SUY NIỆM Lời Chúa CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA_2017

CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA_2017

LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA

Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21

——-

Mục lục

2. Mẹ Thiên Chúa  (Gm. Phê-rô Nguyễn Soạn)

3. Nhân loại mới  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4. Mẹ luôn vui buồn cùng con (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Tình yêu đắm chìm trong suy niệm  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

6. Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Người mang Thiên Chúa (Trầm Thiên Thu)

8. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời  (P. Trần Đình Phan Tiến)

9. Nữ Vương Hòa Bình  (JM. Lam Thy, ĐVD)

10. Đức Mẹ Hòa Bình (AM. Trần Bình An)

11. Đức Maria gương mẫu về đời sống gia đình (Antôn Nguyễn Chân Hồng)

12. Mẹ của tình yêu thương  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Mẹ Thiên Chúa – Cầu cho hòa bình thế giới  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

14. Xin cho thế giới được hòa bình (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

15. Thiên Chúa tỏ tình thương  (Lm. Giuse Nguyễn)

16. Maria Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của chúng ta (Lm. Đan Vinh)

17. Lễ Mẹ Thiên Chúa_A (Lm. Antôn)

 

 

MẸ THIÊN CHÚA

Gm. Phêrô Nguyễn Soạn

Ngày 01 tháng 01 là ngày đầu năm dương lịch cũng là ngày hòa bình thế giới. Giáo Hội đặt Đức Mẹ Maria lên đầu lịch trước là để tôn vinh Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sau là nhờ Mẹ “Đấng toàn năng trong lời cầu”, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn lành trong năm mới và cho thế giới chấm dứt chiến tranh, hận thù, để mọi người được an hưởng nền hòa bình và tự do chân chính, được ấp ủ dưới tà áo hiền mẫu của Mẹ.

Riêng chúng ta, những người con của Mẹ hãy ra sức bắt chước gương lành của Mẹ hầu trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho tha nhân, xứng đáng là những người con hiếu thảo của Mẹ.

Anh chị em chắc cũng lấy làm ngỡ ngàng khi đầu tiên nghe người ta gọi Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Nhưng điều này không có gì là lạ, mà là một diễn tiến tất yếu. Mọi sự chúng ta làm, mọi điều chúng ta chịu, đều qui trách về ngôi vị, về con người chúng ta. Mà Chúa Giêsu là ngôi Hai Thiên Thúa, mà Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, thì quả thật Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa.

Do đó mà người ta thường nói: Chúa buồn, Chúa cầu nguyện, Chúa chịu nạn, chịu chết. Chết là đặc tính của thể xác, nhưng qui trách về ngôi vị. Do đó, có thể nói Chúa chết mà không sợ xúc phạm đến Thiên Chúa hằng sống.

Người ta cũng thường nói: mẹ của tổng thống, mẹ của thủ tướng, hay thánh nữ Monica là mẹ của thánh Augustinô.

Vậy quả thật Đức Maria, khi sinh Chúa Giêsu, Ngôi Hai  xuống thế làm người, Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa. Mà là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ rất quyền năng; những quyền năng một người mẹ đối với người con, Đức Mẹ đều có đối với Thiên Chúa là con của mình.

Hôm nay, tôn vinh Đức Mẹ như một vì thiên mẫu, chúng ta nhớ lại thời Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu 9 tháng 10 ngày, đã cho Chúa Giêsu bú mớm, đã cho ăn, cho uống, đã thay áo, giặt tã, đã ấp ủ hài nhi Giêsu bằng một tình thương đậm đà. Đức Mẹ đã theo con trên bước đường truyền giáo, đã động viên con ở giây phút bi đát nhất của đời Chúa: quả Đức Mẹ là một người mẹ tuyệt vời: đến đúng lúc, đi đúng lúc, ẩn mình hợp thời và xuất hiện kịp thời. Mẹ đóng đủ mọi vai trò mà một bà mẹ dành cho người con yêu quý của mình. Mẹ xứng đáng là Mẹ Thiên Chúa.

Ngày nay, được cả hồn lẫn xác về trời, Mẹ đã không quên chúng ta còn đang lạc loài dưới thế.

Bởi lẽ người mẹ cao quý ấy đã từng trải qua cuộc đời trần gian, đã chia vui xẻ buồn với Chúa Giêsu; từng nếm cảnh giá rét đêm đông, từng sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, đã biết thế nào là góa bụa đơn côi, đã trải qua những mất mát hy sinh, đúng như lời tiên tri Simêon đã tiên báo: “lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Sau cùng, Đức Mẹ đã xót đau đến tột độ, mặc dù thế, Mẹ vẫn không giảm sút niềm tin và hy vọng nhìn con trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Đó, người mẹ, người mẹ của Thiên Chúa đã được Chúa để cho kinh qua trăm ngàn cay đắng, khốn khổ, trước khi được vinh quang về trời.

Là những người con của Mẹ, chúng ta đang đi vào con đường của Mẹ đã đi, con đường Mẹ đã tới, chúng ta hy vọng sẽ tới.

Noi gương Mẹ, chúng ta đừng than van, hãy vui sống, hãy bắt tay vào việc, và khi đã đuối sức, thì hãy ngã vào vòng tay từ ái của Mẹ mà kêu lên: “Mẹ ơi, kiệt sức rồi, Mẹ hãy lau sạch nước mắt, mồ hôi chúng con, hãy bồi dưỡng và dẫn dắt chúng con đi trên đường đời”. Chắc chắn Mẹ sẽ làm và làm được, vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Người mẹ nào lại chịu ngồi không để cho con cái cấu xé lẫn nhau. Khi những người con đánh nhau, thì người có khả năng nhất trong gia đình, ngăn cản được cuộc huynh đệ tương tàn, chính là người mẹ. Giáo Hội đặt lễ Mẹ vào ngày Hòa Bình Thế giới, có ý nhắc chúng ta, vì yêu mến Mẹ mà dẹp bỏ mọi hận thù, dứt khoát với mọi tính mê nết xấu, dập tắt mọi tham vọng, là những ngòi thuốc súng khai mở chiến tranh, chiến tranh giữa các quốc gia, giữa người với người, giữa những phần tử trong gia đình, cùng ruột thịt và máu huyết với nhau.

Vậy, trong thánh lễ đầu năm này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một Năm mới tràn đầy Hồng ân của Thiên Chúa, hạnh phúc, an vui. Ước gì với đức tin vững mạnh, với lòng mến Chúa và cậy trông nơi Mẹ Maria, anh chị em hãy mang đến cho mọi người Mùa Xuân Cứu Thế Bất Diệt của Chúa Hài Đồng và luôn hiên ngang là những người con chí ái của Chúa và Mẹ Maria.

Về mục lục

.

NHÂN LOẠI MỚI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.

Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.

Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42).

Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà… vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).

Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.

Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.

Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”

Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.

Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.

Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.

Về mục lục

.

MẸ LUÔN VUI BUỒN CÙNG CON

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người sống luôn cần tình thương. Tình thương để đùm bọc để nâng đỡ, chia sẻ với nhau. Thật bất hạnh cho những ai sinh ra trong cuộc đời mà thiếu tình thương. Họ sẽ như cây khô vì thiếu chăm sóc, bảo vệ, dưỡng nuôi. Và thật hạnh phúc cho những ai có được tình yêu chân thành như thế! Cuộc đời họ sẽ ngập tràn tiếng cười vui. Cuộc đời họ luôn bình an, tươi vui và hạnh phúc.
Một tình yêu có thể hy sinh để luôn quan tâm, chia sẻ vui buồn cùng chúng ta chỉ có thể là tình mẹ. Tình yêu của người mẹ hiền dành cho mỗi chúng ta, không thể nói hết bằng lời. Và cho dù có đi đâu hay ở đâu thì đúng thật, không ai tốt, chăm sóc, lo lắng cho chúng ta bằng chính trái tim người mẹ… nên ai đó nói rằng: “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ” , trái tim của người mẹ sẽ luôn vui buồn cùng con như câu thơ đã viết :

Con chào đời… Mẹ rơi lệ
Con biết đi… Mẹ vui mừng
Con vấp ngã… Mẹ nâng niu
Con gọi mẹ… Mẹ mim cười
Con hôn mẹ… Mẹ hạnh phúc
Con đau yếu… Mẹ chăm chút
Con đau buồn… Mẹ vỗ về
Con thất bại… Mẹ động viên
Con thành công… Mẹ hãnh diện

Là người ai cũng được sinh ra và lớn lên trong vòng tay âu yếm của mẹ hiền. Vẫn biết bên mình có biêt bao nhiêu người thân yêu – đến trường ta có bạn bè thân thương, vào đời chúng ta có thêm bạn đồng nghiệp, lập gia đình ta có tình nghĩa phu thê, nhưng vẫn có một tình yêu thương mãi đầy ắp, nồng ấm của người mẹ hiền đi theo ta đến suốt cuộc đời.
Tình yêu của mẹ luôn vượt thời gian để đi theo con suốt cuộc đời. Tình yêu ấy mãi mênh mông bát ngát như câu ca dao xưa đã nói: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Dòng nước tình mẹ luôn tồn tại vĩnh hằng để đem lại sự dịu mát cho cuộc đời từng đứa con thân yêu.
Mẹ Maria được gọi  là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giê-su cho trần thế. Tình thương của Mẹ luôn đong đầy trong cuộc đời Chúa Giê-su. Mẹ cũng vui khi Chúa sinh ra. Mẹ cũng lo khi Chúa lạc trong đền thờ. Mẹ hạnh phúc khi Chúa cứu nhân độ thế bằng biết bao phép lạ cứu giúp người cùng khổ. Mẹ cũng an ủi, khích lệ Chúa khi Ngài gặp chống đối. Mẹ cũng hãnh diện khi Chúa thành công. Mẹ cũng đau khổ khi cùng con bước cô đơn trên đường thánh giá. Trái tim Mẹ cũng quặn đau cùng con khi Con của Mẹ hiến tế cứu đời.
Dường như trong từng biến cố vui buồn của Chúa Giê-su luôn có Mẹ cùng đồng hành chia sẻ. Trái tim của Mẹ luôn hiện diện đúng lúc để chia sẻ vui buồn cùng Chúa. Đây là một trái tim đầy ắp yêu thương mà chính Chúa Giê-su đã ban lại cho trần gian. Chúa Giê-su hiểu rằng tình thương chăm sóc của Mẹ Maria là bảo ngọc châu báu mà Thiên Chúa Cha đã ban cho Ngài, nay Ngài lại ban cho trần gian.
Phúc âm ghi rằng: “Đứng dưới chân thập giá có thân Mẫu Người”. Mẹ Maria luôn đứng bên cạnh cuộc đời của Chúa Giê-su để đồng cảm với cuộc đời của con. Chính nhờ tình thương ấy đã khích lệ Chúa ôm trọn thập giá để cứu độ nhân gian. Cũng chính trong bối cảnh ấy mà Chúa đã thưa cùng Mẹ: “Thưa bà, đây là con bà”. Chúa đã nài xin Mẹ tiếp tục nhận nhân loại làm con của Mẹ để tình Mẹ vẫn đong đầy cho nhân sinh. Và từ ngày đó, suốt dọc dài lịch sử nhân loại Mẹ Maria luôn hiện ra nơi này nơi kia để tỏ lòng từ bi, yêu thương chăm sóc nhân loại. Mẹ mãi mãi ở bên nhân loại để bảo vệ, che chở gìn giữ con cái của Mẹ khỏi sự dữ của ba thù.
Hôm nay khởi đầu một năm mới, Giáo hội long trọng mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để tạ ơn về một năm qua Mẹ vẫn đứng bên cuộc đời chúng ta. Mẹ vẫn tiếp tục chia sẻ vui buồn với gia đình, với xứ đạo và từng cá nhân chúng ta. Tâm hồn chúng ta cũng từng hạnh phúc hay bớt đi lắng lo khi chúng ta cầu nguyện cùng Mẹ thì như được hơi nóng tình Mẹ ôm trọn cuộc đời con. Tạ ơn về tình Mẹ vẫn đong đầy cho chúng ta. Đồng thời cũng dâng lên Mẹ một năm mới với nhiều lắng lo về sức khỏe, về an ninh, về công ăn việc làm. Gia đình nào cũng khó khăn, cuộc đời nào cũng lắm ưu tư, xin Mẹ hãy nâng đỡ và gìn giữ chở che trong bàn tay từ mẫu của Mẹ. Xin Mẹ luôn ở bên cuộc đời chúng ta để nâng đỡ, bảo vệ, ủi an như xưa Mẹ đã chia sẻ với Chúa Con của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria một năm mới đã bắt đầu, chúng con xin dâng lên Mẹ tương lai cuộc đời với nhiều lắng lo. Xin tình yêu từ mẫu của Mẹ ôm ấp che chở để chúng con luôn được bình an, hạnh phúc. Xin giúp cho công ăn việc làm chúng con luôn thuận buồm xuôi gió. Xin bảo vệ gia đình chúng con khỏi mọi sự dữ của ba thù. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU ĐẮM CHÌM TRONG SUY NIỆM

Lm. GB. Trần Văn Hào

“Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19).

Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mầu nhiệm nhập thể giống như việc Thiên Chúa cùng hợp tác với Đức Maria, khi đem một nhiễm sắc thể thần linh Y phối hợp với  một nhiễm sắc thể nhân loại X, để tượng hình nên Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Quan niệm sai lầm này xem Đức Giêsu chỉ là một sản phẩm được giao phối cách nhiệm mầu, giống như chuyện thần thoại về Hercules, chứ không phải là Đấng Cứu Thế như Kinh Thánh mô tả. Trong một khảo luận, tôi đã chỉnh sửa quan niệm sai lầm này và trình bày như sau: “Lãnh vực vô hạn siêu nhiên và chân trời vô hạn vượt xa lý luận của đầu óc con người, đã hiển thị nơi Đức Giêsu Nazareth, từ lúc hoài thai trong cung lòng mẹ Maria.” 

Lễ trọng mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đưa dẫn chúng ta đến những chân lý quan trọng về mầu nhiệm liên quan đến Đức tin, mà chúng ta chẳng cần nhọc công vắt óc để suy nghĩ làm gì. Chúng ta gọi Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” và chúng ta xác tín  như thế, không phải vì Thiên Chúa đã nắn hình tượng Đức Giêsu trong cung lòng Đức Maria, và phủ bao một thực thể thần linh vào trong thai nhi đó. Chúng ta xác quyết, người con của Đức Maria mang bản tính Thiên Chúa tròn đầy ngay từ ban đầu. Cho dầu có hai bản tính, Đức Giêsu Kitô vẫn là một hữu thể đơn biệt, và Đức Maria vẫn là Mẹ của Ngài cách thực sự.

Nếu điều này thách đố những suy tưởng của chúng ta, chúng ta hãy nhìn lên để cung chiêm “Người Mẹ được chúc phúc” như Tin mừng Luca nói tới. Thánh ký dẫn mời chúng ta đến chuồng bò ở Belem. Các mục đồng chăn chiên ở gần đó đã đến ngắm nhìn đứa trẻ mới được sinh ra, là Đấng Messia và cũng là Đức Chúa mà Thiên Thần đã loan báo. Luca kể lại rằng, các mục đồng đã thuật lại những điều đã được khải thị về trẻ thơ này. Sau đó, các thiên sứ từ trời ca hát rộn ràng ngợi khen Thiên Chúa. Luca đã tóm tắt thái độ của “Người Mẹ Được Chúc Phúc” bằng một câu rất giản đơn : Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy ngắm trong lòng.

