có sức mạnh vượt thắng mọi nghịch cảnh trong đời. Hãy dâng mối tình của bạn cho Thiên Chúa, xin sống giữ trọn lời thề.

Về mục lục

THỦY CHUNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Các bài đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXVII TN B dường như xoáy trọng tâm vào đời sống hôn nhân mà chủ đề chính là sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu phụ. Tuy nhiên điều ta cần ngạc nhiên đó là sau khi tường thuật việc Chúa Giêsu khẳng định về sự chung thuỷ vợ chồng, đạo nhất phu nhất phụ thì Tin Mừng Maccô lại kể tiếp chuyện Chúa Giêsu chúc lành cho các trẻ em, dù cho các Tông đồ phản đối kịch liệt. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nhân sự kiện ấy để dạy cho các môn đệ và chúng ta hôm nay về cách thế vào Nước Trời là hãy nên giống như trẻ thơ.

Hình ảnh trẻ thơ trong vòng tay bố mẹ hay các bé đang chập chững tập đi của tuổi lên hai, lên ba không chỉ gợi cho chúng ta nét đơn sơ trong sáng mà đặc biệt cho chúng ta thấy một sự tin tưởng vào tình yêu. Trong vòng tay mẹ, bé không hề hãi sợ. Trong bàn tay của bố, trẻ vững tin tiến bước. Trẻ thơ chính là kết quả của tình yêu đôi lứa, là hoa trái của đời sống hôn nhân. Cái hình ảnh đẹp này hẳn phải được dệt xây trong một mái gia đình mà ở đó nghĩa tình vợ chồng mãi sắt son và chung thuỷ.

Người ta không thể cho cái gì mà mình không có. Làm sao có được những người con an bình trong vòng tay bố mẹ khi mà sự thuỷ chung trong hôn nhân không được đặt lên hàng đầu? Các thống kê xã hội cho chúng ta con số về trẻ hư hỏng thì đại đa số là xuất từ hoàn cảnh gia đình không ấm êm hoặc bị chia đàn xẻ nghé.

Không khi nào hơn lúc này, những nhà xã hội học, các nhà đạo đức học, những người đứng đầu các tôn giáo, các quốc gia lại quan tâm cách đặc biệt về sự bền vững trong hôn nhân gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cộng đồng cơ bản của Hội Thánh. Vai trò của gia đình luôn có tầm quan trọng mà không có tổ chức hay đoàn thể nào có thể thay thế cách hữu hiệu. Một xã hội mà đời sống hôn nhân thiếu bền vững, thì có thể nói là đang trên đà băng hoại. Chính vì thế thông điệp gìn giữ sự thuỷ chung trong hôn nhân luôn mang tính thời sự và cấp thiết.

Làm sao để gìn giữ sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu thê giữa một xã hội đầy biến động và chóng đổi thay như hôm nay? Một trong những cách thế gìn giữ sự thủy chung, trước sau như một của đời hôn nhân, đó là nhìn vào trẻ thơ. Một sinh linh luôn sống trong sự tín thác vào tình yêu. Không chỉ biết xây dựng lòng tin vào tình yêu của nhau mà còn hướng tâm trí của mình về hoa trái của tình yêu, đó là một trong những cách thế tuyệt vời để gìn giữ mối dây liên kết bất khả phân ly giữa vợ chồng. Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không được phân ly. Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt. Cái sự nên một xương một thịt này được hiện thực hóa nơi chính người con, một kết quả hữu hình của tình yêu đôi lứa. Nói đến điều này chúng ta mới hiểu được tình trạng dù không phải là “đáng buồn” theo nghĩa luân lý nhưng vẫn kém vui theo nghĩa tâm lý của những cặp vợ chồng đang lâm vào tình cảnh hiếm muộn.

Văn hào Saint Exupéry từng nói:“yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng”. Dĩ nhiên giữa vợ chồng có nhiều cái hướng nhắm, thế nhưng không có hướng nhắm nào quan trọng cho bằng những đứa con. “Có vàng, vàng chẳng hay phô. Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe”. Câu ngạn ngữ tuy mộc mạc, nhưng tượng hình và đượm nghĩa. “Ba thương con, vì con giống mẹ. Mẹ thương con, vì con giống ba…” Một ca từ không chỉ thi vị mà còn đủ ý tình. Chính qua đứa con mà người cha thêm khắng khít với người mẹ và người mẹ càng gắn bó với người cha và nghĩa tình hôn nhân ngày thêm bền chặt. Khi cùng nhìn về một hướng thì người ta sẽ biết nỗ lực vượt qua những dị biệt, để rồi có sự hiệp thông, hiệp nhất cách vững bền.

Với truyền thống Á đông, để làm người thì cần rèn luyện các nhân đức nền tảng là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Dù được xếp vào hàng thứ năm, nhưng “chữ tín” như là điều kiện đủ, hầu giúp cho các đức nhân, nghĩa, lễ, trí được chính hiệu. Cần khẳng định rằng chữ tín phải được gìn giữ trước hết ngay trong đời sống hôn nhân gia đình. Trong cuộc thi “hoa hậu áo dài” lần đầu được tổ chức tại Việt Nam năm 1989, chính nhờ câu trả lời trong phần thi ứng xử đã đưa cô Maria Nguyễn Thị Kiều Khanh, một nữ tín hữu giáo xứ Vườn Xoài, giáo phận Sài Gòn, lên ngôi hoa hậu. Các thí sinh vào vòng chung kết đều được ban giám khảo hỏi câu: em yêu cái gì nhất và em ghét cái gì nhất? Kiều Khanh đã vượt qua các bạn bằng câu trả lời: “điều em ghét nhất là sự phản bội”.

Quả thật, khi sự bất trung, bất tín xuất hiện và lan tràn như chuyện cơm bữa, trở thành chuyện thường tình, thì mọi mối tương quan giữa các cá nhân cũng như tập thể chắc chắn bị gãy vỡ. Nay ký kết hôn ước, mai đường ai nấy đi thì còn gì là hôn nhân! Nay ký hợp đồng, mai lại tùy tiện hủy bỏ thì còn gì là thương mại, bán mua! Nay ký hiệp ước, mai lại đơn phương rút, hủy thì còn gì là quan hệ đối tác! Tuy nhiên, cũng cần chân nhận rằng “nhân bất thập toàn”. Phận người thì khó tránh khỏi những sai lầm đáng trách hoặc có thể lượng thứ. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nhận định: “Chúa Giêsu một đàng đưa ra lý tưởng rất cao cả về đời sống hôn nhân và gia đình; đàng khác Người chạnh lòng thương những người đau khổ trong đời sống hôn nhân như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình” (Thư Mục Vụ 2018). Không kể các trường hợp cố tình và cố chấp, thì để gìn giữ sự thủy chung thì phía người lỗi phạm cần có sự khiêm nhu, chân thành nhìn nhận sai sót và phía còn lại cần có sự quảng đại, bao dung, tha thứ.

Xin nhớ rằng sẽ không bao giờ là muộn đối với người khiêm nhu, chân thành muốn bắt đầu lại như “thưở ban đầu đầy lưu luyến ấy” (x.Kh 2,4). Bí tích Thánh Thể, tòa cáo giải là những phương thế Chúa tạo cho chúng ta cơ hội lại bắt đầu. Ước gì mỗi người chúng ta biết trao cho nhau những cơ dịp thuận lợi để giúp nhau lại bắt đầu sống tình thủy chung và giữ chữ tín trong đời sống gia đình và xã hội, giữa chúng ta với nhau và với Thiên Chúa.

Về mục lục

HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG

TRONG Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Để con người hạnh phúc

Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế chúng ta sẽ khám phá ra ý định tuyệt vời của Thiên Chúa khi tạo dựng Evà cho Adong là để con người hạnh phúc. Thiên Chúa đã tạo dựng Adong, thấy Adong ở một mình không tốt. Thiên Chúa khiến cho Adong ngủ say, và khi ông đang ngủ, Ngài lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại làm thành người đàn bà, rồi dẫn đến Adong, Adong thấy Evà, mắt ông sáng lên, tim ông thổn thức, lòng ông dâng trào hạnh phúc và ông kêu lên: “Wa, đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (x. St 2,18-23).

Adong và Evà được Thiên Chúa tạo dựng và thiết lập thành vợ thành chồng thật là đẹp. Đẹp về cách mai mối: Tạo dựng Evà xong, Thiên Chúa dẫn Evà đến mai mối với Adong. Chu đáo về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Chính Thiên Chúa đứng ra tổ chức và cử hành hôn phối cho Adong và bà Evà. Có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao là những thứ Thiên Chúa đã chuẩn bị. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2, 24). Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mc 19, 6). Hôn nhân một vợ một chồng trong ý định của Thiên Chúa thật tuyệt vời. Đúng là, đẹp thay cái thủa ban đầu.

Sự cứng lòng của các ngươi

Tình yêu của Adong và Evà, tình vợ tình chồng dành cho nhau là một thứ tình phát xuất từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chia sẻ tình này cho con người. Ngài đã cho con người biết về dự án yêu thương này: “Chúng ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh chúng ta” (St 1,26). Do đó, khi đáp lại tiếng gọi con tim của nhau trong ơn gọi hôn nhân là con người chia sẻ thứ tình yêu cao cả của Thiên Chúa cho nhau. Luật một vợ một chồng không phải do con người đặt ra để áp đặt trên con người. Đây là luật của Thiên Chúa, mà những gì Thiên Chúa làm thì tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho mọi loài thụ tạo trong đó có con người.

Có không ít người trong cũng như ngoài Giáo Hội Công giáo cho rằng, Giáo Hội khe khắt, đòi hỏi, không bắt kịp trào lưu tư tưởng của con người thời đại. Họ đặt ra các vấn nạn: làm gì mà phải chung thủy? Tại sao phải sống chết với một người, nhất là người ấy gây sầu khổ cho mình? Thiên hạ ly dị đầy đường có chết chóc ai đâu? Tại sao mình lại không thử một lần để may ra đổi đời thay mệnh? Đúng là tình trạng ly dị hiện nay không còn được coi là trọng tội đối với đời sống hôn nhân; nó đã được chấp thuận và hợp pháp hóa tại nhiều quốc gia trên thế giới. Nói như vậy không có nghĩa là luật “một vợ một chồng” trở nên lạc hậu và Thiên Chúa cũng đã lỗi thời! Điều mà Giáo Hội gọi là “Ơn Gọi Hôn Nhân”, chung thủy, một vợ, một chồng mới là cái làm cho đời sống hôn nhân trở nên hạnh phúc. Ly dị không phải là giải pháp cuối cùng và tốt nhất cho đời sống hôn nhân. Chính Chúa Giêsu đã xác định với những người Do Thái khi họ hỏi Người về vấn đề ly dị. Trước biện chứng của người biệt phái về việc Môisê cho phép làm giấy tờ ly dị và họ ly dị, Người đã trả lời : “…lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ” (Mc 10,…..). Môisê chỉ làm điều chẳng đừng mà Thiên Chúa làm ngơ cho phép xảy ra theo sự cứng lòng của con người. Tại sao vậy? Thưa: Vì Thiên Chúa muốn hạnh phúc cho con người.

Hôn nhân ngày hôm nay

Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt: văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ.

Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô XVI nhận định rằng, việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở nhiều quốc gia là “sự bóp méo lương tâm” con người, là “mâu thuẫn với tất cả các nền văn hóa của nhân loại đã tiếp nối nhau cho đến nay, và do đó biểu thị một cuộc cách mạng văn hóa chống đối toàn bộ truyền thống của nhân loại cho đến tận ngày nay”. Để duy trì nòi giống phải là sự kết hợp giữa người nam và người nữ từ nguyên thủy cho đến hôm nay.

Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng dường như ngày nay con người không còn tin tưởng vào việc sinh sản từ quan hệ luyến ái phu phụ “mà là lên kế hoạch và sản sinh ra con người một cách hợp lý”. Do đó, con người không còn là một ân sủng để đón nhận mà là “một sản phẩm do chúng ta lập kế hoạch”. Ngài đặt câu hỏi: Con người là ai? Liệu có một Đấng Sáng tạo hay không, và phải chăng tất cả chúng ta chỉ là những sản phẩm do chính con người sản xuất ra?

Là người tín hữu ai cũng biết: đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ. Vĩnh hôn có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng.

Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay trung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào hay gặp gian lao thử thách nào vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt.  Amen.

Về mục lục

KÊ TÌNH

Trầm Thiên Thu

Thật chí lý khi ca dao Việt Nam đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu thê: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.”

Quan trọng là biết cách “kê” cho hết chênh vênh, bập bênh. Chắc chắn phải khéo léo lắm. Vợ chồng là hai con người hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, cái mà người ta gọi là “giống nhau” hoặc “hợp nhau” cũng chỉ mang tính tương đối. Không bao giờ có hai chiếc lá giống nhau, chắc chắn cũng chẳng bao giờ có hai con người giống nhau – dù là song sinh. Chỉ là bề ngoài, hai người sinh đôi cũng vẫn có điểm khác để có thể nhận biết ai là anh (chị) và ai là em. Đối với người Công giáo, cách “kê” tuyệt vời nhất là khiêm nhường, tha thứ, nhịn nhục,…

Bất kỳ phàm nhân nào cũng có một gia đình, cho nên chẳng ai lạ gì, thế nhưng để cho “vuông tròn” một gia đình đúng nghĩa thì lại là chuyện không hề đơn giản. Vả lại, ngày nay người ta không còn đề cao vai trò gia đình, vì thế mà tỷ lệ ly thân và ly hôn đang ở mức báo động đỏ! Tình yêu – hôn nhân – gia đình là ba vấn đề, nhưng không thể tách rời nhau. Có tình yêu chân thành thì mới dẫn tới hôn nhân tốt lành, nhờ đó mà có một gia đình an bình.

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền Mười Điều Răn cho ông Môsê. Đó là rường cột vững chắc của Đạo Chúa. Trong đó có điều răn thứ tư đề cập gia đình – tế bào gốc của xã hội và Giáo Hội. Gia đình như chiếc kiềng ba chân: Cha – Mẹ – Con. Ba “chân” này giúp giữ vững “chiếc kiềng” gia đình, trong đó có hai mối quan hệ chính: Phu thê, Mẫu tử hoặc Phụ tử. Đó là gia đình nền tảng. Gia đình còn hàm ý “đại gia đình” – bao gồm mọi thành phần trong Giáo Hội.

“Thảo kính cha mẹ” là điều răn thứ tư, được truyền cho con cái trong mối quan hệ với cha mẹ, vì mối quan hệ này phổ biến nhất. Ngĩa vụ đối với cha mẹ được đề cập chi tiết trong Hc 3:1-16, với câu kết này: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.” Chương 7 của sách Huấn Ca có những lời khuyên về các vấn đề khác liên quan gia đình và xã hội. Gia đình thực sự quan trọng vì mọi sự bắt đầu từ đó – đặc biệt là các nhân đức. Tuy nhiên, có điều cần phải lưu ý: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc luôn ở đó.” (Thomas Fuller, 1608-1661, sử gia Anh quốc)

Điều răn thứ tư không chỉ quan tâm mối quan hệ thân thuộc giữa các thành viên gia đình và dòng tộc, mà còn đòi hỏi lòng kính trọng, yêu thương, biết ơn tổ tiên và những người lớn tuổi. Tuy nhiên, điều răn này còn mang tầm vóc rộng lớn hơn: trách nhiệm của học sinh đối với thầy cô giáo, nhân viên đối với chủ nhân, người dưới đối với người trên, công dân đối với tổ quốc và những người lãnh đạo. Nghĩa vụ đa dạng, không hề đơn giản.

Thật vậy, Giáo lý Công giáo (số 2199) cho biết: “Điều răn này bao gồm nhiệm vụ của cha mẹ, người hướng dẫn, người dạy dỗ, người lãnh đạo, quan tòa, người lãnh đạo, người có quyền trên người khác hoặc cộng đồng.” Từ hệ lụy gia đình dẫn tới các hệ lụy khác, vì xã hội là một tổng thể mang tính liên đới.

Gia đình rất quan trọng, dù đó là gia đình nhỏ hay to, giàu hay nghèo, thế nên người ta gọi gia đình là “Tổ Ấm” và là “tế bào gốc” của xã hội và Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Kitô. Khi xuống thế làm người, chính Chúa Giêsu cũng có một gia đình, và Ngài rất yêu quý gia đình.

Khởi đầu một gia đình là khởi đầu đời sống hôn nhân chân chính. Sau khi tạo dựng con người đầu tiên trên thế gian, Thiên Chúa đã xác định: “Con người ở một mình thì không tốt.” (St 2:18a) Thế nên Ngài quyết định: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” (St 2:18b) Và gia đình đầu tiên đã được tạo dựng. Ađam nghĩa là “con người” và Êva là “mẹ của chúng sinh” chứ không là tên gọi như chúng ta ngày nay.

Trình thuật St 2:19-22 cho biết rằng Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, tên nó sẽ là thế. Con người được Thiên Chúa trao quyền đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa đã biết trước “nỗi niềm” của con người như vậy, Ngài biết con người sẽ “khắc khoải” vì cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tình cảm. Và rồi Ngài cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Lúc đó, Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút ra từ con người, làm thành một phụ nữ và dẫn đến “ra mắt” con người. Chua choa, vừa lạ vừa đẹp!

Nhìn thấy “sinh vật lạ,” giống mình mà vẫn khác mình, chắc là lúc đó con người bối rối lắm. Chuyện đời xưa nay là thế. Con người thích thú và nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” (St 2:23) Việt ngữ gọi “sinh vật lạ” đó là nàng, là em, là phụ nữ, là nội tướng, là vợ,… Kinh Thánh xác định: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2:24) Nam châm khác dấu thì hút nhau mạnh lắm, đến nỗi “bỏ” cha mẹ mà theo nhau kia mà. Vì là xương thịt của nhau nên vợ chồng ngày xưa gọi nhau là “mình ơi!” Việt ngữ thật là độc đáo!

Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu, vấn đề quan trọng là về lâu về dài. Ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất, nụ cười tươi nhất, y phục đẹp nhất, nhưng đó chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Chuyện vợ chồng là chuyện ăn đời ở kiếp chứ không chỉ vài tháng hoặc vài năm, trong khi vốn dĩ “đời là bể khổ.” Cái khó là chỗ đó. Lâu ngày dày kén, liệu vợ chồng còn có thể cười với nhau và cười với người khác hay không?

Chuyện cũ mà không bao giờ xưa. Vào giữa năm 2015, có một phiên tòa ly hôn kỳ lạ và hy hữu tại Đăk Mil, Đăk Nông. Phiên tòa này phân xử chuyện ly hôn của hai vợ chồng Đặng Văn Đó (sn 1985) và Phạm Thị Lụa (sn 1987), người dân ở Đăk Rla (Đăk Mil, Đăk Nông) quá đỗi bất ngờ. Tại sao? Đôi uyên ương ấy đã từng yêu nhau tới gần 5 năm, cố gắng vượt qua sự ngăn cấm của hai bên gia đình để có thể được ở bên nhau. Thế nhưng, ở với nhau chưa đủ “ấm hơi” đã vội dẫn nhau ra tòa ly dị. Nguyên nhân là việc tranh giành giữ của hồi môn và thùng tiền cưới, mâu thuẫn xảy ra ngay trong đêm tân hôn chỉ vì… tiền. Thảo nào người ta gọi là tiền tệ!

Hạnh phúc không thể tự dưng mà có hoặc “ngẫu nhiên” như trái sung rụng, mà nó phải được vun xới bằng hy sinh, mồ hôi, nước mắt, và từ hai phía. Cây cảnh chỉ có thể tươi đẹp nếu nó được chăm sóc, vun tưới. Hạnh phúc gia đình cũng vậy. Hạnh phúc kỳ diệu ở ngay bên chúng ta chứ không cần tìm kiếm ở nơi nào xa lắc xa lơ: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may!” (Tv 128:2) Hạnh phúc vô hình mà thực tế, đừng ảo tưởng mà đứng núi này trông núi kia! Nam nữ đến với nhau vì hạnh phúc của nhau – vừa vị kỷ vừa vị tha. Đó là hạnh phúc chung – của chính mình và của người bạn đời.

Sự thật không mơ hồ, mà rất minh nhiên: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là PHÚC LỘC Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.” (Tv 128:3-4) Đó là ước mơ không của riêng ai, nhưng khó là mỗi thành viên trong gia đình đều phải cố gắng để có thể biến ước mơ đó thành sự thật ngay trên cõi đời này. Thánh Vịnh gia cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:5-6)

Có được hạnh phúc gia đình không phải dễ, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò trống gì nếu thiếu ơn Chúa. Ơn Chúa luôn dồi dào, nhưng vấn đề là chúng ta có thành tâm đón nhận hay không. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện cho chúng ta: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.” (Ga 17:17) Chính sự thật sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. (x. Ga 8:32)

Có câu chuyện về Con Muỗi và Ba Giọt Máu thế này: Người chồng hết lòng thương yêu vợ, nhưng người vợ lại có thói trăng hoa, cứ nhân tình nhân ngãi với người kia, kẻ nọ. Một hôm, bỗng dưng người vợ lăn ra chết.

Người chồng buồn rầu, ôm xác vợ và bỏ xứ ra đi. Một hôm, anh ta gặp một đạo sĩ và cầu xin cứu sống vợ. Chạnh lòng thương cảm, đạo sĩ bảo người chồng chích vào ngón tay rồi nhỏ ba giọt máu lên xác vợ. Người chồng làm theo và người vợ hồi sinh.

Hai vợ chồng cùng nhau trở về quê cũ. Người chồng tưởng rằng người vợ hồi tâm và sẽ sống đời với mình, nhưng ngựa quen đường cũ, người vợ bỏ đi theo một tay lái thương giàu có. Hết lời khuyên can không được, người chồng nói: “Nàng có thể ra đi nhưng xin trả lại tôi ba giọt máu.” Người vợ chích ngón tay lấy máu hoàn trả. Nhưng lạ thay, máu vừa chảy ra thì nàng cũng tắt thở.

Chết đi, nàng hóa thân thành con muỗi, tìm người để lấy lại ba giọt máu, và mong được hồi sinh. Nàng bay tới đâu cũng bị xua đuổi, nên luôn miệng vo ve than vãn. Do đó, chỉ có Muỗi Cái mới hút máu động vật.

Duy trì tiếng cười trong gia đình là duy trì hạnh phúc, chắc chắn Thiên Chúa sẽ chúc lành và hứa ban Nước Trời mai sau. Cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cũng là cách “tử đạo liên lỉ.” Có vẻ đơn giản vậy chứ không hề dễ dàng! Thánh Phaolô cho biết: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.” (Dt 2:9) Gia đình nhỏ có hạnh phúc thì gia đình lớn mới có hạnh phúc.

Tất cả chúng ta, không phân biệt gì, đều là thành viên trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa. Gia đình nhỏ cần có hạnh phúc để vui sống và phát triển, gia đình lớn cũng vậy. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.” (Dt 2:10-11) Chúng ta chỉ là tội nhân mà được Thiên Chúa nhận là huynh đệ thì quả là trên cả tuyệt vời rồi!

Gia đình được mệnh danh là tổ ấm, nhưng gia đình không có hạnh phúc thì chỉ là tổ lạnh và bất hạnh. Gia đình thiếu hạnh phúc sẽ dẫn đến cảnh vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Dù là dạng “ly” nào cũng là “chia ly,” dạng nào cũng tệ hại vì gây bất hạnh – cho chính hai vợ chồng, nhất là bất hạnh cho con cái, vì chúng sẽ bị ảnh hưởng xấu về tâm sinh lý.

Theo trình thuật Mc 10:2-12, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi người chồng có được phép rẫy vợ hay không. Họ hỏi thế là để thử Ngài thôi, tâm địa của họ thế nào thì còn ai lạ gì nữa! Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên Ngài trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ nói rằng ông Môsê đã cho phép chồng viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Ngài nói: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, SỰ GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ PHỐI HỢP, LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY.”

Có nhiều dạng ơn gọi. Hôn nhân là một ơn gọi. Vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu phối ngẫu qua 3 chữ T: Thân mật, Thủy chung và Thanh tịnh (khiết tịnh). Với 3 chữ T đó, cả vợ và chồng đều phải tự nhủ: “Tôi Trung Thành.” Đó không chỉ là lời hứa với nhau mà chính là hứa với Thiên Chúa: “Anh/em nhận em/anh làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian lao, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em.” Lời đó không là lời hứa bình thường theo nghi thức, mà là lời “thề độc,” vày không ai có thể “giải” được.

Hôm đó, khi về đến nhà, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về vấn đề phu thê. Ngài cho biết: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình.” Tội lỗi có tính liên đới, hệ lụy, và các “cấu trúc tội” cũng có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân. Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Đó không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên lụy các tội do người khác phạm trực tiếp.

