Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Năm B
Lời Chúa: Cv 2:1-11; 1Cr 12:3-7,12-13; Ga 20:19-23
——-
1. Đấng ban phát niềm vui (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đức Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
4. Chúa Thánh Thần đến sửa sai (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
6. Xin Ngài tháo cởi (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Đấng Bảo Trợ. (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Thánh Thần tình yêu (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
9. Kinh nguyện trong Chúa Thánh Thần (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
10. Thánh Thần khấn xin hiệp nhất (Lm. Trần Bình Trọng)
11. Lễ Hiện Xuống (Lm.. Giuse Trần Việt Hùng)
12. Thần Khí bình an (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
13. Thời kỳ ân điển của Thánh Thần (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
14. Bình an cho anh em (Lm. Giuse Hồ Quang Hân, SDB)
15. Chúa Thánh Thần là “Nước Hằng Sống” (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
16. Suy niệm Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
17. Suy niệm Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
18. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
19. Nhận lấy Thánh Thần (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
20. Đấng Bảo Trợ (Trầm Thiên Thu)
21. Ơn ban Thánh Thần (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
22. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật HIện Xuống (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
23. Thánh Thần, nguyên lý hiệp nhất (Lm. Đinh Lập Liễm)
24. Lửa và Gió (Lm. Nguyễn Thái)
25. Bánh không men (Lm. Vũ Đinh Tường)
26. Nói tiếng lạ và nói tiên tri (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
27. Chúa Thánh Thần – Đấng tác sinh mọi sự (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
28. Hiến Chương thành lập Hội thánh (JM. Lam Thy, ĐVD)
29. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em (Fx. Đỗ Công Minh)
30. Thần khí ChúaPhụcsinh tác động và sai đi loan báoTin mừng (Lm. Đan Vinh)
31. Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống (Lm. Antôn)
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
“Niềm vui” là một điểm nhấn nổi bật trong giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô. Theo ngài, hiệu quả của sứ mạng truyền giáo bị hạn chế vì đôi khi đức tin được trình bày một cách cứng nhắc, khô khan, thiếu vắng niềm vui. Thiên Chúa hiện diện giữa dân của Ngài. Đó là niềm vui mừng lớn lao và đó cũng là điểm làm nên sự khác biệt giữa Do Thái giáo và các tôn giáo đương thời khác. Đức Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính cuộc sống của Người là Tin Mừng. Người đến trần gian làm cho Tin Mừng ấy được lan tỏa mọi nẻo đường của cuộc sống. Niềm vui của Chúa không chỉ là niềm vui trần gian nhất thời và bề ngoài, nhưng đó chính là niềm vui nội tâm, giúp cho con người được hạnh phúc. Niềm vui ấy là ân ban của Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện trong Giáo Hội và là linh hồn của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là Đấng ban phát niềm vui.
Đề tài “niềm vui” được trải dài trong các bài đọc Cựu ước cũng như Tân ước được đề nghị trong thánh lễ Vọng, chiều thứ Bảy, trước lễ Hiện Xuống, và được diễn tả một cách đặc biệt trong bài Tin Mừng lễ chính ngày. Thánh Gioan kể lại, trong lúc các tông đồ đang u sầu đau khổ, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các ông, mặc dù các cửa nhà đều đóng kín. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu đem lại cho các ông niềm vui vỡ òa. Bởi lẽ, trước đó, họ đau đớn chứng kiến việc thày mình bị bắt, bị tra tấn và bị giết chết. Tuy vậy, niềm vui không chỉ hệ tại ở cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh, mà Đấng Phục sinh đã trao ban cho các ông Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu muôn thuở và là Niềm Vui bất tận. “Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em”. Lời cầu chúc này đi đôi với cử chỉ “thổi hơi”. Đây là một cách diễn tả thấm nhuần truyền thống của Cựu ước. Vì Thiên Chúa thổi hơi để ban cho con người có sức sống (x. St 2,7). Ngôi Ba Thiên Chúa hay Chúa Thánh Thần được diễn tả như: Gió, Thần Khí, Hơi Thở, Sự Sống. Vì thế, việc Đức Giêsu “thổi hơi” trên các tông đồ nhắc lại việc Thiên Chúa ban Thần Khí của Ngài cho mọi loài tạo vật và cho con người vừa được nắn từ bùn đất. Chính nhờ Thần Khí mà vũ trụ này được tác tạo và luân chuyển xoay vòng theo một trật tự diệu kỳ. Tiếp nối ý tưởng “Thần Khí” và “Thổi hơi”, bài đáp ca trong thánh lễ hôm nay tuyên xưng: “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gửi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Quả vậy, không có Chúa Thánh Thần (hay Thần Khí Thiên Chúa), sự sống trên trái đất sẽ chấm dứt, thiên nhiên vũ trụ sẽ biến thành hư vô. Chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là “Thần Khí tác tạo” là vì thế.
Khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội nhìn lại lịch sử mà mình đã được sinh ra. Ngày lễ Ngũ Tuần là một lễ quan trọng của người Do Thái. Vào chính ngày này, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ. Lịch sử đã sang một trang mới. Nỗi buồn bị đẩy lui, nhường chỗ cho niềm vui; sự sợ hãi nơi các tông đồ chấm dứt, nhường chỗ cho lòng can đảm nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục sinh. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã diễn tả sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống như một lễ khai sinh trọng thể của Giáo Hôi (Bài đọc I).
Đấng đã đến với Giáo Hội trong ngày lễ Ngũ Tuần vẫn hiện diện giữa chúng ta, vẫn tiếp tục ban cho chúng ta niềm vui tràn đầy và nâng đỡ chúng ta trong hành trình cuộc đời, giữa những chông gai thử thách trăm chiều. Nhờ Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội được liên kết gắn bó giữa các nền văn hóa khác nhau trên trái đất, làm thành gia đình của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh một thân thể con người để diễn tả tính đa dạng và hoàn vũ của Giáo Hội: “Cũng như chỉ có một thân thể nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
Trong Tông huấn “Gaudete Exultate” mới công bố ngày 9-4-2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Rom 14,17), vì “kết quả cần thiết của tình yêu bác ái là vui mừng; bởi vì mỗi người yêu đều vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu … ảnh hưởng của lòng bác ái là niềm vui.. Khi nhận được hồng ân Lời Chúa tuyệt mỹ, chúng ta ôm chặt lấy Lời ấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx 1,6). Nếu chúng ta để cho Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái vỏ của mình và thay đổi cuộc sống của mình, thì chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Hãy hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4, 4) (số 122).
Lễ Hiện Xuống được cử hành trong tháng Năm, là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Đức Maria đã hiện diện với Giáo Hội trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự đến trong khi các tông đồ quây quần xung quanh Đức Mẹ để cầu nguyện. Trong suốt chặng đường dài của lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ vẫn hiện diện để che chở Giáo Hội và nâng đỡ các tín hữu. Mới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập ngày lễ kính Đức Mẹ với tước hiệu “Mẹ Giáo Hội”, và ngài ấn định vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện Xuống hằng năm. Điều này giúp chúng ta liên kết với hình ảnh Đức Mẹ cầu nguyện giữa các môn đệ như đã nói trên. Mỗi người hãy dâng lên Đức Mẹ đóa hoa lòng, thể hiện qua tâm tình yêu mến, siêng năng lần hạt Mân Côi và thực thi bác ái đối với tha nhân. Đó là những đóa hoa không tàn úa với thời gian, nhưng luôn tươi đẹp và tỏa ngàn sắc hương trước dung nhan Mẹ. Chắc chắn Mẹ sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống hôm nay.
.
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SƯ SỐNG
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
- Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
- Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
.
CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
Gm. Nguyễn Văn Khảm
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy có quá nhiều những sai lầm. Những sai lầm được tích lũy từ thế hệ này chuyển qua thế hệ sau trở thành căn bệnh nan y. Hay có thể nói những sai lầm của người trẻ hôm nay là do thế hệ đi trước không cương quyết giáo dục họ và đôi khi còn làm gương mù gương xấu cho họ. Chúng ta thử ôn lại những điều sai lầm của người trẻ hôm nay là do lối sống của thế hệ trước ảnh hưởng trên lối sống của họ như thế nào ?
Trước tiên đó là một xã hội vô thần. Không có Thiên Chúa. Không có Trời Phật. Con người chỉ là vật, sinh ra chết là hết. Điều đáng tiếc là nhiều người hưởng ứng. Không ai dám mạnh dạnh phản đối lý thuyết sai lầm ấy. Một thời gian rất dài chúng ta đã bị sự giáo dục vô thần ấy khiến con cái chúng ta đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa để rồi cổ vũ cho lối sống đạo tại tâm là theo ý mình, không theo luật Chúa.
Thứ đến là Cổ súy đạo tại tâm không cần cầu nguyện lễ lạy. Nhiều người cha không đến nhà thờ, coi thường luật lệ dẫn đến giới trẻ cũng không cảm thấy đi lễ, giữ luật Chúa là cần. Có cậu trẻ nói : ba ơi bao giờ con mới bằng ba. Ba hỏi : con hỏi để làm gì ? Con thưa : để bằng ba thì con khỏi đi lễ.
Giáo dục học đường không đưa ra tiêu chuẩn luân lý trong giới tính mà chỉ dạy cho bọn trẻ cách tránh thai đã dẫn đến một số đông giới trẻ tự do luyến ái mà không hề có trách nhiệm về hành vi của mình.
Như vậy, một xã hội không dạy cho trẻ niềm tin, không dạy về luật lệ, và để cho trẻ tự do luyến ái đã dẫn đến một bộ phận giới trẻ sống buông tuồng, vô kỷ luật và phạm pháp.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần là dịp để chúng ta nói lên vai trò của Chúa Thánh Thần là đến trần gian để an ủi, là dậy dỗ và uốn nắn con người. Thế nên, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến sửa sai cho thế gian. Xin Ngài hãy uốn nắn con người hôm nay cho khỏi những sai lầm. Xin Ngài dậy dỗ con người đi theo chân lý và tình yêu.
Dường như Chúa Giê-su đã nhìn thấy những sai lầm của thế gian do ma quỷ dẫn dắt đã và đang làm cho con người đi trong những sai lầm. Ma quỷ đời nào cũng cổ vũ một xã hội không tôn giáo để rồi sống chiều theo bản năng và coi thường luật lệ. Ma quỷ đời nào cũng tìm mọi cách dẫn dắt con người đi theo những đam mê trần tục để đánh mất chính mình trong thói hư tật xấu hay trong những đam mê tội lỗi.