Kinh Thánh kể tiếp biến cố cắt bì cho trẻ Giêsu, tám ngày sau khi sinh. Điều này khá quan trọng. Việc cắt bì của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến nội dung mà bài đọc thứ hai đề cập tới. Thánh Phaolô cho chúng ta biết, Đức Giêsu “được sinh ra dưới lề luật để chuộc những ai sống dưới lề luật”. Ngài huấn thị cho tín hữu Galát biết rằng, lề luật được trao ban đã được Thiên Chúa chúc lành, và đó là con đường giúp tôi luyện con người vươn tới sự thánh thiện. Nhưng lề luật cựu ước chỉ là cái khung bên ngoài để uốn đúc. Khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài mới hoàn thiện lề luật, mặc cho lề luật một chiều kích mới, hầu đưa dẫn con người đến sự sống trong Thần Khí. Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta biết rằng chỉ trong Thần Khí, Thần khí lưu ngụ sâu tận trong tâm hồn mỗi người, chúng ta mới có thể đi vào mối tương giao mới, rất sâu xa và thân tình với Thiên Chúa. Ngụp lặn trong mối tương giao thân tình đó, chúng ta gọi Chúa là “Abba, Bố ơi,”.

Cuối cùng, Thánh Luca kể lại câu chuyện đặt tên cho trẻ Giêsu, tên mà thần sứ Gabriel đã nói cho Đức Maria trong ngày truyền tin. Tên gọi Giêsu (Yeshua) có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Điều này hàm ngậm một ý nghĩa sâu xa. Trong Kinh Thánh, tên gọi biểu thị quyền bính của một con người hay một nhân vật. Tên gọi cũng diễn tỏ căn tính người đó như thế nào, và điều này rất rõ nét trong biến cố đặt tên con trẻ Giêsu. Thật là điên khùng và xuẩn ngốc, khi bạn đặt tên cho con của mình là “Chúa cứu” như Gabriel đã nói, khi con của bạn chỉ là một đứa bé bình thường giống như bao đứa trẻ khác.

Đức Maria lưu giữ những điều đó và gẫm suy trong lòng. Mầu nhiệm nhập thể cũng như vai trò làm Mẹ Đấng Cứu thế, không phải là những vấn đề mà Đức Maria phải nhọc công suy nghĩ hay cố phân tích hầu tìm ra những lý lẽ để giải trình. Thánh Luca kể lại, Đức Maria đã đi vào thế giới của mầu nhiệm, chỉ với một thái độ duy nhất : Suy niệm trong lòng. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, thái độ đó gợi nhắc chúng ta điều gì.

Tôi xin được gợi lên hai suy tư. Điều thứ nhất, tôi nghĩ tưởng đến biến cố Giáng sinh với một cảnh tượng huy hoàng bao trùm cả vũ trụ. Các Thiên thần trên trời hát xướng, cùng hòa niềm vui với những khách hành hương nghèo xác nghèo xơ, là những đứa trẻ chăn trâu ngoài đồng, những con người thấp cổ bé họng đang bị xã hội bỏ rơi.  Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng đến việc Thiên Chúa thường hay thực hiện những ơn sủng phi thường của Ngài xuyên qua những biến cố rất bình thường trong cuộc sống con người. Tôi cũng từng trải nghiệm niềm vui phục sinh mọi nơi mọi lúc. Ví dụ khi tôi nhìn vào cô Rose Marie, một phụ nữ đã thiết lập một ngôi nhà mở để tiếp đón những người bất hạnh, và cô gọi đó là “ Ngôi nhà Lắng nghe”. Cô thực sự yêu thương những người đang sống tại đó, trong đó có cả những người say sưa nghiện ngập, những người ngang ngược, có khi còn chửi bới, đay nghiến cả cô ta nữa. Làm thế nào cô ta lại có tấm lòng như thế. Cô gái muốn khơi dậy niềm hy vọng nơi những con người bất hạnh và tuyệt vọng, giúp họ suy nghĩ là họ vẫn có quyền được yêu thương giống như những con người khác. Đó thực sự là một quà tặng lớn lao, và đây cũng là một phép lạ của tình yêu đang xảy ra trong cuộc sống đời thường của chúng ta hôm nay.

Thứ đến, chúng ta cũng có thể suy niệm về vai trò làm Mẹ của Đức Maria đối với chính chúng ta. Qua người môn đệ được Chúa yêu, chúng ta đón nhận Đức Maria về nhà mình : “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Chúng ta sẽ tôn nhận Đức Maria là Hiền Mẫu, bao lâu chúng ta còn đón nhận Đức Giêsu như là Chúa và là người anh cả của chúng ta. Chúng ta đón nhận Mẹ, khi chúng ta nhận ra rằng tình yêu hiền mẫu của Ngài đang lan tỏa trong cuộc đời chúng ta để Vương quốc Đức Giêsu, người con yêu dấu của Mẹ, được ngập tràn nơi cuộc sống mọi người.

Sẽ còn nhiều điều chúng ta cần phải lưu giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng.

Về mục lục

.

TẠI SAO LẠI ‘MẸ THIÊN CHÚA’?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Đặt ra cho mình câu hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau?

Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.

Phải chăng khi nói ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ, nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48)

Và Maria cũng đang ‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?… Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của mình.

Tôi biết dòng Salêdiêng Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó, Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19:26-27)

Lạy Mẹ Maria – Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI MANG THIÊN CHÚA

Trm Thiên Thu

Từ thế kỷ III – IV, người ta đã thấy xuất hiện danh xưng “Mẹ Thiên Chúa”. Theo tiếng Hy Lạp, Theotókos [θeoˈtokos] nghĩa là “người mang Thiên Chúa”, trở nên tiêu chuẩn của giáo huấn Giáo Hội về Mầu nhiệm Nhập thể. Công đồng Êphêsô năm 431 nói rằng các thánh giáo phụ đã đúng khi tôn xưng Đức Mẹ là Theotókos.

Khi bế mạc công đồng này, nhiều người đã cùng đi diễu hành và hô to: “Tôn vinh Đng Theotókos!. Truyền thống đó còn tới ngày nay. Trong chương nói về vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội, Hiến chế về Giáo Hội Hiến chế về Giáo Hội (Dogmatic Constitution on the Church, Công đồng Vatican II) đã 12 lần tôn xưng Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa”.

Tuy nhiên, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng tôn danh “Mẹ Thiên Chúa” đã được người chị họ Êlidabét – mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả – sử dụng lần đầu tiên, khi hai chị em gặp nhau: “Em được chúc phúc hơn mi người ph n, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bi đâu tôi được Thân Mu Chúa (ca) tôi đến vi tôi thế này? Vì này đây, tai tôi va nghe tiếng em chào thì đa con trong bng đã nhy lên vui sướng. Em tht có phúc, vì đã tin rng Chúa s thc hin nhng gì Người đã nói vi em (Lc 1:42-45).

Những người theo trào lưu chính thống cảm thấy “ái ngại” khi Đức Mẹ được tôn vinh là Thánh Mẫu Thiên Chúa. Tuy nhiên, phản ứng của họ thường dựa vào sự hiểu lầm – không chỉ về danh xưng của Đức Mẹ mà còn về Chúa Giêsu là ai, điều mà các nhà thần học và các nhà cải cách Tin Lành đã đề cập và có liên quan giáo lý này.

Một phụ nữ là mẹ của một con người nếu phụ nữ đó mang thai người đó hoặc di truyền nửa tổng số gen cho người đó. Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu theo cả hai nghĩa này, vì Đức Maria không chỉ mang thai Đức Giêsu mà còn di truyền gen cho thân thể Ngài, do đó mà qua Đức Maria – chứ không phải Đức Giuse, Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đa-vít về phương diện nhục thể.

Giáo Hội mừng kính Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm dương lịch, cũng là ngày cầu xin hòa bình cho thế giới. Mẹ luôn kỳ diệu, không ai hiểu hết tình mẫu tử. Có một sự trùng hợp kỳ lạ: Mẹ hoặc Má (tiếng Việt), Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman – tiếng Pháp), Mutter (Mumie – tiếng Đức), Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre (Mamma – tiếng Ý), Moeder (Mummie – tiếng Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ?

Người ta nhận thấy có hai điều thú vị về cha mẹ: [1] Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; [2] Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh. Mẹ là “nội tướng” tạo sự êm ấm trong gia đình. Bàn tay phụ nữ thật kỳ diệu, làm những việc-không-tên, nhưng thiếu bàn tay của người mẹ thì mọi thứ trở nên bừa bộn. Tất nhiên người cha cũng có một vị trí nhất định. Người mẹ và người cha bổ túc lẫn nhau để duy trì gia đình trong ấm ngoài êm.

Người Anh có câu: “Người ta có th mua tt c, tr cha m. Cha hoặc mẹ đều có vị trí và vị thế không thể hoán đổi, nhưng mẹ luôn dễ gần gũi hơn. Mẹ là tất cả của cuộc đời con cái, mẹ như gà mẹ xòe cánh che chở con khỏi bị diều hâu làm hại: “Nơi n náu yên n nht là lòng m (Florian). Mẹ được ví von bằng những gì giản dị, gần gũi và thân thiết nhất: Vầng trăng, khúc ca dao, cổ tích, quê hương, lọn mía, nải chuối, buồng cau, tiếng dế,… Còn ca dao Việt Nam so sánh:

M già như chui Ba Hương

Như xôi Nếp Mt, như Đường Mía Lau

Xin được “mở ngoặc” nhỏ: Chuối Ba Hương là chuối Bà Hương. Sách “Vân Đài Loại Ngữ” nói đó là chuối Ba Tiêu, ở xứ Giao Châu có nhiều loại chuối, trong đó có chuối lùn (bà lùn). Từ đó nhân gian suy nghĩ thêm chuối Bà Lùn cùng “ruột thịt” với chuối Ba Hương và tồn tại từ buổi khê động hái lượm xứ Giao Châu. Xôi nếp một còn gọi là xôi nếp mật, người ta có món xôi mật; mía lau là một loại mía ngọt lịm, dùng để làm đường. Nói chung, đó là những thứ ngon ngọt nhất và đậm đà “chất” quê hương – vì Mẹ là Quê Hương. Ca dao Việt Nam ân cần đề cao công lao của cha mẹ:

Công cha nghĩa m cao vi

Nhc nhn chng qun sut đi vì ta

Nên người con phi xót xa

Đáp đn nghĩa nng như là tri cao

Đi ơn chín ch cù lào

Sinh thành k my non cao cho va

Mẹ là câu chuyện cổ-tích-có-thật nghe mãi không chán, và cũng không ai khả dĩ hiểu hết Tình Mẫu Tử. Nói đến song thân phụ mẫu, người ta đề cập chín đức cù lao: [1] Sinh (cha mẹ đẻ ra), [2] Cúc (nâng đỡ), [3] Phủ (vỗ về vuốt ve), [4] Súc (cho ăn bú mớm), [5] Trưởng (nuôi nấng thể xác), [6] Dục (giáo dưỡng tinh thần), [7] Cố (trông nom, nhìn ngắm), [8] Phục (quấn quít, săn sóc không ngừng), [9] Phúc (ẵm bồng, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, sợ con bị ăn hiếp).

Nói đến tình cha nghĩa mẹ thì phải cũng phải nói tới trách nhiệm của người con. Những người trung niên trở lên chắc hẳn còn nhớ tập truyện “Nhị Thập Tứ Hiếu” (*), đó là gương hiếu thảo của 24 người con, do Quách Cư Nghiệp kể lại. Có điều “lạ” là trong 24 hiếu tử đó, đa số lại là nam giới. Ước gì cuộc đời có thật nhiều nhưng tấm gương hiếu thảo như vậy!

Nhưng thật buồn thay, vì trần gian vẫn có những nghịch tử bất nhân với chính đấng sinh thành của mình. Một trong các nghịch tử đó là Hoàng Khắc Thắng (25 tuổi), ngụ xóm 25, xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thắng bị bắt ngày 4-12-2013 vì tội nhẫn tâm đánh chết m rut là bà Nguyễn Thị Đấu (68 tuổi).

Nguyên nhân: Tối 2-12-2013, Thắng đi làm về nhưng chưa thấy mẹ nấu cơm nên gọi hỏi mẹ. Bà Đấu bị ốm nên không dậy nấu cơm được. Nghe vậy, Thắng vừa chửi bới vừa xông vào dùng tay và dép đánh tới tấp vào người bà. Hàng xóm nghe tiếng kêu chạy sang, đập cửa nhưng Thắng không mở. Khi bị dọa báo công an, Thắng mới dừng tay. Thấy bà Đấu bị thương, hàng xóm đã gọi điện báo công an và đưa bà đi cấp cứu tại trạm y tế xã Nghi Phương. Hàng xóm còn cho biết rằng Thắng thường xuyên đánh đập mẹ, nhiều hôm bà Đấu phải trốn sang nhà hàng xóm ngủ nhờ. Thật đau lòng mẹ!

Sau một đêm cấp cứu, tình trạng bà Đấu xấu hơn nên được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa huyện Nghi Lộc. Các bác sĩ phát hiện bà bị nhiều vết thương sưng tím bầm ở gáy, đầu, mặt và hai cánh tay. Sau hai ngày điều trị, bà Đấu đã tử vong vào sáng 4-12-2013. Nghịch tử Thắng có bị xử tử cũng không thể đền bù tội lỗi. Khốn nạn thay cho những nghịch tử như Thắng!

Chữ Mẹ chỉ có hai mẫu tự, thế mà con cái viết cả đời chưa xong. Mẹ luôn là điều kỳ diệu, bí ẩn, không ai hiểu hết. Trong thi phẩm “Con Cò”, thi sĩ Chế Lan Viên (1920-1989) nói về tình mẫu tử: “Con dù ln vn là con ca m, đi hết đi lòng m vn theo con. Thật cảm động biết bao! Cố NS Y Vân cũng trút niềm cảm phục tình mẹ qua ca khúc nổi tiếng “Lòng Mẹ” mà hầu như ai cũng đã hơn một lần ngâm nga: “Lòng m bao la như bin Thái Bình dt dào, tình m tha thiết như dòng sui hin ngt ngào…. Còn ca dao Việt Nam so sánh tình cha mẹ, đồng thời khuyên răn những người con:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa m như nước trong ngun chy ra

Mt lòng th m, kính cha

Cho tròn ch hiếu mi là đo con

Đối với người mẹ trần gian, ngạn ngữ Trung Hoa xác định: “Phúc đc ti mu. Quả đúng là vậy, chính Đại đế Napoléon I đã nhận xét: “Tương lai ca con là công trình ca m. Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng trái tim người mẹ vẫn là kỳ quan tuyệt với nhất.

Nói về người mẹ tâm linh – Thánh Mẫu Maria, Thánh GM Denis (cũng gọi là Dionysius, tử đạo khoảng năm 258) xác định: “Đc M là nơi nương náu ca nhng người đã hòng hư mt, là nim hy vng ca nhng người không còn hy vng.

Ngày xưa, Thiên Chúa đã phán với ông Môsê: “Hãy nói vi A-ha-ron và các con nó rng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyn Đc Chúa chúc lành và gìn gi anh em! Nguyn Đc Chúa tươi nét mt nhìn đến anh em và d lòng thương anh em! Nguyn Đc Chúa ghé mt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đt con cái Ít-ra-en dưới quyn bo tr ca danh Ta, và Ta, Ta s chúc lành cho chúng (Ds 6:23-27).