Tình trạng đó gọi là liên lụy tội lỗi. Các thánh nói gì về tội lỗi? Thánh Piô Năm Dấu khuyên: “Hãy tiến bước một cách đơn sơ trên đường lối Chúa, và đừng làm khốn khổ trí lòng mình. Hãy học cho biết gớm ghét tội lỗi, nhưng hãy gớm ghét một cách điềm tĩnh.” Thánh Cyril, người Giêrusalem, phân tích: “Tội lỗi là sự dữ đáng kinh sợ, nhưng với người biết sám hối thì rất dễ chữa lành.” Thánh Moses, người Ethiopia, cho biết: “Thiên Chúa sẽ KHÔNG nhậm lời chúng ta cầu nguyện nếu chúng ta KHÔNG nhận mình là tội nhân. Chúng ta thực thi điều ấy khi chúng ta suy xét về tội lỗi của chính mình, chứ không suy xét tội lỗi của tha nhân.” Lòng thương xót của Chúa vẫn bao la, chỉ cần tội nhân thành tâm sám hối mà thôi. Hãy đứng dậy ngay, đừng bao giờ thất vọng!

Điều cần chú ý: Chúng ta đang sống thời cuối, thời mà ma quỷ tấn công mạnh về các giá trị gia đình. Thánh Piô Năm Dấu nhắc nhở: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì chuỗi Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ trong thế giới ngày nay. Mọi ân sủng đều được Thiên Chúa trao ban qua Đức Mẹ.”

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con nhận thức và ý thức về giá trị gia đình, nhờ vậy mà nỗ lực tuân giữ Luật Ngài truyền là bảo vệ gia đình, nhân phẩm và luân lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

KHI TA YÊU THƯƠNG

Bông hồng nhỏ

Con người gắn bó với nhau bởi hai chữ tình yêu. Có tình yêu, người ta sẽ cùng nhau vượt qua muôn vàn trở ngại, muôn nỗi đau thương và cả biết bao khó khăn sóng gió gặp trên đời. Để có thể yêu nhau và cùng nhau đi hết cả đời trong mối tình phu thê, người ta phải làm gì? Nếu hết yêu nhau thì chỉ còn cách đường ai nấy đi hay sao? Hôm nay, khi các người Pharisêu hỏi Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” họ hỏi thế chỉ để thử Người, Người đã khẳng khái tuyên bố: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9).

Thầy Giêsu biết rõ tâm địa của họ nên hỏi lại: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10, 3-4). Rõ ràng, họ đã biết luật dạy nhưng vẫn dò hỏi ý của Người. Người chỉ cho họ thấy rằng, ông Môsê làm thế chỉ vì bất đắc dĩ, vì dân chúng kêu ca phàn nàn, vì họ cứng lòng cứng dạ mà ông đành phải nhượng bộ. Thầy Giêsu nói rõ quan điểm của mình, chỉ cho dân chúng thấy rằng khởi đầu công trình tạo dựng ý định của Thiên Chúa là tạo dựng con người có nam có nữ để họ gắn bó nên một với nhau trong tình yêu (x. Mc 10, 6-8). Khi hai người yêu nhau, đến với nhau để nên vợ nên chồng, họ được Thiên Chúa chúc phúc. Tình yêu của họ diễn tả tình yêu mà Thiên Chúa dành cho dân người. Đó là một tình yêu luôn dâng hiến, duy nhất và bất khả phân ly. Đó cũng thực sự là một cam kết vĩnh viễn, một tình yêu chung thủy đến cùng. “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).

Ta tự hỏi: “Điều gì đã giúp bố mẹ của ta có thể gắn bó với nhau cả đời, yêu thương nhau cả đời?” Các ngài đã luôn sống đức tin của mình, tình yêu của các ngài không được diễn tả qua những lời mật ngọt nhưng là sự chân thành và bằng khả năng cho đi, dâng hiến và bằng sự tự hạ, bằng những hy sinh âm thầm mà liên lỉ, và bằng những dấu chỉ của sự thánh thiện. Các ngài có xảy ra mâu thuẫn và cãi cọ không? Có, rất nhiều và cả những tổn thương. Nhưng giữa các ngài luôn có sự kính mến Thiên Chúa. Các ngài ý thức rõ giao ước mà mình đã ký với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh. Các ngài đã dâng lên Chúa những biến cố xảy ra trong đời, những hiểu nhầm hay cả những đau thương, những nỗi lo toan mà các ngài phải trải qua. Tình yêu mà các ngài dành cho nhau được đan dệt qua muôn thăng trầm của cuộc sống, được đặt trọn trong đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong tông huấn Gaudete Et Exsultate rằng: “Bạn được gọi sống đời thánh hiến? Hãy nên thánh bằng việc vui tươi sống trọn lời cam kết của bạn. Bạn kết hôn? Hãy nên thánh bằng việc yêu thương và chăm sóc vợ hay chồng của bạn, như Đức Kitô yêu thương và chăm sóc Hội thánh” (số 14). Và đây là lời Thầy Giêsu đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu thương đến nỗi hy sinh cả tính mạng mình vì người mình yêu.

Tình yêu đích thực không dừng lại ở sự ngưỡng mộ người mình yêu, không chỉ là những lời nói ngọt ngào êm ái nhưng là khả năng cho đi chính bản thân mình, khả năng bắt chước lối sống của Thầy Giêsu. Chỉ khi nhìn lên Đức Kitô trên thập giá, được Ngài lôi cuốn và thúc đẩy, ta mới dần học được cách yêu như Ngài, và chỉ khi ta thực sự đụng chạm đến vết thương của Người nơi những nỗi đau khổ của những người anh chị em, khi ta săn sóc, phục vụ họ, tâm trí ta luôn đau đáu một nỗi niềm là mang lại cho người ta yêu thương niềm hạnh phúc. Mỗi lần ta bỏ đi ý riêng, không còn chỉ nghĩ đến nhu cầu và quyền lợi của mình, ta đang dần cho phép Thiên Chúa làm trên ta những điều kỳ diệu, những dấu chỉ của tình yêu dâng hiến. Chính lúc ấy, Đức Kitô đang chi phối và làm chủ đời ta, đang yêu thương trong ta.

Lạy Thiên Chúa tình yêu! Chúa đã chẳng bao giờ từ chối con, chẳng bao giờ quay mặt làm ngơ trước nỗi thống khổ của con. Con cảm tạ Chúa đã luôn đốt lên trong con ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu, ngọn lửa thiêu rụi đi sự cứng cỏi nơi con, thiêu rụi sự khô khan và cả lớp vỏ của sự ích kỷ. Chúa làm cho con biết cất bước ra khỏi mình, đôi lúc chỉ để làm một việc hy sinh rất nhỏ mọn nhưng con tin, để làm được một việc bé mọn đó, con cũng đã phải cậy nhờ đến ơn Chúa. Nếu không có Chúa, tình yêu trong con sẽ dần héo mòn và có thể chết đi nếu Chúa không trợ giúp và làm cho sống. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết để cho Thánh Thần tình yêu của Chúa hướng dẫn, để khi yêu thương nhau, tình yêu của chúng con phản ánh rõ nét hơn tình yêu của Chúa. Amen.

Về mục lục

HÔN NHÂN, SỰ CHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA

Thiên San

Trong số những người đến nghe Đức Giêsu giảng dạy, có không ít người đến vì yêu mến, lòng ham thích, sự tò mò, hay được chữa lành nhưng cũng không thiếu những người đến chỉ để gài bẫy, để thử Người. Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc những người Pharisêu đến gặp Đức Giêsu để thử Người. Họ hỏi Người về vấn đề li dị (x.Mc 10, 2-16). Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy, từ ban đầu, hôn nhân đã được Thiên Chúa chúc lành.

Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện rất thường tình của con người. Khi đôi bạn trải qua việc tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến việc muốn làm bạn đời của nhau, họ cùng nhau đăng ký kết hôn, chịu phép bí tích Hôn phối đối với những ai thuộc về đạo Công Giáo. Việc kết hôn mới chỉ là bước khởi đầu của đời sống hôn nhân, còn việc làm sao để duy trì tình yêu, hạnh phúc trong đời sống gia đình là cả một hành trình dài đến khi nhắm mắt lìa đời. Hôn nhân Công Giáo mời gọi đôi bạn chung thủy với nhau suốt đời, một vợ một chồng. Tuy nhiên, để gìn giữ hạnh phúc ấy và để chung thủy với nhau trọn đời không phải là điều dễ dàng. Bởi đó, chúng ta thấy nhan nhản các câu chuyện về việc ly dị của các cặp vợ chồng. Việc li dị không phải chỉ mới xuất hiện gần đây, nhưng vào thời Đức Giêsu đã có.

Đức Giêsu cho chúng ta một trả lời thích đáng bằng việc dẫn chúng ta trở về nguồn gốc của tạo dựng. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, người nam sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình cả hai thành một xương một thịt (x.St 2, 24). Khi trả lời sự chất vấn của những kinh sư, Đức Giêsu còn nhấn mạnh cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự nên một ấy khi nói: “ Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9). Thiết nghĩ, việc kết hôn của người nam và người nữ không còn là chuyện của con người nhưng là một điều luật tốt đẹpThiên Chúa dành tặng cho con người. “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (St 2, 22). Đó là cuộc hôn nhân đầu tiên của nguyên tổ con người, được Thiên Chúa chúc phúc. Từ đó, Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả các cặp vợ chồng, mời gọi họ chung thủy với nhau.

Lần mở lại sách Sáng Thế, chúng ta sẽ đọc thấy cuộc hôn nhân tốt đẹp giữa Ixaac và Rêbêca. Theo lời của gia đình cô Rêbêca thì đó là cuộc hôn nhân do Thiên Chúa xe định: “Việc này Đức Chúa đã xe định, chúng tôi không thể nói thuận hay không thuận nữa. Rêbêca đang đứng trước mặt ông đây, ông cứ đưa nó về. Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông, như Đức Chúa đã phán” ( St 24, 50). Đối với người Công Giáo, việc kết hôn không chỉ đơn thuần theo luật đời, phải đăng ký kết hôn nhưng cao trọng hơn đó là một bí tích. Họ cùng nhau cử hành bí tích Hôn Phối trước sự chúc lành của Thiên Chúa và sự chứng kiến của cộng đoàn. Đôi vợ chồng được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng khi sinh thành và dưỡng dục con cái. “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9). Đó là điều luật Thiên Chúa ban cho con người qua Đức Giêsu. Nhưng đời sống hôn nhân gặp nhiều khó khăn, việc chung thủy trọn đời là một thách đố lớn cho các cặp vợ chồng. Chung thủy nghĩa là bên nhau trọn đời, yêu thương, tôn trọng, tha thứ và đón nhận, cùng chia sẻ trách nhiệm sinh thành và dưỡng dục con cái theo giáo huấn của Chúa. Khi không thể chu toàn những đòi hỏi này, không ít các đôi vợ chồng đã quyết định chia tay. Khi chọn giải pháp li dị, vô hình dung con người đã vi phạm điều luật của Thiên Chúa.

Chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, Thiên Chúa đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua nhiều đau khổ, cam chịu tử hình, trở thành vị lãnh đạo thập toàn và để cho muôn người được ơn cứu độ (x. Dt 2, 10). Qua đời sống hôn nhân, chúng ta được mời gọi noi gương Đức Giêsu, vị lãnh đạo thập toàn, can đảm vượt qua mọi khó khăn, thách đố trong đời sống hôn nhân để cùng nhau đạt đến nguồn ơn cứu độ. Khi trung thành tuân giữ lời cam kết trong đời sống hôn nhân, chúng ta đang cùng giúp nhau đạt đến ơn cứu độ trong bậc sống của mình. Đời sống hôn nhân là lời cam kết thánh thiêng, bởi nó được Thiên Chúc chúc lành, thánh hóa. Đó cũng là cách Thiên Chúa mời gọi vợ và chồng diễn tả tình yêu cao trọng giữa Đức Kitô và Hội Thánh.

Về mục lục

TÌM VỀ Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Ngọc Dũng

Chúng ta thường nói những người có nhà cao cửa rộng, công việc ổn định và có gia đình êm ấm là hạnh phúc. Nói theo cách khác, những ai thực hiện được giấc mơ của mình là hạnh phúc. Tuy nhiên, những hạnh phúc của con người luôn có giới hạn. Không ai trong chúng ta được hạnh phúc luôn mãi: Hôm nay cười, ngày mai sẽ có buồn phiền, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày đó (x. Mt 6:34). Lời Đáp Ca hôm nay trình bày cho chúng ta một loại người luôn hạnh phúc, không chỉ ở đời này mà cả đời sau, đó là những người kính sợ Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa.” Kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta cẩn thận hơn trong từng quyết định và thái độ sống của mình; làm cho chúng ta hiền dịu, tế nhị, thông cảm và nhất là khiêm nhường hơn trong tương quan của chúng ta với Chúa và với nhau. Sách Châm Ngôn dạy chúng ta rằng: Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối mọi khôn ngoan (x. Cn 9:10). Chúng ta hãy tìm hạnh phúc trường cửu trong việc “kính sợ và làm theo ý Thiên Chúa,” hơn là hạnh phúc chóng qua trong việc “sợ hãi và làm vui lòng con người.”

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy sự khác biệt trong việc sáng tạo người nam người nữ giữa hai trình thuật sáng tạo Tư Tế và Yawist. Trong trình thuật sáng tạo Tư Tế [chúng ta nghe trong bài đọc 1 hôm qua], người nam và người nữ được sáng tạo cùng lúc theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (St 1:26-27). Còn trong trình thuật sáng tạo Yawist, người nam được sáng tạo trước và người nữ được sáng tạo từ “cạnh sườn” của người nam. Sự khác biệt này không có ý nói đến sự bất đồng của các tác giả Sách Thánh trong việc thuật lại sáng tạo con người của Thiên Chúa. Sự khác biệt này nói lên sứ điệp Tin Mừng mà từng tác giả muốn truyền tải cho người nghe của mình trong những khoảng không gian và thời gian hoàn toàn khác biệt: trình thuật sáng tạo Yawist cho những người Do Thái thời Solomon [thời an bình thịnh vượng], còn trình thuật Tư Tế cho những người Do Thái trong thời lưu đày [thời kỳ sống giữa dân thờ ngẫu tượng và bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa qua việc không giữ luật ngày sabát]. Tuy nhiên, cả hai trình thuật có cùng một sứ điệp, đó là: Con người là tạo vật tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa đã sáng tạo nên và “muốn trong chính nó.” Như thế, con người “nợ” Thiên Chúa sự sống của mình và vì vậy con người luôn “lệ thuộc” Ngài trong mọi sự. Điều này cho thấy, sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa siêu vượt thời gian và không gian. Nó không bao giờ thay đổi, nhưng có khả năng diễn tả chính mình cách mới mẻ cho con người qua mọi thời đại. Nếu con người biết lắng nghe và mở rộng tâm hồn để đón nhận lời Chúa trong hoàn cảnh sống cá biệt của mình, thì con người sẽ được biến đổi.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất trong trình thuật sáng tạo Yawist về con người nằm ở câu: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Con người ở một mình không tốt. Con người cần một trợ tá. Nhưng con người không thể tìm thấy bất kỳ trợ tá nào trong các tạo vật khác: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:19-20). Cuối cùng con người chỉ tìm thấy trợ tá tương xứng nơi người nữ, một nhân vị khác giống với mình: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Thiên Chúa muốn nói gì qua điều này? Ngài muốn nói rằng: Con người là một hữu thể có tính xã hội. Con người cần người khác để trợ giúp mình. Tuy nhiên, trợ tá tương xứng để trợ giúp con người không phải là những tạo vật “vô hồn,” nhưng là những “nhân vị được sinh động bởi linh hồn bất tử.” Nhưng trong cuộc sống thường ngày, chúng ta chứng kiến nhiều người trong chúng ta yêu “sự vật” hay “công việc” của mình hơn những người anh chị em. Chúng ta xem những “con vật” hay “sự vật” như “bạn đồng hành” không thể thiếu. Nhiều khi chúng ta nổi giận với anh chị em của mình khi họ làm “tổn thương” con vật hoặc công việc chúng ta yêu thích. Khi làm như thế, chúng ta đã hạ phẩm giá của anh chị em mình xuống thấp hơn giá trị của một “con vật” hay “sự vật.” Tóm lại, chúng ta chỉ tìm thấy những trợ tá tương xứng nơi những con người và sự cô đơn của chúng ta không thể bị phá huỷ bằng tương quan chúng ta có với “con vật” hoặc “sự vật,” nhưng chỉ bằng tương quan lành mạnh với anh chị em và nhất là tương quan với Thiên Chúa.

Hai chữ “con người” thường được chúng ta dùng để bào chữa cho những yếu đuối và lỗi phạm. Khi một ai làm điều gì sai, thì cách bào chữa nhanh nhất và tốt nhất để lấy sự cảm thông của người khác đó là, “vì tôi là người.” Nhưng chúng ta hãy biết rằng: Ơn gọi “làm người” là điều cao đẹp nhất mà không tạo vật nào có thể có được, ngay cả các thiên thần, vì không có tạo vật nào được gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa,” cũng không có tạo vật nào được gọi là “con Thiên Chúa” như con người. Chính Chúa Giêsu “trở thành người” để cứu chuộc chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả thư gởi Do Thái mượn lời Thánh Vịnh để nói lên sự cao trọng của con người như sau: “Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người” (Tv 8:4-8; Dt 2:6-8). Một triết gia nói rằng: “Làm người là điều cao trọng nhất mà một hữu thể có thể là.” Như vậy, hãy sống cho thật là người, vì chỉ có những ai sống thật sự là “con người” thì mới có khả năng nên giống “Con Người” [Đức Kitô]. Thư gởi Do Thái khẳng định rằng: Làm “người” – “anh [chị] em” của Chúa Giêsu – chính là vinh quang của con người: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu” (Dt 2:10).

Thư gởi Do Thái hôm nay nói cho chúng ta biết về giá trị của gian khổ, điều mà không ai trong chúng ta muốn. Ai cũng muốn có một cuộc sống an nhàn và sung túc. Theo tự nhiên, đau khổ là một điều không ai muốn! Theo triết học và thần học, đau khổ được xem như là “sự dữ.” Nhà phật nói: “Đời là bể khổ.” Tuy nhiên, dù không muốn gian khổ, ai trong chúng ta ta cũng có gian khổ của riêng mình. Chúa Giêsu khẳng định điều này rằng: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó.” Theo cái nhìn Kitô giáo, đau khổ có giá trị riêng của nó: đau khổ là thầy dạy tốt nhất trên con đường nhân đức. Chính Chúa Giêsu cũng phải trải qua đau khổ dù Ngài là con Thiên Chúa. Đau khổ chỉ được hiểu từ mầu nhiệm của tự hạ và đỉnh cao là thập giá. Qua đau khổ Chúa Giêsu “trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10).

Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với mấy người Pharisêu hôm nay nằm trong bối cảnh của việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài về những thách đố để trở nên môn đệ chân chính của Ngài. Lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay phản ánh chính quan điểm của Chúa Giêsu về đời sống hôn nhân và quan điểm của Ngài hoàn toàn khác với quan điểm về hôn nhân tìm thấy trong Cựu Ước và các tôn giáo khác. Để hiểu lời dạy của Chúa Giêsu về hôn nhân tốt hơn, chúng ta có thể sắp xếp lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và mấy người Pharisêu như một bản kịch như sau:

Người dẫn: Khi ấy, Đức Giêsu, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ (Mc 10:1). Trong khi Đức Giêsu đang giảng dạy, có mấy người Pharisêu đến hỏi ý kiến của Ngài về đời sống hôn nhân.

Mấy người Pharisêu: Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? (Mc 10:2).

 Chúa Giêsu: Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (Mc 10:3).

Mấy người Pharisêu: Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ (Mc 10:4).

Chúa Giêsu: Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly (Mc 10:5-9).

Chúng ta thấy trong cuộc đối thoại này điều Chúa Giêsu quở trách những người Pharisêu trong chương 7 về việc họ lấy truyền thống cha ông để biện minh cho những việc làm sai trái của họ và không thi hành luật của Thiên Chúa. Cụ thể hơn, mấy người Pharisêu nại vào “phép” của ông Môsê để rẫy vợ, còn Chúa Giêsu thì đưa họ [và chúng ta] về với ý định ban đầu của Thiên Chúa khi Ngài sáng tạo người nam và người nữ. Ngài muốn tình yêu của họ phản chiếu cách trung thực tình yêu của Ngài, là tình yêu vô điều kiện và trung thành, là tình yêu làm cho Cha, Con và Thánh Thần nên một. Chính vì lẽ đó mà “họ không còn là hai [như Cha, Con, Thánh Thần không còn là ba], nhưng chỉ là một xương một thịt [nhưng chỉ là một Chúa].” Như vậy, trong ý định của Thiên Chúa, không có việc rẫy nhau. Chúng ta có thể rút ra điều gì ở đây? Nơi nào con người sống theo “ý định ban đầu” của Thiên Chúa [dù trong đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến], nơi đó có hiệp nhất, có một lòng một trí; còn nơi nào con người sống theo “ý định nhất thời của mình,” nơi đó chỉ có chia rẽ và nước mắt.

Hai chi tiết cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay mà chúng ta đã quen thuộc là: (1) Động lực đến đối thoại với Chúa Giêsu của mấy người Pharisêu là “để thử Người” (Mc 10:2); (2) Chúa Giêsu giải thích mọi sự cho các môn đệ khi họ “ở trong nhà” với Ngài: “Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy” (Mc 10:10). Khi đặt hai chi tiết này với nhau, chúng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải “ở một mình với Chúa,” nhưng với một động lực đúng nếu chúng ta muốn biết và hiểu đường lối và mệnh lệnh của Ngài: “Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi.”

Sau lời giảng dạy về đời sống vợ chồng, lời dạy về con cái của Tin Mừng hôm nay đi theo sau là hợp lý. Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc trở nên giống trẻ em, Chúa Giêsu không đơn giản nói đến việc trở nên theo thể lý. Ngài có ý nhắm đến bình diện “tương quan.” Chúng ta phải chân nhận rằng, đối với trẻ em, mối tương quan quan trọng nhất đối với chúng là tương quan với bố mẹ. Không có mối tương quan nào quan trọng hơn mối tương quan này! Nhưng khi lớn lên, chúng có những mối tương quan khác [bạn bè, vợ chồng, đồng nghiệp] và những mối tương quan này đôi khi làm cho tương quan với bố mẹ trở nên thứ yếu.

Khi đặt những lời Chúa Giêsu nói cho các môn đệ trong bối cảnh tương quan như trên, chúng ta hiểu rõ hơn điều Ngài muốn ám chỉ trong câu: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:14-15). Điều Chúa Giêsu muốn nói ở đây là: Trong Nước Thiên Chúa, chỉ có một mối tương quan là quan trọng: Thiên Chúa là Cha, còn tất cả chúng ta là con cái của Ngài và là anh chị em của nhau. Còn nhìn từ khía cạnh Kitô học, trong những lời trên của Chúa Giêsu, Ngài muốn các môn đệ phải học ở Ngài, vì Ngài luôn sống tinh thần “trẻ thơ” [là Con] với Chúa Cha. Theo văn hoá thời đó của người Do Thái, trẻ em thường được trình bày để làm ví dụ cho những hành vi “không hợp lý” theo lẽ con người và cần phải được dạy dỗ. Đây chính là điều cần thiết mà Chúa Giêsu đề ra để được vào Nước Thiên Chúa: Ai muốn vào Nước Thiên Chúa thì cần phải từ bỏ lối lý luận hợp lý của con người để được Thiên Chúa dạy dỗ cho lối lý luận của Ngài.

Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng này không có ý nói về trẻ nhỏ, nhưng nói về Nước Thiên Chúa và những ai sẽ được vào. Một cách tổng quát, chỉ những ai nhận ra và đón nhận Nước Thiên Chúa như một món quà nhưng không với thái độ ngạc nhiên và hạnh phúc của trẻ nhỏ mới được vào; Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai không cậy dựa vào quyền lực hoặc địa vị của mình như trẻ nhỏ là những người không có quyền lực và địa vị, bởi vì Nước Thiên Chúa siêu việt trên mọi quyền lực và địa vị của con người.

Câu đầu tiên và câu kết thúc của đoạn Tin Mừng hôm nay giống nhau. Cả hai nói về việc Chúa Giêsu đặt tay chúc lành cho trẻ em: “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng” (Mc 10:13) và “Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10:16). [Theo tư tưởng của người Do Thái, “trẻ em” bao gồm những em từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến 12 tuổi]. Khi để hai câu này với nhau, chúng ta khám phá ra vẻ đẹp của chúng, đó là sự “hợp tác” giữa chúng ta với Chúa Giêsu để mang lại ơn lành cho người khác. Một cách cụ thể, về phần mình, chúng ta “dẫn người khác đến với Chúa Giêsu và xin Ngài chúc lành cho họ”; về phần Ngài, Chúa Giêsu “ôm lấy họ và đặt tay chúc lành cho họ.” Không có sự “hợp tác” nào đẹp cho bằng sự hợp tác này vì nó không nhắm đến lợi ích cá nhân của mình, nhưng luôn nhắm đến lợi ích của người khác. Đây chính là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa vì “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17).