Chúa Thánh Thần đã đến để canh tân thế giới. Nhờ Ngài mà thế giới đã được nghe tin mừng. Nhờ Ngài tác động mà hàng ngàn, hàng vạn người luôn tiếp nối nhau ra đi xây dựng Nước Chúa. Nhưng cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối dường như chưa kết thúc, lúc nào cũng có những bóng tối làm cho người ta ra mê muội lầm lạc. Lúc nào cũng có những bóng tối của tham vọng cuồng loạn dẫn đến loạn lạc chiến tranh và đau khổ.
Đây là lúc mà Giáo hội cần những chứng tá tin mừng để mang Chúa Thánh Thần đến cho thế giới. Xin hãy để Chúa Thánh Thần sử dụng chúng ta như khí cụ mang bình an cho thế giới, nhất là cùng với Chúa Thánh Thần để sửa những sai lầm của thời đại. Hãy can đảm sửa sai từ chính bản thân mỗi người biết đi theo đường lối Chúa. Hãy can đảm sửa sai cho những người thân trong gia đình để gia đình luôn tràn ngập ánh sáng của tin mừng. Hãy mạnh dạn sống tin mừng trong một thế giới có quá nhiều sai lầm ngõ hầu canh tân thế giới này mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mỗi người chúng ta như xưa đã ngự xuống trên các tông đồ để nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng. Amen
.
CHÚA THÁNH THẦN LÀ LINH HỒN CỦA GIÁO HỘI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Vào ngày lễ Hiện Xuống, Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cư ngụ nơi tâm hồn các môn đệ bằng một phương cách mới đầy quyền năng.Lễ Hiện Xuống là ngày khai sinh Giáo Hội.Bởi vì, Chúa Thánh Thần là linh hồn, là hơi thở của Giáo Hội.Chúa Thánh Thần ban sự sống, hướng dẫn, kiến tạo, giúp Giáo Hội xây dựng sự hiệp nhất, duy nhất, yêu thương. Giáo Hội luôn có sự sống, sức mạnh để loan báo Tin Mừng và để làm chứng cho sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh…
Cách đây hơn 2.000 năm, khi Đức Giêsu Kitô bị bắt, bị giết treo trên Thập giá, người ta đặc biệt những người lãnh đạo tôn giáo lúc đó, những người không thiện cảm, ghen ghét Chúa Giêsu, cứ tưởng như thế là Chúa Giêsu đã chấm dứt. Ngay các môn đệ là những người đã đi theo Chúa, đã sống với Chúa, đã nghe lời giảng dạy, đã thấy các phép lạ Ngài làm, đã sống thật thân tình với Chúa, nhưng các Ngài lúc đó vẫn hoang mang, u sầu, thất vọng , tưởng rằng Thầy mình đã mất luôn, đã không còn tồn tại nữa. Họ sơ hãi co cụm trong phòng kín. Đức Kitô Phục Sinh đã nhiều lần hiện đến với các ông và nói “ Bình an cho các con “.Sau khi Chúa Sống Lại đã cho các môn đệ xem tay, chân và cạnh sườn mang thương tích của Ngài để củng cố niềm tin cho các môn đệ Chúa đã Phục Sinh thật. Chúa Phục Sinh lại tiếp tục ban bình an cho các môn đệ, trao sứ vụ và quyền bính cho các Ngài để các Ngài tiếp tục công trình cứu thế của Chúa Phục Sinh. Để củng cố sự can đảm, sức mạnh cho các môn đệ, Chúa Phục Sinh ban Thánh Thần cho các môn đệ, Ngài nói :” Các con hãy nhận lấy Thánh Thần “.
Chúa ban Thánh Thần và sự bình an cho các môn đệ để Chúa Thánh Thần chính là sự khôn ngoan hướng dẫn các môn đệ rao giảng, biết cách ứng xử ở đời nhờ đó các môn đệ sẽ trở nên những dũng sĩ can trường loan truyền Tin Mừng. Sự bình an Chúa ban là sức mạnh nội tâm giúp các môn đệ xưa và Giáo Hội ngày nay, can đảm đối diện với những thử thách, cam go, bách hại trong đời sống đức tin vv…
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã biến đổi tất cả, đã đem lại cho mọi người sự sống, đặc biệt mang lại sự sống mới cho các môn đệ. Chính thánh Phêrô đã đứng lên rao giảng, các môn đệ khác cũng rao giảng, mọi người lúc đó thuộc nhiều miền, nhiều đất nước đã nghe được tiếng nói của mình.Thánh Phêrô đã rửa tội cho nhiều ngàn người. Giáo Hội đầu tiên đã được khai sinh, sức sống mới mãnh liệt bừng lên. Công đồng Vaticanô II, do Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 triệu tập đã là một ngày “ Lễ Hiện Xuống mới của Giáo Hội “. Công đồng Vaticanô II đã mang lại sức sống mới, sức sống mãnh liệt cho Giáo Hội.
Vào lễ Ngũ Tuần đầu tiên cách đây 2018 năm, Thần khí Đức Kitô Phục Sinh bắt đầu ngự trong tâm hồn các môn đệ một cách đầy quyền năng, sức mạnh. Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động mạnh mẽ, đầy sáng tạo, quyền năng, không ngừng trong Giáo Hội. Mừng lễ Chúa Thánh Thần chúng ta mừng ngày kỷ niệm trọng đại của Đạo Công Giáo được khai sinh, đồng thời chúng ta được mời gọi đón nhận những ơn ban của Chúa Thánh Thần.Nhờ ơn của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh và mỗi người chúng ta có đủ năng lực, sức mạnh, bình an để sống Phúc Âm và rao truyền Lời Chúa bởi vì “ Lúa chín đầy đồng…”, nào chúng ta ra đi gặt lúa…
Lạy Chúa Thánh Thần,xin hãy đến đổi mới tâm hồn chúng con và ban cho chúng con sức mạnh, lòng nhiệt thành để loan báo Tin Mừng.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Lễ Chúa Thánh Thần nói cho chúng ta những gì ?
2.Tại sao lại gọi ngày lễ Hiện Xuống là ngày lễ Ngũ Tuần ?
3.Chúa Thánh Thần đã lấy hình gì mà ngự xuống các môn đệ xưa ?
4.Tại sao lại nói Lễ Hiện Xuống khai sinh Giáo Hội ?
5.Tại sao Chúa lại ban bình an cho các môn đệ ?
.
Bông hồng nhỏ
– Anh Thắng chưa chạy xe lên đón anh em mình rồi.
– Làm sao đây anh Phúc?
– Mình đi bộ về nhà đi.
– Xa lắm đó!
– Anh em mình mới được chịu phép Thêm Sức mà.
– Em được đầy Chúa thánh Thần luôn đó.
– Ừ nhỉ! Ừ nhỉ!
Gần mười một giờ trưa, ba anh em cùng nhau đi bộ về nhà. Quãng đường từ nhà xứ về nhà hơn 15 cây số, vậy mà ba anh em vẫn quyết chí lên đường. Trưa mùa hè nắng như đổ lửa, ba mái đầu bé con đi bộ mà mồ hôi nhễ nhại, vừa mệt vừa đói nhưng cả ba vẫn vui vẻ và lòng rất phấn khởi. Sau hơn ba tiếng đi bộ thì ba anh em cũng về đến nhà trong niềm vui.
Đó là câu chuyện hồi học lớp sáu mà như vừa mới xảy ra hôm qua thôi. Nhìn lại cuộc sống của ta, ta nhận ra ơn Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng tuôn đổ trên ta, hướng dẫn ta bước đi giữa cuộc đời nhiều cạm bẫy này. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho các Tông Đồ trước khi về Trời. Trong ngày lễ Ngũ tuần, các Tông Đồ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần và hăng say ra đi rao giảng khắp nơi. Từ ngày lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ta đã sống sứ vụ Chúa ban như thế nào?
Lời Chúa vẫn vang vọng trong tâm hồn ta: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 20). Sau cái chết của Thầy Giêsu, các Tông Đồ rơi vào nỗi sợ hãi, các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu Phục Sinh đã đến ban bình an cho các ông, chính Chúa là nguồn bình an cho các ông. Ngay lúc đó, các ông được vui mừng và không còn sợ hãi nữa. Còn ta, cuộc sống vẫn mang đến cho ta những khó khăn và những nỗi lo sợ. ta hãy tìm đến Chúa là nguồn bình an đích thực. Chỉ khi nào ta dám ký thác đời mình cho Chúa ta mới có được bình an. Hãy suy gẫm lời này mỗi khi gặp gian nan thử thách: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Mt 6, 25-34). Ta có tin rằng, khi ta phó thác đường đời cho Chúa, chính Chúa sẽ ra tay bênh đỡ chở che cho ta không? Ta phải luôn nhớ rằng, Chúa Thánh Thần mãi luôn hoạt động trong cuộc đời ta. Chúa Giêsu đã ban bình an cho các Tông đồ và kèm theo đó là một lệnh truyền. Chúa cũng sai ta đi vào đời để trở nên muối và ánh sáng cho trần gian. Hãy bước đi với lòng tạ ơn Chúa Cha, bằng tình yêu của Chúa Giêsu và sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
“Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. (Ga 20, 23).
Có Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, ta hãy mạnh dạn tháo cởi những gì mà trước giờ ta đã cầm buộc. Đó có thể là một mối tương quan đang rạn nứt vì những hiểu lầm nho nhỏ, những lỗi lầm mà ta đã gây nên hay những người mà ta chưa có dịp sống liên đới như Chúa muốn. Hã mở rộng cánh cửa tâm hồn để đón Chúa và đón gặp gỡ anh chị em. Có những lúc ta cầm buộc người khác nhưng vô tình ta cũng đã tự trói lòng mình lại, vì khi ấy ta chẳng có bình an. Hãy tập tháo cởi từng ngày bằng sức mạnh của CHúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng BảẢo Trợ của con! Nguyện xin Chúa luôn ngự xuống trong tâm hồn con, soi sáng và dẫn đưa con trên hành trình về Nhà Cha. Lạy Chúa Thánh Thần! Xin cho con biết dành một vị trí thật xứng đáng để Ngài tự do hoạt động trong tâm hồn con. Con xin trao vào tay Ngài chìa khóa tự do của cuộc đời con để Ngài giúp con tháo cởi những ràng buộc và mở rộng cánh của tâm hồn cho Chúa ngự vào. Xin Chúa tuôn đổ tràn đầy ơn sủng Chúa Thánh Thần xuống trên Giáo Hội và giúp Giáo Hội luôn trở thành ánh sáng cho trần gian. Amen.