Ai cũng yêu quý hiếu tử, nhưng có trở nên hiếu tử hay không lại là chuyện khác. Nếu chúng ta thực sự là hiếu tử thì mới xứng đáng dâng lời cầu nguyện này: “Nguyn Chúa Tri d thương và chúc phúc, xin to ánh tôn nhan rng ngi trên chúng con, cho c hoàn cu biết đường li Chúa, và muôn nước biết ơn cu đ ca Ngài (Tv 67:2-3). Nếu đúng như vậy, chắc chắn Thiên Chúa sẽ rất vui mừng chấp nhận và sẵn sàng chúc lành cho chúng ta!

Theo đạo-làm-người, tu thân là điều kiện tiên quyết trong “tu luật” của mọi người: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có tu tâm sửa tính thì mới đủ đức độ để mà “tề gia”, rồi mới có thể “trị quốc” và “bình thiên hạ”. Những người có quyền mà không có đức thì chỉ “hành” người khác và làm rối loạn xã hội. Rất nguy hiểm! Tác giả Thánh Vịnh hy vọng và cầu chúc: Ước gì muôn nước reo hò mng r, vì Chúa cai tr c hoàn cu theo l công minh, Người cai tr muôn nước theo đường chính trc và lãnh đo muôn dân trên mt đt này. Ước gì chư dân cm t Ngài, ly Thiên Chúa, chư dân phi đng thanh cm t Ngài (Tv 67:5-6).

Là hậu sinh, và diễm phúc được lãnh nhận đức tin, chúng ta hãy đồng tâm nhất trí cầu xin: “Nguyn Chúa Tri ban phúc lc cho ta! Ước chi toàn cõi đt kính s Người! (Tv 67:8). Được như vậy thì mới là được hưởng nền hòa bình đích thực và vĩnh cửu.

Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Ngài đã đến thế gian lần thứ nhất, và Ngài sắp trở lại lần thứ nhì với tư cách Vua Công Lý. Thời gian này là thời gian chạy nước rút – giống như trong các cuộc thi điền kinh hoặc đua xe đạp. Thánh Phaolô nói: “Khi thi gian ti hi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình ti, sinh làm con mt người đàn bà, và sng dưới L Lut, đ chuc nhng ai sng dưới L Lut, hu chúng ta nhn được ơn làm nghĩa t (Gl 4:5). Đó là đại phúc chúng ta được tận hưởng.

Đại phúc đó không hề mơ hồ hoặc viễn vông, mà rất thật: “Đ chng thc anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thn Khí ca Con mình đến ng trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Áp-ba, Cha ơi!. Vy anh em không còn phi là nô l na, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người tha kế, nh Thiên Chúa (Gl 4:6-7). Chỉ là những tội nhân khốn nạn, giống như các tử tội, thế mà chúng ta lại được trắng án; và không chỉ vậy, chúng ta còn được nhận làm con và được quyền thừa kế gia sản. Sự thật mà hầu như không thể tin được, chúng ta tưởng như giữa giác mơ (Tv 126:1), nhưng đó lại là sự thật minh nhiên!

Thật hạnh phúc vì chúng ta đang trào dâng niềm tin kính và vui mừng kỷ niệm sự kiện trọng đại: Chúa Con giáng sinh. Hôm nay, Giáo Hội kính mừng Mẹ Thiên Chúa. Đó là một cách “nối kết” rất lô-gích. Thánh sử Luca tường thuật: “Các mc đng hi h ra đi. Đến nơi, h gp Cô Maria, Chú Giuse, cùng vi Hài Nhi đt nm trong máng c (Lc 2:16). Lời kể ngắn gọn nhưng vẫn có thể phác họa “chân dung” một gia đình, trong đó có Người Mẹ, với Thánh Gia thì có Mẹ Thiên Chúa.

Sau khi đã biết điều quan trọng, các mục đồng liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Ôi, không “tròn mắt” sao được khi nghe những điều “khác thường” như vậy! Thánh Luca mô tả thêm: “Còn Cô Maria thì hng ghi nh mi k nim y, và suy đi nghĩ li trong lòng (Lc 2:19). Đó là bản chất phụ nữ, “phong cách” của người mẹ là thế: Chịu đựng, âm thầm, lặng lẽ, khiêm nhường, chịu lụy, dịu dàng,… Riêng các người chăn chiên, Thánh Luca cho biết rằng “họ ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20).

Sự thật minh nhiên được ghi lại trong Kinh Thánh: “Khi Hài Nhi được đ tám ngày, nghĩa là đến lúc phi làm l ct bì, người ta đt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà s thn đã đt cho Người trước khi Người được th thai trong lòng m (Lc 2:21). Câu này nói về Người Con nhưng vẫn mặc nhiên nói đến Người Mẹ, nói đến Tình Mẫu Tử, nói đến Lòng Mẹ của Đức Maria – người được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa và được là người-mang-Thiên-Chúa.

Năm nay, năm 2017, là dịp kỷ niệm bách chu niên sự kiện Mẹ Thiên Chúa hiện ra với ba trẻ tại Fátima (1917), mỗi chúng ta phải nghiêm túc tự xét mình qua ba mệnh lệnh của Đức Mẹ: [1] Tôn sùng Mu Tâm, [2] Ln Chui Mai Côi, và [3] Canh tân đi sng. Được như vậy thì chắc chắn có hòa bình đích thực. Nhưng nên lưu ý, hòa bình có hai dạng: Hòa bình xã hội và hòa bình tâm hồn. Có hòa bình tâm hồn, hòa bình tâm linh, tất nhiên sẽ có hòa bình xã hội. Chiến tranh bom đạm, dù là nguyên tử hoặc hạt nhân, cũng không độc hại bằng chiến tranh tinh thần!

Trong Nhật Ký, Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska (1905-1938) cho biết: “Tôi càng bt chước M Thiên Chúa, tôi càng nhn biết Thiên Chúa – The more I imitate the Mother of God, the more deeply I get to know God” (s 843).

Có người mẹ hiền đảm đang thì gia đình sẽ êm ấm, gia đình nào cũng trên thuận dưới hòa thì xã hội sẽ an ninh, xã hội an ninh thì đất nước sẽ bình an, đất nước nào cũng bình an thì thế giới sẽ hòa bình. Đó là điều ai cũng mong muốn, vậy hãy bắt đầu mọi thứ từ gia đình để có thể thay đổi thế giới!

Ly Thiên Chúa, li mt năm na va qua đi, và mt năm mi va khi đu, xin tha th nhng li lm ca chúng con trong năm cũ, và xin chúc lành cho chúng con trong năm mi này. Xin giúp chúng con biết sng đúng tinh thn yêu thương đ kiến to hòa bình nhng nơi chúng con hin din, xin cho bt k ai gp chúng con cũng gp được Ngài nơi chúng con, và h kh dĩ nhn biết chúng con là môn đ ca Ngài. Xin Thánh Mu Thiên Chúa nguyn giúp cu thay và hướng dn chúng con trên mi no đường trn gian đy bt trc này. Chúng con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ chúng con. Amen.

 

(*) 1. Ngu Thuấn ( , tức vua Thuấn): hiếu cảm động trời; 2. Lưu Hằng ( , tức Hán Văn Đế): người con nếm thuốc; 3. Tăng Sâm ( ): mẹ cắn ngón tay, tim con đau xót; 4. Mẫn Tổn ( ): nghe lời mẹ với quần áo đơn giản; 5. Trọng Do ( ): vác gạo nuôi cha mẹ; 6. Đổng Vĩnh ( ): bán thân chôn cha; 7. Đàm Tử ( ): cho cha mẹ bú sữa hươu; 8. Giang Cách ( ): làm thuê nuôi mẹ; 9. Lục Tích ( ): giấu quýt cho mẹ; 10. Đường phu nhân ( ): cho mẹ chồng bú sữa; 11. Ngô Mãnh ( ): cho muỗi hút máu; 12. Vương Tường ( ): nằm trên băng chờ cá chép; 13.Quách Cự ( ): chôn con cho mẹ; 14. Dương Hương ( ): giết hổ cứu cha; 15. Châu Thọ Xương ( 寿 ): bỏ chức quan tìm mẹ; 16. Dữu Kiềm Lâu ( ): nếm phân lo âu; 17. Lão Lai Tử ( ): đùa giỡn làm vui cha mẹ; 18. Thái Thuận ( ): nhặt dâu cho mẹ; 19. Hoàng Hương ( ): quạt gối ấm chăn; 20. Khương Thi ( ): suối chảy, cá nhảy; 21. Vương Bầu ( ): nghe sấm, khóc mộ; 22. Đinh Lan ( ): khắc gỗ thờ cha mẹ; 23. Mạnh Tông ( ): khóc đến khi măng mọc; 24. Hoàng Đình Kiên ( ): rửa sạch cái bô vệ sinh của mẹ.

Về mục lục

.

THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI

P.Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị, thưa các bạn, có lẽ không ai dám “ tuyên xưng “ điều ấy , danh xưng ấy, nếu như không có tín điều từ Giáo Hội. Vâng, thật vậy, Tín Điều Đức Trinh Nữ Maria Tron Đời Đồng Trinh là Mẹ Thiên Chúa là một trong bốn tín điều cao trọng, mà Giáo Hội đã long trọng tuyên tín.

Tìn điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa có từ năm 431, do Công Đồng Epheso . Nhưng vẫn đứng thứ II sau tín điều “Tron Đời Đồng Trinh ” vào thế kỷ thứ 3.

Như vậy, trải qua thời gian hơn 16 thế kỷ, tín điều trên vẫn được duy trì bền vững, cho đến đời Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, được thiết lập vào ngày 11/10 hằng năm. Nhưng, đến đời Đức Phaolo đệ VI, được đổi sang ngày 01/01 hằng năm. Như vậy, ngày 0I/01 là ngày “ Hioà Bình Thế giới”. Ngày mà, Liên Hiệp Quốc thiết lập để tôn vinh nền hòa bình cho thế giới.

Vâng, theo  điều tuyên tín từ Công Đồng Êpheso (431) thì:  “ Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không phải là Đức Maria sinh ra bản tính Thiên Chúa, mà là Đức Trinh Nữ Maria đã sinh ra một Người Con, Người Con là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đức Maria không những sinh ra phần xác thể ( tức sự hữu hình) của Chúa Giêsu, mà còn sinh ra Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của Đấng đã có trước Mẹ. “

Rõ ràng, căn cứ vào Lời Tin Mừng hôm nay ( Lc 2, 16 -21) , chúng ta thấy rõ sự thật nầy.” Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đật tên cho Hài Nhi là “GIÊSU”, đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.” ( Lc 2, 21)

Như vậy, GIÊSU là Con Bà Maria, GIÊSU có nghĩa là : ” Đấng Cứu Chuộc “ hay “Giải Thoát”. Nhưng, GIÊSU là Ngôi Lời của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật , vậy, Đức Bà Maria là “ MẸ THIÊN CHÚA “.

Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng : “ Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. … “ ( 16)

Như vậy, cảnh tượng Gíáng Sinh là một quang cảnh đơn sơ, mộc mạc, có một Thánh gia, nơi đó ẩn chứa một mầu nhiệm thiêng liêng, nơi Ngôi Lời đã làm Người. Một người mẹ đã hạ sinh một Người Con, nhưng Người Con ấy là Đấng được sinh ra để cứu chuộc nhân loại. Cùng với người Dưỡng Phụ là thánh Giuse, một con người “làm chứng” về một mầu nhiệm. Vâng, thánh Giuse , với vai trò chứng nhân là một người công chính, âm thầm nhưng cao trọng, bởi vì ngài đã đóng trọn “vai trò” trong lịch sử cứu độ của Ngôi Lời thiên Chúa. Một sự chở che, một sự săn sóc, một sự cung kính Hài Nhi , Con Thiên Chúa . Một mầu Nhiệm quá đỗi lớn lao của Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người, Con Thiên Chúa, có nghĩa là “Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người”. Nhưng, Ngôi Vị ấy được Nhập Thể trong cung lòng của Một Trinh Nữ, Vâng, Trinh Nữ ấy tên là MARIA.

Vâng, một tước vị cao cả tuyệt vời, một cung lòng vẹn sạch, không tỳ ố, một nơi chốn cho Ngôi Vị Thiên Chúa ẩn mình. Như vậy, Đức Trinh Nữ Maria Tron Đời Đồng Trinh là một tín điều cao trọng, hẳn nhiên , Mẹ là MẸ THIÊN CHÚA .

Vâng, Đức Giáo Hoàng Phaolo VI đã đặt ngày lễ nầy vào ngày 01/01 hằng đầu là hợp lý, mặc nhiên là tôn vinh Mẹ Thiên Chúa, đấng đã sinh ra một Mầu Nhiệm là Đức Giêsu – Kitô, hầu cứu chuộc thế gian. Đức Kitô là vị Vua Hòa Bình, vậy, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Vua Hòa Bình là Đấng mang lại sự Bình An tuyệt đối bởi Thiên Chúa.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Ds 6, 22 -27), Thiên Chúa phán cho Moisen về phương cách để Ngài chúc phúc là : “ Kêu cầu Danh Ngài, là bảo hộ, thương xót và ban bình an “.

Bài Đọc II Thư Thánh Phaolo gởi cho Gíao Đoàn Galat ( Gl 4, 4-7) như sau : “ Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Mình tới, sinh ra làm Con một người phụ nữ, và sống dưới lề luật…. “ ( c 4)

Vâng , sự suy luận của nhân thế muôn đời là của nhân thế, nhưng sự thông ban Thần Khí là sự thông hiểu. sư thông ban mầu nhiệm hầu những vị tông đồ kế tục là các Đức Giáo Hoàng định tín được những sự lạ lùng bởi Thiên Chúa.

Như vậy, tước hiệu  “Nữ Vương Hòa Bình “, hay “Nữ Vương ban sự Bình An”, chính là sự xác quyết những định tín về Đức Mẹ. Vâng, chỉ có đấng sinh ra Vua Hòa Bình là Đức Giêsu- Kitô, thì đấng ấy xứng danh là Mẹ Thiên Chúa và người hằng chuyển cầu ơn Hòa Bình cho thế gian, và như lời Giao1 Hội hằng kêu cầu Mẹ : “Thánh Maria , Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử “ ./. Amen

Lạy Thiên Chúa là Cha, dù nhân loại bất xứng, nhưng Cha hằng tuôn đổ ơn lành, như xưa Cha đã khấng ban qua ngôn sứ Moisen, là : “Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ chúc phúc “.  Vì vậy, Thánh Tử Giêsu là một nguồn ân phúc nơi Cha đã ban xuống trên nhân loại, ngõ hầu nhờ Người mà muôn loài được diễm phúc. Nhưng, khi sinh ra làm Người, thì người đã chọn cho mình một người Mẹ, để ứng nghiệm Lời Cha. Ngôi Lời đã tự hạ và được sinh ra bởi một Trinh Nữ Maria, vâng, Trinh Nữ ấy chính Mẹ Thiên Chúa, bởi vì đã hạ sinh Ngôi Lời là Thiên Chúa thật.

Xin cho con người mọi thời đại biết nhận ra chân lý đích thật ấy mà tôn thờ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ./. Amen

Lạy Đức Mẹ, xin Đức Mẹ cầu nguyện cùng Đức Chúa Giêsu, là Con Đức Mẹ, xin Người chúc sự bình an cho chúng con khi nầy và trong giờ lâm tử . Amen

Về mục lục

.

NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH

JM. Lam Thy

Sách Giáo lý HTCG (số 526) đã viết về lễ Giáng sinh: “Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Ki-tô “thành hình” nơi chúng ta (Gl 4, l9). Giáng Sinh là mầu nhiệm của việc “trao đổi kỳ diệu” này: Ôi việc trao đổi diệu kỳ! Đấng sáng tạo loài người, đã đoái thương sinh làm con một Trinh Nữ, đảm nhận một xác thể và một linh hồn, và đã ban cho chúng ta thiên tính của Người khi làm người mà không cần đến sự can thiệp của con người! (Tiền xướng tuần bát nhật Giáng Sinh).“  Quả thực là một “trao đổi diệu kỳ”: Thiên Chúa xuống thế trong “một xác thể và một linh hồn” của người phàm “mà không cần đến sự can thiệp của con người”, với mục đích là ban cho con người có được “thiên tính của Người.”

Cuộc trao đổi kỳ diệu này chỉ thực hiện được nhờ Đức Trinh nữ Maria làm trung gian. Sự trung gian đó được Đức GH Phan-xi-cô gọi là “bản lề” trong bài giảng tại thánh lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa (01/01/2015): “Nhục thể (caro) của Đức Ki-tô – điều mà Tertulian nói, là bản lề (cardo) của ơn cứu độ của chúng ta – đã là một gút nối lại với nhau trong cung lòng của Mẹ Maria (x. Tv 139, 13). Sự không thể tách rời này cũng thật rõ ràng từ sự kiện Đức Maria, được chọn từ trước để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, đã cùng chia sẻ cách gần gũi trong toàn bộ sứ mạng của Người, vẫn ở bên cạnh Con của Mẹ cho đến tận cùng tại đồi Can-vê.” Chính nhờ Đức Mẹ “xin vâng” để làm “bản lề” cho cuộc “trao đổi kỳ diệu”, Đức Giê-su mới có thể “nhập cuộc” thi hành sứ mạng cứu chuộc nhân loại, ban bình an cho trần thế. Và vì vậy mà Giáo hội tuyên xưng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là Nữ Vương Hòa Bình.

Khi nói Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng không ít người phủ nhận (như những bè rối, phản Ki-tô ở thế ký III, IV, Nes-tô-ri-ô thế kỷ V, kể cả trải dài theo lịch sử Giáo hội cho tới hiện nay cũng vẫn còn). Họ lý luận: “Nếu đã nói Thiên Chúa dựng nên (tức là sinh ra) con người, thì làm sao con người có thể sinh ra Thiên Chúa được? Ấy là chưa kể Người Con do Đức Mẹ sinh ra lại là Con Thiên Chúa thì càng vô lý hơn.” Mới thoạt nghe thì thấy cũng có lý, vì xét trên triết lý nhân sinh, con người không thể nào sinh ra Thiên Chúa được. Đức Maria quả thật đã không sinh ra Thiên Chúa.

Tuy nhiên, khi đưa ra lý luận phản bác như vậy, họ đã quên mất một điều: Nếu họ tin có một Ông Trời đã dựng nên cả vũ trụ và con người thì đối với Người, mọi sự “không thể” đều trở thành “có thể” (“Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” – Mt 19, 23; “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” – Lc 1, 37). Rõ ràng lập luận phản bác nêu trên phản ảnh thực chất tư tưởng loài người, mà như thế thì làm sao có thể “suy sự Đức Chúa Trời” cho được? Ấy cũng bởi vì “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Vâng, “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16, 23).

Còn vấn đề tại sao Đức Mẹ lại sinh Con Thiên Chúa, thì phải hiểu đây là một mạc khải mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nếu để cứu độ loài người, mà Thiên Chúa bay vù một cái từ trời cao xuống, thì chắc chắn chẳng ai tin và sẽ cho đó chỉ là tà ma quỷ mị, và khi chết trên thập giá thì sẽ bị phỉ nhổ “chết như thế là đáng” (như đã thực sự xảy ra). Còn nếu chỉ “phán một lời” là nhân loại sẽ được cứu rỗi, thì loài người với sự bất toàn và cứ đòi được “thực mục sở thị”, sẽ không nhận thức được và càng trở nên tự cao tự đại, rồi nhơn nhơn sa vòng tục luỵ mà cứ tưởng đó là Thiên đàng, Niết bàn. Chính vì thế mới cần một người bằng xương bằng thịt như bao người khác nhưng có bản tính Thiên Chúa, để thi hành sứ vụ cứu độ nhân thế. Mà để người ấy hiện diện trên trái đất như loài người, thì lại phải cần có một bà mẹ mang thai và sinh đẻ như mọi bà mẹ khác. Người được chọn làm Mẹ đó chính là Đức Maria. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, vâng phục thánh ý Chúa Cha đã “sinh làm con một người đàn bà và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật” (Gl 4, 4-5). Như vậy thì quả nhiên Đức Mẹ đã sinh ra Thiên Chúa, nhưng phải xác tín đây là Thiên-Chúa-làm-người. Vậy thì còn tước hiệu nào xứng hợp hơn để nói về Ðức Maria trong hoàn cảnh này bằng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”?

Nhiều người cứ cho rằng mãi về sau này Giáo Hội mới tôn xưng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Không phải vậy, ngay từ khi Đức Mẹ “xin vâng” đón nhận Người Con vào cung lòng, thì Mẹ đã được người chị họ (bà Ê-li-da-bet) chúc tụng: “Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy” (Lc 1, 43). Cũng cần nói thêm rằng, đến chính ngay Đức Maria khi được sứ thần truyền tin, cũng bất ngờ và sửng sốt thốt lên: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1, 34). Nhưng vì đây là việc làm của Thiên Chúa (“Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” – Mt 1, 35-37); nên Đức Maria mới “xin vâng” đón nhận đặc ân cao trọng đó.

Điều đó lại càng chứng tỏ Tình Yêu Thiên Chúa bao la khôn cùng, Người yêu thương đến độ còn muốn tôn vinh con người, cho dầu chẳng phải ai cũng được diễm phúc cưu mang và sinh hạ Thiên Chúa như Đức Maria. Người muốn dùng con người như những khí cụ hữu hiệu để Người luôn được “hình thành” (Gl 4, l9) nơi lòng dạ con người và được sinh ra ở mọi thời (“Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20).

Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã tôn vinh con người qua mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa, Người còn muốn con cái mình được vui hưởng hạnh phúc trong an bình. Vì thế, Người đã dùng các Thiên thần (là những sứ giả thân tín của Người) đem Lời chúc thần thiêng xuống cho loài người “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Như vậy, Đức Giê-su Con của Ðức Maria đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa cùng nhà Ða-vít (“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” – Lc 32-33). Đồng thời, cũng chính Người sẽ đem lại hòa bình cho nhân loại và vinh quang cho Đức Chúa Trời. Còn Ðức Maria, Mẹ của Người thì luôn ghi nhớ những điều ấy và suy nghĩ trong lòng (Lc 2, 19).

Nhận rõ chân lý ấy, Ðức Chân phước GH Phao-lô VI đã thiết lập ngày Hoà bình Thế giới đầu tiên vào ngày 01/01/1968, nhằm khuyên mọi Ki-tô hữu hằng năm hãy dùng ngày Ðầu Năm để suy nghĩ và cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Và kể từ đó đã thành truyền thống, cứ vào ngày đầu năm dương lịch, các vị Giáo hoàng lại gửi Sứ điệp Hòa Bình đến toàn thế giới, nhằm kêu gọi các tín hữu – và nói chung, toàn thể nhân loại – cùng chung tay góp sức, thêm lời cầu nguyện để kiến tạo một nền hoà bình đích thực cho loài người (“Ngày này là thành quả trực giác của Đức Phao-lô VI theo sự quan phòng của Chúa, và được vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là ĐGH Gio-an Phao-lô II tiếp tục với đầy xác tín, việc cử hành Ngày Hòa Bình này đã giúp Giáo Hội, qua dòng thời gian, với những Sứ Điệp được công bố nhân dịp này, phát triển một đạo lý sáng ngời bênh vực thiện ích căn bản của con người.” – Sứ điệp “Ngày Hoà bình Thế giới lần thứ 41 – năm 2008” của ĐTC Bê-nê-đic-tô, số 15).

Ngày đầu năm (dương lịch, âm lịch, và nói chung là tất cả các loại lịch hiện hữu) là ngày sum họp gia đính, để cầu nguyện, cầu chúc cho nhau những điều tốt lành, an vui. Đêm Giáng sinh, Thiên Chúa đã ban tặng “món quà an bình” vô giá là chính Con Một xuống thế làm người trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Chính Đức Mẹ đã cưu mang và sinh hạ ân sủng an bình cao quý vô song đó: Đức Vua Hoà Bình Giê-su Ki-tô. Cũng chính là từ nơi Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ đã hiện thực hoá lời chúc thần thiêng của Thiên Chúa đến cho nhân loại: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Như vậy, cùng với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Đức Maria còn là Mẹ của các gia đình – Người Mẹ đã đem an vui thái hoà tới cho đàn con nơi trần thế. Thật vô cùng ý nghĩa khi Giáo Hội tôn vinh Mẹ là Nữ Vương Gia Đinh, Nữ Vương Hoà Bình, và chọn ngày đầu tiên của Năm Mới – trùng vào ngày lễ kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa – làm ngày cầu nguyện cho hoà bình thế giới.

Trong Sứ điệp “Ngày Hoà Bình Thế Giới 2016” (số 4), ĐGH Phan-xi-cô đã nhấn mạnh đến nền hóa bình thế giới cần được nối kết mật thiết với việc vinh danh Thiên Chúa: “Sự thờ ơ với Thiên Chúa vượt quá phạm vi nội tâm và tinh thần của bản vị riêng rẽ, và xâm lấn phạm vi công cộng xã hội. Như ĐTC Biển Đức XVI đã khẳng định, “có một nối kết mật thiết  giữa việc vinh danh Thiên Chúa và hoà bình của con người trên trái đất” (Diễn văn trrước ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh 7-1-2013). Thật thế, “không có sự rộng mở siêu việt, con người dễ dàng trở thành mồi cho chủ thuyết duy tương đối và rồi sẽ khó mà hành động theo công lý và dấn thân cho hòa bình” (Ibidem). Việc lãng quên và khước từ Thiên Chúa dẫn đưa con người tới chỗ không thừa nhận luật lệ cao hơn mình nữa, và chỉ lấy mình làm quy tắc, và chúng đã tạo ra sự tàn ác và bạo lực vô chừng mực (ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI, phát biểu trong ngày liên tôn cầu nguyện cho công lý và hoà bình tại Assisi – ngày 27/10/2011).”

Tiếp theo, ĐGH Phan-xi-cô khẳng định: “Hoà bình là hoa trái của một nền văn hoá liên đới, thương xót và trắc ẩn. Ý thức được sự đe dọa của một việc toàn cầu hóa sự dửng dưng, chúng ta không thể không thừa nhận rằng, trong bối cảnh như miêu tả trên đây, cũng có nhiều sáng kiến và hoạt động tích cực làm chứng cho sự trắc ẩn, lòng thương xót và tình liên đới mà con người có khả năng làm được.” (Sđ “Ngày Hoà Bình Thế Giới 2016”, số 7). “Hoà bình trong dấu chỉ của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trong tinh thần của Năm Thánh  Lòng Thương Xót, mỗi người được mời gọi nhận ra sự thờ ơ được biểu lộ trong cuộc sống của mình như thế nào, và lựa chọn một dấn thân cụ thể để góp phần cải tiến thực tại trong đó mình đang sống, bắt đầu từ gia đình mình, từ xóm giềng của mình hay từ môi trường làm việc.” (ibid, số 8)

Mục đích ngày thế giới hoà bình không chỉ là “hoà đồng tôn giáo”, mà còn là “hoà đồng nhân loại”. Thế giới này còn quá nhiều những chiến tranh khủng bố bằng bom đạn, bằng những vũ khí tối tân nhất. Khốc liệt hơn là những cuộc chiến tranh khủng bố bằng tinh thần, bằng tư tưởng vẫn đầy rẫy (“Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.” – Sđ “Ngày Hoà bình Thế giới 2013”, số 1).

Vì thế, nên vấn đề đặt ra là cả thế giới cần phải ngồi lại với nhau để tim kiếm một giải pháp chung xây dựng hoà bình. Một cách cụ thể là ngồi lại với nhau để trực diện đối thoại. Kể ra cũng khó khăn lắm để có thể thực hiện được mục tiêu đó. Thế giới đã chẳng có một Liên Hiệp Quốc từ trên nửa thế kỷ rồi đó sao? Vậy mà ngay trong nội bộ tổ chức này cũng vẫn còn không ít những bất đồng. Tuy nhiên “Thà thắp lên một ngọn đèn còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”, nếu cứ ngồi nguyền rủa bóng tối thì liệu có sáng lên được không? Hoá cho nên dù khó khăn cách mấy cũng phải làm, kiên trì làm. Các tôn giáo nói chung – và cách riêng, những Ki-tô hữu – phải là những người đi tiên phong, thắp sáng lên ngọn đèn Hoà Bình bất diệt.

Những người có niềm tin tôn giáo thường được gọi là “tín đồ” (tín: niềm tin; đồ: học trò, môn đệ) hay “tín hữu” (hữu: bạn bè). Những người tin vào Ki-tô Giáo thì gọi là Ki-tô hữu (“bạn bè cùng tin vào Đức Ki-tô”, hay cụ thể hơn là “bạn của Đức Ki-tô” vì chính Người đã dạy “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, mà là bạn hữu” – Ga 15, 15). Đã là bạn bè thì tại sao lại không thể ngồi lại để nói chuyện (đối thoại) với nhau, hoặc cùng nhau đối thoại với Đấng Siêu Việt mà mình đã tin? Rộng ra hơn nữa thí người năm châu bốn biển vẫn là anh em với nhau (“tứ hải giai huynh đệ”). Đã là anh em bè bạn với nhau, thì khi có những mâu thuẫn, bất đồng, đối kháng; vẫn có thể ngồi lại với nhau để đối thoại, tìm ra những điểm tương đồng, những điểm chung; chớ không thể biến đối kháng thành đối nghịch và từ bạn bè trở thành thù địch.

Trong một gia đình đông con, mỗi người con là một cá tính, không ai giống ai. Có người con hiền lành thì cũng có người con hung dữ, có người con ngoan ngoãn thì cũng có người con ngỗ nghịch. Đó là lý do giải thích những mối bất hoà trong gia đình, nhẹ thì chỉ là lục đục cãi nhau, nhưng nặng thì có thể đi đến cảnh gia đình tan vỡ, ly tán. Ở một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội cùng chung một núm ruột, một dòng máu, mà còn như vậy, huống chi ở cả tổng thể xã hội loài người. Xã hội loài người vốn chưa phải là Thiên đàng, là Niết bàn, là Bồng lai tiên cảnh; thì cũng vẫn cần, rất cần những hành trình, những hướng lộ dẫn tới hoà giải dân tộc, dẫn tới hoà bình thế giới. Trong gia đình thì người Mẹ chính là mối dây thân ái liên kết tất cả các thành viên, không ai thay thế được. Có thể coi người Mẹ là biểu tượng tình yêu, hoà giải trong gia đình. Quả thực không có gì bằng Mẹ, không có gì đẹp hơn Mẹ. Người Mẹ trần gian còn thế, huống hồ người Mẹ trên hết mọi người Mẹ thế trần: Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Vì thế, cầu cho hoà bình thế giới, tất yếu điểm cậy trông duy nhất chỉ có thể là Nữ Vương Hoà Bình vậy.