Về mục lục

LÀM CHA VỚI SỰ HY SINH TRƯỞNG THÀNH

Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình”(x. Mc 10,7)

     Đó là khi người đàn ông cưới vợ và người phụ nữ lấy chồng. Họ kết hôn với nhau và thành lập một gia đình mới. Nơi đó sẽ sinh ra những người con. Lúc đó người đàn ông sẽ được làm cha và người phụ nữ sẽ được làm mẹ. Trong Năm Thánh Giu-se, chúng ta sẽ nói về người cha Giu-se trong tông thư “Bằng trái tim người Cha” của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, số 7 , Thánh Cả Giu-se là “Một người cha trong bóng tối” như sau:

    “Trong mối liên hệ của ngài với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Chúa Cha trên trời: ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giê-su, không bao giờ để Người đi theo con đường riêng của mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong hoang địa… các ngươi đã thấy Chúa là Thiên Chúa của các ngươi cưu mang các ngươi như thế nào, giống như người bồng đứa con, suốt chặng đường các ngươi đi qua” (Đnl 1:31). Cùng một cách tương tự, Thánh Giuse hành động như một người cha trong suốt cuộc đời của Người”.

“Các người cha không được sinh ra, nhưng được tạo ra. Một người đàn ông không trở thành một người cha chỉ đơn giản bằng cách đem một đứa con vào thế giới, mà bằng cách nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con đó. Bất cứ khi nào một người đàn ông nhận trách nhiệm đối với cuộc sống của một người khác, cách nào đó, họ đã trở thành cha của người đó”.

   Ca dao Việt Nam có câu: “Sinh con rồi mới sinh Cha,

 Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông”.

Có nghĩa là khi một đứa con được sinh ra, thì mới sinh chức vụ người Cha; khi sinh ra cháu rồi, mới sinh ra chức vị của người ông. Chữ “Sinh” trong “sinh con, sinh cháu” là sinh đẻ. Còn chữ “Sinh” trong “Sinh Cha, Sinh Ông” là sinh chức vị.(Theo NoName.448; ngày 22/3/2016).

    Theo tôi nên dùng chữ “Xưng” cho rõ:

“Sinh con rồi mới xưng Cha,

Sinh cháu giữ nhà rồi mới xưng ông”.

“Xưng” là xưng hô, là gọi. Khi đứa con được sinh ra thì người chồng được gọi là “Cha”; khi đứa cháu được sinh ra thì bố của người cha đó được xưng, được gọi là “Ông”. Theo Đức Phan-xi-cô, thì người cha không được “sinh ra” mà được “tạo ra”. Người cha đó không chỉ đơn thuần là sinh ra một đứa con mà quan trọng là có trách nhiệm săn sóc và nuôi dưỡng cho đứa con đó nên người. Ngoài ra, khi lãnh trách nhiệm săn sóc và nuôi dưỡng một người nào đó, thì có thể nói người đó đã là “người cha” đối với người đó rồi vậy. Điều này ta có thể nói về người cha “tinh thần”; người cha “thiêng liêng”.

Đặc biệt trong Giáo Hội, các Linh Mục được gọi là “Cha”, người Cha tinh thần, người Cha thiêng liêng, người Cha trong đức tin. Vì các Linh Mục đã sinh ra các tín hữu qua bí tích rửa tội và còn săn sóc, nuôi dưỡng người tín hữu cho đến khi lìa đời; cho đến khi “Chúa Ki-tô được hình thành” nơi người tín hữu bằng Lời Chúa, Thánh Thể và các bí tích.

“Làm cha đòi hỏi phải dẫn nhập con cái vào cuộc sống và thực tại. Không phải kìm hãm chúng, quá bảo vệ hay chiếm hữu, mà là làm chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì lý do này, Thánh Giuse theo truyền thống được gọi là một người cha “khiết tịnh nhất”. Tước hiệu này không chỉ đơn giản là một dấu chỉ tình âu yếm, mà là một tổng kết cho thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Khiết tịnh là tự do thoát khỏi tính chiếm hữu về mọi lĩnh vực đời sống ta. Chỉ khi khiết tịnh, tình yêu mới là đích thực. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng trở nên nguy hiểm: nó cầm tù, giới hạn và khiến người ta khốn khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu khiết tịnh; Người để chúng ta tự do, thậm chí đi lạc và chống lại chính Người. Luận lý học của tình yêu luôn là luận lý học của tự do, và Thánh Giuse biết yêu một cách tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà tập chú vào cuộc đời của Đức Maria và Chúa Giêsu”.

Qua đó, những người làm CHA cũng thế, đừng bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự, nhưng hãy tập chú vào cuộc đời của vợ mình và những đứa con; làm sao cho vợ mình được yên vui, hạnh phúc; làm sao cho con của mình có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới của chúng.

 “Thánh Giuse tìm thấy hạnh phúc không chỉ ở sự hy sinh bản thân mà ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy sự thất vọng mà chỉ thấy sự tin tưởng. Sự im lặng kiên nhẫn của ngài là khúc dạo đầu cho những biểu thức cụ thể của sự tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không cần các bạo chúa, những kẻ thống trị người khác như một phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của chính họ. Nó bác bỏ những ai lẫn lộn thẩm quyền với chủ nghĩa độc đoán, phục vụ với nô dịch, thảo luận với áp chế, bác ái với não trạng phúc lợi, quyền lực với hủy diệt. Mỗi ơn gọi đích thực đều phát sinh từ việc tự hiến chính mình, vốn là hoa trái của sự hy sinh trưởng thành”.

    Một người cha trưởng thành là một người cha có thẩm quyền chứ không độc đoán; một người cha phục vụ chứ không nô dịch; một người cha biết thảo luận chứ không áp chế; một người cha yêu thương chứ không vụ lợi; một người cha có quyền lực để xây dựng chứ không để hủy diệt.

   “Khi những người cha từ chối sống cuộc sống của con cái họ vì chúng, những viễn cảnh mới và bất ngờ sẽ mở ra. Mọi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể đưa ra ánh sáng với sự giúp đỡ của một người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con đó. Một người cha biết nhận ra rằng mình là một người cha và một nhà giáo dục hơn cả chính ở thời điểm ông trở nên “vô dụng”, lúc ông thấy con mình đã trở nên độc lập và có thể bước đi trên nẻo đường cuộc sống mà không cần người kèm cặp. Khi ông trở nên giống như Thánh Giuse, người luôn biết rằng đứa con của ngài không phải là của ngài mà chỉ đơn thuần được giao cho ngài chăm sóc”.

    Nghĩa là người cha đó không bắt con cái mình sống cuộc sống của mình mà để cho chúng sống cuộc sống của chúng. Cuộc sống của mình khác; cuộc sống của con cái khác. Nó khác về tuổi tác; nó khác về thời đại; nó khác về tư duy. Do đó, người cha cần phải tôn trọng cuộc sống riêng tư và tư duy của con cái. Lý do là “Những đứa con của ông không phải là của ông mà chỉ đơn thuần chúng được giao cho ông chăm sóc” mà thôi.

   “Trong mỗi lần thực thi thiên chức làm cha của mình, chúng ta nên luôn nhớ rằng điều đó không liên quan gì đến việc chiếm hữu, nhưng đúng hơn là một “dấu hiệu” chỉ tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như thánh Giuse: một cái bóng của Chúa Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa cho kẻ công chính và kẻ bất chính” (Mt 5:45). Và là một chiếc bóng theo Con của Người”.

    Đến đây, chúng ta mới thấy từ “bóng” mà Đức Phan-xi-cô nói có ý nghĩa gì. Bóng đây là “hình bóng”, hình bóng của Cha Trên Trời, chứ không là bóng tối. Những người làm cha thi hành thiên chức làm cha của mình là thi hành “tình phụ tử”; là thực hành “tình phụ tử” của Cha Trên Trời. Nên phải nói là Thánh Cả Giu-se là hình bóng của Cha Trên Trời mới chính xác.

   Vậy, hỡi những người làm Cha trong gia đình, hãy noi gương thánh Cả Giu-se khi thực thi thiên chức làm Cha của mình. Các bà mẹ cũng hãy gắn bó với những người cha và cùng thực thi thiên chức làm mẹ của mình đối với con cái như vậy. Các Linh Mục hãy làm Cha đối với các tín hữu “trong Chúa Ki-tô qua Tin Mừng”. Nói tóm là “Bất kể ơn gọi của chúng ta là gì, dù kết hôn, độc thân hay trinh khiết, việc hiến mình của chúng ta sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh”. Sự hy sinh này phải là sự hy sinh trưởng thành. Có như thế, sự tự hiến của người Cha mới trở thành một dấu hiệu của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu. Nếu không thì“việc tự hiến sẽ có nguy cơ trở thành biểu thức của bất hạnh, buồn bã và thất vọng” đấy.

Về mục lục

 

ƠN GỌI THỦY CHUNG

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Đời sống khấn hứa trong ơn gọi linh mục, tu sỹ hay hôn nhân đều đã kết ước bằng mối dây chung thủy. Thủy là khởi đầu, chung là cuối cùng. Như vậy, thủy chung nghĩa là trước sao thì sau vậy, vẫn một lòng khăng khít, ngày càng bền chặt trong ơn gọi dấn thân. Chung thủy ví vậy không là một tình cảm nhất thời mà là một kết ước dài lâu. Biết bao nhiêu thay đổi sẽ đến, rồi cả những lần trượt ngã, giữ được chung thủy luôn cần có những nguyên tắc cơ bản.

Thủy chung cần có đời sống đạo đức.

Tình yêu có nhiều cung bậc, nhưng khi đến với nhau để kết ước hôn nhân, luôn luôn là một lời hứa: Sẽ “yêu nhau mãi mãi”, một tình yêu dành cho nhau bền chặt để nên một gia đình. Một lời cam kết rất tự nhiên để đi đến siêu nhiên, trong ơn gọi bí tích hôn nhân. Là một ơn gọi nên thánh nên đời sống hôn nhân cũng cần đến chất liệu của tâm hồn đạo đức, không làm gì sai trái trong luân thường đạo lý.

Thủy chung cần đón nhận nhau.

Đón nhận nhau là một hành vi liên tục được thực hiện trong ơn gọi hôn nhân. Có những điểm sáng, tốt lành nơi mỗi người. Nhưng cũng có cả những khuyết điểm, lỗi lầm có thể nhiều lý do xảy đến. Chung thủy cần yêu thương cả điều tốt lẫn điều xấu. Cả những khi mạnh khỏe và đau yếu, khi thịnh vượng cũng như khi gian nan. Lời kết ước này là cơ bản cho việc đón nhận nhau một cách chân thành, để nhận ra mỗi người một phẩm vị cao quý hơn và tôn trọng nhau nhiều hơn.

Duy trì lời cam kết.

Để luôn nhắc nhớ về nhau cũng cần có nhiều thời gian dành cho nhau, không chỉ ở giai đoạn đầu của thời mới cưới nhau. Một đời sống nhạt trong tình yêu như Chúa nói: “Lấy gì ướp cho mặn lại” (Mt 5, 13). Nuôi dưỡng tình vợ chồng bằng những lần tâm sự, trao đổi, cùng nhau tận hưởng những kỳ nghỉ, những giây phút như xưa đã từng hẹn hò, mang đầy thi vị, dịu êm từng câu hát yêu nhau. Thông thường, khi đã có con, chuyện tiền nong, chuyện cơm nước, chuyện con cái … làm mất đi những gì cần thiết nuôi dưỡng tình vợ chồng.

Sẵn sàng tha thứ và làm mới lại.

Cuộc sống luôn có những sai làm và trượt ngã. Có những vấp ngã không thể đứng dậy, tàn phế suốt đời; nhưng cũng có những trượt ngã để có thể làm mới lại bằng tình yêu tha thứ. Chúa nói tha thứ đến bảy mươi lần bảy, có nghĩa là tha thứ ngay cả khi không thể nối lại như xưa. Tha thứ để thấy thời gian là phương thuốc chữa lành, tha thứ để chính mình cũng được tha thứ. Tha thứ để chính lòng mình được nhẹ nhàng khỏi những buồn đau. Nếu không thể, hãy tìm đến Lòng Chúa Thương Xót để nghiệm thấy tình yêu chữa lành của Chúa và nhờ chính Chúa chữa lành vết thương nhói lòng đau.

Đón nhận khoảnh khắc cô đơn

Giống như tiệc cưới Cana đang vui và thiếu rượu. Không chỉ đời sống độc thân mới cảm thấy đôi khi lạc lõng cô đơn. Chẳng ai hiểu mình và ngay cả lúc mình cũng chẳng hiểu mình. Đời sống tình yêu, hôn nhân cũng vậy! Đi bên nhau mà chẳng ai hiểu ai, lặng lẽ, nặng trĩu cô đơn. Buồn chẳng thể nói, im lặng trong nỗi cô đơn. Cuộc sống bỗng như thiếu đi sức sống và có lúc muốn phá đi tất cả, chẳng cần gì…

Có những khi cuộc sống đang suôn sẻ công ăn việc làm, nhà cửa gia đình an lành, bỗng đâu bất hạnh ập tới, chẳng phải tại ai mà do duyên cớ hoàn cảnh xã hội, tai nạn ập tới, đau bệnh ùa đến. Những bất trắc chẳng ai chờ vụt đến mang nhiều đau buồn.

Thiếu rượu, thiếu tình yêu, thiếu nhiệt huyết để sống, thiếu người hiểu được mình, bị cướp mất sự an lành… Giữa những lúc ấy, như muốn nhắn nhủ, có một nơi cậy trông bền vững là Chúa. Như đôi uyên ương có Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các tông đồ đến dự tiệc vui ngày cưới. Chúa muốn được mời vào dự bàn tiệc cuộc đời ta, những lúc cuộc đời đang vui, những khi khởi đầu cho những điều mới, và cả khi gia đình đang bước vào hạnh phúc. Đón Chúa vào cuộc đời mình, để có thể tìm thấy những thứ rượu ngon của cuộc sống qua mỗi lần thất vọng, cô đơn, chán chường.

Thủy chung vẫn là một tình yêu kết ước, từ khi bắt đầu cho đến kết thúc. Một tình yêu cho nhau, vì nhau, dấn thân cùng nhau. Biết nuôi dưỡng tình yêu, để biết vượt qua để tìm thấy hạnh phúc mình đã lựa chọn, để sống với lời thề ước.

Xin Chúa trợ giúp chúng con trong lời nguyện thủy chung.

Về mục lục

.

GIÁ TRỊ CỦA GIA ĐÌNH

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Chưa bao giờ các gia đình lại gặp nhiều khốn đốn, nhiều đe doạ và sóng gió hung tợn như ngày hôm nay. Hàng loạt rồi hàng loạt gia đình bị rạn nứt, bị sụp đổ, bị tan tác trước những cơn địa chấn kinh hồn do nếp sống hưởng thụ và vô thần gây nên (nạn ly dị tràn lan, hôn nhân thử cũng như kết hôn đồng tính gia tăng đáng sợ…)

Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra giá trị cao cả của gia đình để chúng ta trân trọng yêu mến gia đình và từ đó quyết tâm xây dựng gia đình nên tốt lành thánh thiện hơn.

Dựa vào Lời Chúa, chúng ta có thể khẳng định rằng gia đình có một giá trị rất cao quý, vì những lý do sau:

* Chính Thiên Chúa là kiến trúc sư đã thiết kế và trực tiếp xây dựng nên gia đình:

Bài đọc thứ nhất cho thấy Thiên Chúa đã thiết lập nên gia đình đầu tiên bằng hình ảnh rất nên thơ: Trước tiên, Ngài dựng nên ông Ađam và trong khi Ađam say ngủ, Ngài rút một xương sườn của ông mà dựng nên E-và. Ađam hoan hỉ đón nhận Evà làm bạn đời và xác nhận rằng đó là xương thịt của ông.

Đó là cách diễn tả rất thi vị, rất độc đáo để trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã sáng tạo nên gia đình và gia đình là tác phẩm ưu việt của Ngài.

Ta có thể hình dung mỗi gia đình như một toà lâu đài và lâu đài đặc biệt nầy được chính Thiên Chúa vừa là nhà thiết kế, vừa là kỹ sư xây dựng. Vì thế, gia đình là một công trình rất đáng trân trọng của Thiên Chúa.

* Lý do thứ hai khiến cho gia đình đáng cho mọi người chúng ta tôn trọng là vì chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai quyền năng phép tắc cũng đã vui lòng đến sống dưới mái gia đình Na-da-rét. Trong ba mươi ba năm mang lấy thân phận con người, Ngài đã dành ra đến gần ba mươi năm nương náu trong gia đình Na-da-rét. Thế là tại đây, mái ấm gia đình trở nên cung điện của Thiên Chúa.

* Lý do thứ ba là Chúa Giêsu rất quý trọng gia đình.

Khi có một gia đình mới được thành lập tại Cana, Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ được mời dự tiệc. Đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu, Mẹ Maria phải cậy nhờ Chúa Giêsu cứu nguy cho đôi tân hôn. Chúa Giêsu biết là giờ Ngài chưa đến, chưa đến lúc để làm phép lạ đầu tay. Mà nếu cần thực hiện một phép lạ đầu tay thì cũng phải thực hiện vì một lý do rất hệ trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại chấp nhận làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu cho gia đình mới được vui.

Sự kiện Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na và Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tay chỉ vì hạnh phúc của một đôi tân hôn, của một gia đình mới xây dựng chứng tỏ Chúa Giê -su rất quý trọng gia đình.

* Lý do thứ tư là Chúa Giêsu lập bí tích hôn phối để nâng cấp gia đình những người con cái Chúa.

Đối với những người sống trong Hội Thánh, Chúa Giêsu còn thiết lập nên bí tích hôn phối để làm cho gia đình họ trở thành gia đình thánh. Thế là nhờ bí tích hôn phối, gia đình là một tổ chức thế tục trở thành một Hội Thánh nhỏ của Chúa Giêsu.

Vì những lý do kể trên, gia đình là một công trình cao đẹp và rất đáng trân trọng. Có thể nói rằng không một công trình kiến trúc vĩ đại nào của con người, ngay cả đại thánh đường Phêrô tại Rôma được xây dựng trong suốt 130 năm bởi nhiều kiến trúc sư tài năng nhất thế giới, cũng không thể sánh bằng.

Giả như có một ai đó đang tâm phá huỷ đền thờ thánh Phêrô tại Rôma, thì đó là một tội ác lớn lao đối với nền văn minh nhân loại, thì kẻ nào phá vỡ gia đình là thánh điện của Thiên Chúa, là kiến trúc tuyệt mỹ của Thiên Chúa Ba Ngôi thì đáng chịu tội nặng nề hơn.

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu củng cố nền tảng gia đình và lên tiếng cảnh cáo mọi người nhớ rằng: gia đình là “công trình mà Thiên Chúa đã kiến tạo, thì loài người không được phá huỷ”. Phá huỷ gia đình là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa.

Vậy xin đừng ai phá huỷ gia đình hay làm cho gia đình xuống cấp bằng cách đưa vào nhà mình những tệ nạn xã hội, những gương xấu, những nguyên nhân phát sinh tội lỗi.

Trái lại, mỗi người hãy xây dựng gia đình mình trở thành tổ ấm cho tình thương và sự sống phát triển, xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để cho sự “hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2002)

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã chọn gia đình làm nơi cư ngụ của Ngài, ban ơn giúp sức để chúng ta biết dựng xây gia đình mình ngày càng hạnh phúc, an vui và thánh thiện như gia đình của Chúa Giêsu ngày xưa. Amen.

Về mục lục

.

HÔN NHÂN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mọi loài có cặp có đôi,

Có nam có nữ, chung nôi sống đời.

Con người đáng quý cao vời,

Hóa công phú bẩm, rạng ngời thế nhân.

Nữ nam kết hợp góp phần,

Hôn nhân khế ước, nên thân vợ chồng.

Sống đời hạnh phúc tơ hồng,

Chung tình tín nghĩa, đả thông mọi bề.

Yêu thương gắn kết lời thể,

Xin đừng ly dị, ê chề phá tan.

Khởi đầu Tạo Hóa thương ban,

Một chồng một vợ, hỉ hoan sống đời.

Đông con nhiều cháu nối đời,

Hưởng vui cuộc sống, tuyệt vời biết bao.

Chúa ban ân lộc dồi dào,

Chúc lành Hôn Phối, tuôn trào hồng ân.

 Thiên Chúa tạo dựng loài người có nam, có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho xã hội loài người. Thiên Chúa đã kết hợp hai người nam nữ Ađam và Evà thành đôi vợ chồng đầu tiên. Người nữ Evà là bạn đồng hành gắn bó với Ađam làm nên một gia đình. Thế rồi hôn nhân này nối tiếp hôn nhân kia làm thành một gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã tạo dựng con người trong sự bình đẳng để nâng đỡ nhau.

Con người phát triển dần theo năm tháng. Theo lệnh truyền của Thiên Chúa, con người phải sinh xôi nẩy nở cho đầy mặt đất. Biết bao đời đã trôi qua, con người không phụ lòng ủy thác của Thiên Chúa. Con người đã tìm được hạnh phúc trong đời sống gia đình. Mỗi cặp vợ chồng là một cuộc tình dài và là cuộc lữ hành song đôi. Có những cuộc sống gia đình không đơn giản. Nhiều gia đình đã phải đối diện với những vấn đề mâu thuẫn nội bộ. Họ cũng phải trải qua muôn vạn sầu đắng cay. Tình yêu phải phấn đấu không ngừng và phải xây đắp hạnh phúc từng ngày.

Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân rẽ. Có nhiều cặp vợ chồng phải đối diện với những chua cay và xót xa cuộc đời. Họ bị gẫy gánh dọc đường. Họ thất bại trong sự tín trung. Họ thiếu kiên nhẫn chịu đựng lẫn nhau để rồi gây nên những mối nghi ngờ và tạo nên bầu khí gia đình như hỏa ngục. Họ muốn ly thân hoặc ly dị nhau. Đây là những thất bại trong đời sống hôn nhân. Họ muốn thoái thác trách nhiệm.  

Trong đời sống gia đình phải có yêu thương, tha thứ và trung tín với nhau. Cần có sự thông cảm và hiểu được ý nhau thì mọi sự sẽ xuôi chảy. Nhớ câu truyện của một cặp vợ chồng đã cao niên. Họ đã mừng 40 năm ngày thành hôn. Ngày đó, sau tiệc mừng kỷ niệm, vợ chồng về nhà và trước khi đi ngủ muốn có gì ăn lót dạ. Vợ lấy Ham, Mustard và cà chua để lên bàn, trong khi chồng lấy bánh mì lát. Làm xong bánh kẹp, ông cắt đôi và trao cho vợ miếng bánh mì ngoài biên. Bà hậm hực nói : Đã 40 năm, tôi không nói. Tôi đã chịu đựng ông. Tại sao tới hôm nay, ông còn cho tôi miếng vỏ bánh mì mà tôi không hề thích. Còn ông thì qúa ngại và nói rằng: Tôi lại thích nhất những miếng bánh mì ngoài bìa. Một sự hiểu lầm!!!

Còn sống chúng ta còn phải phấn đấu không ngừng. Gia đình chúng ta đã phải phấn đấu rất nhiều nên mới có được hạnh phúc như ngày hôm nay. Ngày hôm nay lại cứ tiếp tục như dòng nước vẫn cứ trôi. Cuộc đời vắn gọn, chúng ta hãy sống và sống hạnh phúc từng giây phút trong cuộc đời. Hạnh phúc đang trong tầm tay. Cố gắng mỗi ngày sẽ đưa chúng ta lên cao và sống hạnh phúc hơn. Càng lên cao, càng thanh thản. Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta những giây phút tuyệt vời bên nhau.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA ĐÃ KẾT HỢP,

LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Đó là lời Chúa Giêsu được thánh Marcô ghi lại trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe và thỉnh thoảng đã từng nghe vào mỗi dịp lễ cưới, hay cử hành nghi thức chứng hôn nào đó. Đến phần cầu nguyện cho đôi tân hôn, chủ tế dang tay đọc : “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, Cha đã tạo dựng muôn loài từ hư vô, và an bài mọi sự trong trời đất ngay từ thuở ban đầu. Khi dựng nên con người gống hình ảnh Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam, vì vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương thịt. Như thế, Cha dạy chúng con rằng : sự gì Cha đã phối hợp nên một,  loài người không bào giờ được phép phân ly…

Cha đã chúc phúc cho xã hội họ gầy dựng nên được sinh sôi nảy nở. Lời chúc phúc này, dù nguyên tội hay đại hồng thuỷ cũng không xóa bỏ được”. Như thế đã rõ hôn nhân trong ý định nhiệm mầu yêu thương của Thiên Chúa.