.
Anna Cỏ May
Trong những năm sống với các môn đệ, Chúa Giêsu luôn nói đến Chúa Thánh Thần, nhưng các môn để vẫn không hiểu Đấng ấy là thế nào. Dù là vậy, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng Bảo Trợ, gìn giữ và hướng dẫn các môn đệ. Đấng ấy sẽ giúp các ông hiểu những điều Chúa Giêsu đã giảng dạy về Nước Trời, hiểu những lời Cựu Ước đã tiên báo về Đấng Cứu Thế và biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người. Các môn đệ sẽ được nhận thấy rõ về Chúa Giêsu là con đường, là sự thật và là sự sống cho nhân loại thế nào. Ngoài ra, trong tâm hồn các ông sẽ được Chúa Thánh Thần tăng thêm lòng tin, mỗi ngày cùng đồng hành với các ông trên con đường rao giảng. Vậy, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ như thế nào? Trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình dạng ngọn lửa. (x. Tv 2, 1-3); như chim bồ câu (x. Mt 3, 13-17) và nhiều hình dạng khác nữa. Lời Chúa hôm nay thuật lại: “Người đã thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.(Ga 20, 22-23). Chúa Giêsu đã thổi hơi thở sự sống, hơi quyền năng và hơi tình yêu là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Các ông sẽ là những con người tiếp nối sứ mạng rao giảng, chia sẻ tình yêu Chúa đến cho mọi người trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Từ đó, tất cả những ai đón nhận Tin Mừng điều trở nên con Thiên Chúa, được tràn đầy ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống khơi dậy cho chúng ta nhớ lại những giây phút được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày chịu phép Thêm Sức. Chúng ta đã được đón nhận Chúa Thánh Thần khi lãnh phép Rửa Tội. Tại sông Giođan, Chúa Giêsu cũng hạ mình khiêm nhường chịu phép rửa của ông Gioan, ngay lúc ấy Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Ngài. Chúa Thánh Thần là quà tặng cao quý, một hồng ân mà Chúa Giêsu thương trao tặng cho con người. Từ đó, cuộc sống của chúng ta luôn được Chúa Thánh Thần đồng hành . Từng ngày sống luôn có những khó khăn, những khó khăn ấy làm cho chúng ta dễ quên Đấng Bảo Trợ. Vậy chúng ta phải làm sao đây? Hằng ngày, chúng ta hãy thử thanh luyện tâm hồn hướng đến những điều thiện, cần mở con tim để lắng nghe những gợi hứng của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta đi vào mối tương quan mật thiết với Chúa hơn. Chúa Thánh Thần là Đấng luôn lắng nghe và sẵn sàng giúp chúng ta vượt qua tất cả mọi khó khăn hằng ngày.
Laỵ Chúa, chúng con cảm tạ và ca ngợi Chúa. Chúa đã ban Thánh Thần cho chúng con. Ngài đã đang hướng dẫn, dìu dắt, bảo vệ và thánh hóa chúng con mỗi ngày. Xin cho mỗi người chúng con ý thức những ân huệ Chúa đã ban và nhớ rằng chúng con luôn có Chúa Thánh Thần bảo vệ. Amen.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Mùa phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết và sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần- Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Giêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai có thể tin vào Đức Giêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể trong Đức Giêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Giêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với các ngài khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga 15, 26), được Cha và Đức Giêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Giêsu (Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
- Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
- Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?
.
KINH NGUYỆN TRONG CHÚA THÁNH THẦN
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Viết về Chúa Thánh Thần là một đề tài lớn trong Giáo Hội. Không đâu là không có hoạt động và tác động của Người. Dù Chúa Thánh Thần chưa ai thấy bao giờ nhưng nói về Người qua hình tượng: Gió, lửa, nước, bồ câu, hơi thở… rất nhiều đa dạng và hoạt động phong nhiêu. Có lẽ chỉ nói một chút ít về Chúa Thánh Thần trong tác động kinh nguyện của Người tín hữu, đủ thấy sự phong phú của Chúa Thánh Thần.
Kinh nguyện hướng về Chúa Cha.
“Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng.” Gc 1, 17).
Mọi nguồn mạch ân sủng quy về Chúa Cha, trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần. Phụng vụ kinh nguyện của người tín hữu đều ở trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha đã yêu thương bước trước khi tạo dựng nên con người, Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”(St 1, 26). Chúa Con xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại và Chúa Thánh Thần làm cho nhân loại mới được tháp nhập vào Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Thánh Thần là Đấng chuẩn bị con người để con người gặp gỡ Chúa. Lời kinh nguyện của người Ki tô hữu không ở ngoài Thiên Chúa mà ở trong Thiên Chúa như diễn tả của hồng y Bruno Forte. Nhờ Chúa Thánh Thần đưa con người vào trong Thiên Chúa, như từ lúc Chúa Con xuống thế làm người, được thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi phép Chúa Thánh Thần.
Kinh nguyện trong Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người ở giữa thế gian. Người là Đấng mang lấy thân phận con người, thấm hiểu được mọi nỗi đau khổ, tang thương, và sự chết của con người. Là Đấng tiên tri đã giới thiệu: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53, 4 – 5)
Chinh Chúa Giêsu dạy cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Đó là lời kinh tốt đẹp nhất dâng lên Cha, nguyện Danh Cha cả sáng khi con người đáp lại bằng cả đời sống của minh để nên giống Chúa Giêsu. Kinh nguyện ở trong Chúa, là kinh nguyện được Chúa Thánh Thần thánh hóa người tín hữu, Đấng cắt tỉa những cành sâu, mối mọt, Đấng chữa lành thương tích do tội lỗi gây nên, Đấng sửa lại những lỗi lầm, giúp người tín hữu ngày càng nên hiệp nhất với Chúa hơn.
Kinh nguyện trong sự bền bỉ, đôi khi người tín hữu cũng có cảm nghiệm về sự khô khan hoặc chán ngán cầu nguyện, hoặc nguội lạnh trong khi tham dự Thánh lễ. Thực ra, đây là một thử thách lớn lao trong đời sống kinh nguyện, nhưng lại là một thử thách cần thiết. Tính bền bỉ đòi hỏi sự nỗ lực để vượt qua, kiên trì ngay cả lúc không thấm nhuần gì kinh nguyện. Lúc không còn không thể chịu đựng hơn nữa, vào lúc ấy, Chúa ra tay trợ giúp, như Thánh Phaolô kinh nghiệm về yếu đuối của mình: “”Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2 Cor 12, 7 )
Kinh nguyện trong Chúa Thánh thần.
Không kinh nguyện nào mà không nhờ Chúa Thánh Thần tháp nhập vào trong Chúa Giêsu Kitô và dâng lên Chúa Cha. Thánh Phaolô viết: “Thánh Thần làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8, 15).
Chúa Thánh Thần làm cho kinh nguyện của cá nhân hợp cùng Giáo Hội dâng lên. Dầu cầu nguyện một mình nơi hoang vắng, hay những giờ kinh nguyện chung trong gia đình, hay trong những nhóm họp. Chúa Thánh Thần luôn làm cho kinh nguyện ấy được hợp lại trong lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa. Là một chi thể trong một thân thể, mà Chúa Giêsu Kitô là Đầu, người tín hữu đều được liên kết nhờ Chúa Thánh Thần.
Đời sống cầu nguyện là trường dạy về đời sống liên đới. Theo D. Bonhoéffer, ai không có khả năng sống một mình với Chúa, thì không thể hiệp thông với anh chị em mình. Cũng vậy, ai không có khả năng sống liên đới với anh chị em mình thì cũng không thể sống riêng một mình với Chúa. Chúa Thánh Thần nói trong thinh lặng, người tín hữu cần bền bỉ tập thinh lặng để lắng nghe.
Chúa Thánh Thần nói trong lương tâm của mỗi người, nhắc nhở về những sai lỗi, gợi lên con đường hoán cải. Đấng thấu suốt mọi tâm can, cho biết điều thật và giả, Người trợ giúp nếu muốn sống điều ngay thật; nếu cứng lòng sai lỗi Người vẫn kiên trì nhắc bảo, như Lời Chúa dạy: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” (Ga 6, 45).
Chúa Thánh Thần làm cho người tín hữu được sống trong Chúa Giêsu và sống dồi dào trong đời sống thường ngày của mình. Thánh Phao lô nói về hoa trái Chúa Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5, 22 – 23). Những hoa trái này là kết quả của nhành nho gắn liền với thân nho.
Chúa Thánh Thần làm cho người tín hữu khi đón nhận Thánh Thể Chúa được sống nhờ Chúa và được nuôi dưỡng trong cộng đoàn Thánh Thể. Đó là một cộng đoàn Phục Sinh, làm chứng nhân cho Chúa trong niềm vui Chúa Thánh Thần.
“Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh. Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến. Ðấng ban ân huệ, chiếu soi tâm hồn. Lạy Ðấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm bình an trong lúc lệ rơi. Ôi sự sáng chứa chan hồng ân, xin chiếu soi ngập tràn tâm hồn tín hữu. Nếu không có Chúa trợ phù, thì còn chi thanh khiết, thì còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch bợn nhơ, tưới gội chỗ khô khan, chữa cho lành thương tích. Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn sai lầm. Xin Chúa ban cho mọi tín hữu, là những người tin cậy nơi Chúa. Chúa ơi, cho họ được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ muôn đời.” (Ca tiếp liên lễ Chúa Thánh Thần)
.
Lm Trần Bình Trọng
Khi Ðức Giêsu hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Người phán bảo các ông: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20:22). Giáo lý công giáo dạy thêm thêm: nhận lấy Thánh Thầnlà tiếp nhận bảy ơn Chúa Thánh Thần là: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Bảy ơn Chúa Thánh thần là những ơn căn bản, cần thiết cho đời sống người tín hữu.