Như vậy thì ngày đầu năm phải là ngày dâng hiến mỗi gia đình, mọi gia đình cho Trái Tim vẹn sạch Đức Maria Mẹ Thiên Chúa – Nữ Vương Gia Đình – Nữ Vương Hoà Bình – để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Xin cùng hiệp ý với ĐTC trong Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2016 (số 8): “Tôi tín thác những suy tư này, cùng với những lời chúc tốt đẹp nhất của tôi cho Năm Mới, cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc, Mẹ chúng ta, Đấng quan tâm đến các nhu cầu của gia đình nhân loại chúng ta, để Mẹ sẽ giành được từ Con Mẹ là Chúa Giêsu, Thái Tử Hoà Bình, sự ban ơn cho những lời cầu nguyện của chúng ta và phúc lành cho những nỗ lực sống hằng ngày của chúng ta cho một thế giới huynh đệ và hiệp nhất.”

Ôi! Lạy Mẹ Maria! Chúng con cảm tạ Mẹ bởi vì hôm nay, ngày đầu Năm Mới 2017, chúng con nhìn lên Mẹ: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa – Mẹ của Lòng Thương Xót; Mẹ là Nữ Vương của mỗi gia đình chúng con, Mẹ còn là Nữ Vương Hoà Bình của toàn thế giới, Mẹ chính là Mùa Xuân vĩnh cửu của nhân loại. Với tình mẫu tử chan hoà Tình Yêu Thiên Chúa bao la, Mẹ luôn yêu thương ấp ủ mọi người chúng con trong trái tim vẹn tuyền của Mẹ, như xưa Mẹ đã yêu thương ấp ủ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa và cũng là con của Mẹ. Cúi xin Mẹ giúp chúng con luôn biết sống ý nghĩa của Mùa Xuân vĩnh cửu, để như Mẹ, chúng con biết “xin vâng” đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào trong lòng chúng con. Từ đó, Mẹ sẽ bầu cử cùng Chúa cho chúng con biết sám hối và đổi mới tâm hồn, biết tự hoà giải bản thân để đi đến hoà giải với anh em hầu đóng góp một chút nào đó cho nền hoà bình thế giới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC MẸ HÒA BÌNH

AM Trần Bình An

Đài truyền hình Al Arabiya cho hay cô bé Ghina Bou Hemdan, 9 tuổi, là một trong các thí sinh nhí tham gia vòng thử giọng của The Voice Kids, phiên bản Arab đầu tháng Một, 2016. Cô bé vừa cất tiếng hát đã chinh phục được nữ ca sĩ người Lebanon Nancy Ajram và khiến cô ngay lập tức bấm chuông để quay ghế lại. Tuy nhiên, chỉ vài giây sau, Hemdan bất ngờ nức nở rồi ôm mặt khóc.

Cô bé khiến gia đình trong hậu trường cũng như nhiều khán giả cũng khóc theo. Ca sĩ Ajram đã nhanh chóng chạy lên sân khấu, lau nước mắt và an ủi cô bé. Hemdan sau đó vừa hát tiếp ca khúc vừa khóc. Cả gia đình lẫn khán phòng như vỡ òa khi Ajram cũng hòa giọng với cô bé.

Một nam giám khảo đã quyết định bấm nút chọn của mình và thành viên còn lại để ba chiếc ghế đỏ cùng quay về sân khấu. Điều đó có nghĩa là Hemdan được cả ba giám khảo mời vào đội của mình. Màn biểu diễn kết thúc với những tràng pháo tay vang dội khắp khán phòng.

Bản gốc của ca khúc “Give us childhood, give us peace”(Cho em tuổi thơ, cho em hòa bình) do ca sĩ Lebanon Remi Bandali thể hiện, mô tả tình cảnh đau khổ mà trẻ em nước này phải chịu đựng trong cuộc nội chiến kéo dài từ năm 1975 đến 1990, làm khoảng 120.000 người thiệt mạng.

Hemdan cho hay cô bé muốn hát ca khúc này để đấu tranh cho quyền trẻ em ở quê hương Syria của mình, nơi cuộc nội chiến đã bước sang năm thứ 6, khiến gần 250.000 người thiệt mạng. Phần biểu diễn của Hemdan hiện đã thu hút hơn 6,2 triệu lượt xem trên YouTube.(Anh Ngọc, Vnexpress) 

Ước vọng hoà bình cháy bỏng của cô bé Ghina Bou Hemdan cũng là điều nhân loại mong muốn từ nghìn năm nay. Nhưng hoà bình thế gian rất mong manh, nhanh chóng tan vỡ như bong bóng xà bông, bởi những quyền lực tăm tối phá tan. Hôm nay, ngày Tân niên 2017, toàn thể Giáo Hội mừng kính lễ Đức Mẹ Thiên Chúa. Các thiên thần đã hân hoan ca mừng Chúa Giáng Sinh, đem lại bình an cho nhân loại: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương,” loan báo Chúa đến, ban hòa bình viên mãn cho thế gian, đang chìm trong tăm tối, nhiễu nhương. 

Hoà bình của Chúa không phù du, phiến diện, khiếm khuyết, khập khiễng, như của thế gian, mà tuyệt đối hoàn hảo, tuyệt mỹ, tồn tại viên mãn. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” (Ga 14, 27)

Mẹ Maria là người đầu tiên được diễm phúc vinh hưởng bình an của Đấng Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng. Vì thế, Giáo Hội đã tôn vinh Mẹ là Nữ Vương Hoà Bình. Nhân ái, khiêm nhu, tự hiến, Mẹ đã nêu gương cho nhân loại sống thế nào, để có thể nhận được hoà bình của Chúa.

Trong Tin Mừng thánh Luca hôm nay, những trẻ mục đồng noi gương Mẹ, cũng được chung hưởng bình an, khi sốt sắng lắng nghe thiên thần báo: “Ðừng sợ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vì Cứu Chúa, tức là Ðức Kitô Chúa, trong thành của Ðavit.”  Họ đã mau mắn đón nhận Tin Mừng, thực thi, sống theo Tin Mừng, rồi tích cực chia sẻ Tin Mừng, làm chứng tá cho mọi người.

Nhận Tin Mừng 

“Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.” Với tâm tình chân thành, đơn sơ, chẳng mảy may cân nhắc, thắc mắc, nghi ngờ, trì hoãn, họ vui vẻ, thành thật, cung kính mở rộng lòng, đón nhận Tin Mừng.

Trước đó, Mẹ Maria khiêm hạ, hoàn toàn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng, khi nghe sứ thần Gabriel báo tin hồng ân.“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Thoạt tiên, Mẹ thật sự bất ngờ, bối rối trước mầu nhiệm cao cả vĩ đại, là được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa! Mẹ đã nêu tấm gương sáng chói cho nhân loại. Mẹ bạo dạn tuyên xưng đức tin và hân hoan đón nhận Tin Mừng, mặc dầu Mẹ biết rằng, bao nhiêu đau khổ, khó khăn, vất vả, thách đố đang chờ đón bủa vây.

 Sống Tin Mừng 

“Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.” Không có gì sánh nổi hạnh phúc được chiêm ngắm Hài Nhi Emmanuel giáng thế. Thấy Chúa là đại phúc. Ở gần Chúa là hạnh ngộ. Gặp được  Chúa là diễm phúc biến đổi cuộc đời, như Giakêu, như Matthêu, như người đàn bà tội lỗi, đều được ơn tái sinh, như kẻ mù được sáng, như người phung được lành, như kẻ chết sống lại.

Mẹ Maria đã hoàn toàn bỏ mình, để sống theo Tin Mừng, ngay từ khi đón rước Hài Nhi với hai tiếng “Xin vâng.” Mẹ kiên trung trải bao gian khó, đồng hành với Đức Giêsu đến tận đồi Golgotha. Mẹ Maria đã toàn tâm, toàn ý sống cùng, sống vì, sống với Tin Mừng.

Loan Tin Mừng 

“Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.” Những mục đồng hớn hở ra về, không chịu im lặng, giữ bí mật những điều chiêm ngưỡng, mắt thấy, tai nghe, mà trái lại, nhiệt thành đi loan báo Tin Mừng cho mọi người. Tất nhiên, còn có rất nhiều kẻ bé mọn khác, như nông dân, công nhân lân cận, cũng đều được diễm phúc đến kính bái Hài Nhi Emmanuel.

Mẹ Maria nghe tin báo chị họ Elizabeth mang thai cách lạ lùng được sáu tháng, liền tất tả tìm đến chia sẻ Tin Mừng và Thần Khí. “Bà Êlisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần.” (Lc 1, 41) Ngay sau đó, Mẹ Maria vô cùng hoan hỷ, cung kính xướng lên bài Magnificat tuyệt diệu, cảm tạ, ngợi khen, tán dương hồng ân vĩ đại Chúa trao ban. Một diễm phúc vô song ban cho “phận nữ tỳ hèn mọn.” 

“Tình yêu Mẹ như làn gió mát, như hạt sương mai, làm tâm hồn quằn quại khao khát an bình, được êm dịu ủi an.” (Đường Hy Vọng, số 912) 

Lạy Đấng Emmanuel, Đức Chúa Ở Cùng nhân loại, xin thức tỉnh  chúng con rằng, Chúa đang đích thân đến dẫn dắt chúng con thoát khỏi chốn tăm tối, đem vào ánh sáng chân lý, sự thật và sự sống, như xưa các mục đồng được thiên thần yêu thương báo tin.

Khấn xin Mẹ Hoà Bình luôn cầu bầu, che chở, an ủi chúng con trong chốn lưu đầy gian nan, nguy khó này, để chúng con hằng được bình an, yên vui sống Năm Mới 2017 trong tay Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC MARIA GƯƠNG MẪU VỀ ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

Antôn Nguyễn Chân Hồng

Mỗi người chúng ta, dù sống trong hoàn cảnh nào hay làm bất cứ công việc gì trong xã hội, hay Giáo hội thì cuối cùng cũng cần có một tổ ấm gia đình. Và hơn ai hết, mỗi chúng ta đều mong muốn mình có một gia đình ấm áp, hạnh phúc, sum vầy. Trong gia đình đó các thành viên luôn gắn kết với nhau bằng sợi dây yêu thương.

Cũng vậy, Đức Giêsu, tuy là Thiên Chúa, nhưng khi xuống thế làm người, Ngài cũng chấp nhận sinh ra trong một gia đình nhân loại, có người mẹ là Đức Maria, và bố là thánh cả Giuse. Trong gia đình Nazareth luôn thể hiện tình yêu và hy sinh cho nhau. Nhân ngày Giáo hội mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, xin được chia sẻ đề tài: “Đức Maria gương mẫu về đời sống gia đình” với các điểm sau đây:

Đức Maria gương mẫu về đời sống đức tin

Kể từ khi Mẹ nói lời xin vâng trong biến cố truyền tin, cho đến khi đứng dưới chân thập giá ở đồi sọ. Điều ấy, chứng tỏ cho ta thấy Mẹ Maria đã sống một niềm tin phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa trong từng giây phút của cuộc đời. Đức tin của Mẹ cũng đã từng gặp phải nhiều những gian nan thử thách. Tuy vậy, Mẹ luôn phó thác và quy hướng về Thiên Chúa, Mẹ “suy đi nghĩ lại” mọi điều, nhằm tìm ra Thánh ý Thiên Chúa, để sống đẹp lòng Người.

Noi gương Mẹ Maria, chúng ta củng cố niềm tin bằng chính việc đọc, lắng nghe, và suy niệm lời Chúa. “Suy đi nghĩ lại trong lòng”, để thấy ý Chúa trong quyết tâm đón nhận thánh ý Chúa trong từng biến cố của cuộc đời. Cho dù lúc chúng ta tràn đầy niềm vui vì những thành công trong cuộc sống, hay lúc chúng ta phải đương đầu với mọi thử thách đau thương, chúng ta vẫn thực hiện ý Chúa trong cuộc sống của mình.

Chúng ta cùng với Mẹ Maria sống những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa, được thể hiện qua những mầu nhiệm kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày. Sống những mầu nhiệm ấy, có như thế đời sống đức tin của mỗi gia đình chúng ta ngày càng được nuôi dưỡng và tăng trưởng hơn.

Đức Maria gương mẫu về việc bảo vệ sự sống

Con cái được sinh ra từ tình yêu của cha mẹ, được triển nở từ tình yêu gia đình và cũng được nuôi dưỡng giáo dục khôn lớn trong đời sống gia đình. Có thể nói gia đình chính là cộng đồng của sự sống. Đức Maria đã được trao ban cho sứ mệnh cưu mang Đấng Cứu Thế, và Mẹ đã chu toàn sứ mệnh ấy. Khi vừa mới sinh hạ hài nhi Giêsu, Hêrôđê đã tìm cách sát hại hài nhi. Mẹ đã lặn lội đem Chúa vượt biên trốn sang Ai Cập để có thể bảo vệ sư sống cho con mình. Mẹ đã nuôi dưỡng cho con mình được lớn lên, đã đem con dâng con trong đền thánh theo luật Môisê, đã đưa con đi lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua theo luật.

Noi gương Mẹ, mỗi gia đình biết bảo vệ sự sống cho con cái ngay từ khi còn là thai nhi. Nhất là ngày nay nhiều gia đình do ảnh hưởng của trào lưu thực dụng, nền văn minh của sự chết, đã biến gia đình thành cộng đồng của sự chết, biết bao tệ nạn đã và đang diễn ra giết gia đình, như nạn bạo hành, nạn phá thai, ngừa thai, li dị hoặc vô luân…. Thì việc bảo vệ sự sống tinh thần thể xác cho con cái, giúp con cái tránh khỏi những độc hại của xã hội tác động làm mất sự sống linh hồn.

Nhất là giáo dục đức tin cho con cái và giúp con cái biết sống đức tin cách trưởng thành. Đặc biệt cha mẹ làm gương và cầu nguyện cho con cái, hướng dẫn chúng biết cách cầu nguyện, suy nghĩ và hành động theo đức tin Kitô giáo như Đức Maria đã gìn giữ bảo vệ Chúa Giêsu.

Đức Maria gương mẫu cho các gia đình Công giáo.

Với quan niệm gia đình là tế bào của Xã hội, là trường học và là Chủng viện đầu tiên của Giáo hội. Gia đình có tốt thì Xã hội và Giáo hội mới tốt được. Và ngược lại, nếu như gia đình bất an, lộn xộn thì Xã hội và Giáo hội không thể nào tốt đẹp hơn được. Nhìn vào thực trạng của các gia đình hôm nay, có lẽ không ai không khỏi phải băn khoăn lo lắng, bởi những trào lưu tục hóa đang từng ngày tác động lên các gia đình, đến nỗi trong Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2016 vừa qua đã phải nói lên “vui mừng và hi vọng, ưu sầu và lo lắng”.

Trong đó có những sự băn khoăn lo lắng về đời sống hôn nhân gia đình; nên đã đề ra các chủ đề Mục vụ gia đình cho ba năm (2016-2019) với những điểm nhấn cho từng năm: Năm 2016-2017: Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân; Năm 2017-2018: Đồng hành với các gia đình trẻ, và Năm 2018-2019: Đồng hành với những gia đình gặp khó khăn.

Như vậy, sự thánh thiện của gia đình nói chung, cách riêng với các gia đình Công giáo đang có nguy cơ đổ bể bởi những áp lực của môi trường xã hội gây ra. Muốn xây dựng và bảo tồn gia đình thành cộng đoàn của yêu thương và thánh thiện, thì mỗi thành viên cần phải đấu tranh mạnh mẽ với cái xấu, cái ác bằng sức mạnh của tình yêu, của đức tin.