Đẹp thay cái thủa ban đầu

Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế ta thấy người nam và người nữ được Thiên Chúa tạo dựng và thiết lập thật là đẹp. Đẹp về các mai mối : Thiên Chúa đã mai mối cho ông Adong và bà Evà, bởi chính Thiên Chúa dẫn Evà đến giới thiệu với Adong. Đẹp về cách chuẩn bị cho một gia đình mới : Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Đẹp về cử hành nghi lễ : Đám cưới của ông Adong và bà Evà do Thiên Chúa chủ sự, trước đó Ngài trang bị cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sang ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc sáng mắt ra và không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận : Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2,24). Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán : “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mc 19,6). Được Thiên Chúa chúc phúc và họ đã sống vui hạnh phúc. Nhờ hôn nhân, người nam và người nữ trở nên không phải một tổ hợp nhưng là một thể xác (x. St 2,24), nghĩa là một sự thông hiệp tình yêu phát sinh sự sống mới. Đúng là, đẹp thay của thủa ban đầu.

Hôn nhân ngày hôm nay

Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt : văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ.

Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận.

Loài người không được phân ly

Ngay từ thủa ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam, có nữ. Hôn nhân đã có trong chương trình của Thiên Chúa. Ngài muốn người nam và người nữ kết hiệp với nhau thành vợ chồng và sống hạnh phúc bên nhau. Tới Tân ước, cả bốn sách Tin mừng không có dấu hiệu nào cho thấy Chúa Giêsu chống lại việc hôn nhân.

Là người tín hữu ai cũng biết : đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn ; nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ, hay nói cách khác : một vợ, một chồng. Người nam không thể là chồng của người nữ nào khác, ngoài vợ mình; người nữ không thể là vợ của một người nam nào khác, ngoài chồng mình. Thế nên, loại trừ mọi hình thức đa thê, đa phu. Vĩnh hôn; có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Vì thế, khi cả hai còn sống thì không thể tháo cởi dây hôn phối vì bất cứ lý do nào, dù cả hai người đồng ý với nhau, hay vì bất cứ quyền lực nhân loại nào ép buộc.

Tại sao hôn nhân Công giáo không cho phép ly dị ? Thưa là vì: Hôn nhân Công giáo mô phỏng tình yêu giữa Thiên Chúa đối với loài người, cụ thể là tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh, mà tình yêu giữa Thiên Chúa đối với con người luôn là một tình yêu không chia sẻ và bền vững muôn đời.

Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết, trọn đời mình. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng.

Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay chung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hay gặp gian lao thử thách nào, vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt.  Amen.

Về mục lục

.

SỰ CHUNG THỦY CỦA TÌNH YÊU

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Giáo lý Công Giáo đã trình bầy rõ ràng, dứt khoát của Bí tích Hôn phối do Chúa thiết lập : một vợ một chồng và vợ chồng phải chung thủy với nhau suốt đời. Kinh Thánh viết :” Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo; Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình, và hai người trở nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phép phân ly “ ( Mc 10,6-9 ). Do đó, ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã dựng nên ông bà nguyên tổ là Adong và Evà, Ngài cho ông bà sống gắn bó, keo sơn với nhau; nên tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy. Hai người nam và nữ đã thề nguyền sống với nhau trọn đời: khi vui, cũng như khi buồn, lúc mạnh khỏe, cũng như lúc ốm đau bởi vì hai người đã trở nên một : “Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai “. Đó là tình yêu tuyệt vời : “ mầu nhiệm của tình yêu “. Có những cặp vợ chồng chung vai sát cánh, tung tăng bước đi bên nhau trọn đời, tuy nhiên có những đôi vợ chồng sống thời gian rồi lại đưa nhau xuống vực thẳm, dẫn nhau xuống hố : anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Lịch sử thế giới đầy rẫy những cuộc chia tay, những cuộc ly hôn, ly dị. Nhiều cặp vợ chồng đã không trọn tình trọn nghĩa với nhau suốt đời. Họ đã ly hôn, bỏ nhau như thay quần, thay áo. Đọc lại lịch sử con người, chúng ta thấy được ngay từ thời ông Môsê, dân chúng đã đòi ông cấp giấy ly dị, rồi Vua Đavít đã chiếm đoạt vợ của tướng quân Uria, sống dâm đãng ngoại tình, Vua Hêrôđê Antipas đã ly dị để cưới vợ của anh mình là Hêrôđia, sống loạn luân vô luân thường đạo lý. Lịch sử thế giới cứ tiếp diễn cho tới ngày nay và biết bao cặp hôn nhân đã đổ vỡ ê chề, khiến những gia đình cha mẹ ly hôn đã để lại hệ quả khôn lường cho con cái : ” các em sống như những trẻ mồ côi “. Luật của Chúa cấm ly dị đã giúp cho Giáo Hội, cho các gia đình biết kìm hãm, kiên nhẫn, chịu đựng và vượt qua khi gặp khó khăn thử thách, gặp giông bão trong đời sống hôn nhân gia đình; nhờ đó, các cặp vợ chồng và các gia đình giữ được sự hạnh phúc của nhau, và làm cho xã hội, thế giới được lành mạnh, ổn định trong tình thương. Đúng là sự huyền nhiệm của tình yêu, là ân huệ của Bí tích Hôn phối.

Thực tế, đã có biết bao gia đình có địa vị cao sang, là công nương, hoàng tử, là vua, là hoàng đế vv…tiền dư,danh vọng cao sang, nhưng chính họ cũng không giữ được hạnh phúc, giữ được sự hòa khí ấm êm của gia đình, cuối cùng họ cũng đã đi tới chỗ ly dị, tái hôn …Những cặp vợ chồng này cũng để lại những hệ lụy xấu cho xã hội, cho gia đình, cho con cái. Chúa Giêsu luôn xác định và nhắc đi nhắc lại mãi những điều kiện căn bản của đời sống hôn nhân gia đình. Hình ảnh Chúa Giêsu đưa ra cho mọi người suy nghĩ và giữ luật, đó là các trẻ nhỏ. Đọc Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhắc nhở các mon đệ đừng ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Ngài…Nước Trời thuộc về chúng như Chúa Giêsu nói. Ngài ôm các trẻ nhỏ vào lòng trước mặt các môn đệ . Hình ảnh này cho mọi người thấy :” các trẻ nhỏ là hoa quả của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho con người “. Chính vì thế, tục ngữ ca dao Việt Nam có những câu rất ấn tượng để khuyên nhủ các gia đình :” cơm sôi, bớt lửa. Giận cá, ném thớt. Chồng giận thì vợ làm lành vv…”. Hãy nhìn vào con cái khi có những cơn sóng gió trong gia đình…Khi muốn ly hôn, ly dị hãy nhìn vào đàn con. Chúng là những đứa trẻ vô tội, đáng thương…Rất nhiều trẻ em đã đi vào con đường tội lỗi, hư đốn, tù tội bởi chúng là con cái của những gia đình ly dị…Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn “ Niềm vui của tình yêu “ đã nói đến đời sống gia đình rất rõ và Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình cũng đã nhắc nhở rất nhiều mọi gia đình “ hãy cầu nguyện và nhờ sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, các gia đình sẽ sống bền chặt, chung thủy với nhau “.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho các gia đình luôn biết noi gương gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, luôn biết sống trên thuận dưới hòa, tôn trọng lẫn nhau để đời sống gia đình luôn tỏa hương thơm thánh thiện. Xin cho vợ chồng biết nhẫn nhục, quảng đại, tha thứ cho nhau để đời sống gia đình được êm ấm như Gia đình Thánh Gia. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Những đặc tính của Hôn Nhân ?
2.Bí tích Hôn phối do ai thiết lập ?
3.Thời Môsê, dân chúng đã đòi gì ?
4.Để bảo vệ đời sống Hôn nhân, vợ chồng phải làm gì ?
5.Tại sao Chúa Giêsu lại yêu thương các trẻ nhỏ ?

Về mục lục

.

SỰ BỀN VỮNG CỦA HÔN NHÂN

Lm Trần Thanh Sơn

Gia đình chính là tế bào, là đơn vị căn bản và là nền tảng để làm nên một xã hội. Do đó, để có một xã hội phát triển và ổn định, người ta thường phải bắt đầu bằng việc xây dựng một con người và một gia đình đạo đức. Xác tín điều đó, cha ông chúng ta vẫn dạy con cháu: “Tu thân, tề gia” trước khi “trị quốc, bình thiên hạ”.

Thế nhưng, nhìn chung vào xã hội hôm nay, các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình đang dần bị mai một. Tình trạng nam nữ chung sống ngoài hôn nhân ngày càng nhiều, đến nỗi đã có một diễn đàn tranh luận sôi nổi trên báo chí về đề tài “Sống thử”. Việc ly dị cũng không còn là một vấn đề cần giữ kín. Tất cả những điều đó dẫn đến hậu quả là nhiều gia đình bị tan vỡ, con cái bơ vơ không nơi nương tựa, không người chăm sóc. Đó cũng là lý do khiến cho tình trạng phạm pháp của các thanh thiếu niên ngày càng gia tăng.

Do đó, trong giờ chia sẻ này, chúng ta cùng nhìn lại và cố gắng sống các giá trị của hôn nhân theo sự hướng dẫn của Lời Chúa hôm nay. Nhờ đó, chúng ta có thể xây dựng một xã hội yên vui, hạnh phúc như ý muốn của Thiên Chúa.

  1. Gia đình đầu tiên:

Trước hết, bài đọc một được trích đọc từ sách Sáng Thế chương 2, 18-24, thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng nên gia đình đầu tiên. Chắc hẳn khi viết lên đoạn sách nói về cuộc sáng tạo này của Thiên Chúa, vị thánh ký đã không hề có ý muốn làm một bài phóng sự, tường thuật tại chỗ về quá trình tạo dựng của Thiên Chúá. Tuy nhiên, dưới sự linh hứng của Thánh Thần, tác giả thánh đã kể lại cho chúng ta một câu chuyện tuyệt vời, nói về nguồn gốc và mối liên hệ chặt chẽ giữa người nam và người nữ trong gia đình đầu tiên theo chương trình yêu thương của Thiên Chúa. Thánh ký cho biết, sau khi đã lấy bùn đất tạo dựng nên con người đầu tiên trong vũ trụ, một người đàn ông, Thiên Chúa đã nhận ra rằng: “Đàn ông ở một mình không tốt”. Do đó, Ngài đã quyết định: “Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó”. Thiên Chúa đã muốn làm cho Ađam một người bạn. Và thế là muôn loài, muôn vật, trên trời dưới nước và trên mặt đất, mỗi loài một vẻ đã được dựng nên, để Ađam có thể tìm trong số đó một sinh vật làm bạn với mình.

Thế nhưng, giữa muôn loài sinh vật trên trời dưới đất do Thiên Chúa vừa tạo dựng, “Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình”. Ađam đã không tìm được một sinh vật nào có thể cùng ông chia vui, sẻ buồn. Ông không tìm được một loài nào để ông có thể trao trọn tâm tư và con tim của ông. Ông vẫn cảm thấy cô đơn và bơ vơ giữa muôn loài, không có một sinh vật nào có thể lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn ông.

Thế rồi trong lúc Ađam ngủ mê: “Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến cho Ađam”. Tỉnh giấc dậy, thấy người đàn bà bên cạnh, Ađam như tìm thấy được “một nửa” của mình, và chẳng chờ Thiên Chúa giới thiệu, Ađam đã nhận ra ngay đây là người mà ông cần, đây là người mà ông hằng trông đợi, ông sung sướng thốt lên: “Đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”. Và chúng ta cũng có thể nói thêm mà không sợ sai rằng: ngay lúc đó, Ađam đã chạy tới ôm chặt lấy, như sợ mất đi người phụ nữ đầu tiên này, vì điều mà ông khao khát bấy lâu, nay đã thành hiện thực. Thế là gia đình đầu tiên đã xuất hiện. Gia đình ấy đã được Thiên Chúa chúc phúc. Trong gia đình ấy giờ đây “tuy hai mà một ” như lời Thiên Chúa phán: “Vì thế người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể ”. Người này là một nửa của người kia. Hay nói theo cách nói của cha ông chúng ta, người này chính là “mình ” của người kia và ngược lại. Chồng gọi vợ là “mình ”, mà vợ gọi chồng cũng một tiếng “mình ơi! ”.

Như thế, qua một trình thuật thật sống động, tác giả sách Sáng Thế đã cho chúng ta thấy rằng: trong gia đình đầu tiên, chỉ có một nam và một nữ, và cả hai đều có một phẩm giá như nhau trước mặt Thiên Chúa, vì cả hai “cùng một thân thể ”. Đồng thời, chúng ta còn thấy rằng: chính Thiên Chúa là nguồn gốc của sự kết hợp này. Chính Ngài đã dựng nên con người cả nam lẫn nữ và đã chúc phúc cho sự kết hợp của họ trong đời sống gia đình, hay nói theo cách nói của tác giả thư Do thái trong bài đọc hai: “Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật”

Thế nhưng, qua dòng thời gian, kể từ khi con người quay lưng lại với Thiên Chúa, vẻ đẹp bền vững của gia đình cũng dần dần bị tan vỡ. Do đó, Đức Giêsu đã đến để dẫn đưa con người trở về với ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa.

  1. Tính bền vững của hôn nhân:

Để trả lời cho những chất vấn của người biệt phái về vấn đề ly dị, Đức Giêsu đã nhắc lại cho họ về ý định ngay từ thuở tạo dựng của Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người: “Khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ … Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Ngài nhắc lại cho họ biết rằng, tính bền vững của hôn nhân, không phải là do ý muốn của con người hay của đôi vợ chồng, nhưng trước hết và trên hết đó là do ý định của Thiên Chúa. Đồng thời, nhân cơ hội này, Đức Giêsu còn muốn khẳng định một chân lý nữa, đó là trong gia đình chỉ có một vợ, một chồng, bởi lẽ ngay từ ban đầu Thiên Chúa chỉ dựng nên một người nam và một người nữ.

Sự chung thuỷ, bền vững trong hôn nhân không những là ý muốn của Thiên Chúa, nhưng còn là một trong những điều kiện để con người được hạnh phúc, bởi lẽ, gia đình là trường học đầu tiên để đào tạo những con người trở nên người. Thật vậy, chính trong một gia đình bền vững, vợ chồng trung tín và chung thuỷ với nhau, con cái sẽ học được những bài học về sự nhường nhịn và chia sẻ, bài học về yêu thương và tha thứ. Cũng chính từ nơi đó, từng người sẽ học được bài học về sự khiêm tốn, biết nhận ra sự giới hạn của mình, để sẵn sàng đón nhận sự hướng dẫn của người khác, đồng thời cũng biết nâng đỡ những người chung quanh.

Do đó, để có một gia đình hạnh phúc, từng người chúng ta phải biết vun đắp cho cuộc sống chung trong gia đình, bằng cách quên mình, dẹp đi những tự ái cá nhân theo mẫu gương của Đức Giêsu, Đấng đã tự hạ mình “kém các thiên thần” và “chịu chết thay cho mọi người”. Nhờ đó, Ngài “đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang” như chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai.

Tóm lại, gia đình chính là cộng đoàn cơ bản để xây dựng một xã hội. Sự ổn định và phát triển của xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào sự ổn định và đạo đức của từng gia đình. Nhưng để có được một gia đình an bình và hạnh phúc, thì điều quan trọng không thể thiếu đó là sự trung tín và thuỷ chung của đôi bạn trong đời sống hôn nhân. Hơn nữa, dưới cái nhìn của đức tin, sự trung tín và bền vững của hôn nhân còn có một giá trị đặc biệt, bởi lẽ đó còn là ý muốn từ muôn thuở của Thiên Chúa.

Cuối cùng, Thánh Thể là nguồn trợ lực không thể thiếu để duy trì sự bền vững của gia đình. Vì nếu tất cả mọi người trong gia đình đều lãnh nhận chung một tấm bánh, thì nói theo cách nói của thánh Phaolô, chúng ta sẽ trở nên một (x. 1 Cr 10, 17). Ý thức điều đó, giờ đây, xin cộng đoàn cùng hiệp ý chuẩn bị tâm hồn sốt sắng để tham dự phần phụng vụ Thánh Thể. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU GIẢI THÍCH LỀ LUẬT VỚI UY QUYỀN

Lm. Phêrô Lê văn Chính

          Chủ đề ly dị là chủ đề nóng bỏng của mọi thời, vào thời Chúa Giêsu, chủ đề này được tranh luận giữa các bậc thầy do thái. Người ta thấy có hai trường phái danh tiếng, trường phái của Hillel vốn chủ trương khá tự do, chấp nhận nhiều lý do cho phép chồng có thể ly dị vợ, ngược lại trường phái của thầy Shammai thì nghiêm ngặt hơn, chỉ chấp nhận một số lý do hạn chế cho phép ly dị. Hơn nữa, theo luật do thái, chỉ có người đàn ông có quyền ly dị vợ, thì lập trường của thầy Shammai lại bênh vực quyền lợi của người đàn bà.  Vì thế, khi những người biệt phái đặt câu hỏi với Chúa Giêsu có được phép ly dị vợ mình không thì họ vốn đã thực hành việc ly dị theo luật Môisen, và họ đặt câu hỏi với Chúa Giêsu chỉ là để thử người. Bẩy mà họ giăng ra rất rõ ràng, và tùy vào câu trả lời của Chúa Giêsu mà người ta sẽ qui kết cho người theo chủ trương nghiêm ngặt hay chủ trường dễ dãi. Câu trả lời của Chúa Giêsu đi ngược lại luật Môisen và vượt trên luật Môisen. Người tỏ ra là Đấng giải thích lề luật một cách mới mẻ và đầy uy quyền. Người mời gọi những người biệt phái đọc lại bản văn Sáng thế ký là bản văn luật cổ thời hơn cả để họ thấy được ý nghĩa ban đầu của Thiên Chúa tạo dựng. Bản văn Sáng thế ký cho thấy hình ảnh hai người nam nữ, Ađam và Evà được tạo dựng với phái tính của họ, đều là hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa. Sự cao cả của họ là ở chỗ họ là hình ảnh của Thiên Chúa với sự khác biệt phái tính, họ được tạo dựng hướng về nhau và sống với nhau theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa: cả hai người kết hợp nên một xác thịt. Hai người nam nữ có ơn gọi tạo lập nên một gia đình, một đời sống chung có tình yêu và liên hệ phái tính theo dự định nguyên thủy của Thiên Chúa.

          Tin mừng Marcô còn xen vào chủ đề ly dị là giáo huấn của Chúa Giêsu đối với các môn đệ. Chúa Giêsu biết các môn đệ của mình vốn đang tranh luận với nhau xem ai là người lớn hơn trong Nước Thiên Chúa. Người muốn sửa dạy các ông và cho các ông thấy một kiểu mẫu mới mẻ hơn của Nước Thiên Chúa, hoàn toàn không theo lối đánh giá của người đời. Khi người ta đưa các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu để người chúc lành cho chúng, trong khi các môn đệ lại khiển trách, thì Chúa Giêsu phật ý với thái độ của các môn đệ, người nói với các ông: “Hãy để các trẻ nhỏ đến với thầy, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng”. Chúa Giêsu đã có những dấu yêu thương đối với các trẻ nhỏ, người ôm chúng và ban phúc  lành cho chúng. Một trong những nguyên nhân có thể giải thích thái độ không thiện cảm của các môn đệ đối với các trẻ nhỏ là bởi vì các trẻ nhỏ chưa biết lề luật Môisen. Vì chưa biết lề luật nên người ta đối xử với chúng như những kẻ sống ngoài lề luật, hạng đàn bà hay những nô lệ. Chúa Giêsu đã tỏ những dấu trìu mến đối với các em, người muốn các môn đệ của mình cũng học được những tâm tình và thái độ mà các trẻ em có một cách tự nhiên như là bé nhỏ, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Trẻ em phải sống nương nhờ vào cha mẹ cách tự nhiên, trẻ em bị loại trừ không được kính trọng ở trong xã hội, thì các môn đệ của người cũng cần phải bỏ những thái độ tự cao tự đại và cạnh tranh hơn thua để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa với thái độ phù hợp hơn như là khiêm tốn, phục vụ và phó thác khiêm nhường.

 

          Cả hai trường hợp, hôn nhân và thái độ xứng đáng với Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã trả lại giá trị đúng cho những tương quan giữa con người đối với nhau như vợ chồng và thái độ khiêm tốn phục vụ giữa mọi người. Cả hai tình huống, người đều cho thấy những lệch lạc sai trái của con người, làm mất đi sự trong sáng của dự định ban đầu của Thiên Chúa do bởi lòng trí cứng cỏi của mình. Chính lòng trí cứng cỏi của con người làm cho tương quan vợ chồng vốn tốt đẹp theo dự định ban đầu khi tạo dựng của Thiên Chúa đã trở nên lệch hướng làm cho loài người trở nên ganh ghét nhau và loại trừ nhau. Cũng chính thái độ cứng cỏi của loài người làm cho mọi người tranh giành hơn thua nhau, không biết khiêm nhường hạ mình phục vụ. Trong bức thư gửi tín hữu do thái, tác giả đã cho thấy thái độ tự hạ thẳm sâu của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của người mà nhờ đó người đã đạt tới vinh quang danh dự của Đấng cứu độ theo dự định của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là mẫu mực của mọi người, Đấng thánh hóa mọi người, Người đã khiêm nhường tự hạ để trở nên anh em của mọi người. Người đã tự hạ thẳm sâu đến độ chết trên thập giá và Thiên Chúa đã tôn vinh người, ban tặng cho người mọi vinh quang và danh dự : “Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người”. Tác giả rất nhấn mạnh đến sự tự hạ thẳm sâu của Đức Giêsu qua cuộc khổ nạn của người và nhờ sự tự hạ này mà người đã đạt đến vinh quang của sự Phục sinh mà Thiên Chúa ban tặng cho người để rồi người đem lại ơn cứu độ cho nhiều người. Suy tư của tác giả tập trung vào mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu và mời gọi chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm khổ nạn này. Sự tự hạ thẳm sâu của Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn là nguyên nhân của ơn cứu độ cho nhiều người, vì Người chết thay cho mọi người. Chính Thiên Chúa là cùng đích của mọi người và mọi loài đã làm cho Đức Giêsu được nên hoàn hảo. Nhờ cuộc thương khó mà Đức Giêsu đã can đảm đón nhận đã hoàn tất thánh ý quan phòng của Thiên Chúa là làm cho người nên Đấng cứu độ của mọi người để dẫn đưa mọi người vào trong vinh quang Thiên Chúa.

Về mục lục

.

SỰ GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ PHỐI HỢP

Lm. Nguyễn Cao Siêu

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly”

Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.

Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?

Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng.

Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.

Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.

Trước câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ không?” Đức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.

Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.

Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc. Họ nói: “nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10). Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.

Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.

Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.

Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”

Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.

Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.

Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.

Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục… Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó. Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.

Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn.

Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn,

bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ,

bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…

Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.

Gợi ý chia sẻ:

1) Đâu là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?

2) Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?

Lời nguyện:

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,

những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương

những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,

những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,

những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ

từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,

từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

Về mục lục

.

PHÉP TÌNH KỲ DIỆU

Trầm Thiên Thu

Trong toán học có nhiều phép tính, cơ bản nhất là bốn phép tính: Cộng – Trừ – Nhân – Chia. Cuộc sống đời thường có nhiều thứ phải tính toán, từ đơn giản đến phức tạp. Có những bài toán có thể tìm ra đáp số, nhưng có những bài toán không thể tìm ra đáp số, và có những phương trình vô nghiệm.

Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng có những lúc bối rối, không biết tính thế nào cho hợp lý, càng khó hơn khi đó là vấn đề hệ trọng. Một trong các vấn đề nan giải và liên quan cả đời là hôn nhân. Thế nên cụ Nguyễn Du đã khuyên: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn – Phải dò cho tới ngọn nguồn lạch, sông” (Truyện Kiều, câu 1331-1332). Quả thật, không hề đơn giản như người ta tưởng!

Có những cách tính lạ, độc đáo. Có khi rất đơn giản mà không nghĩ ra. Tuy nhiên, thiết tưởng rằng chắc chắn không có cách tính nào kỳ diệu bằng Bài-Toán-Hôn-Nhân-Công-Giáo, đơn giản nhất mà lại khó giải nhất, và cũng ngược đời nhất: 1 + 1 = 1, vậy mà bài toán này vẫn hoàn toàn đúng: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19:5). Hôn nhân Công giáo có “đặc điểm” khác hẳn các hôn nhân khác nhờ Hôn Luật Thánh: “Sự gì Thiên Chúa ĐÃ phối hợp, loài người KHÔNG ĐƯỢC phân ly” (Mt 19:6; Mc 10:9). Người đời cũng vẫn công nhận đó thôi: “Mình với ta tuy hai mà một – Ta với mình tuy một mà hai”.

Hôn nhân là chuyện cả đời nên cần thấu đáo mới khả dĩ tạo nền móng bền vững. Cái gì có BỀN thì mới VỮNG được, nếu không thì sẽ có lúc rạn nứt rồi đổ vỡ – chẳng chóng thì chày.