Ngoài ra còn nhiều ơn khác quen gọi là đặc sủng của Chúa Thánh thần được ban tặng để nhắm lợi ích chung cho Giáo hội như đặc sủng khôn ngoan để giảng dạy, hiểu biết để trình bầy, lòng tin để củng cố; đặc sủng chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân biệt thần khí; đặc sủng nói tiếng lạ, giải thích tiếng lạ (1Cr 12:7-11). Khi loài người đang cặm cụi xây thành phố và tháp chọc trời Baben để cho danh tiếng được lừng lẫy, thì họ bị phạt vì tội kiêu ngạo, khiến loài người không còn hiểu được tiếng nói của nhau và còn bị phân tán trên mặt đất (St 11:4-8). Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, ơn hiểu biết ngôn ngữ đã được ban tặng để hiệp nhất những người dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mêsôpôtamia, Giu-đê, Ca-pa-đô-mi-a, Pon-tô, A-xi-a; những người Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai Cập; những người vùng Libya, những người Rôma, những người Do Thái và cả người đạo theo; những người Cơ-rê-ta và người Ả Rập (Cv 2:9-11).
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh thần không chỉ giới hạn nơi các tông đồ mà thôi, nhưng còn tác động nơi nhiều người, dưới nhiều cách thức và trong mọi thời đại. Muốn thấy ơn Chúa Thánh thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội, có thể đọc thư thánh Phaolô: Có nhiều thứ ân sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa là Ðấng làm mọi sự trong mọi người (1Cr 12:4-6). Như vậy các phần tử trong Giáo hội đều đóng những vai trò khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau.
Ơn Chúa Thánh thần ban cho mỗi phần tử khác nhau, nhưng chung qui lại về một mối như thánh Phaolô viết: Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể (1Cr 12:13). Dấu chỉ của việc Chúa Thánh Thần làm là khi người tín hữu làm việc tông đồ nhằm mục đích tìm kiếm vinh danh Chúa và hiệp nhất với Giáo hội. Còn việc phân tán giữa thế giới Kitô giáo là một cớ vấp phạm cho những người không tin Chúa hoặc chưa tin theo Chúa. Vậy sứ vụ của người Kitô giáo là cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.
Khi chịu phép Thêm sức, người tín hữu được học hỏi về Ngôi Ba Thiên Chúa, về các ơn Chúa Thánh thần và các hoạt động của Chúa Thánh thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Công Ðồng Vaticanô II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử của Giáo hội đều được gọi để sống đời thánh thiện và làm chứng nhân của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi để đóng vai trò khác nhau trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tuỳ theo khả năng, phương tiện và hoàn cảnh có thể. Cũng như một thân thể gồm nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, lưỡi, chân, tay.. và mỗi chi thể có phận vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhắm lợi ích chung cho toàn thân. Dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang nước Trời không chỉ tuỳ thuộc vào tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị xã hội của mỗi người mà thôi, nhưng còn tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với ơn Chúa và còn nhắm hiệp nhất với nhau.
Khi so sánh những hoạt động của Chúa Thánh thần trong thời Giáo hội sơ khai với thời nay, một số người tự hỏi tại sao Chúa Thánh thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại họ đang sống? Ðể trả lời, người ta cần nhận định rằng Thánh thần của Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng vĩ đại trong bất cứ thời đại nào nơi những người biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống. Có những người nghĩ rằng họ không có đủ tài năng và ân huệ để hoạt động tông đồ. Vì thế họ rút lui vào bóng tối, không muốn xuất đầu lộ diện làm việc tông đồ. Những người khác nghĩ rằng họ yếu hèn và tộị lỗi nên không muốn hiến thân trong đời sống thực hành đức tin. Lại có những người cho rằng họ phải được hàng giáo sĩ mời gọi làm việc tông đồ, thì họ mới tham gia.
Khi để Chúa Thánh thần hoạt động trong tâm hồn và đời sống, người ta sẽ không phân chia trí óc, trái tim thành những ngăn ô khác nhau như là một ngăn dành cho công việc làm ăn, một ngăn cho việc giải trí, nghỉ ngơi, ngăn kia cho việc ăn uống. Và những ngăn đó thì người ta không cho Chúa vào. Còn ngăn cuối cùng nhỏ bé nhất thì người ta mới dành cho Chúa, cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Ðể cho ơn Chúa Thánh thần có thể tác động trong đời sống, ta phải đem Chúa vào tất cả mọi ngăn ô và lãnh vực của cuộc sống. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô nói: Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi (Gl 2:20).
Lời cầu nguyện: xin ơn hiệp nhất trong Giáo hội:
Lậy Chúa Thánh Thần, xin hiệp nhất chúng con.
Xin dậy con biết làm việc tông đồ cộng tác
với người cùng chia sẻ một đức tin, một phép rửa.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn
để con biết quên mình, bỏ ý riêng
mà tìm kiếm sự hiệp nhất trong Giáo hội
hầu cho danh Chúa được cả sáng. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Cửa nhà đóng kín, thấm nhuần đau thương.
Sợ lo bắt bớ vấn vương,
Họp nhau cầu nguyện, tựa nương xum vầy.
Giê-su hiện đến nơi đây,
Bình an chúc phúc, chính Thầy hiện ra.
Xem tay lủng lỗ rách da,
Cạnh sườn đâm thấu, thứ tha tội đời.
Vui mừng xem thấy Ngôi Lời,
Phục sinh cõi chết, rạng ngời thánh nhan.
An bình ân sủng trao ban,
Sai đi khắp chốn, vạn ngàn khó nguy.
Thánh Thần đón nhận phát huy,
Các con tha tội, thực thi chữa lành.
Thứ tha tẩy sạch lòng thành,
Các con cầm tội, nhân danh Chúa Trời.
Tội kia cầm lại trong đời,
Khấn lòng thương xót, một thời sửa sai.
Hạ thân, Chúa chết vì ai?
Gọi người tội lỗi, mở khai tâm hồn.
Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh dưới thế. Ngài hứa ban Thánh Thần như nguồn sinh lực để khai mở một hướng mới trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần là nguồn mạch an ủi và khôn ngoan. Ngài đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát và sợ sệt trở nên những nhân chứng can đảm. Các môn đệ không còn sợ hãi, không sợ bắt bớ, tù đầy, không sợ đau khổ và không sợ chết nữa.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý và nguồn sự sống. Khi tạo dựng muôn loài, Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào thân xác các loài thụ tạo và các thụ tạo bắt đầu có sự sống. Hơi thở là sự sống. Khi tắt thở là chết. Mọi muông thú và con người đều cần có hơi thở để sống còn. Hơi thở là sự sống mà chúng ta lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần.
Truyện kể vui: Có một cha sở bị bệnh nặng phải có bình dưỡng khí để tiếp thở. Bà giúp việc khóc lóc than van và lo lắng cho ngài. Cha xin bà làm cho ngài một việc. Bà nói thưa cha việc gì cũng được, miễn sao cha khoẻ. Cha nói: xin bà bước ra, bà đang đạp lên ống dưỡng khí của tôi, tôi không thể thở được. Khí rất cần cho sự sống. Mỗi giây phút cuộc đời, chúng ta lãnh nhận hồng ân của Chúa, đó chính là ơn sự sống.
Chúa Giêsu hứa với các môn đệ rằng: Thần Chân Lý sẽ đến dạy chúng con tất cả sự thật. Thần Chân lý là nguồn sự khôn ngoan không bao giờ vơi cạn. Như lời Kinh Thánh đã viết, đã trải qua mấy ngàn năm, nhưng lời Chúa vẫn như mới và vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi tâm hồn. Với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, lời Chúa có thể áp dụng mọi nơi, mọi thời và không bao giờ trở nên cổ hủ. Mỗi lần đọc lời Chúa, chúng ta suy niệm và sẽ có những thúc đẩy và hướng dẫn mới.
Thánh Phaolô viết rằng: Chúng ta không thể nói “Lạy Chúa” nếu không bởi ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong lòng Giáo Hội, luôn đổi mới và canh tân qua mọi thời đại. Ơn Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội tìm ra con đường thích hợp để thích ứng với cuộc sống mà không bị đi trong lầm lạc.
Chúa Giêsu đã thổi hơi và phán bảo: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại. Các Tông đồ không làm việc gì mà không do Thánh Thần thúc đẩy họ. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần như nguồn sinh lực và bình an. Mỗi lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, Chúa đều chúc: Bình an cho các con. Lời chúc đó mang lại sự bình an đích thực trong tâm hồn. Trong thánh lễ linh mục chúc: Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em và anh chị em đi bình an.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Thần Khí sự thật và sự thật toàn vẹn
Tôi vẫn thường thắc mắc về ý nghĩa hay nội dung đích thực của ‘sự thật toàn vẹn’. Nhiều bản văn Thánh Kinh Anh ngữ dùng các từ ‘all truth, whole truth, all the truth’ để dịch từ ‘aletheia pase’tiếng Hy Lạp. Đối với tôi, vấn đề chính ở đây là xác định được nội dung của ‘sự thật’ hay ‘chân lý’ mà Đức Giê-su nhiều lần đề cập tới, thậm chí có lúc còn tự đồng hóa mình với aletheia (xem Ga 14:6). Nói như thế vì tôn giáo nào cũng thường cho mình là dạy dỗ sự thật, hoặc mình thủ đắc chân lý duy nhất đúng, và đề ra cả một hệ thống thuyết giáo phức tạp để quảng diễn chân lý hay sự thật đó. Trong lãnh vực này, thiết tưởng đạo Công giáo chúng ta cũng không là ngoại lệ.
Thế nhưng nếu có thứ chân lý của hiểu biết, thì cũng có chân lý hay sự thật của cứu rỗi. Khi tuyên bố với các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô rằng: ông đã rao giảng cho họ ‘tất cả ý định của Thiên Chúa’, Phao-lô chỉ đơn thuần khảng định rằng, ông rao truyền cho họ tất cả những hiểu biết cần thiết để tiến tới ơn cứu độ (Cv 20:17-35). Ông cũng nói với các tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu… mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì!” (1 Cr 13:2). Chính Đức Giê-su đã từng khảng định rằng: có sự thật giải thoát, có chân lý thánh hóa’ (Ga 4:22; 17:17-19). Trong cuộc đối đáp giữa Người với Phi-la-tô, thuật ngữ ‘sự thật’ đã được hai người hiểu rất khác nhau là thế. Rõ ràng ‘chân lý toàn vẹn’ không thể chỉ là hiểu biết, mà phải là ‘sự thật cứu rỗi’.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Có điều gì các môn đệ không chịu nổi hay chậm hiểu? Các lý luận thần học hay các tín lý trong đạo chăng? Đương nhiên là mấy ông môn đệ đó khó có thể hiểu nổi…, nhưng Đức Giê-su đâu có đòi điều này nơi những người bình dân chất phác như các ông. Không, tất cả các ông đều đang đi tìm sự cứu rỗi cho mình và cho toàn dân Ít-ra-en; tuy nhiên cũng như phần đa các người Do Thái khác, các ông cho rằng sự cứu rỗi rõ ràng hệ tại ở việc tuân giữ lề luật. Thực hiện Giao Ước với Gia-vê như thể con đường duy nhất dẫn tới giải thoát, cả về mặt chính trị lẫn thiêng liêng. Vấn đề ở đây là, làm sao các ông chịu hiểu ra rằng, sự cứu rỗi và giải thoát duy nhất phải tới từ Đức Ki-tô, từ cuộc tử nạn của Người, vì qua đó Thiên Chúa mới biểu lộ được trọn vẹn tình yêu và lòng nhân ái của Người?