Đặc biệt, là phải noi gương Đức Maria luôn biết lắng nghe, suy niệm và thực hành lời Chúa trong từng giây phút của cuộc đời, để khi gặp những khó khăn sóng gió tác động lên con thuyền gia đình, chúng ta dễ dàng vượt qua, vì đã có Mẹ Maria bao bọc chở che. Amen.

Về mục lục

.

MẸ CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH.

Người nổi tiếng, hẳn thời nào cũng có, người đau khổ về tinh thần, người túng thiếu về vật chất, chúng ta đã từng gặp. Người mẹ hy sinh tận tụy suốt đời vì con, chúng ta đã từng đọc từng nghe: nuôi con chẳng quản chi thân, bên ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn. Hôm nay, mọi người đang tận hưởng bầu khí ấm áp gia đình, bất kể ngày 01.01 là thứ mấy, khắp cả thế giới đều mang chung một tâm tình: niềm vui bình an, hòa thuận ngày đầu năm mới. Hôm nay, Giáo hội mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho hòa bình thế giới, hướng về Đức Maria trong đặc ân Mẹ Thiên Chúa.

Không cần biết theo nho giáo, thiếu nữ Maria nổi tiếng “vì dung hay vì hạnh”, chẳng cần biết ở nơi đâu, chỗ nào, có người phụ nữ tài đức, xinh đẹp hoàn hảo, nhưng chắc chắn Kitô giáo chúng ta đã tìm thấy trong chương đầu của Tin mừng Luca. Cũng không thể đếm xuể, xưa, nay, có bao nhiêu người nghèo khổ, nhưng một số những người chăn chiên ở giữa trời đông giá rét năm xưa, họ đã diễm phúc được gọi là người thiện tâm. Ai trong chúng ta cũng có mẹ, có thể mẹ là nải chuối buồng cau, là tiếng hát đêm thâu…, ở đây lúc này, chúng ta còn đang được hiệp thông với các mục đồng biết đến với Mẹ của Hài Đồng Giêsu, Mẹ Thiên Chúa.

Tình cảm của con người luôn thiết thực với hai tiếng yêu thương: tuy rằng xứ bắc, xứ đông, khắp trong bờ cõi cũng là anh em. Dù hoàn cảnh giầu nghèo, già trẻ, tình yêu thương sẽ mãi là “nhịp điệu” để ta tự tin bước vào đời: con dẫu lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời, tình mẹ vẫn theo con. Tình yêu thương đã chiếu tỏa đến các mục đồng, tình yêu thương thôi thúc các mục đồng vội vã đến hang đá Belem, họ gặp Giuse, Maria, Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chỉ đơn giản thế nhưng họ đã có tất cả. Chính từ niềm vui, bình an, các mục đồng không chỉ thố lộ: cha là chỗ dựa, mẹ là gối êm, nụ cười của con là hạnh phúc ; mà sâu thẳm trong tâm hồn, họ hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này.

Tình yêu thương của Mẹ Maria, Cha Giuse, của Hài Nhi đã biến đổi các mục đồng, những kẻ chăn chiên hôm đó hiểu, họ đã gặp Gia Đình Thánh, nên không thể không hát vang đất trời. Niềm vui, lời chúc tụng Thiên Chúa nơi các mục đồng, vang rộng vang xa, cũng chẳng biết Cha Mẹ Hài Nhi đã suy gẫm tạ ơn như thế nào ; nhưng lời “Vinh Danh Thiên Chúa, và bình an dưới thế”, sẽ còn lay động lòng người khắp cùng thế giới. Phụng vụ mời gọi mỗi chúng ta cùng tôn kính Mẹ Thiên Chúa ngay sau lễ Gia Thất, nhằm ngày đầu năm dương lịch, như thể Hội Thánh nói rằng: niềm vui bình an có Chúa cũng luôn có Mẹ Maria.

Hình ảnh người mẹ đầy tình yêu thương, không quản ngại hy sinh vất vả vì chồng vì con, xung quanh chúng ta không phải là không có. Đức Maria Mẹ Hài Nhi Giêsu, là mẫu gương gia đình, nhưng trước hết và trên hết vì Mẹ giữ mãi được tình yêu Chúa, vì Mẹ thể hiện được đức tin và đức ái trong chức vị làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mừng kính Mẹ Thiên Chúa, Giáo hội không muốn chúng ta chỉ nhìn Đức Maria như người mẹ tần tảo sinh ra ta theo huyết thống, nhưng là dõi theo Đức Maria trong tình hiệp thông vì đã từng nghe và thực hành ý Chúa trong đời.

Sinh ra trong khó khăn túng thiếu, cha ông ta có câu: nhà nghèo yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ giầu ra nịnh thần. Con Thiên Chúa sinh ra nơi hang bò lừa, và những kẻ đầu tiên đến chiêm ngắm tôn thờ chính là những kẻ chăn chiên nghèo hèn. Những tâm hồn đầu tiên hòa hợp được với tiếng hát thiên thần, cũng là các mục đồng sau khi đã gặp được Maria, Giuse, và Hài Nhi bên máng cỏ Belem. Hài Nhi Giêsu là tình yêu thương được Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua người mẹ mang tên Maria ; niềm vui và bình an mà các mục đồng nhận lãnh sau khi trở về với công việc thường ngày, họ sẽ còn tiếp tục chia sẻ hát ca.

Phải đâu Mẹ là của riêng ai, Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi ! Đức Maria là Mẹ của tình yêu thương, Mẹ không chỉ là Mẹ của Hài Nhi Giêsu, nhưng sẽ mãi là Mẹ của Giáo hội, của những ai cùng hiệp thông cầu nguyện, lắng nghe và biết thực hành ý Chúa. Nếu hôm nay chúng ta biết nhìn nhận: “nhân vô thập toàn”, là ta đã ý thức tâm hồn mình đầy thiếu xót, con cái thiếu bổn phận hiếu thảo, cha mẹ thiếu trách nhiệm giáo dục, lẽ nào ta không quan tâm đến tình yêu thương của Thiên Chúa ban tặng ? Hy vọng tình yêu thương của gia đình Giuse, Maria, Hài Nhi Giêsu sẽ lưu lại mãi nơi cuộc sống trần thế này. Và chúng ta sẽ cùng các mục đồng tôn vinh Thiên Chúa bằng tâm tình yêu mến: Mẹ là biển cả bao la, Mẹ là câu hát chan hòa mên thương. Amen.

Về mục lục

.

MẸ THIÊN CHÚA – CẦU CHO HÒA BÌNH THẾ GIỚI

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Đã hơn hai ngàn năm trôi qua, kể từ ngày vị Hòang Tử Bình An xuất hiện, thế giới dường như vẫn chưa được hòa bình. Mỗi ngày theo dõi tin tức, chúng ta thấy chiến tranh, bạo lực đang diễn ra ở khắp nơi trên thế giới giữa các quốc gia, dân tộc. Trong gia đình, nạn bạo lực bạo hành đang hết sức nghiêm trọng. Chiến tranh và bạo lực đang diễn ra trong các gia đình, ngoài xã hội và trong nơi tâm hồn nhiều người. Trong dịp cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, cầu nguyện cho hòa bình thế giới năm nay, Đức Thánh Cha Fancis đã gửi cho thế giới một thông điệp hòa bình với chủ đề: Bất bạo động: Một kiểu chính sách hòa bình.
Thư Galat hôm nay trình bày cho thấy, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, do tình yêu thương thúc đẩy, Ngài đã chấp nhận cho Con của mình là Chúa Giêsu, vua Hòa bình đến trong trần gian. Con Thiên Chúa bước vào thế gian không bằng một vụ nổ chấn động, nhưng Ngài đã chọn một con đường hết sức bình thường, đó là được sinh ra bởi một người mẹ trong một gia đình như bất cứ ai khác. Khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa không đòi một sự ưu tiên nào, nhưng đã chấp nhận hoàn toàn sự giới hạn của con người và còn chấp nhận cả những luật lệ của con người. Là Hoàng tử Bình an, Chúa Giêsu không chọn con đường bạo lực để cứu độ nhân loại, nhưng Ngài đã chọn con đường yêu thương và dùng sức mạnh của tình thương để tha thứ, canh tân biến đổi nhân loại.
Đến thế gian với sứ mạng cứu chuộc, giải phóng nhân loại khỏi tình trạng nô lệ bởi ma quỷ và tội lỗi, Chúa Giêsu đã không dùng vũ lực để đáp lại bạo lực, nhưng Ngài đã chọn con đường khiêm tốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã quy tụ muôn loài muôn vật dưới quyền bính của mình và còn thực hiện một cuộc trao đổi diệu kỳ đó là cho con cái loài người được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được chia sẻ vào vinh quang chức vị của người Con Một của Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Abba – Cha ơi! Kể từ đây, con người được trở nên người nhà của Thiên Chúa, được cùng chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa.
Ngày xưa trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã dành một vị trí đặc biệt cho gia đình đầu tiên là Adam – Eva, cho họ được sống trong khung cảnh của hạnh phúc vườn địa đàng, nhưng gia đình này đã không chu toàn được sứ mạng của mình, là biến gia đình trở thành cộng đoàn của lòng xót thương. Họ đã để cho gia đình tách rời khỏi mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, đã để cho bạo lực tràn ngập trong gia đình. Kể từ sau khi phản bội lại Thiên Chúa, gia đình của Adam trở thành nơi cãi vã, đổ lỗi cho nhau và bạo lực đã xảy ra trong gia đình, khiến cho anh em trong nhà trở nên thù hận và giết chóc nhau. Từ kinh nghiệm của gia đình này cho thấy: hạnh phúc và tình yêu thương trong gia đình là do Chúa ban tặng, nhưng để gìn giữ và làm cho hạnh phúc và tình yêu thương trổ sinh hoa trái phải cần có sự nỗ lực vun đắp của từng thành viên trong gia đình.
Trong chương trình cứu chuộc, Thiên Chúa cũng bắt đầu từ một gia đình, đó là gia đình của Maria -Giuse. Các mục đồng, sau khi nghe các sứ thần báo tin, họ đã hối hả đi đến Belem. Khung cảnh những mục đồng gặp thấy đó là một gia đình nghèo khó, gồm có hai vợ chồng và một đứa con; một khung cảnh hết sức thanh bình, thánh thiện đầy tràn tình yêu và hạnh phúc. Cũng từ kinh nghiệm của gia đình này cho thấy: Tình yêu thương và hạnh phúc của gia đình không tùy thuộc vào nhà cửa hay của cải vật chất, giàu nghèo, sang hèn, nhưng tùy thuộc nơi tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình. Thánh Luca ghi lại: Nghe các mục đồng kể lại về những việc lạ lùng họ đã nghe và được thấy, Maria đã ghi nhớ tất cả các sự kiện để suy niệm trong lòng. Tức là Maria – Giuse đã đón nhận các sự kiện xảy ra trong gia đình với một thái độ bình tâm và để cho Lời Chúa, Ý Chúa thanh luyện tất cả mội sự kiện, cũng như hướng dẫn mọi hành vi và phản ứng của mình.
Đức Thánh Cha Fancis đã nhấn mạnh trong Sứ Điệp Hòa Bình: bạo lực và bạo động không thể xây dựng hòa bình, cũng không thể hàn gắn những mãnh vỡ của gia đình và thế giới, chỉ có tình thương mới có thể đem đến hòa bình. Để có thể xây dựng hòa bình cho thế giới và gia đình, cần phải giải quyết được cuộc xung đột trong chính tâm hồn mỗi người, dùng hòa bình để chiến thắng khuynh hướng bạo lực trong tâm hồn.
Đức Thánh Cha kêu gọi : Bất bạo động là một chính sách đem lại hòa bình. Ngài giải thích thêm: bất bạo động không phải là sự đầu hàng, buông xuôi, trước bất công, cũng không phải là không dấn thân, thụ động. Ngài trích lại lời Mẹ Teresa Calcutta nói rằng: “Trong gia đình, chúng ta không cần bom đạn và võ khí, không cần tàn phá để mang lại hòa bình, nhưng cần ở với nhau, cần yêu thương nhau […] Và cùng nhau có thể vượt thắng mọi sự ác trên thế giới”.  
ĐTC cũng xác tín rằng, nếu nguồn mạch phát sinh bạo lực là tâm hồn của con người, thì điều căn bản là thực hiện bất bạo động trước tiên ở trong tâm hồn và gia đình. .. Gia đình là nơi, trong đó, đôi vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em học cách cảm thông và chăm sóc nhau một cách vô vị lợi, là nơi mà những sầu muộn và thậm chí những xung đột phải được vượt thắng không phải bằng võ lực, nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, tìm kiếm thiện ích cho người khác, từ bi và tha thứ.
Hàng năm, chúng ta cử hành ngày lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, cầu nguyện cho hòa bình thế giới, có thể chúng ta đã nghe, đã nói nhiều về hòa bình và nguyên nhân gây ra chiến tranh, nhưng chúng ta đã không làm gì để cải thiện tình hình.
Trước hết hãy học nơi gia đình của Giuse Maria, lấy tình yêu thương, sự quảng đại để đối xử với nhau. Vợ chồng, cha mẹ, con cái đừng cư xử với nhau bằng lý, nhưng bằng tình thương, không dùng bạo lực và bạo hành, nhưng dùng chính sách bất bạo động, quảng đại và tha thứ để đối xử với nhau. Bạo lực bạo hành chỉ đem đến đổ vỡ và bất hạnh, gây những tổn thương lâu dài trên cuộc đời những đứa trẻ. Vì thế, cha mẹ đừng vì nóng giận mà biến con cái thành những nạn nhân của bạo lực bạo hành. Một đứa trẻ sống trong sự sợ hãi của bạo lực bạo hành, sẽ biến nó thành những kẻ hung ác sau này và là kẻ bạo lực bạo hành người khác. Một đứa trẻ sống trong bất hạnh sẽ không biết phải làm thế nào để xây dựng cuộc sống của gia đình riêng sau này được hạnh phúc.
Để có thể dùng phương pháp bất bạo động, loại trừ bạo lực bạo hành góp phần xây dựng hòa bình, tình yêu cho gia đình và xã hội, mỗi người cần phải tạo lập được sự hòa bình, bình an trong tâm hồn. Một tâm hồn phạm tội sẽ không có bình an, một tâm hồn nuôi dưỡng sự hận thù sẽ không thể có niềm vui và một tâm hồn dễ dàng nổi nóng, là dấu hiệu của sư bất an nội tâm. Hãy tái lập sự bình an hòa thuận với Thiên Chúa bằng cách loại trừ khỏi mình tình trạng tội lỗi, hãy thường xuyên đón rước Thiên Chúa vào tâm hồn, vì Ngài là hoàng tử đem lại bình an. Hãy quyết tâm loại trừ khỏi tâm hồn sự hiện diện của ma quỷ và sự ác, vì ma quỷ không thể làm điều thiện, cũng không thể đem đến hạnh phúc đích thực, chúng chỉ có thể lừa dối và tìm cách gây bất hòa bất ổn mà thôi.
Kế đến là hãy học nơi Chúa Giêsu sống khiêm nhường và hiền lành. Khiêm nhường để trở nên nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người, khiêm nhường để biết đón nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa và để cho Lời Chúa uốn nắn mọi hành vi và phản ứng của con người. Hiền lành để biết cư xử quảng đại nhân ái, bao dung với người khác, hiền lành để biết thông cảm và tha thứ cho những ai gây tổn thương cho mình. Sự hiền lành và khiêm nhường sẽ giúp lọai trừ khỏi tâm hồn sự nóng nảy bạo lực bạo hành, đem niềm vui và bình an đến cho gia đình và mọi người.
Xin cho mỗi người chúng ta trở nên sứ giả xây dựng gia đình thành cộng đoàn hòa bình, giàu lòng xót thương, theo tinh thần Tin Mừng và trở thành những người đón nhận được lời chúc phúc của Chúa Giêsu: Phúc cho những người hiền lành, phúc cho người có lòng thương xót, người xây dựng hòa bình, người có tâm hồn thanh khiết, những người đói khát sự công chính, vì nước Trời là của họ. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO THẾ GIỚI ĐƯỢC HÒA BÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.