Ngay từ thuở khai thiên lập địa, sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã xác định: “Con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Một cách quan phòng và tiền định kỳ diệu của Đấng Tạo Hóa – Thiên Chúa duy nhất. Điều đó cho thấy tiền đồ của Ngài là muốn con người sống hài hòa với nhau, liên kết với nhau, cùng chia sẻ vui buồn và đồng hưởng sự ngọt ngào của vị hạnh phúc. Ngài biết hai phái sống với nhau sẽ sinh nhiều chuyện, khổ lắm, thế nên Ngài tạo niềm vui để cân bằng cuộc sống hôn nhân của họ.

Trong quá trình sáng tạo, Ngài “lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì thì tên nó sẽ là thế” (St 2:19). Ngài tạo dựng muôn loài, nhưng Ngài muốn con người “góp công” nên cho con người được quyền đặt tên mọi loài, chứng tỏ con người có giá trị trong cách nhìn của Ngài. Thật là diễm phúc biết bao! Rồi sau khi “con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:10). Vì thế, Ngài “cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi, rồi Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào” (St 2:21). Nghe trình thuật về việc Chúa làm thì thấy thật kỳ lạ, ngày nay người ta thấy vậy sẽ cho đó là “ma thuật”, nhưng không, hoàn toàn là quyền năng vô song của Thiên Chúa, và CHỈ MỘT MÌNH NGÀI LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY mà thôi!

Ngay sau đó, Ngài lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra – ý nói “con người” ở đây là “đàn ông”, Ngài làm thành một “sinh vật lạ”, và dẫn đến với con người. Thấy vậy, con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Bởi thế, “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Ôi, “sinh vật lạ” sao mà đẹp quá, ngày nay gọi là mỹ nhận, thế nên chàng Ađam “lé mắt” luôn, và rồi cũng sẽ… “chết chắc”!

Có lẽ từ “câu chuyện” trong Kinh Thánh như vậy nên phe đàn ông thường “tự đề cao” mà “lý luận” rằng Thiên Chúa dựng nên nam giới trước, nữ giới chỉ là “sản phẩm” của nam giới, là “cấp dưới” nên phải chịu “lệ thuộc”. Cách nghĩ và quan niệm như vậy thật khủng khiếp. Thậm chí người ta còn cho rằng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai kể là có, mười nữ coi như không). Lối suy nghĩ thật là ấu trĩ, thiển cận, nông cạn và kiêu ngạo! Càng nói càng lòi cái… ngu, ngu kinh niên. Tại sao? Vì cái gì cũng có tính liên đới.

Như chúng ta đã biết, Nhóm Xa-đốc gồm những người không tin có sự sống lại. Một hôm, họ hỏi Chúa Giêsu để “gài bẫy” Ngài về chuyện bảy anh em trai, lần lượt mỗi người đều cưới cùng một cô vợ, vì luật Mô-sê nói rằng anh lấy vợ mà chết trước khi có con thì chú em phải cưới chị dâu làm vợ. Cả bảy anh em đều cưới cô ta mà không có đứa con nào. Hết thuốc chữa! Nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu rằng khi sống lại thì cô nàng sẽ là vợ của người nào trong bảy anh em kia. Chắc là lúc đó họ cười thầm vì Chúa Giêsu phải “bó tay” thôi. Thế nhưng Chúa Giêsu thản nhiên và nói chắc hơn hàn xì: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:29-30; Mc 12:24-25; Lc 20:34-36). Hố to! Đã vậy họ còn bị Chúa Giêsu trách là “lầm” và chê là “ngu dốt”, chẳng biết Kinh thánh, chứ nói chi biết đến quyền năng của Thiên Chúa – Đấng tạo dựng mọi sự, vô hình và hữu hình. Đúng là họ lộ cái ngu thấy rõ luôn. Không nói thì chẳng ai biết mình ngu, càng nói càng tự thú “lạy ông, tôi ở bụi ngu” đây này!

Sự đời vẫn thế, ngày nay gọi là “ngu mà chảnh”. Thời kỳ sáng thế cũng vậy thôi. Chúa dựng nên con người tốt lành, không hề có khái niệm nam, nữ, hoặc đồng giới. Thế nên người ta thoải mái “ở mát” rất vô tư: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2:25). Chỉ sau khi đã phạm tội, con người mới nhận ra mình trần truồng và xấu hổ với nhau, muốn… độn thổ mà không được. Sao vậy? Chính tội lỗi làm cho “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”, và rồi “họ kết lá vả làm khố che thân” (St 3:7).

Như hai cực nam châm trái dấu, nam và nữ cũng có “sức thu hút” lẫn nhau, nhờ đó mà phát sinh tình yêu, tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là “sợi” liên kết tạo nên một gia đình mới – tế bào cơ bản của xã hội. Tế bào gốc nhỏ bé nhưng rất quan trọng trong chuỗi AND trong con người, gia đình cũng vậy. Để có nền tảng gia đình vững chắc, phải có hôn nhân tốt lành, đòi buộc sự chung thủy một vợ và một chồng, có vậy mới không sinh những hệ lụy rắc rối khác. Ca dao Việt Nam có nhiều câu nói về sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân, chẳng hạn câu phổ biến này:

Bao giờ cạn nước Đồng Nai,

Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.

Làm sao mà phai được chứ? Không thể. Sự chung thủy không là bổn phận của riêng ai. Và sự chung thủy ấy được thể hiện qua lời tâm sự của người vợ dành trọn trái tim yêu thương cho người chồng:

Đi đâu cho thiếp theo cùng,

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Thế thì thật tốt. Nàng đã vậy, còn chàng thì sao? Sự chung thủy ấy cũng phải được người chồng thể hiện triệt để, như lời tâm sự của người chồng ngày xưa:

Tay cầm quyển sách bìa vàng,

Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu.

Tình thương thành thật thì tuyệt! Chung thủy là “chén nước được giữ thăng bằng”, không hề sóng sánh. Luật chung thủy phải được cả đôi bên tôn trọng suốt đời. Thật vậy, khi hai người cùng nhau cử hành bí tích hôn phối trước mặt vị đại diện Giáo hội và cộng đoàn Dân Chúa, họ đã vui vẻ thề hứa công khai: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”. Vậy đó, “mình với ta tuy hai mà một”, vì thế mà không ai có thể “xẻ” mình ra được – chỉ có người điên khùng mới làm vậy!

Tiền nhân đã xác định: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Thuận nhau không có nghĩa là giống nhau hoàn toàn, mà là nhường nhịn nhau, chấp nhận và cảm thông sự khác nhau. “Một nhịn, chín lành” là thế, “kê cho bằng trăm chỗ lệch” là vậy. Đặc biệt hơn, hôn nhân Công giáo là một ơn gọi và là bí tích, hôn nhân Công giáo là hôn nhân thánh.

Ngày xưa, Thánh Vịnh gia đã hân hoan chúc mừng: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hôn nhân là hành trình đầy trọng trách và gian khó, nhưng bù lại cũng nhiều niềm vui, có thể nói rằng hôn nhân là “nỗi đau ngọt ngào”. Đó là niềm hạnh phúc độc đáo trong hôn nhân! Thật vậy, trầu cau xanh kết hợp với vôi trắng tạo nên nước đỏ tươi và vị cay, chính vị cay đó là “chất gây nghiện” nên người ta mới khoái ăn trầu. Có những người không còn răng mà vẫn thèm trầu, không nhai được nên phải giã nát rồi ngậm cho thỏa lòng. Chí lý lắm!

Hôn nhân thực sự là điều kỳ diệu, gia đình cũng là sự lạ lùng lắm. Niềm hạnh phúc hôn nhân và gia đình chính là “phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Một lần nữa, Thánh Vịnh gia cầu chúc cho những người sống đời hôn nhân – gia đình: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng thái bình” (Tv 128:5-6). Có thể vì đời thường như vậy nên chúng ta không nhận ra mối liên kết kỳ diệu trong mối quan hệ về hôn nhân – gia đình. Quả thật, đó là một phép lạ của Thiên Chúa.

Con người là sinh vật cao cấp – mặc dù chỉ là phận bụi tro và kiếp tội nhân. Bằng chứng là Thánh Phaolô phân tích: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu” (Dt 2:9a). Thật vậy, “Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9b). Thánh Phaolô nói rạch ròi: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10). Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô tận.

Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng chí nhân, Ngài không muốn ai phải hư mất, mà chỉ muốn tất cả tội nhân chúng ta cũng được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc với Ngài. Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, “những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2:11), vì thế, Ngài đã không hề hổ thẹn gọi chúng ta là huynh đệ – dù chúng ta quá khốn nạn, xấu xa, tội lỗi, đốn hèn. Thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta từ “không” mà biến thành “có”. Còn gì có thể so sánh được chăng? Chắc chắn là không!

Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều biết rằng mục đích của hôn nhân không chỉ là sinh con đẻ cái theo lệnh Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1:28). Còn hơn thế nữa, mục đích của hôn nhân là giúp nhau nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Có nhiều phương thế nên thánh, hôn nhân là một trong các cách đó.

Về tâm linh, có hai dạng cơ bản – hữu thần và vô thần, duy tâm và duy vật. Một hôm, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” (Mc 10:2). Họ chẳng tốt lành gì, hỏi han cho ra vẻ thân thiện chứ thực tế họ muốn thử Ngài, muốn “gài bẫy” Ngài. Nhưng Ngài thản nhiên: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” (Mc 10:3). Xem chừng họ vẫn “vô tư” khi cho biết: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10:4). Thế là Đức Giêsu “chơi” liên khúc với họ: “Chính vì các ông LÒNG CHAI DẠ ĐÁ, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT xương MỘT thịt. Như vậy, họ KHÔNG còn là hai, nhưng chỉ là MỘT xương MỘT thịt” (Mc 10:5-8). Và Ngài quả quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người KHÔNG được phân ly” (Mc 10:9). Đúng là kẻ “dốt đặc cán mai” lại hay tỏ ra thông thái, ngu truyền kiếp mà tưởng mình thông minh. Gậy ông đập lưng ông. Cuối cùng, họ đành ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Tất nhiên thôi!

Mà kể cũng lạ, ngay cả các môn đệ cũng lơ ngơ như bị “chạm mạch”, thế nên khi về đến nhà, các ông lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài minh định: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Quá rõ, không phân biệt nam hay nữ chi cả. Ai sai nấy chịu. Tội là cái Tôi-Nặng (kiểu đánh vần chữ Tội trong Việt ngữ).

Nghe danh Thầy Giêsu nổi như cồn, lúc đó người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Ngài thẳng thắn quở trách các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, ĐỪNG ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10:14). Thấy các đệ tử mình theo mình mà chẳng giống mình, thế nên, dù Ngài rất nhân từ và hiền lành mà còn phải “nổi nóng” thì hẳn là chuyện không vừa, chắc chắn các môn đệ phải xua đuổi các trẻ em dữ lắm. Và rồi Ngài nhấn mạnh: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:15). Thánh Mátthêu còn kể rõ: “Ngài ÔM lấy các trẻ em và đặt tay CHÚC LÀNH cho chúng” (Mt 10:16).

Lại có một Phép Tính kỳ diệu nữa đối với tất cả chúng ta về “bí quyết” để làm công dân Nước Trời: SỐNG ĐƠN SƠ. Đó là “Con Đường Thơ Ấu” và là bí quyết nên thánh của Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, như thánh nữ xác định: “Nên thánh chỉ đơn giản là làm theo Thánh Ý Chúa và trở nên như Ngài muốn”.

Liên quan hôn nhân – gia đình, chắc là chúng ta còn nhớ Thánh LM Tử Đạo Maximilian Kolbe (1894-1941), người sẵn sàng chết thay cho một tù nhân vì thương anh ta còn vợ con. Ngài phân tích: “Chất độc nguy hiểm nhất trong thời đại của chúng ta là SỰ LÃNH ĐẠM. Vì thế, hãy cố gắng chúc tụng Thiên Chúa hết khả năng của mình”. Thật đáng sợ đối với sự thờ ơ, dửng dưng, lãnh đạm, vô cảm. Nó vô hình nhưng có thể giết chết mọi mối quan hệ – nhất là trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Đây là những Phép Tính của hôn nhân và gia đình: Hãy CỘNG lại những niềm vui, hãy TRỪ đi những nỗi muộn phiền, hãy NHÂN lên những niềm hy vọng, hãy CHIA sẻ chân thành, và đừng CHIA rẽ bao giờ! Sẽ chẳng làm được gì nếu không có ơn Chúa, nhưng có ơn Ngài thì làm gì cũng được.

Lạy Thiên Chúa chí thánh, sống đời hôn nhân là một cuộc tử đạo liên lỉ, cần nhiều ơn thánh để duy trì gia đình, xin giúp họ luôn sống trung thành với lời hứa yêu thương, biết bảo vệ sự sống, biết yêu quý trẻ em và học ở chúng bài học đơn sơ, đặc biệt là sống trung thành với Ngài trong mọi hoàn cảnh. Xin Đức Maria và Đức Giuse đồng hành và cầu giúp nguyện thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG ĐẠO TRUNG TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG

Lm Trần Bình Trọng

Theo Kinh thánh thì mỗi liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả lại tình yêu đó. Không những Chúa thiết lập giao ước hàng dọc, nghĩa là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, Chúa còn thiết lập giao ước hàng ngang giữa người với người nữa. Sách Sáng thế có ghi lại Chúa thiết lập giao ước hôn nhân hàng ngang bằng việc kêu gọi Ađam và Evà sống trung thành với nhau: Bởi thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt (St 2:24). Lời Kinh thánh này được Chúa Giêsu trích lại để nói lên tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (Mc 10:7).

Khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, Người đã nâng khế ước hôn nhân lên hàng bí tích. Vậy bí tích hôn nhân là việc hai người công giáo đã chịu phép Rửa tội, thề hứa trung thành yêu thương và phục vụ lẫn nhau cũng như yêu thương và phục vụ con cái. Sự trung tín giữa vợ chồng là phản ảnh lòng trung tín giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chúa khẳng định tính cách bất khả phân ly của bí tích hôn nhân: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly (Mc 10:9). Khi mấy người Pharisêu thắc mắc tại sao ông Môsê cho phép li dị thì Chúa Giêsu bảo là tại lòng dạ chai đá của họ mà ông Mosê cho li dị. Thực ra từ đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trù liệu kế hoạch hôn nhân bất khả phân li để nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình: của vợ chồng và con cái. Còn li dị khiến con cái nhất là còn nhỏ tuổi thiệt thòi về mọi phương diện: thể chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng.

Trong quá khứ, hôn nhân được bảo vệ một cách tối đa: được gia đình, tôn giáo và xã hội che chở. Hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Đời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện buồn giận lẫn nhau. Trái lại sống trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân bị tấn công bởi nhiều yếu tố như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và cả mạng tin. Bằng cách cho phép ly dị, luật pháp xã hội hiện tại và hiện đại không bảo vệ hôn nhân.

Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, mà đa số các giáo phận tại Mỹ đời nay đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không?

Có những cặp nam nữ sau thời gian tìm hiểu và đợi chờ thấy không hợp đã tự ý chia tay vĩnh viễn. Những cặp dự bị hôn nhân mà thực sự chú tâm học hỏi để sửa sọan bước vào đời sống hôn nhân thì cũng khiến cho các linh mục làm đám cưới hứng khởi. Có linh mục kia không biết nói chơi hay thật cho rằng giả như trước đây nếu người đi tu biết được cái đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân thì chưa chắc đã đi tu. Để cho hôn nhân có thể kéo dài suốt cả cuộc sống, người ta cần khám phá ra nét đẹp và sống nét đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân công giáo. Người ta cần đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành và làm chủ đời sống hôn nhân. Như vậy ta thấy mối liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và tin cậy. Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân.

Tuy vậy đời nay người ta lại thấy cảnh li lan tràn khắp đó đây. Nếu phân tích tại sao đời nay vợ chồng lại li dị dễ dàng như vậy, người ta có thể nêu ra tại những lí do sau đây (dĩ nhiên còn có những lí do khác nữa):

(1) Tại đặt nặng yếu tố tiền bạc trong đời sống hôn nhân. Khi thấy chồng làm ít tiền mà vợ lại thích mua sắm, thì nàng có thể bắt đầu để ý đến người có nhiều tiền hay làm nhiều tiền hơn.

(2) Tại đặt nặng vấn đề chăn gối. Có lẽ vì ảnh hưởng bởi phim ảnh, nghệ thuật quảng cáo, và công ty xây cất nhà cửa với phòng ngủ của chủ gia đình thật lớn và sang có phòng tắm đặc biệt, có bồn tắm jacuzzi sóng ngầm chẳng hạn, mà người ta để ý đến vấn đề này. Vợ chồng cần tìm hiểu và để ý xem những lúc nào, hoặc thời kì nào người phối ngẫu không muốn chuyện chăn gối để tôn trọng nhau. Ngoài ra việc chăn gối hôn nhân phải là việc bày tỏ sự ưng thuận của cả hai người, lòng yêu thương, âu yếm, thông cảm, và coi trọng phẩm giá của nhau, chứ không phải là việc làm ép buộc, chỉ nhắm tìm khoái lạc. Vợ chồng cũng cần tìm những thoải mái về đời sống tinh thần và đời sống thiêng liêng có tính cách bền lâu bằng việc cầu nguyện, săn sóc gia đình và con cái hoặc làm việc xã hội và từ thiện bác ái nữa. Khi người ta cảm nghiệm hạnh phúc thoải mái về đời sống tinh thần và thiêng liêng, thì vấn đề chăn gối không còn phải là một nhu cầu lớn.

(3) Tại ích kỉ trong đời sống hôn nhân. Nếu một người phải đi làm lụng vất vả để nuôi gia đình mà người kia không góp phần mình, để cho nhà cửa lôi thôi, con cái nheo nhóc, cơm nước thất thường, thì người góp phần nhiều sẽ nản lòng. Nếu nấu giở thì cũng nên học cách nấu ăn sao cho người ăn được. Như vậy vợ chồng cần phải để ý để đáp ứng những gì mà người kia đã làm cho mình. Nói cách khác là có đi có lại mới toại lòng nhau. Còn không thì sẽ làm mất lòng.

(4) Tại để ý nhiều đến tình, mà quên nghĩa. Có những khi người ta còn lẫn lộn tình yêu với cảm tình hay cảm xúc trìu mến. Do đó khi không còn cảm thấy có cảm tình là người ta chia tay. Người ta quên đi những hi sinh và công ơn mà người khác đã làm cho mình. Có những người trọng nghĩa vợ chồng mà vẫn có thể chung sống với nhau mặc dù tình đã phai nhạt.

(5) Tại quên rằng vợ chồng còn là thánh giá cho nhau. Lập gia đình là để vợ chồng nâng đỡ nhau và săn sóc con cái về đời sống vật chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên vợ chồng còn là thánh giá cho nhau nữa nếu hiểu thánh giá là những bất đồng quan điểm với tính tình khác nhau, ăn ngử khác biệt, lại thêm tập quán, cách nói năng, cách nhìn đời cũng khác. Nếu học để chịu đựng và chấp nhận, những thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và mang lại ơn phúc cho đời sống hôn nhân.

(6) Tại quên đi phần sau của lời hứa hôn nhân. Trong thánh lễ cưới, vợ chồng hứa với nhau: Anh hứa nhận em làm vợ, em hứa nhận anh làm chống, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em). Vợ chồng phải thường xuyên nhắc nhở cho mình giữ lòng chung thuỷ lúa gian nan và khi bệnh nạn nữa cũng như yêu thương và tôn trọng nhau suốt cả cuộc sống.

(7) Tại không chịu tìm cách thăng tiến hoá đời sống hôn nhân. Tự nhìn và xét mình, người ta thường chủ quan hay vì tự ái mà không nhìn thấy mặt trái của mình. Do đó mà có những phong trào ra đời như Hội Ngộ Phu Thê (marriage Encounter) để giúp vợ chồng thông đạt với nhau cách hữu hiệu; hay phong trào Teams of our Lady để hướng dẫn vợ chồng cách thế phát triển đời sống hôn nhân; hoặc phong trào Thăng tiến Hôn nhân Gia đình để giúp vợ chồng đả thông những vấn đề bất hoà trong đời sống hôn nhân để mà tiếp tục thăng tiến.

(8) Tại nhìn thấy trước mắt có lối thoát. Vì có luật cho phép li dị cho nên khả dĩ tính của việc li dị được nằm trong tiềm thức của người chồng hay vợ nghĩa là đầu óc họ quan niệm rằng họ có lối thoát nếu không cảm thấy thoải mái trong đời sống hôn nhân. Trái lại thời xưa không có luật li dị, cho nên ông bà tổ tiên ta không nghĩ đến chuyện có thể li dị. Vì thế ông bà tổ tiên chỉ nhắm đến tính cách bất khả phân ly của đời sống hôn nhân cho nên cố xây dựng trên những ưu điểm của nhau thay vì chỉ nhìn đến những khuyết điểm. Nếu người ta cứ nhắm đến ý tưởng trung thành trong đời sống hôn nhân thì trong đời sống hàng ngày mà họ có súc phạm đến nhau bằng lời nói hay hành động, thì họ sẽ tìm cách hàn gắn, điều chỉnh và sửa sai, để có thể lèo lái tới đích. Còn nếu nghĩ rằng mình không sống với nhau được thì chia tay, thì người ta sẽ không cố gắng chỉnh đốn vấn nạn hôn nhân, mà cứ để vậy cho tới lúc không còn chịu đựng được nữa thì sẽ bỏ cuộc. Vì thế việc tâm niệm về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân sẽ giúp định hướng cho hướng đi trong đời sống lứa đôi. Trong quá khứ luật pháp không cho phép ly dị, vậy mà ông bà tổ tiên ta vẫn sống bên nhau cho đến bạc đầu long răng. Chẳng thế mà quan sát người ta thấy có những ông bà già ngồi ghế đá công viên, nhìn ngắm cảnh vật và người đi qua lại. Ông thì thẩy thức ăn cho chim câu, còn bà thì ngồi ngắm. Hai ông bà chỉ cần ngồi đó, có sự hiện diện của nhau là đủ, mà không cần nói nhiều. Vả lại sống với nhau lâu năm rồi, bây giờ lại lớn tuổi, nói nhiều làm chi cho mỏi miệng, mà cũng chẳng còn gì để nói.

(9) Tại đặt nhẹ việc phát triển tình bạn trong đời sống hôn nhân. Ở xã hội Việt Nam, vợ chồng được gọi là bạn trăm năm, nhưng nhiều vợ chồng lại không phải là bạn. Có lẽ người ta sẽ tìm thấy tình yêu bền vững trong hôn nhân nếu người ta tìm nó trong tình bạn hữu. Trong thời đại ta đang sống, người ta nói nhiều về tình yêu hôn nhân mà ít nói về tình bạn. Tình bạn trong đời sống hôn nhân rất là quan trọng trong việc phát triển tình yêu và đời sống hôn nhân. Nếu trước khi cưới, hai người chưa phải là bạn, họ cần tìm cách để trở thành bạn. Bạn hữu là những người có tính tình, tập quán và cách nhìn đời giống nhau, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau. Nếu trước khi cưới chưa phải là bạn, thì sau khi cưới việc quan tâm và đáp ứng nhu cầu người khác cũng có thể khiến họ trở thành bạn với mình. Nếu bạn hữu không muốn xa nhau thì tình bạn trong đời sống hôn nhân sẽ giúp người ta muốn sống bên nhau mãi mãi.

(10) Tại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Người ta có thể nhớ đem Chúa vào đời sống cá nhân, nhưng lại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân và đời sống gia đình. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân có nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành trong đời sống hôn nhân khi vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân còn có nghĩa là để Chúa làm chủ đời sống hôn nhân. Cũng nên biết khi vợ chồng cùng chung một niềm tin vào Chúa thì dễ thực hiện việc đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Theo thánh Gioan định nghĩa thì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:16). Và Thiên Chúa chia sẻ tình yêu cho loài người và cho vợ chồng nghĩa là Thiên Chúa có liên hệ mật thiết trong đời sống hôn nhân bằng cách kết hợp hai người nam nữ trong một tình yêu. Nói như vậy có nghĩa là khi chồng yêu vợ thì chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho vợ mình. Ngược lại khi vợ yêu chồng thì cũng chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho chồng mình. Thế nên ngay cả trong những tác động chăn gối, vợ chồng cũng cần đem Chúa vào để cho khỏi trở thành những tác động chỉ bao hàm nhục dục mà thiếu yếu tố yêu đương. Thống kê cho thấy những gia đình thường ăn chung và đọc kinh chung là những gia đình tránh cảnh đổ vỡ.

Sự trung thành giữa vợ chồng thường được Chúa dùng để so sánh với lòng trung thành của Thiên Chúa với loài người. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu ví Người như đức lang quân, còn Giáo hội được ví như là hiền thê. Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước với loài người và Chúa muốn loài người cũng trung thành với giao ước mà người ta đã làm với Chúa qua các bí tích họ lãnh nhận.

Lời cầu nguyện xin cho được trung thành trong đời sống hôn nhân:

Lạy Thiên Chúa hằng sống! Đấng luôn trung thành với lời giao ước, Chúa làm với loài người.