Rõ ràng, khi giáo huấn các môn đệ bằng các dụ ngôn và lời giảng dạy, Đức Giê-su cố giải thích cho các ông hiểu nội dung cứu rỗi này. Người coi việc thực hiện trước mắt các ông nội dung này, qua việc chính các ông phải là những chứng nhân của cuộc tử nạn và thập giá Người chịu, là điều tối quan trọng. Tiếp theo, trong suốt thời gian sau khi sống lại, Người vẫn không ngừng giải thích cho các ông hiểu sự thật giải thoát này. Tuy nhiên xem ra các ông vẫn chưa thấm; đúng là các ông không có sức chịu nổi, và sẽ chẳng bao giờ chịu nổi, bao lâu còn bị truyền thống xã hội và tôn giáo ngàn năm bao vây. Do đó Đức Giê-su thấy cần phải “sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha… một Đấng Bảo Trợ”. Công việc chính của Đấng này là ‘làm chứng về Thầy’, là làm cho Đức Giê-su được nhận biết, nhất là qua cuộc tử nạn thập giá và phục sinh Người, như dấu chỉ chân thực nhất của mạc khải vĩ đại ‘Thiên Chúa đã yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một Người…’ (Ga 3:16). Phải chăng ‘sự thật toàn vẹn – all truth – aletheia pase’ hệ tại chính ở điều này, đó là sự thật của cứu rỗi giải thoát, chứ không chỉ là sự thật của hiểu biết suy tư? Và sự thật này thì chỉ Thần Khí Chúa mới ‘dẫn’ tới được! Phao-lô từng khảng định với các Ki-tô hữu gốc Do Thái đang sinh sống tại Rô-ma rằng: không có Thần Khí này, họ vẫn chỉ là ‘nô lệ và phải sợ sệt như xưa’, nhưng một khi lãnh nhận Thần Khí “Anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:14-17). Chính vì thế mà Đức Giê-su gọi Chúa Thánh Thần là ‘Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha’ (Ga 15:26). Và công việc của Thánh Thần không chỉ là dạy dỗ các tín hữu biết mọi lẽ đạo, mà phải là ‘làm chứng về Thầy…’, và ‘cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu’.
Thần học hay giáo lý, chủ yếu vẫn là công việc của trí tuệ và hiểu biết của con người. Điều mà cá nhân tôi và mọi ki-tô hữu thực sự cần là ‘sự thật toàn vẹn’, có sức cứu rỗi và giải thoát. Vì thế sống Thánh Thần liên tục là điều kiện thiết yếu để tôi vun trồng niềm tin yêu vào Thiên Chúa cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su… và biến đời tôi thành nhân chứng sống động của tình yêu nhân hậu đó. Vì từng là một linh mục của thần học và trí tuệ, tôi càng có khuynh hướng coi sự thật chỉ là hiểu biết và lý luận; chính vì thế mà tôi càng cần xác tín về ‘sự thật cứu rỗi’ này và nhận ra sự cần thiết tuyệt đối của nó, nhất là cho chính mình.
Lạy Đấng Bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa đang hiện diện nơi thẳm sâu cõi lòng con, xin không ngừng dẫn con tới ‘sự thật toàn vẹn’ mà rất nhiều khi con bị trí tuệ làm cho quên lãng. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là giữa những thử thách yếu đuối và sa ngã, xin hãy cứ tiếp tục ‘rên siết khôn tả’ trong con (Rm 8:26), cho tới khi con dám chân thành mở miệng thốt lên từ đáy lòng mình: ‘Áp-ba! Cha ơi!’ A-men.
.
THỜI KỲ ÂN ĐIỂN CỦA THÁNH THẦN
Lm. G.B. Trần Văn Hào
Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia này. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu : “Thưa Ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được thành quả nào vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God we trust) trên tờ Đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.
Chúa Thánh Thần là ai?
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng : “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản của giáo lý Công giáo về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.
Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa : “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).
Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần.
Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là gió hay hơi thở, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.
Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống… Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).
Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.
Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh ám chỉ về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.
Kết luận
Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
.
Lm. Giuse Hồ Quang Hân
Bài Tin Mừng của thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu gặp gỡ các tông đồ trước khi Ngài trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài không có ý định lìa xa các tông đồ mà không nói lời từ biệt nào nhưng Ngài đã “chúc bình an” và để lại bình an của Ngài cho họ. Ngài cũng không để họ ở lại một mình bơ vơ nhưng Ngài đã “trao ban thánh thần” như là Đấng bảo trợ, Đấng che chở, Đấng thần khí và sự thật để hướng dấn họ. Chính nhờ Thánh Thần, các tông đồ hiểu rõ hơn về nhưng lời Đức Giêsu đã dạy cho họ, đặc biệt Đức Giêsu đã trao lại cho các tông đồ “quyền tha tôi và cầm giữ” để thực thi sứ mệnh của Ngài, mang lại sự sống đích thực cho con người. Các yếu tố này đã tạo nên hợp nhất trong công trình xây dựng cộng đoàn và hội thánh của Thiên Chúa ở trần gian, qua các tông đồ, hầu mang lại tình yêu, niềm hạnh phúc và sự sống mới cho nhân loại. Bài suy niệm sẽ gợi lên ba vấn đề: bình an cho anh em, anh em hãy lãnh nhận thánh thần và quyền tha tội và cầm giữ mà Đức Giêsu trao bao cho các tông đồng.
- Bình an cho anh em
Đức Giêsu đã hai lần Chúc bình an cho các môn đệ. Lần thứ nhất Ngài ban bình an cho các môn đệ khi Ngài vừa mới phục sinh (Ga 20,19)và lần này trước lúc về với Thiên Chúa, Ngài lại ban bình an cho các tồng đồ. Như thế bình an như là một dấu chỉ rất quan trọng để các tông đồ nhân ra Chúa Phục sinh. Bình an mà Đức Giêsu trao bao cho các tông đồ có khả năng đem lại niềm vui cho các ngài và mọi người. Tuy nhiên khi nhận lãnh bình an này rồi liệu các tông đồ có gặp thử thách nữa hay không hay đây như là một lời chào của Chúa Giêsu để làm cho các tông đồ vui lòng?. Chắc chắn rằng lời bình an của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ là sức mạnh nội tại để giúp các tông đồ sẵn sàng đối diện với những khó khăn và giúp các ngài vượt qua thử thách. Khi các ngài gặp gian truân khốn khó, các ngài vẫn giữ được một tâm hồm bình an, đó là bình của Đức Giêsu hiện diện nơi chính họ và bình an sẽ giúp cho các môn xác tín, vững tin và vui sống.
Một khía cạnh nữa, bình an của Chúa Giêsu trao ban cho các tông đồ gắn liền với lời sai đi. Ngài sai các tông đồ ra đi để trao ban bình an của Ngài cho mọi người. Đây không phải là thứ bình an giả tạo để phủ lấp những đau khổ, những khó khăn và thách thức của cuộc đời. Nhưng nhờ bình an này các tông đồ dám bước đi trong bóng tối của cuộc đời, các ngài dám đi ra khỏi con người của mình để cởi bỏ tất cả và dẫn thân mạnh mẻ vào kế hoặc của Thiên Chúa. Như thế cho dấu gặp khó khăn thử thách nào đi nữa, các tông đồ Chúa vẫn bình an, vững tin để vượt qua.
Còn chúng ta, khi tham dự thánh lễ ta chúc bình an cho anh chị em và ta được anh chị em chúc bình an lại. Đây thực là bình an mà Chúa kitô đã trao lại cho ta. Vậy ta phải tự hỏi chính mình tôi đã thực sự trao bình an cho anh chị em bằng bình an của Chúa Giêsu hay chưa? tôi đã vượt qua được những ngăn trở của ích kỷ, của hận thù và ghen ghét để trao ban bình an của Đức Giêsu cho anh em chưa?. Thật vậy ta cần có một niềm xác tín mạnh mẽ vào bình an của Đức Giêsu là bình an mang lại niềm vui thật cho mọi người để khi chúng ta trao ban bình an cho anh chị em chính là lúc chúng ta trao ban niềm vui của Đức Kitô cho họ.
- Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần
Trước khi bước vào cuộc thương khó Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ là Ngài sẽ ban cho các ông Thánh Thần là Đấng bảo trợ là thần khí sự thật. Thánh Thần sẽ ở lại và ở mãi giữa các tông đồ. Chính Thánh Thần dạy cho các tông đồ và giúp cho các ông nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy cho họ, Thánh Thần sẽ cùng với các tông đồ làm chứng về Đức Giêsu và nói lên sự thật cho thế gian biết, đồng thời Thánh Thần sẽ hướng các ngài tới chân lý toàn vẹn. Như thế Thánh Thần luôn hiện diện, soi sáng, hướng dẫn và dạy dỗ các tông đồ như trong bài đọc I đã nói: “hết thảy họ được đầy Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng lạ, tùy theo thần khí ban cho họ phát ngôn”. Nhờ sự trao ban thánh thần, các tông đó có thể ra đi rao giảng Tin Mừng, tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô ở trần gian. Nhờ Thánh Thần, hết thảy ta được thanh tẩy và được hợp nhất trong giáo hội để kết thành một thân Thể là Đức kitô.
Chắc chắn rằng mỗi người chúng ta cũng cảm nhận được phần nào đó về vài trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của mình. Có nhiều lúc ta rơi vào trạng thái thất vọng chán nản cuộc đời, con người của ta lúc này như không còn một chút sức sống hay một chút sinh khí nào nữa. Ta có thể rơi vào tuyệt vọng và những sa ngã của tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta biết cầu nguyện, xin Thánh Thần thêm sức và sự trợ lực để vượt qua thì Ngài sẽ trao ban cho chúng ta vì ngài là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí, là nguồn sống. Và nếu ta cầu xin Ngài biến đổi con người ta nên mới chắc chắn rằng Ngài sẽ biến đổi con người và tâm hồn ta để ta xa tránh những sa ngã của tội lỗi. Vì Chúa Thánh Thần luôn hoạt động và biến đổi ta liên lỉ.