Đức Maria Mẹ của Lòng Thương Xót

Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]

Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có xác, có hồn. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.

Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói : “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng : “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “ Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.

Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là “ Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.

Vì thế, trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót, nếu Chúa Giêsu là Lòng Thương Xót của Chúa Cha, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ của Lòng Thương Xót.

Ngày cầu cho hòa bình

Ngày đầu năm mới, Giáo hội cửa hành lễ Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Lòng Thương Xót với niềm hân hoan vui vẻ, và cầu nguyện cho thế giới được hòa bình. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành lễ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Hòa Bình đích thực của chúng ta! Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo thương xót của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria, đến đem bình an cho nhân thế.

Thế giới hiện nay, con người ngày càng trở nên vô cảm, không dấn thân và khép kín. Hòa bình bị đe dọa bởi sự thờ ơ trên mọi bình diện của cuộc sống. Con người bị đầu độc bởi các chủ nghĩa tiêu thụ và khoái lạc, bởi sự giàu có và xa hoa, bởi thói tự cao tự đại, con người thường quá tàn nhẫn với nhau, loại trừ nhau bằng nhiều cách

Vì muốn mang đến cho nhân loại tình yêu, bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa tự trở nên Hài Nhi bé bỏng, giống một em bé sơ sinh. Chính trong sự nhỏ bé, thơ ngây, khiêm nhường và tha thứ ấy, Thiên Chúa đã biểu lộ sức mạnh vô biên. Đó là sức mạnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Hài Nhi Giêsu sinh ra được bọc trong khăn vải, đặt nằm trong máng cỏ, với ánh mắt ngây thơ, tâm hồn trong trắng, đang giang rộng vòng tay, ở giữa các mục đồng và đoàn súc vật, một khung cảnh hòa bình. Cho thấy con người sống hài hoà với Thiên Chúa, với thiên nhiên vạn vật và với nhau. Mang đến cho nhân loại một kỷ nguyên hòa bình. Tình Yêu là phương thuốc chữa lành vết thương. Là nhịp cầu xây dựng tình người. Là phương án cho thế giới mới bạo lực, chiến tranh và khủng bố. Tình Yêu Giêsu nhập thể mang lại cho thế giới sự bình an bất tận.

Quả thật, sẽ không có hoà bình nếu không có công lý, và sẽ không có hoà bình nếu không có sự tha thứ. Với chủ đề sứ điệp hòa binh năm 2017 : “Bất bạo động: một kiểu chính sách hòa bình”. Đức Phanxi cô đề nghị loại bỏ “bạo lực”, vì bạo lực gây ra những đau khổ lớn lao như chúng ta đang chứng kiến: chiến tranh tại nhiều quốc gia và đại lục, nạn khủng bố, tội phạm, những cuộc tấn cong võ trang không lường trước…” (2). Ngài kêu gọi cộng đồng quốc tế thực hiện bất bạo động từ gia đình. Trích lời thánh Tê rê sa Calcuta, ngài viết : “Trong gia đình chúng ta, chúng ta không cần bom đạn và võ khí, không cần tàn phá để mang lại hòa bình, nhưng cần ở với nhau, yêu thương nhau […] Và chúng ta có thể vượt thắng mọi sự ác trên thế giới”. Vì sức mạnh của võ khí có tính chất lừa đảo. “Trong khi những kẻ buôn bán võ khí hoạt động, thì có những người nghèo kiến tạo hòa bình, chỉ với mục đích giúp đỡ một người, giúp đỡ người khác, và hiến mạng sống của họ. Đối với những người xây dựng hòa bình như thế, Mẹ Têrêsa chính là một biểu tượng, một hình ảnh của thời đại chúng ta” (4).

Đức Phanxicô xác tín rằng, gia đình là lò tôi luyện không thể thiếu được trong đó đôi vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em học cách đả thông và chăm sóc nhau một cách vô vị lợi, và nơi mà những sầu muộn và thậm chí những xung đột phải được vượt thắng không phải bằng võ lực…” (5).

Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.

Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TỎ TÌNH THƯƠNG

Lm. Giuse Nguyễn

Một bài hát đã trở thành bất hủ, mà dường như ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần nghe qua, thậm chí có người nằm lòng, đó là bài “Lòng Mẹ” của nhạc sĩ Y Vân: “Lòng Mẹ bao la như biển thái bình dạt dào, tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”. Mỗi khi giai điệu bài hát này cất lên thì tâm hồn ai dù cứng cõi đến mức nào cũng trở nên mềm mại. Đó là sức mạnh không phải chỉ của nghệ thuật, mà còn là sức mạnh của một tình mẫu tử thiêng liêng đã được chuyển tải trong nghệ thuật.

Với người Công giáo, chủ đề Đức Mẹ là một chủ đề phong phú để các nhạc sĩ sáng tác, là một chủ đề có số lượng bài hát nhiều nhất, và cũng là chủ đề có nhiều người thuộc nhất. Có những bài mà hễ là người Công giáo vào những thập niên 80 trở về trước đều thuộc lòng. Ví dụ như bài “Dâng Mẹ” của nhạc sĩ Hoài Đức: “Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, đoàn con chung tiếng hát chung tấm lòng dâng đời sống”, hay bài “Mẹ Chúa Vinh Quang” của Nguyễn Khắc Tuần: “Lạy Mẹ, Mẹ Chúa vinh quang, sáng hơn sao bắc huy hoàng”…

Tôi muốn nói những điều đó để chúng ta thấy Đức Mẹ rất gần gũi trong đời sống của chúng ta, vì Đức Mẹ chẳng những là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ chúng ta nữa.

Hôm nay là ngày cuối cùng trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, tuần lễ để sống mầu nhiệm tình yêu một cách đặc biệt. Hôm nay cũng là ngày đầu tiên của năm dương lịch 2017, Giáo Hội muốn mừng kính Đức Maria với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Điều đó cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Vì yêu thương mà Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế làm con của một trinh nữ, làm Anh Cả của một đàn em đông đúc. Và cũng vì yêu thương nên Ngài đã cho con người được làm con Chúa, làm em của Đức Giêsu, mà một khi làm em của Đức Giêsu thì đương nhiên cũng là con của Đức Maria. Vì vậy mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa cũng chính là mừng kính tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Ds 6,  22-27

Trong bài đọc 1 chúng ta nghe chính Thiên Chúa chỉ cho Aharon công thức chúc lành cho dân Israel: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn đến anh em”. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nhưng thánh kinh vẫn gán cho Người một dung mạo. Trong thánh kinh, kiểu nói “Thiên Chúa tỏ dung nhan” là muốn nói đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi nhân hậu, còn nói “Thiên Chúa ẩn mặt đi”, có nghĩa là Thiên Chúa đã nổi giận. Ở đây, Thiên Chúa đang “tươi nét mặt” nhìn đến dân chúng, nghĩa là Thiên Chúa rất đỗi yêu thương họ.

  1. Bài Đọc II: Gl 4, 4-7

Toàn bộ thánh kinh là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa từ từ mặc khải dung mạo của Ngài, và dung mạo đó được mặc khải một cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô mà chúng ta nghe thánh Phaolô nói đến trong bài đọc 2: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai Con của mình tới”. Ngay sau đó, thánh Phaolô nói: “Sinh bởi người phụ nữ”. Thiên Chúa đã tỏ dung mạo trong Con của Đức Trinh Nữ Maria. Chính vì lẽ đó mà chúng ta tôn kính Đức Mẹ với tước vị cao nhất, tước vị Mẹ Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã tỏ tình thương của Ngài qua Mẹ.

  1. Tin Mừng: Lc 2, 16-21

Bài Tin Mừng cho chúng ta biết tình thương đó được dành một cách đặc biệt cho ai. Tình thương đó được dành một cách đặc biệt cho những người mà thiên thần gọi là những người “thiện tâm”.  Đại diện cho những người “thiện tâm” được bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến chính là các mục đồng, Mẹ Maria và thánh cả Giuse.

II.  NHỮNG NGƯỜI THIỆN TÂM

  1. Các Mục Đồng

Các mục đồng được gọi là những người “thiện tâm” vì mặc dù họ có vất vả, cơ cực, rày đây mai đó với đàn súc vật của mình, suốt ngày chỉ lo canh chừng thú dữ, ban đêm ngủ giữa đồng hoang lạnh… nhưng họ vẫn sống một cuộc sống thanh liêm, trong sạch, không màng đến những vinh hoa phú quý, những ồn ào náo động của cuộc sống bên ngoài.  Hình ảnh của các mục đồng này gợi cho chúng ta nhớ hình ảnh trong bài hát “Em bé quê” của nhạc sĩ Phạm Duy”: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, ngồi lưng trâu, phất ngọn cờ lau và miệng hát nghêu ngao”. Người ta nói “Bần cùng sinh đạo tặc”, nhưng trong trường hợp của các mục đồng là không đúng, vì họ là những người “thiện tâm”.

  1. Thánh Giuse

Chúng ta không cần nói nhiều đến thánh Giuse, vì Ngài là một con người thầm lặng, nhưng sự thầm lặng của Ngài là để lắng nghe và thực thi ý Chúa. Nơi ông có đầy đủ tố chất của một người chồng, người cha trong gia đình, và nhất là nơi Ngài thể hiện rõ nét một con người linh thánh, một con người luôn nhạy cảm với những giá trị siêu nhiên. Vì lẽ đó, mà hôm nay mặc dù Tin Mừng chỉ nhắc đến tên Giuse như một nhân vật phụ họa cho câu chuyện các mục đồng đến thờ lạy Chúa, nhưng Ngài vẫn là một con người được Thiên Chúa đặc biệt tỏ tình yêu thương vì Ngài thuộc về những con người “thiện tâm”.

  1. Đức Maria 

Nơi Đức Maria có rất nhiều những phẩm tính của một con người thiện tâm, nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta chỉ ghi nhận cách “Ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” của Mẹ là một điển hình cho một người “thiện tâm”.

  1. LÀM CON THIÊN CHÚA PHẢI CÓ THIỆN TÂM

Ba nét của sự thiện tâm được thể hiện qua 3 nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay là các mục đồng với một cuộc sống nghèo khó; thánh Giuse, một con người linh thánh; Mẹ Maria, một con người hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những việc Chúa đã làm. Đó là những con người được Chúa biểu lộ dung nhan, tỏ lòng yêu thương. Vì vậy muốn được thấy dung nhan Chúa, muốn được Chúa tỏ lòng yêu thương thì chúng ta cũng phải có những nét vừa nêu trên của một người “thiện tâm”.

  1. Một cuộc sống thanh bần

Trước hết hãy tập cho mình có một cuộc sống thanh bần như các mục đồng, chỉ vui thú với cảnh chăn trâu, thổi sáo… Ngày hôm nay, ngày càng có nhiều người muốn tìm về với vùng quê yên bình vì họ mệt mỏi với một xã hội xô bồ, bon chen, náo động… Ở đó, họ có một cuộc sống đạm bạc, thanh liêm, chính trực.

Tuy nhiên không phải ở vùng quê mới có được một cuộc sống thanh liêm, chính trực, mà nó hệ tại ở chính ý thức của  mỗi người. Cần phải có khoảng cách nhất định đối với những điều có thể dẫn chúng ta đến sự xấu. Ví dụ sống giữa sự sung túc, giàu sang, nhưng đừng để lòng mình dính bén đến tiền bạc, vật chất, và đừng để cho đôi tay của mình làm những chuyện phi pháp như gian lận, trộm cắp… Sống trong điều kiện đầy đủ tiện nghi, nhưng đừng để mình bị tiêm nhiễm bởi lối sống sa hoa, lãng phí, xa dần với người khác, nhất là những người nghèo.  

  1. Một con người linh thánh

Kế đến, chúng ta cũng phải trở thành những con người linh thánh theo gương mẫu của thánh Giuse. Một con người linh thánh nghĩa là một con người luôn gắn bó mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Vì yêu mến Chúa nên yêu luôn cả những nghịch cảnh trái ngang, yêu luôn cả những gian nan thử thách và tìm cách để làm cho những người xung quanh mình được hạnh phúc hơn.

  1. Một con người ghi nhớ và suy niệm lời Chúa

Sau cùng, như Đức Maria, chúng ta phải luôn ghi nhớ và suy niệm lời Chúa trong lòng. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi”. Nếu chúng ta có đọc, có ghi nhớ và suy niệm lời Chúa thì chúng ta mới biết đường sống theo ý Chúa.

Một người da trắng lạc vô khu rừng, thấy một người da đỏ đọc kinh thánh, anh ta khinh miệt, nói cái này có gì đâu mà đọc. Anh da đỏ từ tốn nói: “Nếu kinh thánh không có gì hay thì nảy giờ tui đã anh thịt anh rồi!”. Đây là bộ lạc vốn ăn thịt người, nhưng từ khi có các nhà truyền giáo đến dạy cho họ biết đạo Chúa, biết sống đạo cho đúng đắn, biết đọc kinh thánh, thì họ đã bỏ được lối sống man rợ của mình.

Đặc biệt hơn, Giáo hội đang nổ lực để các gia đình nên thánh trong năm Mục vụ Gia đình này. Ba nét thanh bần, thánh thiện và ghi nhớ Lời Chúa sẽ trở nên sống động với từng thành viên trong các gia đình khi họ biết quan tâm đến gia đình mình, không bị những thứ hấp dẫn bên ngoài lôi kéo, để biết vun trồng hạnh phúc cho gia đình mình; biết giữ giờ kinh hôm chung với nhau, nhắc nhở nhau đi lễ, thờ phượng Chúa cho tốt; tìm điều kiện để tiếp cận với nguồn Thánh kinh đúng đắn của Giáo hội, cụ thể là lớp Thánh kinh ở Họ đạo.

Xin Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Hòa Bình ban bình an xuống trên trừng người, từng gia đình, Họ đạo, dân tộc Việt Nam và toàn thế giới, để mỗi người chúng con được nên thánh thiện hơn.

Về mục lục

.

MARIA MẸ CHÚA GIÊSU VÀ MẸ CỦA CHÚNG TA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 2,16-21

(16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ Cắt Bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su. Đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.

  1. Ý CHÍNH: CHÚA GIÊ-SU LÀ CON MẸ MA-RI-A

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc viếng thăm của các mục đồng nơi hang đá Be-lem sau khi được thiên thần hiện đến loan báo Tin mừng về Đấng Cứu Thế đã ra đời. Các mục đồng vui mừng lập tức lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế. Cuối cùng họ đã tìm thấy hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ tại cánh đồng Bê-lem. Họ đã thuật lại sự thể mắt thấy tai nghe. Riêng Đức Ma-ri-a thì ghi nhớ các điều ấy và suy niệm trong lòng.

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) LỊCH SỬ LỄ ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ THIÊN CHÚA :

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một đặc ân quan trọng nhất trong các đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ và là tước hiệu được Hội Thánh sử dụng để ca tụng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

– Tuy nhiên, đến thế kỷ V, Nes-tô-ri-ô đã công khai chống lại tước hiệu Mẹ Thiên Chúa này. Theo Nes-tô-ri-ô, Đức Maria chỉ được gọi là Mẹ Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Bấy giờ một cuộc tranh luận thần học lớn lao về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể đã xảy ra trong Hội Thánh, nên vào năm 431 Công đồng Ephêsô đã được triệu tập dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô. Chính Công đồng này đã xác tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như sau: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Từ đây tước hiệu Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa đã được Hội Thánh dùng để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.