Xin dạy con cũng biết trung thành với lời giao ước mà con đã làm qua các bí tích mà con lãnh nhận: hôn nhân cũng như thánh chức.

Xin cho con được giữ trọn lời thề. Đừng để con nghe lời cám dỗ rỉ tai mà bất trung với nhau và bất trung với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

GIA ĐÌNH – HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Gia đình là phần tử nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Gia đình được xây dựng trên tình yêu: tình yêu của vợ chồng với nhau, tình yêu của cha mẹ đối với con cái, và tình yêu của con cái đối với cha mẹ. Tình yêu, tương quan giữa con người với nhau, cần được trân trọng và vun trồng, để đạt tới mức trọn hảo trong Thiên Chúa.

  1. Thật tuyệt vời tình yêu nam nữ

Sách Sáng Thế chương hai cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng con người, đặt con người trong vườn địa đàng, và cho con người được quyền đặt tên mọi sinh vật. Adam không tìm thấy cái gì thích hợp với mình cho tới khi Thiên Chúa tạo dựng Evà, và dẫn Evà tới gặp Adam. Adam tìm được niềm vui đặc biệt khi được Evà sống bên cạnh làm bạn đồng hành. Người nam và người nữ được tạo dựng, để sống bên nhau và nâng đỡ nhau, để cùng nhau tiến bước về với Thiên Chúa.

Thật đẹp tình yêu giữa người nam và người nữ. Hai người quyến luyến và cảm nghiệm hạnh phúc bên nhau. Họ sẵn sàng hy sinh cho nhau, hạnh phúc khi thấy người mình yêu hạnh phúc. Họ sống cho nhau và vì nhau. Con cái là tình yêu của hai người, là điểm nối kết hai người, giúp họ sống triển nở và hạnh phúc. Tình yêu và hạnh phúc giữa hai người nam nữ, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và chúc phúc cho con người, cụ thể là hai người đang yêu nhau này. Không ai phá hủy được tình yêu giữa hai người, nếu không phải là chính một trong hai người. Hành vi tội của một trong hai, có thể phá vỡ hạnh phúc của họ.

Sau khi Evà và Adam phạm tội, Adam đã nhìn Evà với một ánh mắt khác, như nguyên nhân làm cho mình trở nên tệ hơn và xa lìa Thiên Chúa: “chính người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã hái trái Ngài cấm đưa cho tôi nên tôi đã ăn”. Adam đã không dám nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho Evà. Đúng là Evà có cám dỗ Adam ăn trái cấm, nhưng Adam hoàn toàn tự do. Nếu Adam dứt khoát không ăn, thì Evà đâu có làm gì được ông. Adam ăn, là do chọn lựa của ông, vì Adam tự do!

2. Điều Thiên Chúa liên kết con người không được phân ly

Tình yêu không chỉ là cảm tính mà còn là hành vi nhân linh. Để thành vợ thành chồng, hai người nam nữ phải chọn nhau suốt đời. Họ muốn chọn nhau ngay cả lúc bệnh hoạn yếu đau, họ chọn nhau lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Tuy nhiên, con người là hữu thể tự do, một hữu thể có thể thay đổi chọn lựa của mình. Hôm nay một người chọn điều này, ngày mai có thể họ lại chọn điều khác. Hai người nam nữ muốn thành vợ thành chồng, họ cũng ý thức thân phận con người mong manh mỏng dòn đó, nhưng họ vẫn muốn tình yêu của họ thành vĩnh cửu, thế nên họ đã thề nguyền chọn nhau cả đời, thề nguyền trọn đời chung thủy với nhau.

Tội là cố tình làm điều xấu. Chính hành vi chọn điều xấu này đã làm biến dạng con người phạm tội, đã làm họ ra khác, trở nên “xấu như quỷ”. Quỷ chính là thiên thần đã muốn độc lập với Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, đã từ chối sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Evà đã muốn thành một thần linh không tùy thuộc Thiên Chúa; tuy nhiên không thể là một thần linh mà không tùy thuộc Thiên Chúa vì con người chỉ là tạo vật. Không chấp nhận thân phận thụ tạo, là không chấp nhận chính mình, là muốn phản kháng chống lại Thiên Chúa. Một hành vi như vậy không làm con người triển nở và hạnh phúc; Hành vi đó đã làm biến dạng con người, đã làm họ ra xấu, và làm họ không hạnh phúc; Họ không hạnh phúc với chính họ, và không hạnh phúc với người khác.

Không chung thủy, muốn chọn người khác, là một cám dỗ có thể xảy đến trong đầu của một người đã lập gia đình. Con người được mời gọi để thắng vượt cám dỗ, để là một người vợ người chồng chung thủy và tuyệt vời. Muốn những điều mới lạ, đó là khuynh hướng bình thường của con người; tuy nhiên, con người được mời gọi vươn lên thành người tuyệt vời qua việc thắng vượt chính mình, để người bạn đời là người chồng người vợ và con cái được hạnh phúc hơn. Chung thủy trong đời sống gia đình, là dấu chỉ của một người trưởng thành thật sự.

3. Tình yêu cần được vun tưới nuôi dưỡng

Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị. Làm sao để hai người mãi yêu nhau? Làm sao để hai vợ chồng tin nhau hơn, trân trọng nhau, quan tâm săn sóc nhau hơn? Có lẽ hai người cần biết rằng tình yêu có thể chết nếu không được vun tưới chăm bón. Nghĩa là, họ có thể mất nhau nếu họ không cố gắng để đẹp hơn mỗi ngày. Nét đẹp về thể lý có thể mai một nhưng nét đẹp về tinh thần có thể được tăng lên với thời gian. Để được vậy, người này phải để ý tới người kia, phải quan tâm đến người bạn mình khi họ vui khi họ buồn, nâng đỡ họ khi họ gặp khó khăn.

Con người, cần được yêu một cách thật cụ thể, chẳng hạn, cần được yêu qua lời nói, qua sự quan tâm săn sóc. Con người cần thấy mình được yêu mỗi ngày. Mỗi người cũng cần cho thấy mình đẹp, mình đáng yêu mỗi ngày. Để được vậy, mỗi người phải tập quên mình, phải tập sống cho người khác, phải tập quan tâm đến người khác, tập săn sóc và biểu lộ tình thương yêu đối với người khác, tập coi người khác là quan trọng và rất quý đối với mình. “Anh (em) cần em (anh) để hạnh phúc” là một câu mà người bạn đời của mình thích được nghe lại, vậy tại sao mình lại tiết kiệm lời này?

Thiên Chúa là tình yêu. Mọi tình yêu đều đến từ Thiên Chúa. Tình yêu nam nữ cũng có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nhau đến độ tất cả tùy thuộc lẫn nhau. Đức Yêsu luôn lấy Ý Cha làm lương thực và lẽ sống cho mình; Ngài luôn cố gắng lấy Ý Cha làm ý mình. Là một trong thân xác, chưa đủ để duy trì và phát triển tình yêu; con người cần là một trong tâm trí, trong phán đoán, trong chọn lựa giáo dục con cái, trong cách sống… Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguyên mẫu và phải là nguyên mẫu của tình yêu gia đình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Làm sao để chung thủy trong đời sống gia đình?
  2. Làm sao để tình yêu vợ chồng không bị mai một nhưng mỗi ngày một sâu đậm hơn?
  3. Theo bạn, có nên ly dị không? Tại sao?

Về mục lục

.

MORS SOLA – CHỈ CÓ SỰ CHẾT

Lm. GB. Trần Văn Hào

Đại hội quốc tế về gia đình năm nay được tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Một trong những vấn đề mà Giáo hội rất quan tâm hiện nay là tình trạng gia đình đổ vỡ và những hệ lụy của nó. Lập trường bất di bất dịch mà Giáo hội luôn khẳng định là tôn trọng giá trị gia đình với tính cách bất khả phân ly của Bí tích Hôn nhân mà chính Chúa Giêsu đã thiết định. Tính bền vững của định chế hôn nhân trong đời sống Kitô giáo được lặp lại trong giáo huấn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã tác hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).

Hôn nhân, Một bí tích Thánh thiêng

Hôn nhân Công giáo là một bí tích linh thánh chứ không phải đơn thuần chỉ là một khế ước mang tính xã hội. Xã hội ngày nay, người ta vẫn cho ly dị là hợp hiến. Giáo hội nói không. Giáo hội không bao giờ cho phép, và thực sự Giáo hội cũng không có quyền cho phép. Quyền đó dành cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Hiểu như vậy, ly dị trong Kitô giáo chính là tiếm quyền của Thiên Chúa, hay nói thẳng ra là ăn cắp độc quyền duy nhất dành choNgài. Cho dù Giáo hộikhông loại bỏ những nạn nhân của sự đổ vỡ trong đời sống gia đình và cố gắng đưa ra những giải pháp để chữa trị tận căn (sanatio), nhưng Giáo hội tuyệt đối không bao giờ cổ xúy việc ly dị. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn quan trọng này.

Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Sáng thế gợi lại định chế “một vợ một chồng” giữa người nam và người nữ do chính Đức Chúa Giavê thiết định ngay từ thuở ban đầu: “ Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24 ). Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cũng lặp lại xác quyết đó: “ Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt (Mc 10,7-9)”. Khi nhắc lại giáo huấn này, Đức Giêsu cũng gợi nhắc về tội ngoại tình mà chúng ta thường dễ mắc phải qua nhiều dạng thức khác nhau. Khi đọc diễn văn trước quốc hội Mỹ ngày 25 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã mạnh mẽ tái khẳng định học thuyết xã hội mà Giáo hội chủ xướng, là nói không với hôn nhân đồng tính. Ngồi ngay trước mặt vị chủ chăn đáng kính là ông chủ tịch Thượng viện, người đã ký vào văn bản cho phép hôn nhân đồng tính trở thành luật hợp pháp. Đức Thánh Cha không run sợ trước bất cứ một áp lực chính trị nào để công bố cho cả thế giới biết những gì thuộc quyền thánh thiêng của Thiên Chúa.

Chủ nghĩa thực dụng hiện nay

Ở bên Mỹ, lớp trẻ rất tâm đắc câu châm ngôn:‘Easy come, easy go’. Thích thì đến với nhau, ở với nhau, không thích nữa thì đường ai nấy đi, đơn giản thế thôi. Đây là một não trạng thực dụng mang tínhvô thần, đang dần dần loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Ở Hoa kỳ, người ta ước tính khoảng 50% các cặp vợ chồng sau khi đã thành hôn, sẽ bỏ nhau. Nhanh hay chậm còn tùy mỗi hoàn cảnh. Cũng may mắn, con số các vợ chồng công giáo ly dị ít hơn. Ở Việt Nam, theo khảo cứu của tiến sỹ Nguyễn minh Hòa thuộc Đại học Khoa học xã hội nhân văn, tỷ lệ ly hôn từ 31 đến 40%, và hơn một nửa thuộc các gia đình trẻ ở độ tuổi từ 23 đến 30. Sự chia tay có muôn vàn lý do, nhưng tựu trung cũng do lối sống ích kỷ và thích hưởng thụ (consumerism), là lối sống mà trước đây Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã mạnh mẽ cảnh báo.

Sống trung thành

Người ta vẫn thường nói: “Một người vợ trung thành là một cô gái suốt đời chỉ đay nghiến duy nhất một ông chồng mà thôi”. Đời sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên và phẳng lặng. Có những lúc cơm không lành canh chẳng ngọt, và điều đó rất thường xảy ra. Nhưng làm cách nào để chúng ta có thể vượt qua những sóng gió và sống chung thủy. Hơn 10 năm về trước, khi quốc hội Hoa Kỳ cho công bố công khai những cuộn băng tự thú của ông Bill Clinton về những lăng nhăng tai tiếng của ông với cô đào Monica Lewinski, gia đình ông cựu tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu dậy sóng. Một con người tài ba đã thành công trong việc điều hành một cường quốc đứng đầu thế giới lại thất bại trong việc điều khiển chính bản thân và gia đình mình. Nạn nhân đầu tiên của sự phản bội này chính là bà Hilary, phu nhân của ông. Cho dù bà ta có bản lĩnh ngoan cường, rất bình tĩnh chống đỡ, nhưng bà đã tỏ lộ sự cay đắng phũ phàng khi phải hứng chịu những búa rìu của công luận. Người ta thường nói khôn ba năm nhưng lại dại một giờ, và sự dại dột đó có khi phải trả giá khá đắt.

Nhìn lại một cách thoáng chung nơi các gia đình Công giáo ở Việt Nam chúng ta, tình trạng ly dị tương đối không nhiều, nhưng không phải là hiếm. Có lẽ, do truyền thống văn hóa, hoặc do lối sống tình làng nghĩa xóm khá chặt chẽ, nên các vợ chồng khó bỏ nhau. Sống giữa một giáo xứ đa phần toàn tòng, nếu một cô gái nào lăng nhăng bỏ chồng đi sống với người khác, chỉ còn cách độn thổ hoặc đi biệt xứ, còn nếu trở về làng, chắc chắc sẽ bị thiên hạ ném đá khủng khiếp. Nhưng điều quan trọng nhất trong đời sống gia đình, là vợ chồng luôn luôn phải canh tân sự trung thành của mình mỗi ngày với cảm thức đức tin và tín thác vào ơn thánh. Người ta vẫn ví von khi so sánh nụ hôn đầu tiên của hai vợ chồng lúc mới cưới nhau, giống hệt cái bắt tay rất lịch lãm và thân thiện của hai võ sĩ trước khi thượng đài. Một nhà xã hội học nọ cũng đã diễn tả: Sự ngọt ngào của hai vợ chồng trong những ngày tháng trăng mật đầu tiên được sánh như những cơn gió hiu hiu giữa bầu trời vần vũ mây đen. Sau làn gió thoảng và những giọt mưa dịu mát, là chớp lòe và sét nổ. Tình trạng này không phải là hiếm, khi chúng ta nhìn vào thực trạng các gia đình của chính chúng ta. Có rất nhiều nguyên do gây nên đổ vỡ. Những lý do ban đầu xem ra chẳng đâu vào đâu, nhưng nếu vết thương không được cứu chữa kịp thời, nó sẽ dần khoét sâu vào cơ thể và biến dạng thành một khối u ác tính vô phương chữa trị.

Để có thể khắc phục, phương thuốc quan trọng nhất chính là sự khiêm tốn và hiền dịu đi đôi với lòng quảng đại biết tha thứ. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy học với tôi vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đây là quy chuẩn căn bản để bảo toàn hạnh phúc trong các gia đình. Nếu không biết ứng xử trong sự hiền lành và nhẫn nhục, chúng ta sẽ dần biến gia đình thành một bầu khí hỏa ngục đáng sợ. Khi mới cưới nhau, anh nói em nghe và ngược lại em nói anh nghe. Cưới nhau về một thời gian, nhiều xung khắc xảy ra dẫn đến tình trạng anh nói anh nghe, và em nói chỉ mình em nghe. Cao điểm cuối cùng là chiến tranh bùng nổ: Anh và em chúng ta cùng nói, cả làng cả xóm đều nghe. Có bao giờ trong gia đình của chúng ta, vợ chồng cùng ngồi lại bên nhau để giải gỡ những khó khăn hay không? Đối thoại là điều rất cần thiết để hóa giải những nghi kỵ và hiểu lầm, nhưng đừng bao giờ biến cuộc đối thoại thành một cuộc họp ‘chi bộ đảng’ chỉ để đay nghiến hay kết án lẫn nhau.

Mors Sola

Có một giai thoại thuật lại. Cô Catherine kết hôn với anh Jean Wasa, một sĩ quan Phần Lan. Người chồng bị kết án tù vì bị gán vào tội phản loạn. Nhà vua khuyên cô Catherine đi lấy chồng khác, vì số phận tù nhân hầu như không có ngày được ra. Catherine đã từ chối và còn xin nhà vua một đặc ân, là cho được vào tù ở chung với chồng mình. 17 năm sau, vua Eric băng hà, cả 2 vợ chồng được tha bổng. Người ta hỏi cô động cơ nào cô xin vào tù cùng sống với chồng, cô chỉ chiếc nhẫn cưới đeo trên tay, trên đó có khắc hàng chữ ‘Mors Sola’, nghĩa là, chỉ có sự chết mới có thể phân lìa chúng tôi. Chúng ta đều quá biết điều đó, đặc biệt được nghe nhắc đi nhắc lại trong các thánh lễ hôn phối, nhưng nhiều người vẫn lạnh lùng xé rào và gián tiếp tiếm quyền của Thiên Chúa.

Kết luận

Trên đời này không có gì ghê tởm và đáng khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Ông Ford, Tổng giám đốc một công ty lớn chuyên sản xuất xe hơi tại Mỹ đã rất thành công trong sự nghiệp xã hội cũng như nơi chính bản thân và gia đình ông. Trong ngày kỷ niệm 50 năm thành hôn, người ta hỏi ông đâu là bí quyết khiến ông thành công và hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Ông dí dỏm trả lời: “Trong cuộc sống gia đình, tôi vẫn tôn trọng nguyên tắc giống như nguyên tắc sản xuất xe hơi, đó là “luôn trung thành với mẫu mã ban đầu”.

Trong đời sống vợ chồng, mẫu mã ban đầu của chúng ta có thể đã dúm dó và cũ kỹ theo thời gian, nhưng chỉ sống trung thành, chúng ta mới có thể thành công và hạnh phúc.

Về mục lục

.

VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH

Trầm Thiên Thu

Ai cũng có một gia đình, thế nên chẳng ai lạ gì về gia đình, nhưng để cho “vuông tròn” một gia đình đúng nghĩa thì chắc chắn không là chuyện đơn giản. Vả lại, ngày nay người ta không còn đề cao vai trò gia đình, vì thế mà tỷ lệ ly thân và ly hôn đang ở mức báo động đỏ!

Trong Mười Điều Răn được Thiên Chúa truyền qua ông Mô-sê, có một điều răn nói về gia đình: Điều răn thứ tư. Gia đình như chiếc kiềng ba chân: Cha – Mẹ – Con. Ba “chân” này giúp giữ vững “chiếc kiềng” gia đình, trong đó có hai mối quan hệ chính: Phu thê, Mẫu tử hoặc Phụ tử. Đó là gia đình thuộc dạng “tế bào gốc”, và gia đình còn được hiểu theo dạng “đại gia đình”.

Điều răn này được truyền cho con cái trong mối quan hệ với cha mẹ, vì mối quan hệ này phổ biến nhất. Điều răn này quan tâm hệ lụy thân thuộc giữa các thành viên trong gia đình và dòng tộc. Điều răn này đòi hỏi lòng kính trọng, yêu thương, biết ơn tổ tiên và những người lớn tuổi. Tuy nhiên, điều răn này còn ở mức rộng hơn, đó là đề cập trách nhiệm của học sinh đối với thầy cô giáo, nhân viên đối với chủ nhân, người dưới đối với người trên, công dân đối với tổ quốc và những người lãnh đạo đất nước. Thật đa dạng chứ không như chúng ta tưởng.

Giáo lý Công giáo (số 2199) cho biết: “Điều răn này bao gồm nhiệm vụ của cha mẹ, người hướng dẫn, người dạy dỗ, người lãnh đạo, quan tòa, người lãnh đạo, người có quyền trên người khác hoặc cộng đồng”. Từ hệ lụy gia đình dẫn tới các hệ lụy khác. Gia đình thực sự quan trọng vì mọi sự bắt đầu từ gia đình – đặc biệt là các nhân đức, nhưng sử gia Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) nói: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc luôn ở đó”.

Trong chuyến Tông du Cuba, ĐGH Phanxicô đã gặp gỡ với các gia đình tại nhà thờ chính tòa Santiago ngày 22-9-2015. Sau khi nghe một bà mẹ trẻ và một người cha của 3 đứa con nói về hy vọng của mình, ngài đã mô tả gia đình là các trung tâm nhân văn và hơi ấm.

ĐGH Phanxicô chia sẻ: “Chúng ta ở đây như một gia đình! Và bất kỳ lúc nào chúng ta đến với nhau như một gia đình, chúng cảm thấy mái ấm. Cảm ơn các gia đình Cuba. Cảm ơn người dân Cuba vì, trong những ngày này, đã cho tôi được cảm nhận là một phần của gia đình, vì cho tôi được cảm nhận mình trong mái ấm. Buổi gặp này như ‘trái cherry trên cái bánh’ vậy. Kết chuyến viếng thăm Cuba của tôi bằng cuộc gặp quy tụ các gia đình là một lý do để tạ ơn Chúa vì ‘hơi ấm’ lan tỏa từ những con người biết chào đón và chấp nhận người khác, cho người đó được thấy mình trong mái ấm”. Thực sự gia đình rất quan trọng, dù nhỏ hay to, dù giàu hay nghèo, thế nên người ta gọi gia đình là “Tổ Ấm”, và gia đình là “tế bào gốc” của xã hội và Giáo hội. Khi mặc xác phàm, chính Chúa Giêsu cũng có một gia đình, và Ngài rất yêu quý gia đình.

Gia đình liên quan hôn nhân. Bắt đầu một gia đình là bắt đầu đời sống hôn nhân chân chính. Sau khi tạo dựng con người đầu tiên trên thế gian là Adam, Thiên Chúa xác nhận: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2:18a). Vì thế, Ngài quyết định: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18b).

St 2:19-22 cho biết rằng Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, tên nó sẽ là thế. Con người được Thiên Chúa trao quyền đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa đã biết trước “nỗi niềm” của con người như vậy, Ngài biết con người sẽ “khắc khoải” vì cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tình cảm. Và rồi Ngài cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Lúc đó, Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

Nhìn thấy “sinh vật lạ”, vừa giống mình mà lại vừa khác mình, chắc là lúc đó con người bối rối lắm. Chuyện đời là thế mà. Nam châm khác dấu thì hút nhau dữ lắm nghen! Con người khoái chí nên nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Việt ngữ gọi “” đó là em, là phụ nữ, là nội tướng. Và Kinh Thánh đã nói rõ: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Hay quá sức! Vì là xương thịt của nhau nên vợ chồng vẫn gọi nhau là “mình ơi!”. Độc đáo quá chừng!

Đó mới chỉ là bước khởi đầu tạo lập một gia đình. Ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất, nụ cười tươi nhất, y phục đẹp nhất, thế nhưng vấn đề quan trọng là những ngày tháng tiếp theo, không chỉ vài tháng hoặc vài năm, mà kéo dài cả phần đời còn lại, trong khi vốn dĩ “đời là bể khổ”. Vợ chồng còn có thể cười với nhau và cười với người khác hay không thì mới là vấn đề!

Giữa năm 2015, có một phiên tòa ly hôn kỳ lạ và hy hữu tại Đăk Mil, Đăk Nông. Phiên tòa này phân xử chuyện ly hôn của hai vợ chồng Đặng Văn Đó (sn 1985) và Phạm Thị Lụa (sn 1987), người dân ở Đăk Rla (Đăk Mil, Đăk Nông) qá đỗi bất ngờ. Tại sao? Đôi uyên ương ấy đã từng yêu nhau tới gần 5 năm, cố gắng vượt qua sự ngăn cấm của hai bên gia đình để có thể được ở bên nhau. Thế nhưng, ở với nhau chưa có “ấm hơi” mà đã vội dẫn nhau ra tòa ly dị. Nguyên nhân của sự việc đáng buồn này là việc tranh giành giữ của hồi môn và thùng tiền cưới, mâu thuẫn xảy ra ngay trong đêm tân hôn chỉ vì… tiền. Thật tồi tệ!

Nam nữ đến với nhau vì hạnh phúc của nhau – vừa vị kỷ vừa vị tha, vì hạnh phúc của chính mình và của người bạn đời. Tuy nhiên, hạnh phúc không thể tự dưng mà có hoặc “ngẫu nhiên” như trái sung rụng, mà nó phải được vun xới bằng hy sinh, mồ hôi và nước mắt. Cây cảnh chỉ có thể tươi đẹp nếu nó được chăm sóc, vun tưới. Hạnh phúc thật kỳ diệu, hạnh phúc ở ngay bên chúng ta chứ không cần tìm kiếm ở nơi nào xa lắc xa lơ: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may!” (Tv 128:2). Hạnh phúc vô hình mà thực tế, đừng ảo tưởng mà đứng núi này trông núi kia!

Sự thật rất minh nhiên, không hề mơ hồ chút nào: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Ước mơ đó là của bất kỳ ai, nhưng khó là mỗi thành viên trong gia đình đều phải cố gắng để có thể biến ước mơ đó thành sự thật ngay tại trần gian này. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc cho mọi người: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6).

Quả thật, có được hạnh phúc gia đình không phải dễ, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò trống gì nếu thiếu ơn Chúa. Có ơn Chúa, chúng ta có biết đón nhận hay không lại là chuyện khác. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện cho chúng ta: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga 17:17). Sự thật sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).

Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô được mời phát biểu tại phiên họp Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong diễn văn này, ngài đã gọi Hoa Kỳ là “vùng đất của tự do và ngôi nhà của người can đảm”. Ngài đề cập vấn đề duy trì phẩm giá con người, bảo vệ môi trường, và kêu gọi chú ý đến các thành viên gia đình – đặc biệt là những người trẻ. Con người và môi trường có liên quan với nhau – môi trường thiên nhiên, môi trường gia đình và môi trường tâm linh.

Trong gia đình, vai trò cha mẹ rất quan trọng. Ước gì mỗi cha mẹ đều biết tâm nguyện sâu sắc điều này: “Chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo – Parare Domino plebem perfectam”. Đó là một cách truyền giáo tích cực, là tân Phúc Âm hóa thực tế, là làm cho “Danh Cha cả sáng và Nước Cha trị đến” – không cần phải làm gì to lớn.

Làm cho gia đình hạnh phúc bằng những tiếng cười thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành và hứa ban Nước Trời mai sau. Cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cũng là cách “tử đạo liên lỉ”. Coi vậy chứ không dễ đâu đấy! Thánh Phaolô cho biết: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9).

Gia đình nhỏ có hạnh phúc thì gia đình lớn mới có hạnh phúc. Tất cả chúng ta, không phân biệt bất cứ điều gì, đều là thành viên của Đại Gia Đình của Thiên Chúa. Gia đình nhỏ cần có hạnh phúc để vui sống và phát triển, gia đình lớn cũng vậy. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em“” (Dt 2:10-11). Chúng ta chỉ là tội nhân mà được Thiên Chúa nhận là huynh đệ thì quả là trên cả tuyệt vời rồi!

Nói đến gia đình là nói đến hạnh phúc, gọi là tổ ấm, nhưng gia đình không có hạnh phúc thì hóa thành tổ lạnh, là bất hạnh. Hạnh phúc gia đình thiếu vắng sẽ dẫn đến cảnh vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Dạng “ly” nào cũng là “chia ly”, dạng nào cũng tệ hại vì gây bất hạnh cho con cái – và chính cả hai vợ chồng!

Theo trình thuật Mc 10:2-12, một hôm có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi người chồng có được phép rẫy vợ hay không. Họ hỏi thế là để thử Ngài thôi, tâm địa của họ thế nào thì còn ai lạ gì nữa! Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên Ngài trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”. Họ nói rằng ông Môsê đã cho phép chồng viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Ngài nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹgắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.

Ca dao Việt Nam rất chí lý khi đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu thê: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.

Cách “kê” rất quan trọng. Vợ chồng là hai con người hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, cái mà người ta gọi là “giống nhau” hoặc “hợp nhau” cũng chỉ mang tính tương đối. Không bao giờ có hai chiếc lá giống nhau, chắc chắn cũng chẳng bao giờ có hai con người giống nhau. Dù chỉ là giống về bề ngoài, hai người sinh đôi cũng vẫn có điểm khác để có thể nhận biết ai là anh (chị) và ai là em. Với người Công giáo, cách “kê” tuyệt vời nhất là tha thứ.

Hôn nhân là một ơn gọi. Vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu phối ngẫu qua 3 chữ T: Thân mật, Thủy chung và Thanh tịnh (khiết tịnh). Với 3 chữ T đó, cả vợ và chồng đều phải tự nhủ: “Tôi Trung Thành”. Đó không chỉ là lời hứa với nhau mà chính là hứa với Thiên Chúa.

Những người đã lập gia đình, hãy cố gắng sống “tương kính như tân”, và đừng quên rằng chính mình đã long trọng thề hứa với nhau trước mặt vị đại diện Giáo hội và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa: “Anh/em nhận em/anh làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian lao, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em”.

Lời hứa đó không là hứa cho vui, hứa cho xong lần, hứa cho đủ nghi thức, nhưng là lời hứa có tính chất “thề” (thề “độc” chứ không thề thường đâu). Mà lời thề thì không ai “giải” được, vì đó là lời thề với Thiên Chúa!

Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Hệ lụy tội lỗi thật đáng sợ! Tất cả các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân. Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên lụy các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Đó là sự liên lụy tội lỗi.

Trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô đã khuấy động khán giả bằng các lời phát biểu chân thành và sâu sắc về ý nghĩa của gia đình, hoàn toàn ứng khẩu chứ không theo nội dung bài soạn sẵn. Và dù đã hơn 9 giờ tối sau một ngày bận rộn với nhiều hoạt động, vị giáo hoàng 78 tuổi vẫn diễn thuyết một cách đầy hứng khởi tại Đại hội Quốc tế về Gia đình ở TP Philadelphia, đôi lúc lại chen vào những câu nói đùa khiến khán giả cười ồ thích thú.

Lạy Thiên Chúa, Nguồn Mạch Yêu Thương, xin giúp chúng con biết nhận thức đúng đán về giá trị gia đình, nhờ đó mà chúng con có thể tuân giữ Thánh Luật của Ngài, đó là biết tích cực bảo vệ gia đình, bảo vệ nhân phẩm con người và duy trì luân lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HÔN NHÂN TRONG TIN MỪNG NHÂN ÁI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Hôn nhân, với các khía cạnh liên quan của nó, vẫn luôn là một vấn đề lớn của xã hội loài qua các thời đại. Trước đây tôi vẫn thường coi nó là một vấn đề thuần luân lý. Chính vì suy nghĩ như thế cho nên trong công tác mục vụ, tôi thường xuyên phải đối mặt với, một bên là những đòi hỏi bền vững của các ràng buộc luân lý, bên kia là sự yếu đuối mỏng dòn của thực tế con người. Không ít lần trong thâm tâm tôi cảm thấy bị xâu xé khủng khiếp; không biết cách nào trung hòa giữa hai trạng thái đối nghịch nhau như thế.

Xét về khía cạnh con người vốn mãi mãi là ‘lòng chai dạ đá’, thì luân lý hôn nhân, ngay cả trong các nền luân thường đạo lý chặt chẽ nhất, chẳng hạn như Luật Mô-sê của Cựu Ước, cũng vẫn phải mở ra lối thoát; “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đối với một xã hội thượng tôn luật pháp như Do Thái Giáo thời Đức Giêsu, thì ly dị trong một số trường hợp được pháp luật qui định, đúng là một lối thoát cần thiết. Xã hội nào cũng vậy, thời xưa cũng như ngày nay, mọi người đều nhận thức, cách này hay cách khác, giá trị của hôn nhân, và đều mong muốn duy trì nó cho thật bền vững. Thế nhưng thực tế phũ phàng không ngừng yêu cầu phải chấp nhận, trong một số trường hợp bất khả kháng, một sự phân ly dưới hình thức này hay hình thức khác, ly dị hay ly thân… hay gọi là gì cũng được. Mấy ông Pha-ri-sêu quen đề cao luật pháp, khi đặt câu hỏi trước Thầy Giêsu, họ cũng thừa biết rằng học thuyết mà Người đang giảng dạy, cho dầu có cao đẹp tới mấy, cũng khó có thể đi ra ngoài cái lẽ thường tình này. Hiểu như thế, ta sẽ thấy câu Đức Giêsu trả lời họ thực không đơn giản chút nào. Rõ ràng ở đây Thầy không giới thiệu một nền luân lý mới, chắt chẽ hơn, khắt khe hơn những gì họ từng giảng dạy. Vì là một người phàm ‘giống chúng ta mọi đàng’ (Dt 4:15), Người chắc chắn không thể nhắm mắt làm ngơ trước một nhân loại mỏng dòn yếu đuối, nhất là trong lãnh vực tình dục nhạy cảm của hôn nhân. Và vì là người đang rao giảng về một Thiên Chúa nhân ái và thứ tha, Đức Kitô chắc chỉ muốn cống hiến một giải pháp cho vấn đề hóc búa này hoàn toàn dưới nhãn quan Tin Mừng. Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh thì, trong nền văn hóa cổ đại, ‘lúc khởi đầu công trình tạo dựng’ không chỉ mang ý nghĩa thời gian hoài cổ, mà còn để chỉ thời vàng son của mạc khải Thiên Chúa (xem chú thích trong Christian Community Bible). Vậy thì rõ ràng Đức Giêsu đang muốn đặt hôn nhân trong bối cảnh của Tin Mừng cứu độ.

Phải rồi, chỉ trong tình yêu bao dung và tha thứ của Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương con người tội lỗi tới độ chết trên thập giá, thì ‘lòng chai dạ đá’ của con người đầy dục vọng mới tìm được thuốc chữa. Chữa đây không phải là tiêu diệt hoàn toàn bất trung – lăng loàn – ‘fornicatio’ (xem Mt 19,9), để có thể sống trọn đời trung thủy. Nếu có phương pháp cụ thể nào giúp cho các cặp vợ chồng đạt được điều này, thì thật đáng mừng cho hôn nhân biết mấy… Mong rằng, luật pháp cũng như các tổ chức xã hội loài người sẽ ngày càng tiến bộ hầu có thể tiến dần tới mục tiêu hoàn hảo đó. Hãy cứ để các xã hội dân sự, với nền văn hóa và truyền thống của riêng mình, giúp cho hôn nhân ngày càng được thêm củng cố bền vững, dựa trên các qui định của luật pháp con người! Kitô hữu chúng ta chân thành cầu mong cho nền dân luật ngày càng tiến bộ và sáng suốt hơn. Thế nhưng tham lam và yếu đuối vẫn luôn mãi là thực tế phũ phàng mà chỉ lòng nhân ái bao dung của Tin Mừng Đức Kitô mới cống hiến được liều thuốc chữa lành hữu hiệu nhất. Phaolô đã từng so sánh hôn nhân với tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh; một tình yêu bền vững, không phải là vì Hội Thánh tự mình đã ‘xinh đẹp lông lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào’, nhưng vì nhờ ‘Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống’ mà Hội Thánh mới được nên ‘thánh thiện và tinh tuyền’ như thế (Ep 5,25-27).

Hôn nhân Tin Mừng là như thế đó! Ta không thể hiểu đây là một nền luân lý đối kháng với các nền luân lý khác, cũng chẳng phải là một lề luật cạnh tranh với các luật lệ dân sự hay tôn giáo khác, nhưng là niềm tin thâm sâu vào tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Thế nhưng, như Đức Giêsu chứ không như các Pha-ri-sêu, mỗi khi đề cập tới hôn nhân gia đình, chúng ta sẽ luôn đề cao giá trị nhân ái – bao dung của Tin Mừng làm nền tảng cho lòng trung tín. Hôn nhân, nếu muốn thực sự là Tin Mừng, phải lấy giới luật yêu thương mới làm nền tảng duy nhất cho mình; “anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Phải chăng đó mới đích thực là mong muốn của Đức Giêsu khi Người lên đưa ra một khẳng định xem ra mang nặng tính luật pháp: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”?

Lạy Chúa là Đấng thủy trung, Chúa đã đến trần gian không phải để dạy cho con người biết cách cử xử với nhau dựa trên một luân lý hay luật pháp cao đẹp. Tin Mừng nhân ái của Chúa phải trổi vượt trên tất cả, vượt thắng mọi bế tắc của con người yếu đuối! Xin Chúa giúp con, trong khi thi hành mục vụ hôn nhân, luôn biết xa tránh nhãn quan luân lý – luật lệ hạn hẹp, để biết hướng các anh chị em Kitô hữu tới diện mạo Thiên Chúa nhân ái, thứ tha và cứu độ, như cột trụ chống đỡ cho đời sống hôn nhân của họ. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Giáo hội dành Tháng Mười để kêu gọi mọi người Công giáo siêng năng lần hạt Mân côi kính Đức Mẹ, đặc biệt là thực hành 3 mệnh lệnh của Đức Maria cho nhân loại, trong những lần hiện ra với 3 trẻ Lucia, Phanxicô, và Jacinta ở Fatima “Ăn năn đền tội, lần chuỗi Mân côi, và tôn sùng Mẫu Tâm.” Là những Kitô hữu Công giáo Việt Nam, chúng ta có lòng yêu mến và tôn kính Mẹ Maria cách đặc biệt, vì Mẹ đã nhiều lần cứu giúp và che chở con dân Việt Nam qua khỏi những cơn nguy biến, khó khăn. Chính chúng ta cũng đã cảm nghiệm được bao nhiêu lần Mẹ đã cầu bầu và ban ơn cho chúng ta khi chúng ta chạy đến kêu xin Mẹ. Do đó, chúng ta hãy cố gắng và hy sinh vâng theo và sống những lời Mẹ dạy bảo, để chúng ta luôn sống trong bình an và ân sủng của Chúa Giê-su. Chúng ta lần hạt Mân côi kính Đức Maria, suy niệm những mầu nhiệm của Chúa Giê-su, và cầu nguyện cho các gia, đình đặc biệt là các gia đình trong giáo xứ, luôn trung thành, yêu thương, có sự hòa thuận, cũng như biết chu toàn bổn phận giáo dục dạy dỗ và làm những gương sáng cho con cái, để con cái lớn lên trong đức tin, có đời sống tốt lành và hữu ích cho xã hội cũng như Giáo hội.

Ông bà anh chị em thân mến. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa bao giờ đời sống hôn nhân vợ chồng phải đối diện với nhiều khó khăn và thách thức như ngày nay. Chúng ta nhận thấy nhiều những vấn đề đang xảy ra ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân gia đình, như luật hôn nhân đồng tính, tỉ lệ ly dị cao, nhất là ngay tại tiểu bang Oklahoma này, đời sống chung chạ ngoài hôn nhân, ly dị và tái hôn, sự lôi cuốn của tiền bạc vật chất, đời sống ích kỷ và tư tưởng con cái là trở ngại, đưa đến tình trạng phá thai và hạn chế sinh sản. Chúng ta nhận thấy nhiều gia đình chỉ có một cha hay một mẹ, đưa đến vấn đề trở ngại khó giáo dục và dạy dỗ, ảnh hưởng đến tương lai của con cái. Đây chỉ là một số vấn đề đang đe dọa hôn nhân gia đình hiện tại.

Chúng ta thấy trong quá khứ, hôn nhân được xã hội và tôn giáo bảo vệ và được gia đình giúp đỡ một cách tối đa.  Đối với người Việt Nam chúng ta, hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Ðời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện khó khăn hay buồn giận lẫn nhau. Trái lại sống trong quốc gia Hoa kỳ và trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân vợ chồng gia đình bị tấn công bởi nhiều phương diện như phim ảnh, truyền hình, mạng tin internet, và sự tự do cá nhân. Luật pháp xã hội hiện đại cho phép ly dị không còn bảo vệ hôn nhân, cho nên khi kết hôn, người ta nghĩ đến những giá trị tầm thường, vật chất và khoái cảm hiện tại nhất thời.

Chúng ta nhận biết liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và hạnh phúc. Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân. Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, cho nên các giáo phận tại Hoa kỳ, kể cả giáo phận Tulsa của chúng ta có những điều luật đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi, và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân gia đình Công giáo, hiểu biết những giá trị tinh thần, cao quí, nhận ra những vấn đề sẽ phải đối diện, và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không? Giáo hội Công giáo đòi hỏi những điều kiện chuẩn bị, không phải muốn làm khó dễ những người muốn kết hôn, nhưng muốn giúp cho họ biết duy trì, bảo vệ và nuôi dưỡng đời sống gia đình trong yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc hôm nay và suốt đời.

Chúng ta nhận thấy, Đại hội Gia đình Thế giới vừa qua tại thành phố Philadelphia, có sự hiện diện của Đức thánh cha Phan-xi-cô, đã nói lên sự quan tâm của Giáo hội về đời sống gia đình và những vấn đề mà hôn nhân phải đối diện ngày nay trong trong xã hội hiện đại. Và trong những ngày tháng tới đây sẽ có một Thượng hội đồng về gia đình để khẳng định lại giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân gia đình. Trước bối cảnh của xã hội và trước ngày khai mạc Thượng hội đồng về gia đình của Giáo hội, các bài Kinh Thánh lời Chúa hôm nay mời gọi mọi mỗi người chúng ta ý thức và trung thành với ý định và giá trị hôn nhân trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa, để chúng ta cố gắng xây dựng và bảo vệ mối liên hệ hôn nhân vợ chồng một cách trong sáng, lành mạnh và thánh thiện trong thánh ý Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa từ lúc tạo thiên lập địa, đã dựng nên người nữ để kết hợp với người nam, trở thành vợ chồng. Cả hai nên một xương một thịt, không thể tách lìa nhau. Trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su xác định lại ý định của Thiên Chúa về nền tảng giá trị hôn nhân, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong giao ước bất khả phân ly. Những người Pharisêu và biệt phái đến hỏi Chúa “Người ta có được phép ly dị vợ mình không?” Chúa Giêsu xác định tính chất bất khả phân ly và trả lời “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ.”  

Ông bà anh chị em thân mến. Trong ngày tân hôn, ngày cử hành Bí tích Hôn phối, đôi nam nữ nắm tay nhau nói lời cam kết chung thủy, yêu thương và tôn trọng nhau trong mọi hoàn cảnh suốt cuộc đời. Đây là một giao ước, một lời thề nguyền thánh thiêng, nối kết hai người lại với nhau trở thành vợ chồng. Chính vì sự thánh thiêng, ràng buộc, và tuyệt đối, cho nên Giáo hội khuyên, trước khi kết hôn, hai người nam nữ phải tìm hiểu thật kỹ lưỡng, và một khi đã quyết định tự do kết hôn, họ càng phải cố gắng và hy sinh để duy trì và bảo vệ tình yêu và xây dựng hạnh phúc gia đình. Bởi vì như chúng ta đều biết ngày nay và trong xã hội này yêu nhau thì dễ, nhưng yêu nhau mãi mãi suốt đời thì khó. Cũng vậy, lấy nhau, kết hôn thì dễ, nhưng sống với nhau trong hạnh phúc và hoà thuận thì khó. Cuộc sống này đòi hỏi sự cố gắng và hy sinh hàng ngày của cả hai vợ chồng, trong việc lớn cũng như những việc nhỏ. Cho nên phải có Chúa và Mẹ Maria ngự trị trong gia đình, bằng sự thờ phượng, cầu nguyện và đời sống đạo đức, và tốt lành. Xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Maria, ban nhiều ơn lành, che chở và gìn giữ các gia đình, nhất là tất cả gia đình trong cộng đoàn giáo xứ, trong Tháng Mân côi này, biết Cải thiện đời sống, Năng lần hạt Mân côi, Tôn sùng Mẫu tâm, để luôn được Mẹ che chở và gìn giữ, sống yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc.

Về mục lục

 

CHUNG THỦY

Lm. Jos. DĐH

Chung thủy là dấu hiệu hiệu của người tình chân chính, là không bội phản, không bắt cá hai tay, dù đối tượng yêu thương của chúng ta có khác nhau. Hai từ chung thủy không hề xa lạ đối với con người, dù đặt để trong phạm vị xã hội hay tôn giáo, chung thủy làm phong phú tình yêu và hạnh phúc. Tâm lý tự nhiên, khi nói đến chung thủy, người ta hay lưu ý tới gia đình, đã vậy trong gia đình người ta lại quy về người phụ nữ nhiều hơn : trai trăm hướng, gái một phương. Và cũng từ tình yêu gia đình, người ta cũng thao thức tới sự bình đẳng trong hôn nhân.

Chung thủy, một vấn đề “nhạy cảm” đối với các tầng lớp xã hội, mọi công dân phải trung thành với tổ quốc; đã là vợ chồng họ phải ý thức về đặc tính thủy chung; là con cháu phải có bổn phận với gia đình dòng tộc. Đức Giêsu nâng hôn nhân tự nhiên lên hàng bí tích, nhằm gia tăng sự hiệp nhất nên một giữa mầu nhiệm Hội thánh, Chúa còn cho thấy rõ ý nghĩa “tự ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người, có nam có nữ”. Nhờ ý chí, tự do, cùng với ân sủng của bí tích, tình yêu nơi gia đình của con người bền chặt, tình yêu của họ thể hiện được đặc tính hôn nhân Kitô giáo : “sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly”.

Như một thỏa ước ngầm, trong tình yêu luôn đòi hỏi chung thủy, và chung thủy làm nên tính bền chắc cho tình yêu. Sự thủy chung trong Kitô giáo không chỉ áp đặt cho đời sống đôi bạn, mà tất cả những ai thuộc về Đức Kitô đều phải ý thức bổn phận, trách nhiệm đối với Đại gia đình hội thánh. Chung thủy không những là sáng kiến của Đấng sáng tạo đất trời, mà còn nói lên niềm hạnh phúc được ban cho con người, khi sống thủy chung, yêu thương nhau. Một gia đình, một tâm hồn hạnh phúc, không hẳn là họ no đầy vật chất và tình thần, mà thực ra họ đang chia sẻ sứ mạng yêu thương đến từ Thiên Chúa.

Bầu khí gia đình ấm cúng, yêu thương, sẽ minh chứng kết quả Đức Kitô ở giữa Hội thánh, giao ước tình yêu không ngừng triển nở. Ở đâu con người sống bình đẳng, chân thật và đầy lòng tự tin thì ở đó tình yêu càng thanh sạch, hoàn thiện và rộng lớn. Căn cứ vào tình thương mến Chúa dành cho các trẻ thơ : “Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”, càng rõ hơn về tính bình đẳng, đơn sơ, trung thành của Tin mừng, khi sống ơn gọi làm con Chúa và Hội thánh.

Khi đã yêu, ai cũng mong muốn chiếm được trọn vẹn trái tim người mình yêu, muốn có sự thủy chung trong cuộc tình, nhằm đạt tới đích điểm hạnh phúc. Khi đã sống trong giao ước hôn nhân, điều đáng sợ không phải là đau khổ, túng thiếu, mà chính là sự bội phản ! Đức Giêsu không né tránh câu trả lời có hay không về vấn đề ly dị, Ngài cho thấy tính “bất khả phân ly” không thể mập mờ : “ai bỏ vợ, bỏ chồng để “ăn ở” với người khác đều phạm tội ngoại tình”.

Đối với con người tự nhiên, thường có nhiều lý do để đòi hỏi sự dễ dãi, người thời nay gọi là “lách luật”, tìm cách để được xem là nhẹ tội, là không có tội, nếu như ngoại tình và bỏ nhau, giải pháp khôn ngoan là thế nào ? Nếu như lúc này, Chúa Giêsu được trả lời cho những câu hỏi đại loại như vậy, Ngài vẫn mạnh mẽ nói rằng : “chính vì sự cứng lòng của các ông…….., vậy sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly”. Thực tế thì hôm nay, biết bao gia đình bất hạnh, tan vỡ, đều do giao ước hôn nhân bị vi phạm, dẫn tới hậu quả con cái hư hỏng, khổ đau chồng chất !

Ớt nào là ớt chẳng cay ? không có lửa làm sao có khói ? Lời ấy quá quen thuộc với những ai quan tâm đến vấn đề thủy chung của gia đình hạnh phúc. Chẳng ai nên người hữu ích mà thiếu sự chăm sóc giáo dục, chẳng tình yêu nào bền vững mà thiếu sự nhường nhịn, cảm thông, tha thứ, cũng không thể có gia đình nào chung thủy với nhau được, nếu thiếu tình yêu Chúa. Giáo hội có thể cầu nguyện cho các gia đình, tình yêu thương của Chúa sẽ không ngừng tuôn đổ xuống các tâm hồn tín hữu, nhưng ai cũng phải hiệp nhất và trung thành với giáo huấn của Chúa.

Tình yêu đối với gia đình, chữ tín đối với tương quan xã hội, trước hết vẫn tùy thuộc vào ý thức của mỗi người. Trải qua nhiều vất vả, cha ông chúng ta có đúc kết lại kinh nghiệm cho hạnh phúc của con cháu mình : trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu giữ mình. Tình yêu vững chắc và bền chặt, mới là yếu tố mang lại hạnh phúc, chữ tín, chữ trung đều có trong kế hoạch mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Rõ ràng, ai cũng phải thể hiện tình yêu của mình, trước gia đình, xã hội, trước Đấng mà chúng ta tin thờ. Amen.

Về mục lục

.

PHÒNG TRÁNH LY HÔN TRONG ĐÒI SỐNG HÔN NHÂN

Lm. Đan Vinh – HHTM

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA : Mc 10,2-16

(2) Có mấy người Pharisêu đến gần Ðức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. (3) Người đáp: “Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” (4) Họ trả lời: “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. (5) Ðức Giê-su nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. (6) Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; (7) vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, (8) và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. (9) Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. (10) Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. (11) Người nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; (12) và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”. (13) Người ta dẫn trẻ em đến với Ðức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. (14) Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng. (15) Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”. (16) Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.

  1. Ý CHÍNH:

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đề cao ý định của Thiên Chúa khi sáng tạo nên lòai người có nam có nữ, và truyền cho đôi vợ chồng này phải hiệp nhất với nhau nên “một xương một thịt”. Rồi từ giáo ước này sẽ phát sinh hiệu quả là: hai người không được phân ly. Tóm lại: Hôn nhân tự nhiên do Thiên Chúa an bài có hai đặc tính là: “độc hôn” (một vợ một chồng) và “vĩnh hôn” (bất khả phân ly).