- Quyền tha tội và cầm giữ của các tông đồ
Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý ở trần gian nữa. Cho nên Ngài ban quyền tha tội và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ được trao quyền tha tội và cầm giư, nghĩa là kể từ đây các ngài được tham gia vào quyền xét xứ của Thiên Chúa mà Ngài đã nhận từ Thiên Chúa Cha. Như thế các tông đồ không thể thi hành quyền này theo ý riêng của mình mà phải dưa trên lời dạy của Đức Kitô qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa mục đích của quyền tha tội và cầm giữ là để thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa, bảo vệ con người và mang lại niềm hạnh phúc cho họ. Quyền tha tội và cầm giữ là mệnh lệnh mà chính Đức Giêsu trao lại con các tông đồ để các ngài tiếp tục thi hành sứ vụ cứu độ mang lại sự sống đích thực cho nhân loại.
Kết luận
Đức Giêsu đã ban bình an cho các tông đồ, sai họ đi thi hành sứ mệnh chính Ngài trao phó, và kêu gọi các ngài đón nhận Chúa Thánh Thần, đặc biệt Ngài còn ban cho các tông đồ quyền tha tội và cầm giữa để các ngài thì hành và đem lại sự sống của Đức Giêsu cho nhân loại hầu đem lại sự hợp nhất trong một Thiên Chúa và trong một thần khí. Với chúng ta, Thiên Chúa cũng đòi hỏi chúng ta xây dựng đời sống mình, đời sống cộng đoàn trên các yêu tố này hầu đem lại niềm vui, bình an và sự sồng đích thực cho mọi người. Nguyện xin Thánh Thần Chúa đến đổi mới tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết hướng về nguồn chân thiện mỹ muôn đời là Thiên Chúa, Đấng đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến ban bình an và sự sống muôn đời cho nhân loại. Amen.
.
CHÚA THÁNH THẦN LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG”
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng với đức tin: “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”. “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, là mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (x.Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 4). Chúa Thánh Thần là mạch nước hằng sống xuất phát từ Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần là “Nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi (x.Đức Thánh Cha Phanxicô huấn dụ tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ Tư ngày 08.5.2013). Đức Thánh Cha giải thích sự kiện Chúa Thánh Thần là suối nguồn bất tận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Con người thuộc mọi thời đại và mọi nơi đều ước mong có một cuộc sống tràn đầy và xinh đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể chín mùi và lớn lên cho tới sự tràn đầy của nó. Con người giống như một khách lữ hành đi qua các sa mạc cuộc đời, khát nước mát hằng sống, vọt lên, có khả năng làm cho đã khát trong tận cùng thẳm tâm hồn; nó ước mong sâu đậm có được ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và hòa bình. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được ước mong đó! Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Thiên Chúa Cha và là Đấng mà Chúa Giêsu đỗ tràn đầy con tim chúng ta. Người nói: “Ta đến để ban cho chúng sự sống, và sồng dồi dào” (Ga 10,10).
Chúa Giêsu đã đến để ban cho chúng ta “Nước Hằng Sống” là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được Thiên Chúa hướng dẫn, linh hoạt, dưỡng nuôi.
Chúa Giêsu mời gọi: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,37tt). “Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7,39). Dòng nước đó đã tuôn trào từ trái tim của Người, trái tim bị lưỡi đòng đâm thủng trên đồi Canvê (x. Ga 19,34). Đó chính là thứ nước mà Chúa Giêsu đã từng nhắc đến trong cuộc trò chuyện với người phụ nữ Samari bên giếng Giacóp, Ngài tỏ cho bà biết rằng ai uống các nguồn nước tự nhiên sẽ còn khát mãi, còn: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Nguồn nước thiêng liêng mà Chúa Giêsu hứa ban chính là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống (x. Thông điệp về Chúa Thánh Thần, tựa đề Dominum et Vivificantem – Chúa và là Đấng Ban Sự Sống, 1986, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Trong Kinh Thánh, nước tượng trưng cho sự sống; do đó, Thánh Thần được biểu tượng hóa thành dòng nước ban sự sống mới.
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nước vẫn len lõi chảy, không gây xích mích hay hận thù với ai. Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước thấm nhập vào các loài hoa giúp chúng trổ sinh những bông hoa muôn màu muôn sắc; nước thấm nhập vào các loài cây ăn trái giúp chúng cung ứng cho đời muôn vạn thứ trái trăng ngon ngọt với những hương vị khác nhau; nước thấm nhập vào đất đai khiến đất cằn khô trở nên vườn cây tươi tốt…Chúa Thánh Thần thấm nhập đến đâu cũng làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng cách diệu kỳ đến đó. Xem quả thì biết cây, Thánh Phaolô nói đến 12 hoa trái của Chúa Thánh Thần là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết”(Gal 5,22-23).
Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Khởi đi từ Chúa Thánh Thần, cả một sức sống mới được khai mở và bừng lên trong Giáo hội. Trước ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ co cụm lại trong căn phòng then cài khóa ổ, nhưng một khi đã đón nhận Thánh Thần, các ông không thể sống như cũ được nữa: căn phòng được mở toang và môn đệ can đảm bước tới vùng ngoại biên là những vùng địa lý xa xôi, đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người. Đó chính là mùa Hiện Xuống đầu tiên làm nên sức sống mới lạ trong Giáo hội. Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội” tựa như lễ quốc khánh của một quốc gia. Chúa Thánh Thần đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Đấng ban sự sống, thánh hóa, hướng dẫn, soi sáng, phù trợ, hiệp nhất. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo hội hướng đến đại dương của “những kênh truyền thông mới” trong thời đại kỹ thuật số hôm nay.
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân Lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Trong những ngày qua, báo chí nói nhiều về hình ảnh tuyệt đẹp cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Nam Hàn và Chủ Tịch Bắc Hàn. Nói theo Victor Gaetan của tập san Foreign Affairs số gần đây, phương thức hành động của Moon Jae-in mô phỏng theo phương thức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. “Nhà Xanh” là chỗ cư ngụ của tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, đồng thời là địa điểm đặt các văn phòng tổng thống và nơi đón tiếp các quốc trưởng đến thăm Hàn Quốc. Như một tín hữu Công giáo tốt lành, tân tổng thống đã nghĩ đến việc làm phép nơi ở mới. Ngày 13.5.2017, cha Phaolô Ryu Jong-man đang coi sóc giáo xứ Chúa Ba Ngôi ở vùng phụ cận Hongje-dong (Seoul), được mời đến đến làm phép cho ngôi nhà và các đồ vật. Cha Phaolô đã đặt tay trên tổng thống và cầu nguyện cho ông được “khôn ngoan như Vua Salômon”. Cha cũng nói với tổng thống: “Trước khi quyết định về vấn đề của đất nước, hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ đến ban ánh sáng và sức mạnh của Người”. Quả thật, ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui bình an và tình yêu. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới, biết xây dựng hòa bình tình thương và công lý.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu. Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người. Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quảng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Chúa Thánh Thần. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Từ đó, người Kitô hữu được thông dự vào nguồn ân sủng của Chúa Kitô, như cành nho được tháp nhập vào cây nho. Nước hằng sống, Chúa Thánh Thần là Ơn của Chúa Phục Sinh ở trong chúng ta, thanh tẩy, soi sáng, canh tân, biến đổi chúng ta, “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”(Rm 5,5).
.
SUY NIỆM LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Sau khi hoàn tất chương trình cứu độ, Đức Giêsu về trời, ngự bên hữu Chúa Cha và Ngài sai Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ và giáo hội để Chúa Thánh Thần tiếp tục công trình cứu độ nhân loại cho đến ngày tận thế. Ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần khai sinh giáo hội và Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội và là tác nhân chính của việc loan báo Tin mừng. Từ khi Chúa Giêsu về trời, Giáo hội sống trong thời đại của Chúa Thánh Thần.
Đức Giáo hoàng Benêđictô XVI nói rằng Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội và nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân đạo. Trong thực tế, bản chất đích thực và sự hiện diện lịch sử của Giáo hội không ngừng được Chúa Thánh Thần và Chúa Kitô hướng dẫn và sinh động.
Phụng vụ lời Chúa lễ Hiện Xuống hôm nay quy hướng về Chúa Thánh Thần và những ân ban của Chúa Thánh Thần.
Sách Cv 2, 1-12 ghi lại biến cố Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa đậu trên các tông đồ và ban cho các ngài sức mạnh để đi loan báo Tin mừng: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”.
Bài đọc 2: Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Côrintô (1Cr 12, 12-13) đã xác nhận chỉ có một thần khí duy nhất: “Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một thần khí duy nhất”.
Trong bài Tin mừng, Thánh sử Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đồ: “Người thổi hơi và phán bảo các ông: các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha”.
Việc ban Thánh Thần biểu lộ ý nghĩa là Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và linh hồn của hoạt động của các tông đồ, Chúa Thánh Thần đã biến đổi các ông từ những con người nhút nhát sợ chết thành những người can đảm hăng say loan báo Tin mừng không mệt mỏi, sau cùng tất cả đều chết tử đạo để làm chứng cho Đức Kitô.
Hôm nay, lễ Chúa thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta chứng kiến thấy lửavà gió ngự trên các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Hơn nữa Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ông và ban Thánh Thần cho các ông: lửa, gió, hơi thở là biểu tượng cho sự hoạt động của Chúa Thánh Thần: ban sự sống cho ta, ban tình yêu và sức mạnh, hướng dẫn chúng ta. “Thánh Thẫn sẽ nhắc chúng con mọi điều”. Hơn nữa Chúa Thánh Thần còn là Đấng Bầu Chữa cho ta trước mặt Chúa.
Lửa, gió, khí oxy (hơi thở) là nguồn năng lượng vất chất vô cùng phong phú, vô cùng cần thiết, không bao giờ cạn và luôn mới mẻ.Lửa, gió, khí oxy là nguồn năng lượng làm cho con người và vạn vật sống và tồn tại. Những ơn của Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh tinh thần giúp ta vượt mọi khó khăn. Vì thế Giáo hội cầu xin Chúa Thánh Thần: “Xin hãy đến và canh tân bộ mặt trái đất”.