– Vào năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô XI khi thiết lập lễ kính Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa đã tuyên bố như sau: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mạch nước mầu nhiệm vô tận, tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.

– Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đặt lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Trong tông huấn Marialis Cultus ngài đã viết: “Vì có sự trùng hợp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh nên ngày đó được đặt làm ngày cầu nguyện cho hoà bình thế giới, hầu thành quả của hoà bình có điều kiện phát sinh trong lòng nhiều người”.

– Công đồng Vaticanô II (1962-1965) trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh cũng đã khẳng định: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa … Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô”.

2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG KẺ GẶP NGUY KHỐN

Trưa ngày 12/10/1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao. Khi băng qua dãy núi Ăng-đét thì máy bay bị trục trặc mất thăng bằng và lao xuống đất rất nhanh. Sau một phút, nó đã đâm xuống lớp tuyết rất dày và bị vỡ ra nhiều mảnh. 28 học sinh may mắn còn sống sót. Một vài cậu chỉ mặc một chiếc áo khoác thể thao trên người. Một số khác thì mặc áo tay dài. Không ai mang theo quần áo lạnh thích hợp với vùng thời tiết lạnh giá 20 độ dưới số không.

Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh sống sót kia ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay còn sót lại. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một ít thức phẩm gồm có các loại thịt nguội, bánh mì và rượu vang… khiến họ hy vọng nhờ đó sẽ có thể sống thêm được một thời gian. Ngoài ra họ cũng có một chiếc ra-đi-ô cát-xét vẫn còn dùng tạm được. Cũng nhờ chiếc ra-đi-ô này mà họ đã hiểu biết công cuộc cứu hộ đang được triển khai sau khi phi cơ của họ lâm nạn, tại các quốc gia trong vùng máy bay bị rơi như Chi-lê, Ác-hen-ti-na và U-rơ-guây. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo do thời tiết xấu nên không thể tìm ra chiếc máy bay lâm nạn và không hy vọng còn hành khách nào sống sót. Thế là các nạn nhân này hiểu rằng: họ có sống và trở về nhà hay không là hoàn toàn tùy theo sự may mắn và quyết tâm sống còn của họ mà thôi.

Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi do không chịu được tiết trời băng giá khủng khiếp. Đoàn người lâm nạn chỉ còn 16 người. Bây giờ họ chỉ biết trông chờ vào phép lạ. Cả 16 học sinh quyết định họp nhau lại cầu nguyện mỗi buổi tối. Cứ vào khoảng 9 giờ tới, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngừng trò chuyện riêng và người điều khiển giờ kinh lấy ra một cỗ tràng hạt, rồi cả bọn ngồi quây quần thành hình vòng tròn cùng đọc kinh Mân Côi. Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu nguyện tự phát, các bài thánh ca và kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ, để xin Mẹ Chúa Trời đóai thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực giúp các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát.

Ngày qua ngày, thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may một cậu đã tìm thấy một cuộn dây thừng bằng ny-lông và trao cho hai bạn dùng tạm làm sợi dây an toàn khi leo xuống. Hai cậu cũng đem theo một ít lương thực cùng với búa và đinh. Họ bắt đầu tuột xuống vách đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút thôi là cả hai sẽ bị rơi xuống vực sâu. Mọi người đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a giúp hai bạn leo xuống đến nơi an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở con đường dưới núi, và chỉ sau vài tiếng đồng hồ, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện bay lên đỉnh núi cao chót vót để cứu tất cả mười bốn học sinh còn lại. Chính nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a, mà các học sinh này đã có thể sống sót tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ dám hy vọng người thân của mình còn sống và sẽ có ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được điều này là: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là Mẹ của mọi người tín hữu biết thành khẩn kêu xin ngài bầu cử nữa.

  1. SUY NIỆM:

– Thánh Phao-lô viết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh một nhân loại mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giê-su là đầu nhiệm thể, nên cũng là Mẹ của các phần chi thể là các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng dưới chân thập giá, Mẹ Ma-ri-a lại được Chúa Giê-su trao cho sứ mệnh làm Mẹ của môn đệ Gio-an, và sau đó Gio-an đã rước Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng (x. Ga 19,26-27). Gio-an chính là đại diện cho Hội Thánh được Chúa Giê-su trăn trối làm con Đức Mẹ. Cuối cùng, Mẹ Ma-ri-a còn là trạng sư cầu bầu đắc lực cho các tín hữu chúng ta trước tòa phán xét sau này.

– Trong tiệc cưới tại Ca-na, Mẹ Ma-ri-a đã phát hiện bữa tiệc mới nửa chừng mà sắp bị hết rượu. Không đợi cho đôi tân hôn phải van nài, Mẹ đã vội báo cáo cho Đức Giê-su và bảo các gia nhân hãy vâng lời Chúa Giê-su dạy. Nhờ lời bầu cử đắc lực của Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động. Chúa Giê-su đã nghe lời Mẹ xin nên đã biến nước lã trở thành rượu ngon, giúp cho gia đình đôi tân hôn khỏi xấu hổ trước các thực khách (x. Ga 2,1-11). Ngày nay Mẹ Ma-ri-a cũng tiếp tục chuyển cầu cho các đôi vợ chồng trẻ có lòng tin cậy nơi Mẹ, để giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống lứa đôi, và làm cho tình yêu của họ dù có bị lạt như nước lã, cũng sẽ biến thành nồng thắm như rượu hồng như ngày mới yêu nhau. Miễn là họ phải mời Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến ngự trong gia đình như đôi tân hôn thành Ca-na khi xưa.

  1. THẢO LUẬN:

1) Thánh Gio-an xưa đã rước Mẹ Ma-ri-a về nhà mà phụng dưỡng, chúng ta hôm nay sẽ làm gì để tỏ lòng biệt kính và trở nên con ngoan hiếu thảo của Mẹ ? 2) Ngày nay khi gặp phải gian nan thử thách, ta nên làm gì để được Đức Mẹ Chúa Trời trợ giúp giống như đã trợ giúp đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana xưa ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY MẸ MA-RI-A LÀ TỪ MẪU CỦA CON. Mẹ là người có phúc hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho các gia đình chúng con siêng năng đọc và thực thi Lời Chúa như Mẹ. Xin Mẹ luôn hiện diện trong gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm trong gia đình. Xin nâng đỡ gia đình chúng con vượt qua những rủi ro bất hạnh. Xin vực dậy niềm tin nơi những thành viên gia đình đang gặp khó khăn, noi gương Mẹ xưa đã luôn tin cậy vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.

– Lạy Mẹ Maria. Mẹ chính là sự sống, sự ngọt ngào và là nguồn hy vọng của con. Lòai người chúng con là con cháu A-Đam E-và đang bị lưu đày dưới thế gian là thung lũng đầy nước mắt đang kêu lên cùng Mẹ. Con hướng về Mẹ là Mẹ hằng cứu giúp mà than van kêu cầu. Xin Mẹ đoái thương an ủi nâng đỡ con. Để sau cuộc đời lưu đày này và đến giờ chết, con sẽ được Mẹ dẫn đưa đến cùng Chúa Giê-su Con yêu của Mẹ, để con được hưởng sự phán xét bao dung. Ôi Ma-ri-a, Mẹ là Trạng Sư của con ! Ôi Trinh Nữ Ma-ri-a dịu hiền, xin luôn ở bên con và đường bỏ con trong giờ sau hết. A-MEN.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

LỄ MẸ THIÊN CHÚA_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, và cũng là ngày đầu năm mới Dương lịch 2017.  Tôi xin chúc mừng năm mới, với những lời thân thương và trân trọng nhất, đến quí cha, quí thày, quí sơ, quí ông bà anh chị em cùng quí quyến, và tất cả quí khách xa gần vào thăm trang web của giáo xứ.  Kính chúc mọi người một năm mới sức khỏe dồi dào, cuộc sống an bình, như ý và nhiều ơn lành của Chúa.

 
Có linh mục kia tuổi đã cao đang trông coi một xứ đạo, nhận thấy mình giảng không còn gây được sự chú ý của giáo dân, khiến họ buồn ngủ, cho nên tìm đến gặp Giám mục giáo phận để xin ý kiến. Linh mục trình bầy vấn nạn, khó khăn với Ðức giám mục. Ðức Cha đề nghị cho cha đó như sau. Chúa nhật tới khi cha bắt đầu giảng, cha nên thú thật với giáo dân là cha đang yêu một người đàn bà, và cha đã yêu bà ta ba mươi năm rồi.  Khi giáo dân xốn xáo lên rồi, thì Cha nói người đàn bà đó tên là bà Maria.  Khi Cha gây được sự chú ý của giáo dân rồi, thì cha nói với họ về Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa, và vai trò quan trọng của Mẹ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cha già liền cám ơn Ðức cha rối rít. Đến Chúa nhật vừa lên toà giảng cha nói: “Ðức giám mục có yêu một người đàn bà, và ngài đã yêu người đàn bà đó ba mươi năm rồi.” Lúc này cử toạ lao nhao lên, thì cha ngừng chốc lát, gãi đầu gãi tai rồi tiếp: “Nhưng tôi quên mất tên người đàn bà đó rồi.”

Lời Chúa hôm nay nhắc lại việc cắt bì của Chúa Giêsu, nhưng cũng nhấn mạnh đến địa vị của Đức Maria trong việc sinh hạ Ðấng Cứu Thế. Và còn nhấn mạnh đến vai trò của Mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Chúng ta biết sự kiện Đức Maria Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng kính trong ngày đầu năm mới hôm nay được Kinh Thánh minh chứng và ghi lại cho chúng ta biết qua Chúa Giê-su, Người vừa mang bản tính Thiên Chúa và cũng là con người thật. Trước hết về bản tính Thiên Chúa, chúng ta biết  Đức Maria đã thực sự thụ thai Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, do quyền năng của Chúa Thánh Thần, và đã hạ sinh Con Thiên Chúa như trong bản gia phả của Tin mừng thánh Mát-thêu diễn tả. Chương 1 trong Tin mừng thánh Mát-thêu nói rằng: Thiên Thần Chúa hiện đến và bảo Giuse đừng ngại đón bà Maria về nhà, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.  Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt. 1, 20-23)  Về bản tính con người thật của Chúa Giê-su, Tin mừng thánh Mát-thêu sau đó cho chúng ta biết trong chương 6, khi thấy Chúa rao giảng những lời kỳ diệu và đầy sự khôn ngoan, dân chúng rất ngạc nhiên nói rằng: “Ông này không phải là con bà Maria, người bà con và sống với chúng ta sao?” (Mt. 6, 3)  Như vậy, Chúa Giê-su không những là người thật mà còn là Thiên Chúa thật. Kinh thánh luôn xác quyết Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, và là “Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.”  Chính thân xác đã được tạo nên bởi một phần thân xác của Đức Maria mà Chúa Giê-su đã chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.  Cho nên nếu Đức Maria là mẹ thật của Chúa Giê-su, thì Ngài cũng là mẹ thật của Thiên Chúa, một tước hiệu cao cả và là một ân sủng tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Maria.  Chính Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria ơn sủng cao cả và đặc biệt này cùng với những các ân sủng khác như: vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời và hồn xác lên trời, vì đối với Thiên Chúa không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Chúng ta xác tín quyền năng của Thiên Chúa.

Hôm nay bắt đầu năm mới dương lịch, chúng ta nên dùng ít thời giờ để suy niệm như Đức Maria, nhìn lại quá khứ và xét lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa, để cảm tạ đội ơn Chúa về tất cả những hồng ân Chúa đã ban, và tự hỏi: chúng ta đánh giá việc mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và sống thánh ý Chúa như thế nào? Trước thềm năm mới, xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu xót trong năm cũ. Chúng ta cũng không quên cảm tạ đội ơn Chúa về những ơn lành chúng ta nhận được trong năm cũ. Chúng ta cũng có thể có những quyết định sửa đổi trong năm mới, chẳng hạn quyết định chừa một nết xấu, xa lánh những sự tham lam, gian dối hay ích kỷ, hay có những ước vọng dành nhiều thời giờ hơn cho gia đình, cha mẹ, vợ chồng và con cái, và đời sống tinh thần, đức tin, qua những việc hy sinh, cầu nguyện và tham dự Thánh lễ sốt sắng hơn, có lòng bác ái và quảng đại hơn.  Có như vậy mỗi năm thêm tuổi, chúng ta mới thêm được những gì hữu ích cho bản thân và đời sống, nếu không của chúng ta trong năm mới sẽ vô dụng, không có ý nghĩa.  Nếu chúng ta không có những sự hy vọng và ước nguyện những điều tốt, thánh thiện cho mình và cho gia đình, hay đặt niềm hy vọng vào thánh ý Chúa cho mình vào những ngày tháng trong năm mới này, thì chắc chắn chúng ta sẽ sống trong sự lo âu, sợ hãy, hay sẽ sống như một người sầu khổ và bất hạnh.

Chúng ta phải tin vào sự quan phòng và thánh ý Chúa cho chúng ta.  Chúng ta vừa mừng lễ Giáng sinh của Chúa Giê-su và lễ kính Thánh Gia, Chúa Giê-su, Đức Maria và thánh Giuse.  Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cuộc sống của thánh Giuse và của Đức Maria, cũng như gia đình Thánh Gia, thì chúng ta nhận thấy các ngài cũng có những vấn đề, khó khăn như mỗi người và mỗi gia đình chúng ta. Câu hỏi quan trọng để chúng ta suy niệm là: làm sao Gia đình Thánh Gia, cũng như những gia đình của chúng ta có thể vượt qua những khó khăn trở ngại cá nhân và gia đình của mình trong năm mới này, để chúng ta sống an bình, hy vọng và ơn sủng của Chúa?  Câu trả lời là phải biết đặt niềm tin vào Chúa, lắng nghe và sống theo ý Thiên Chúa.  Thánh Giuse đã vâng lời Chúa, vui mừng đón Maria về nhà mình, tin rằng người vợ thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.  Đức Maria đã vâng theo và can đảm sống thánh ý Chúa, suy niệm ý Chúa trong tâm hồn. Các Ngài đã phải trải qua một cuộc di tản hãi hùng và nguy hiểm, và cuộc sống khó khăn ởi Ai cập. Chúa Giê-su đã trung thành và hy sinh chịu đau khổ chết trên thập giá để chu toàn sứ vụ cứu độ nhân loại.

Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là mẹ của chúng ta. Chúng ta biết trên đời này không có người mẹ nào mà không thương con mình, và tình mẹ thương con lại còn bao la như bầu trời, mênh mông như biển Thái Bình.  Chúng ta tin Mẹ Maria luôn yêu thương và muốn sống vâng theo và sống thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và trong mọi lúc.  Chúng ta tin chắc chắn rằng Mẹ Maria luôn cầu bầu và can thiệp vào đời sống từng người chúng ta, và lời cầu xin của Mẹ chắc chắn đẹp ý Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa Giê-su, Con của Mẹ và qua lời cầu bầu của Mẹ, ban ơn và luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh, để gia đình được hạnh phúc, hòa thuận, sống trong an bình, hy vọng và quan phòng của Chúa.  Chúc mừng năm mới đến tất cả mọi người.

Về mục lục

.

Exit mobile version