  1. CHÚ THÍCH :

-C 2-4: + Có mấy người Pharisêu đến gần Ðức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” : Người Pha-ri-sêu hay Biệt Phái là một đảng phái tôn giáo không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Câu hỏi của họ ở đây đầy ác ý, nhằm gài bẫy bắt bí Người + Họ hỏi thế là để thử Người: Nhóm Pha-ri-sêu đã giăng ra một cái bẫy yêu cầu Đức Giê-su phải chọn một trong hai cách trả lời, mà cách nào cũng đều bất lợi cho Người. Nếu Đức Giê-su cho phép ly dị là Người đã tự mâu thuẫn với lời dạy của mình. Còn nếu trả lời không được phép ly dị, thì họ sẽ tố Người chống lại Luật Mô-sê. Hơn nữa, Đức Giê-su lại đang ở trên phần đất do vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị. Ông vua này đã bỏ vợ để lấy bà chị dâu là Hê-rô-đi-a. Nếu phản đối luật ly dị, Đức Giê-su có thể bị chung số phận với Gio-an Tẩy Giả, đã bị ông vua này ra lệnh chém đầu trước đó.+ Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”:  Trước khi trả lời, Đức Giê su hỏi ngược lại họ qui định của Luật Mô-sê? Họ cho biết ông Mô-sê đã cho phép rẫy vợ như sau : “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì “chướng”, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà (Đnl 24,1). Về vấn đề ly dị có hai trường phái đối nghịch nhau: Trường phái tự do chủ trương chồng có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì dù là nhỏ mọn. Còn trường phái bảo thủ chỉ cho phép ly dị vợ trong trường hợp vợ ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai phái này đều chung  lập trường cho phép ly dị. 

-C 5-9: + Lòng chai dạ đá: Đây là kiểu nói trong Thánh kinh ám chỉ dân Do thái “mặt dày mày dạn”, cứng lòng và cố chấp trong sự lầm lạc của mình. Thái độ này đã được Đức Giê-su có lần nói đến như sau : “Họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri I-sai-a nói về họ rằng: Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành” (Mt 13,14-15; x. Is 6,9-10). + nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông: Chỉ vì lý do nhân đạo mà Mô-sê “nhân nhượng” cho dân Do thái được ly hôn. Giờ đây đã đến lúc Đức Giê-su tái lập trật tự theo thánh ý Thiên Chúa từ ban đầu. + Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ …: Hai nguyên tổ do Thiên Chúa dựïng nên giống hình ảnh Người và cho phối hợp nên “một thân xác và một tâm hồn”, để sống hòa hợp “một lòng một ý” với nhau. +và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt: Thánh Phao-lô sau này đã so sánh sự phối hợp thâm sâu giữa hai vợ chồng với sự kết hiệp nhiệm mầu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (x Ep 5,31-32). +Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly: Như vậy hôn nhân theo Đức Giê-su dạy mang hai đặc tính là “độc hôn” (một nam một nữ) và “vĩnh hôn” (tồn tại vĩnh viễn).

-C 10-12: +Khi về đến nhà: Tin Mừng Mác-cô thường sử dụng kiểu nói nầy để kết thúc các huấn giáo của Đức Giê-su dạy thêm cho các môn đệ. +Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình… : Việc ly hôn sẽ kéo theo hệ lụy tội lỗi cho nhiều người khác nữa.

-C 13-14: +Người ta dẫn trẻ em đến với Ðức Giê-su: Trẻ em ở đây không phải là trẻ thơ, nhưng là những trẻ đã đến tuổi khôn. Thấy Đức Giê-su là một ráp-bi nhân hậu nhiều uy tín và dễ gần, nên cha mẹ đã đem trẻ em đến để Người đặt tay chúc lành cho chúng. +Các môn đệ xẵng giọng với chúng: Các môn đệ không muốn trẻ em quấy rầy Đức Giêsu, nên la rầy đuổi chúng đi. Phản ứng nầy trái với gương sáng và lời dạy về sự khiêm tốn hiền lành của Đức Giê-su (x. Mt 11,29). +Người bực mình nói với các ông: Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng: Đức Giê-su yêu quý và muốn tiếp xúc gần gũi với các trẻ em (x. Mc 10,14). +Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Không chỉ đề cao sự vô tội, Đức Giê-su còn đề cao tính cách khiêm hạ của các trẻ em là: không ham địa vị quyền hành, không cậy dựa vào thế lực của tiền bạc, luôn tín thác cậy trông vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.

-C 15-16: +Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào: Đức Giê-su cũng dạy người lớn muốn được vào Nước Thiên Chúa cũng phải đơn sơ khiêm hạ giống như trẻ em. +Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng: Chỉ Tin mừng Mác-cô mới đề cập đến cử chỉ âu yếm trẻ em này của Đức Giê-su. Việc đặt tay chúc lành cho trẻ em cho thấy thái độ nhân hậu và têu thương của Người khi sẵn sàng ban ơn chúc lành cho những tâm hồn đơn sơ khiêm hạ.

  1. CÂU HỎI:

1) Nhóm Pha-ri-sêu giăng bẫy để thử Đức Giê-su thế nào?

2) Mô-sê viết điều luật cho phép ly dị vợ với nội dung thế nào?

3) Đức Giê-su đã quở trách thái độ nào của các Biệt Phái đã cho biết thái độ đó đã ứng nghiệm lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a?

4)Tại sao Mô-sê cho phép ly dị và Đức Giê-su đã tái lập trật tự thế nào theo thánh ý của Thiên Chúa từ ban đầu?

5) Tại sao Đức Giê-su bực mình với các môn đệ và Người đề cao trẻ em ở điểm nào?

6) Người đòi những ai muốn được vào Nước Thiên Chúa phải nên giống trẻ em như thế nào?

7) Người biểu lộ tình thương đặc biệt đối với trẻ em qua hành động gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA:

Đức Giê-su phán: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,6-9).

  1. CÂU CHUYỆN: HIỆU QUẢ CỦA CHIẾC GHẾ QUỲ ĐỂ TRÁNH LY HÔN:

Một phụ nữ Đức đến xin tòa cho ly dị, vì ông chồng hay say sưa, la mắng, đập phá… Vị chánh án là ông WIN-THÓT (Windthorst), một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức thời bấy giờ đã hỏi bà rằng:

– Lúc chồng bà say sỉn, la mắng, đập phá đồ đạc như vậy thì bà phản ứng thế nào?

Bà ta trả lời :

– Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi cũng phải gây sấm sét, cho nổi giông tố để đối đầu lại lão ta chứ.

Bấy giờ vị chánh án mới ôn tồn bảo bà rằng:

– Tôi thấy hình như trong nhà của bà còn thiếu một chiếc ghế quỳ để giúp gây bầu khí hòa thuận giữa hai vợ chồng. Vậy tôi cho bà một phương thuốc hữu hiệu, giúp gia đình bà thuận hòa là: bà hãy về nhà mua một chiếc ghế quỳ. Rồi mỗi lần ông chồng bà say sỉn, chửi bới, đập phá… thì bà hãy im lặng đến quì vào chiếc ghế đó để nói chuyện với Chúa thay vì đối đáp lại ông ta.

Bà này về nhà làm theo lời chỉ dẫn của vị chánh án. Ít lâu sau bà quay trở lại báo tin vui cho ông chánh án rằng: ”Phương thuốc chiếc ghế quì của ông rất công hiệu. Vì khi tôi quỳ xuống cầu nguyện thì ông chồng của tôi cũng đồng thời hạ hỏa không còn la mắng đập phá đồ đạc trong nhà như trước nữa”.

  1. THẢO LUẬN:

1) Để tránh ly hôn, các đôi vợ chồng trẻ cần làm gì trước và sau khi kết hôn?

2) Theo bạn, việc tổ chức giờ kinh tối gia đình hằng ngày ích lợi thế nào và cần tổ chức đọc kinh tối gia đình ra sao cho phù hợp với tâm lý và hòan cảnh thực tế hiện nay?

  1. SUY NIỆM:

1) Thực trạng và hậu quả tai hại của sự ly hôn:

Khi nhìn các đôi bạn trẻ tất bật lo chuẩn bị cho ngày kết hôn, có người thầm nghĩ: “Liệu hai, ba, năm bảy năm sau, cặp nào trong số các cặp vợ chồng này sẽ ra tòa xin ly hôn đây?”. Thực tế là ở Việt Nam hiện nay cứ ba cặp kết hôn, lại có một cặp xin ly hôn chỉ sau một thời gian ngắn chung sống với nhau. Điều đáng buồn là 60% số vụ ly hôn này rơi vào số các gia đình trẻ, mà tuổi vợ chồng chỉ từ 23-30. Trong đó 70% vụ ly hôn khi họ mới kết hôn được từ 1 tới 7 năm và hầu hết gia đình họ đều đã có con.

Con trẻ là những người gánh chịu hậu quả rõ nhất sau khi cha mẹ ly hôn. Mỗi năm, riêng tại Tp.HCM có tới 50.000 trẻ em thiếu cha hoặc mẹ do gia đình tan vỡ. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Tư vấn Trẻ em và Ủy ban Dân số Gia đình: hơn 30% trẻ em lang thang đường phố Sài Gòn đều có cha mẹ bỏ nhau. Còn theo số liệu của Bệnh viện Nhi Đồng 2: trong năm 2004, có 16/20 ca trẻ em từ 14-17 tuổi tự tử. Nguyên nhân là do cha mẹ luôn xung đột, cãi vã hoặc ly hôn…

2) Nguyên nhân dẫn đến ly hôn:

Người ta ra tòa xin ly hôn có nhiều nguyên nhân. Nếu sự nhàm chán là nguyên nhân gây sự đổ vỡ hạnh phúc của các đôi vợ chồng lớn tuổi, thì sự hiếu thắng, tính sị diện hão, tình yêu lãng mạn thiếu thực tế, cái “tôi” quá lớn… lại thường là nguyên nhân dẫn đến ly hôn nơi các đôi vợ chồng trẻ. Có lẽ chính sự ảo tưởng, ngộ nhận về tình yêu và hôn nhân là lý do khiến các đôi vợ chồng trẻ mau đổ vỡ hạnh phúc. Họ cưới nhau không phải vì muốn tạo hạnh phúc cho nhau, mà chỉ vì đã lỡ dại “ăn cơm trước kẻng”. Quan niệm về hôn nhân của họ dựa trên sở thích hơn là tình yêu: thích thì ” góp gạo thổi cơm chung”, không thích thì chia tay. Thế nên nhiều trường hợp đôi vợ chồng trẻ ra tòa xin ly hôn chỉ vì những lý do rất “trẻ con” như: Ăn cơm mà không đợi nhau, ngủ ngáy, thái độ ích kỷ, tình yêu không còn lãng mạn như thuở ban đầu. Nếu vợ chồng trẻ biết bỏ đi “cái tôi” tự ái cao và biết nghĩ đến người khác nhiều hơn thì chắc chắn hôn nhân không còn là “mồ chôn của tình yêu” như nhiều người vẫn nghĩ.

3) Cần làm gì để tránh ly hôn ?

a-Trước khi kết hôn:

Tránh đốt giai đoạn: Tiến trình dẫn đến hôn nhân thường diễn tiến như sau: Gặp gỡ để trao đổi tìm hiểu về nhau bằng những sinh hoạt chung, những buổi đi chơi riêng, những cú điện thoại, nhắn tin, email, gặp nhau trên facebook… Nhờ gặp gỡ trao đổi mà đôi bạn trẻ sẽ hiểu biết về gia cảnh, tính tình, học vấn, tôn giáo, sở thích, nhân cách… của nhau. Thời gian làm quen thường từ 3 đến 6 tháng. Tránh đốt giai đoạn khi mới quen nhau đi chơi chung vài ba lần đã vội nói lời yêu thương và trao cho nhau những lời hứa hẹn, những nụ hôn… rất dẽ dẫn đến tình trạng : ”Ăn cơm trước kẻng” và khi đã ném lao đành phải theo lao là cưới gấp mà không có sự lựa chọn nào khác.

Cần trang bị kiến thức căn bản về hôn nhân gia đình: Cũng do yêu vội, cưới gấp, nên nhiều đôi bạn trẻ không kịp thời gian học hỏi trang bị cho mình kỹ năng cho cuộc sống chung sau này. Trong thời gian tìm hiểu nhau đôi dự hôn cần tập thành các thói quen tốt như: quan tâm hỏi thăm và chia sẻ vui buồn với nhau, mỗi ngày làm nhiều việc tốt để làm vui lòng nhau là điều kiện trở nên vợ chồng, cha mẹ tốt sau này.

Cần chấp nhận con người thực cả ưu lẫn khuyết điểm của nhau: Khi mới yêu nhau người ta thường “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”. Rồi khi đã thành vợ chồng sống chung với nhau, hai người sẽ “hiện nguyên hình” với đầy đủ ưu khuyết điềm, tốt xấu. Nếu không biết chấp nhận giới hạn của nhau, thì ly hôn là điều khó tránh khỏi.

Sự cần thiết của thủ tục tiền hôn nhân: Bí quyết sống chung của nhiều cặp vợ chồng hạnh phúc là nghệ thuật “nhắm một mắt” để dễ chấp nhận nhau, dễ thích nghi, bỏ qua những thiếu sót cho nhau… Do đó, các khóa dạy kỹ năng sống chung vợ chồng hoặc các lớp giáo lý hôn nhân rất cần cho các đôi chuẩn bị bước vào cuộc sống hôn nhân. Thực tế đã chứng minh: nếu đời sống hôn nhân vượt qua được khoảng thời gian thử thách khoảng từ ba đến năm năm đầu chung sống thì tỷ lệ hôn nhân bền vững sẽ cao hơn nhiều. Ý thức được sự quan trọng của việc tìm hiểu nhau trước hôn nhân, cha ông chúng ta từ ngàn xưa đã tạo ra nhiều tục lệ xem ra rườm rà, nhưng lại thật sự cần thiết để giúp đôi bạn trẻ chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc sống lứa đôi sau này như: lễ xem mắt, lễ cơi trầu dạm ngõ, lễ hỏi  rồi sau cùng mới lễ cưới. Trong đạo công giáo, các thủ tục chuẩn bị kết hôn cũng nhằm kéo dài thời gian đính hôn giúp đôi bạn trẻ tìm hiểu nhau kỹ lưỡng hơn như: học giáo lý hôn nhân, giấy giới thiệu kèm chứng thư rửa tội thêm sức và độc thân, giấy xin rao, tập lễ nghi, xưng tội trước lễ cưới tại nhà thờ…

b-Sau khi kết hôn:

Cần biết hâm nóng tình yêu vợ chồng như có người đã nói :”Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng và hãy cưới lại nhau sau mỗi ngày”. Thiên Chúa dựng nên chúng ta để ”nhận và cho” nhau tình yêu, nhưng để duy trì tình yêu ấy đòi hai người phải tập luyện: Mỗi ngày hãy tập bỏ đi tính ích kỷ và tập sống yêu thương qua cách ứng xử vị tha với nhau.

Cần biết nhẫn nhịn chịu đựng lẫn nhau: Sau một thời gian về chung sống với nhau, cá tính và các khuyết điêm đã che giấu trước khi kết hôn sẽ dần dần bộc lộ như người ta thường nói: “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân”. Khi đối diện với thói xấu và lối ứng xử không tốt của người phối ngẫu, người kia sẽ cảm thấy ngỡ ngàng và phản ứng. Từ đó sẽ phát sinh hậu quả cãi lôn nhau với những lời lẽ khinh thường nhau và làm tổn thương lòng tự trọng của nhau. Vợ chông sau khi kết hôn phát hiện nhừng khuyết điểm của người đối diện thì đừng lấy làm lạ, nhưng cần biết cảm thông với những khuyết điểm này, vì con người “nhân vô thập toàn”. Trong trường hợp đó cần cầug nguyện cho họ và xin Chúa giúp mình khôn ngoan tìm ra phương cách hữu hiệu giúp họ tu sửa thói hư.

Cần học sống Lời Chúa và cầu nguyện cho nhau như Đức Giê-su đã dạy: ”Nếu không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5b). Do đó, đôi vợ chồng cần ý thức tầm quan trọng của giờ kinh tối gia đình, và quyết tâm tổ chức đọc kinh chung hằng ngày, để đón nhận được dồi dào hồng ân Chúa ban phòng tránh nguy cơ dẫn đến ly hôn ly dị.

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con xây dựng được hạnh phúc gia đình, Xin cho chúng con tránh những nguyên nhân gây sự đổ vỡ hạnh phúc dẫn đến ly hôn cụ thể là tính ích kỷ cố chấp. Xin cho chúng con ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa cho tha nhân, bằng việc xây dựng cho gia đình chúng con ngày một hòa hợp hạnh phúc, các thành viên luôn nghĩ đến nhau và yêu thương phục vụ lẫn nhau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA TA

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài. Chính vì muốn đưa con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc đích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành Vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ”(Dt 2,10).

  Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, nghĩa là gì?

Thiên Chúa là nguồn gốc mọi loài, có nghĩa là muôn loài muôn vật đều bởi Ngài mà ra, trong đó có con người chúng ta. Thiên Chúa đã tạo dựng toàn thể vũ trụ này, chứ không tự nhiên mà có; cũng không do một vụ nổ Bigbang nào. Chẳng có vụ nổ nào mà làm nên trái đất, mặt trăng và tinh tú hết. Rồi Thiên Chúa cũng tạo dựng con người có nam, có nữ. Con người chúng ta xuất phát từ Chúa chứ không từ khỉ.

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng, Thiên Chúa là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Đó là niềm tin, là đức tin của chúng ta. Chúng ta tin Thiên Chúa là nguồn gốc muôn loại muôn vật và con người. Đấng dựng nên muôn loài muôn vật, hữu hình và vô hình, chính là Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa mà chúng ta tin cậy kính mến.

  Thiên Chúa đó, không chỉ là nguồn gốc mà còn là cùng đích của muôn vật, muôn loài nữa. Nghĩa là muôn vật muôn loài và con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Nói nôm na là đích đến của muôn loài muôn vật và cách riêng của con người chúng ta là Thiên Chúa. Mọi loài đều phát sinh bởi Chúa và cũng sẽ trở về với Chúa. Điều đó thật hợp tình, hợp lý. Nhưng sẽ không thể trở về với Chúa cách y chang như khi phát sinh. Nghĩa là muôn vật phải sinh hoa kết quả và con người phải nên thánh nên thiện. Dụ ngôn ông chủ giao các nén bạc cho các đầy tớ nói lên điều đó. Ai mà biết làm cho sinh lời, làm cho mình nên thánh nên thiện thì được thưởng; còn ai lười biếng, còn nguyên, y chang thì sẽ bị phạt.

Thiên Chúa đã làm một việc đích đáng, đó là việc gì? Đó là việc Ngài cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành Vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người chúng ta tới nguồn ơn cứu độ, tới nguồn gốc đã sinh ra chúng ta. “Con người đó chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa”(Dt 2,9).

Do đó, Đức Giê-su trở thành Đấng thánh hóa ta và chúng ta trở thành người được thánh hóa. Cả Đức Giê-su và chúng ta đều cùng một nguồn gốc là Thiên Chúa, nên Đức Giê-su không hổ thẹn gọi chúng ta là anh em. Con người chúng ta là anh em của Đức Giê-su trong Thiên Chúa.

Như linh hồn và thân xác của ta; như đôi uyên ương, phu phụ nên một và không tách rời thế nào thì Đức Giê-su và chúng ta cũng sẽ nên một và không tách rời như thế. Xác mà không có linh hồn là một xác chết; vợ chồng mà không có nhau, không ở bên nhau thì đau khổ, buồn bã; chúng ta mà không có Đức Giê-su thì chúng ta sẽ không được cứu độ, không được sống đời đời.

  Dầu vậy, khi chúng ta chết thì linh hồn cũng phải lìa khỏi xác, nhưng ngày sau hết thân xác chúng ta sẽ được phục sinh và cũng với linh hồn được sống đời dời với Chúa. Đôi uyên ương, phu phụ mà xa nhau, không có dịp để gần nhau, nhưng tình yêu sẽ là mối dây liên kết, họ vẫn bên nhau trong tâm trí, trong tình yêu, trong lòng, không gì có thể tách họ ra cũng như ngăn cách họ ở bên nhau được. Không ở bên nhau bằng xương bằng thịt thì họ ở bên nhau thiêng liêng; nghe tiếng nói của nhau qua điện thoại, qua tổng đài trái tim; qua những ký ức, những kỷ niệm,….

  Còn ta với Đức Giê-su thì sao ? Có xa nhau được không ? Đương nhiên là có, nhưng cái có là về phía con người chúng ta chứ không từ phía Chúa. Con người chúng ta có tự do và lý trí; ta có muốn theo Chúa hay bỏ Chúa thì do chính ta quyết định. Về phần Chúa thì không bao giờ Chúa bỏ ta. Vì Chúa đã chết vì con người chúng ta mà. Ta mà xa Chúa thì chỉ có ta thiệt thôi; Chúa cũng không bắt ép ta được.

Chúa đã làm tất cả vì con người chúng ta: Chúa đã tạo dựng muôn loài muôn cho chúng ta hưởng dùng; Chúa cũng đã chết cho con người chúng ta được ơn cứu độ, được hưởng vinh quang của Chúa trên thiên quốc. Phần còn lại là tùy con người chúng ta mà thôi. Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ, được hưởng vinh quang trên thiên quốc thì phải đồng lao cộng khổ với Đức Giê-su, nên một với Ngài như hồn với xác; gắn bó với Ngài như đôi uyên ương phu phụ.

  Thật ra, ta có chịu gian khổ thôi chứ không chết khổ như Đức Giê-su trên thập giá đâu. Chỉ có các thánh tử đạo, mới chết khổ như Chúa thôi. Các thánh tử đạo đã dâng hiến mạng sống mình như Đức Ki-tô đã dâng hiến, nên các ngài đích thật là anh em với Đức Ki-tô và các ngài đã lãnh nhận triều thiên vinh quang trên thiên quốc.

  Như 118 vị thánh tử đạo tại việt Nam, người thì bị xử trảm, tức là chặt đầu; người thì bị xử giảo, tức là bị thòng dây vào cổ và xiết cho đến khi tắt thở; người thì bị bá đao, tức là bị chém 100 nhát; người thì bị thiêu sống, tức là để vậy rồi lấy lửa đốt; người thì bị lăng trì, tức là bị chặt đầu và chân tay; người thì chết trong tù. Trong các cách chết này, bị thiêu sống là đau khổ hơn cả.

Bị xử trảm, dù sao chỉ bị chém một nhát thì đứt đầu, không còn biết đau là gì nữa. Bị xiết cổ thì cũng 5 phút là xong; Bị chém 100 nhát, cũng đau, nhưng chết cũng nhanh hơn. Bị xử lăng trì, nếu bị chặt đầu trước, rồi chặt chân tay sau, cũng đỡ bị đau; nếu làm ngược lại cũng đau lắm. Bị chết trong tù do bệnh tật, bị tra tấn, bị đói khát, chết dần, chết mòn, cũng đau khổ lắm. Các ngài là của lễ hi sinh dâng lên Thiên Chúa.

Còn bị thiêu sống thì ghê rợn hơn. Người còn sống mà bị thiêu. Ta thử nghĩ coi, tay chân bị trói, rồi bị lửa thiêu, bị đốt cháy dần dần, cháy da cháy thịt, thời gian bị thiêu dài hơn; có khi lửa cháy hết rồi mà vẫn chưa chết được thì đau rát biết chừng nào. Đúng là Các Thánh Tử Đạo. Phải nhờ có ơn Chúa, các ngài mới có thể chịu đựng được đến thế. Các ngài là của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa.Các ngài cũng biết rõ cùng đích của mình là Chúa, nên đã can đảm và trung thành với Chúa cho đến cùng.

Chúng ta không được diễm phúc đổ máu đào như các ngài, để đồng lao cộng khổ với Đức Ki-tô, thì ta đổ “máu trắng” vậy.“Máu Trắng”, đó là những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt; đó là những hi sinh, đó là những khó khăn ta chịu vì Chúa, vì giữ Đạo; vì giữ luật Chúa, vì sống Lời Chúa. Như mỗi khi ta dành thời giờ để cầu nguyện; dự lễ hằng ngày hay hàng tuần; mỗi khi ta thực hành Lời Chúa; mỗi khi ta yêu thương và giúp đỡ người khác, ……Chúng ta hãy noi gương các thánh tử đạo, trong Năm Thánh kỷ niệm 30 phong thánh, mà sống đức tin của mình.

  Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của muôn loài muôn vật; Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta, chúng ta hãy nhớ điều đó. Đức Giê-su Ki-tô là An-pha và Ô-mê-ga; còn chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô, Vị lãnh đạo thập toàn. Vậychúng ta hãy đi theo Vị lãnh đạo thập toàn này, để chúng ta về tới đích an toàn và lãnh được ơn cứu độ, lãnh được triều thiên vinh quang trên thiên quốc.

Về mục lục

.

Exit mobile version