Người Kitô hữu đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua bí tích Rửa tội để được làm con Thiên Chúa, qua bí tích Thêm sức chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần và 7 ơn của Ngài để trở thành chứng nhân của Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là cơ hội thuận tiện để chúng ta xác tín hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo hội và trong đời sống Kitô hữu, để chúng ta thiết tha hơn trong việc cảm tạ và xin ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Nhất là chúng ta luôn sống trong tình trạng ân sủng, xa tránh tội lỗi để tâm hồn trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần ngự.
.
SUY NIỆM LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến,
Bài Tin mừng hôm nay rất vắn nhưng qua đó thánh Gioan cũng đã đủ để cho chúng ta thấy được những ơn ban của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội, giúp cho chúng ta nhận ra sự hiện diện của Người trong cuộc sống của chúng ta.
1- Ơn ban đầu tiên và cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là ơn Bình an, đặc trưng của thời Messia. Thế nhưng sự bình an mà Chúa Thánh Thần ban tặng là thứ bình an như thế nào?
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 2/9/2001 có đăng một bài với tựa đề là “Sự bình an”. Câu chuyện như thế này: Một vị vua kia treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh diễn tả về sự bình an thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo những tiếng sấm chớp long trời. Đổ xuống bên vách núi là một dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây ấy có một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! “
Bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an ở ngay trong sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an”.
Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.
Giữa cơn bão táp phong ba, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”.
Bình an của Đấng Phục sinh không phải là thứ bình an không có sóng gió. Bình an của Người là bình an trong tâm hồn. Bình an ấy không loại trừ việc phải đối đầu với kẻ thù, đối diện với khổ đau và với cả sự chết. Chính vì thế, mà sau khi trao bình an, Đức Giêsu đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn” Người. Đó là bằng chứng của một cuộc chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ sẽ phải đi tới.
2- Ơn ban cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là ơn tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hong Kong kể lại rằng: Vào một ngày thứ sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết trên thập giá và ơn tha thứ của của Chúa Giêsu, Ngài giải thích về ý nghĩa của Bí Tích Giải tội và kêu gọi mọi người xưng tội để cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp ngài và nói như sau:
– Thưa Cha, tôi muốn xưng tội để được ơn tha thứ.
Vị linh mục giải thích rằng: Vì chưa được Rửa Tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:
– Thưa Cha, trong Hồi Giáo của chúng tôi không có sự tha tội, nhưng tôi cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.
Cha liền chúc lành cho người tín hữu Hồi Giáo và sau đó người này trở thành người con của Chúa. Từ ngày đó người ấy nói rằng anh ta luôn được sống trong sự bình an.
+ Tại Đại Hàn, nơi có nhiều tín đồ Phật giáo trở lại Công Giáo, Giáo Hội đã làm một cuộc thăm dò với một câu hỏi rất vắn như sau: “Tại sao bạn trở lại và chọn Giáo Hội Công Giáo ?”
Một bác sĩ nổi tiếng trong nước đã trả lời như sau: “Trở lại là một mầu nhiệm và có nhiều động lực thúc đẩy. Một trong những động lực mãnh liệt nhất đó là sự kiện trong Giáo Hội Công Giáo vị linh mục nhân danh Chúa để tha thứ tội lỗi. Đối với tôi, đây là một khám phá vĩ đại nhất. Trong Phật Giáo không có sự tha thứ, tuy có những nghi thức thanh tẩy, có việc cúng tế và cầu kinh, nhưng không có ai tha tội cả. Người tín đồ Phật Giáo vì có một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế cho nên suốt đời bị dằn vặt dưới gánh nặng tội lỗi của mình. Khi tôi biết rằng: Giáo Hội Công giáo nhân danh Chúa tha thứ tội lỗi cho tôi, tôi hiểu được niềm tin này mang lại cho tôi những gì.
3- Ơn ban cuối cùng là ơn được sai đi giúp Giáo Hội có thể ra đi loan Tin Mừng cứu độ cho mọi loài thụ tạo cho tới ngày tận thế. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ? (Rm 10,15). “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”(Ga 20,21).
Linh mục Natarinô Rochky, một thừa sai người Italia làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây:
“Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những cuộc thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Phúc Âm, về Giáo hội và về luân lý của đạo công giáo.
Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ đã sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:
– Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.
Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:
Trong những tháng qua, con đã âm thầm quan sát xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thờ mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Phúc Âm, nhưng con muốn xem Cha có sống Phúc Âm thực sự hay không”.
Cha Rochky không những đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường nhật của mình nữa!
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen.
.
LẠY CHÚA THÁNH THẦN, XIN NGÀI NGỰ ĐẾN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng : “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn “xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời” (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết : “Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo...” làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo, nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội, nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa : “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm” (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói : “Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa” (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, “mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta“. (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Thưa, Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là “nước hằng sống chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: “Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy” (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để “các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa.” (Lời nguyện nhập lễ)
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!” Amen.
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy,
thì Thầy cũng sai anh em…Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! ” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
2.1 Đức Giê-su Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ để vực dậy lòng tin của các ông và để ban Thánh Thần và sứ mạng ”được sai đi” cho các ông. Đó là ý nghĩa của bài Phúc Âm Lễ Hiện Xuống. Trong bài suy niệm Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã suy niệm về lệnh ra đi nên trong bài suy niệm Lễ Hiện Xuống, chúng ta sẽ suy niệm về việc đón nhận Chúa Thánh Thần:“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
2.2 Trong Thánh Kinh Ngôi Ba Thiên Chúa có nhiều danh xưng khác nhau như: Chúa Thánh Thần (Cv 2, 4; 9, 17; 10, 45. 47; 19, 6; Ga 1, 33), Chúa Thánh Linh, Thần Khí Thiên Chúa (Ga 1, 5. 8. 32; 3, 5, Gl 3, 14; Rm. 8, 9. 11. 15 ; 2 Cr 3, 17), Đấng Bảo Trợ (Ga 14, 16; 16, 7), Thần Chân lý (Ga 16, 13), Thần Khí Vinh Hiển (1 Pr 4, 14), Thần Khí Sự Thật (Ga 14, 17; 16, 13) và Đấng An Ủi (Ga 15, 26; 16, 7. 13; 1 Ga 2, 1).
Paraklêtos (Ga 14, 16. 26; 16, 26; 16, 7. 13; 1 Ga 2, 1) là từ Hy Lạp, (Paraclitus theo bản Latinh).
Thánh Gioan đã xử dụng cụm từ Thần Khí Sự Thật: Paraklêtos – 5 lần để diễn tả hành động (an ủi, phù trợ, bảo trợ, tôn sư) của Chúa Thánh Thần. Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là “Đấng Bầu Chữa;” Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ dịch là “Đấng Bảo Trợ;” và các bài đọc dịch là “Đấng Phù Trợ.”
Thánh Linh có những tác động đa dạng tùy theo hoàn cảnh, địa vị, giới tính và kiến thức:
+ Với người yếu đuối, thì Ngài là Đấng Bảo Trợ.
+ Với người thông hiểu, thì Ngài là Tôn Sư.
+ Với người bối rối, thì Ngài là Đấng bảo vệ.
+ Với người tội lỗi thì, Ngài là Đấng chữa lành.
+ Với người do dự khó phân biệt thiện ác và tốt xấu, thì Ngài là Đấng Khôn Ngoan.
+ Với người thất vọng, thì Ngài là Đấng Toàn Năng.
+ Với người đi tìm chân ly, thì Ngài là Thần Khí Sự Thật.
+ Với người sống trong bất công, thì Ngài là Thần Chân Lý.
+ Với ai đang sầu khổ, thì Ngài là Đấng Ủi An.
+ Với ai đang sợ hãi, thì Ngài là Ngưồn Sức Mạnh.
+ Với ai cố chấp, thì Ngài là Đấng uốn nắn
(Lm Nguyễn Bình An)
2.3 Trong Bài Phúc Âm Lễ Hiện Xuống thì Thánh Thần gắn liền với sứ mạng được sai đi của Chúa Giê-su Ki-tô và của các tông đồ (tiên khởi và của mọi thời đại). Nói cách cụ thể và dễ hiểu thì với các Ki-tô hữu, Thánh Thần đóng cùng lúc nhiều vai khác nhau: Tôn Sư, Bảo Trợ, Bảo Vệ, Chữa Lành, Khôn Ngoan, Toàn Năng, Chân Lý, Ủi An, Sức Mạnh, Uốn Nắn….
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
3.1 Hội Thánh Công giáo luôn dành cho Chúa Thánh Thần một vị trí, vai trò quan trọng trong mọi sự kiện lớn nhỏ của mính. Các cộng đoàn Hội Thánh luôn bắt đầu mọi sự việc bằng Kinh Chúa Thánh Thần: ”Cầu xin Chúa Thánh Thần – Veni Creator Spiritus!”
3.2 Trong các lớp Thánh Kinh một trăm tuần, tôi thường nói vui với các học viên là giáo dân Việt Nam thường để Chúa Thánh Thần ”thất nghiệp”, do họ không cầu xin sự trợ giúp của Ngài. Theo tôi thì điều mà phần đông giáo dân Việt Nam sợ hãi nhất là học Thánh Kinh, nên rất ít người tham dự các lớp học Thánh Kinh. Học Thánh Kinh thì phải chạy đến với Chúa Thánh Thần để xin ơn soi sáng, ơn sức mạnh và ơn khôn ngoan! Không học Thánh Kinh thì không cần đến Chúa Thánh Thần nên Chúa Thánh Thấn bị ”thất nghiệp”!
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa về những công trình vĩ đại mà Chúa đã làm cho loài người, cho Hội Thánh và cho mỗi người chúng con.
Xin Chúa hãy đến với chúng con, thâm nhập vào đời sống và hoạt động của chúng con để chúng con mạnh dạn đến với thế giới, với xã hội, với mọi người mà làm chứng cho Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu, cho Thiên Chúa.
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Con đến muôn thuở muôn đời. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
THÁNH LINH HIỆN XUỐNG TRAO BAN ƠN THÁNH
NHÂN THẾ VUI MỪNG ĐÓN NHẬN PHÚC LÀNH
Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu đề cập trước đó: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16:7). Chính Đấng ấy dạy chúng ta mọi điều và làm cho chúng ta nhớ lại mọi điều Thầy Giêsu đã truyền (x. Ga 14:26).
Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần – Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài xuất hiện qua các dạng Gió, Lửa và Nước. Đó là “bộ ba độc đáo” gồm những thứ mềm mại nhất và bình thường nhất, nhưng lại cũng chính là những thứ mạnh mẽ nhất và quan yếu nhất trong cuộc sống, ba thứ ấy còn có sức mạnh đến nỗi không gì có thể cưỡng lại. Đặc biệt là chúng ta có thể cắt ba thứ đó nhưng chúng không bao giờ bị đứt lìa.
GIÓ có thể tiếp nhận, thổi bay và chuyển hóa mọi thứ, dù những thứ xấu xa và dơ bẩn nhất. Gió luôn tự hào, không buồn khổ hay tủi nhục. Gió có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Phong, có khả năng di động và chuyển hóa phi thường. Con người đành bất lực trước cơn giận của Gió như Cuồng Phong, Giông Tố hoặc Lốc Xoáy.
LỬA có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất. Lửa không vì thế mà cảm thấy buồn tủi, chán chường, hoặc ghen ghét. Lửa có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Hỏa, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả mọi thứ. Một đốm lửa có thể thiêu rụi mọi thứ – dù là loại cứng như sắt, thép. Nhưng lửa có tính chất đặc biệt: Càng chia sẻ càng có nhiều, không hề giảm chút nào.
NƯỚC có thể tiếp nhận và rửa sạch mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất, người ta có đổ xuống nước mọi thứ nhưng nước vẫn bình thản, không lệ thuộc hoặc cảm thấy oán hờn, tủi nhục. Nước cũng có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Thủy, có khả năng di động và chuyển hóa kỳ diệu, có thể luồn lách mọi nơi.
Bài học về Gió, Lửa và Nước luôn dạy chúng ta rất nhiều điều trong cuộc sống: Nếu tâm chúng ta có khả năng chuyển hóa và di động, chúng ta cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi thứ vui-buồn-sướng-khổ, kể cả mọi thứ mà người khác trút lên chúng ta, và những thứ ấy không thể gây xáo trộn tâm hồn chúng ta, không thể tước mất sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn chúng ta: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8:39). Đó là mối liên kết vĩnh viễn của các tín nhân đích thực.
H₂O là Nước, chất rất ư bình thường, nhưng lại rất quan trọng trong đời thường, và đặc biệt là chất thần kỳ vì liên quan Phép Rửa – Bí tích Thánh tẩy: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài” (Mt 3:16). Chúa Thánh Thần tác động qua Nước để biến điều bình thường trở thành phi thường mang tính mầu nhiệm linh thiêng.
Trong cuộc sống, những gì đơn giản nhất thường bị coi thường. Chúa Thánh Thần cũng thường không được chúng ta “nhắc tới”, dù Ngài không ngừng hoạt động trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Vì thế, không phải chỉ hôm nay mà suốt cả đời này, hãy cố gắng nhớ đến Ngài. Đặc biệt hôm nay, hãy thành tâm thân thưa với Ngài: “Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Ngài!”. Ngay cả những lúc chúng ta không nhớ cầu xin Thánh Linh, chúng ta vẫn được Ngài soi sáng và hướng dẫn mọi điều – dù to hay nhỏ. Vâng, lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến! (*)
THÁNH LINH NGỰ ĐẾN
Ngôi Hai đi, Ngôi Ba đến. Thiên Chúa không để chúng ta mồ côi hoặc bơ vơ giữa cõi tục lụy đầy cạm bẫy quỷ ma này. Sách Công vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng GIÓ MẠNH ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3).
Hai hình ảnh xảy ra liên tiếp: Gió và Lửa. Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Làn gió do quạt máy không làm người ta sảng khoái, nhưng chỉ một chút gió hiu hiu cũng đủ làm người ta tỉnh táo và cảm thấy hồi phục ngay. Tuy nhiên, nếu gió mạnh quá thành lốc hay bão thì chẳng gì có thể chống lại, cả tòa nhà cao lớn cũng bị gió thổi sập trong tích tắc. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa Đông giá lạnh, một đốm lửa dễ dàng bị thổi tắt, nhưng đốm lửa đó cháy lan như những vụ hỏa hoạn thì con người chỉ biết đứng nhìn mà “cười ra nước mắt”. Nước cũng rất mềm, dễ ngăn cản, ai muốn làm gì thì làm, nhưng một khi Nước “nổi giận” thì con người không thể ngăn cản, chạy cũng không kịp: Triều cường, vỡ đê, lụt lội, sóng thần,…
Sự thật về Gió, Lửa và Nước như thế đấy – vừa yếu vừa mạnh, vừa mềm vừa cứng. Và đó chính là Thần Khí Thiên Chúa, là Đức Chúa Thánh Thần, là Thánh Linh, là Thần Chân Lý, là Ngôi Ba Thiên Chúa, cũng chính là Đấng Bảo Trợ ngự đến hành động ngay giữa thế gian này.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi Gió thổi tới và Lửa đậu trên đầu thì mọi người được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hiện tượng “nói tiếng lạ” xảy ra ngay lập tức, nhiều người ngạc nhiên và hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?” (Cv 2:12), nhưng một số khác lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Luôn có hai cách suy nghĩ khác nhau như vậy. Mà không lạ sao được khi họ nói đủ thứ tiếng vậy mà họ vẫn hiểu nhau, đặc biệt là ai nghe cũng thấy họ nói tiếng của mình. Nhưng tất cả chỉ là để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11; Tv 86:11), chứ không phải để tự mãn, cao ngạo, cho mình giỏi hơn người.
Khi thực sự có Chúa Thánh Thần thì người yếu đuối cũng thành khỏe mạnh, người nhút nhát cũng trở nên bạo dạn, người run sợ cũng hóa thành can đảm. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được Chúa Thánh Thần tác động như vậy. Vì thế, chúng ta phải luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Tự động viên mình trước để có thể khuyến khích người khác. Thiên Chúa nắm quyền sinh – tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), cũng chính Ngài đã tác tạo cả càn khôn và muôn vật, nếu “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Thật vậy, “sinh khí của Ngài do Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:30). Chính Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân mọi thứ, chúng ta có làm được gì cũng là nhờ Ơn Chúa, do đó chúng ta phải quyết tâm: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Ngài vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34). Đó là ước nguyện chân chính và tuyệt vời, rất đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày lễ Ngũ Tuần là sinh nhật Giáo Hội, chính Chúa Thánh Thần đến để nâng đỡ tín nhân sống theo giáo huấn của Thiên Chúa. Thiên Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa tình yêu, những ai tôn thờ Ngài thì phải sống yêu thương để minh chứng là con cái của Ngài – Đấng giàu lòng thương xót, và đó cũng là cách làm chứng về Đức Kitô – Đấng đã chịu khổ hình và phục sinh.
CHỨNG TÁ TIN MỪNG
Ơn Chúa không bao giờ thiếu, đủ để tội nhân thành thánh nhân. Vấn đề là chúng ta có chịu hứng nước mưa khi trời mưa hay không. Ơn Chúa ban nhưng cần phải có sự cộng tác của chúng ta – vì Thiên Chúa ban quyền tự do, không hề ép buộc ai.
Khi còn tại thế, Chúa Giêsu đã nhiều lần động viên chúng ta: “ĐỪNG SỢ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5 & 10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20). Sách Khải Huyền cũng lặp lại và giải thích: “ĐỪNG SỢ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Lúc sinh thời, chính Thánh GH Gioan Phaolô II (1920–2005, triều đại GH từ 1978–2005) cũng rất thích mệnh lệnh đó: “Đừng sợ!”. Không sợ thì mới dám “vào đời”, dám “ra khơi”, dám hành động, dám bảo vệ công lý, và dám sống theo chân lý của Thiên Chúa (Tv 26:3). Động thái “dám” có vẻ đơn giản mà chẳng dễ thể hiện gì đâu!
Không nói rõ là “đừng sợ” hoặc khuyến khích, nhưng tác giả sách Huấn Ca đưa ra ý tưởng độc đáo này: “Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục” (Hc 2:4-5). Một cách động viên rất khéo léo và khôn ngoan.
Chúa Thánh Thần đến để canh tân, đổi mới, biến xấu nên tốt. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16), và ngài giải thích: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5:17). Thánh Phaolô còn nói chi tiết hơn: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5:18-21a). Chắc chắn rằng “những kẻ làm các điều đó sẽ KHÔNG được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5:21b). Trong đó có những “thói tính” có vẻ “nhẹ nhàng” thế mà không hề giống như chúng ta tưởng. Lầm to! Chết chắc!
Đó là bảng liệt kê của Thánh Phaolô về những điều đối lập với Chúa Thánh Thần, thế còn những điều thuận với Chúa Thánh Thần? Đó là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5:23). Tất nhiên, chẳng có luật nào chống lại những điều như thế – dù là luật đời. Thánh Phaolô nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5:24). Trong Chuỗi Mân Côi, ở mầu nhiệm thứ 5 của Mùa Thương, Giáo Hội dạy: “Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá Chúa”. Đó là cách từ bỏ chính mình theo tác động của Chúa Thánh Thần. Và “nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5:25-26). Thật tỏ tường!
Trước khi về trời, Chúa Giêsu cho biết trước: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15:26). Và Ngài cũng đã giữ đúng lời hứa đó. Nhưng Ngài cũng trao trách nhiệm cho mỗi chúng ta: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27). Sống chứng nhân là bổn phận chung của mọi thành viên, những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy (và bí tích Thêm Sức). Chúa Giêsu nói “anh em” không có nghĩa là chỉ có phái nam, còn phái nữ “khỏe re”, chả “vướng víu” chi. Lúc đó Ngài nói với các Tông đồ nên chỉ nói “anh em”, không có từ “chị em”, nữ giới đừng vì thế mà “tự ái”, rồi “đùn đẩy” hoặc “né tránh” trách nhiệm. Nhưng ngày nay phải được hiểu là “anh chị em” (ngôi thứ hai số nhiều – you, vous, vosotros, voi), cả nam và nữ, bất kể là ai.
Và rồi chính Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16:12). Ngài biết chúng ta “không có sức chịu nổi” nghĩa là chưa đủ hiểu, bởi vì chưa được lãnh nhận Thần Chân Lý. Chúa Giêsu xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:13-14). Vì Ba Ngôi là Một nên Chúa Giêsu nói: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16:15a). Và một lần nữa, Chúa Giêsu nhắc lại: “Ngài lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15b). Vậy là đã rõ ràng và chắc chắn, đúng như Đức Kitô đã hứa: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28). Ngài ở với chúng ta trong bí tích Thánh Thể và qua Chúa Thánh Thần, thế thì cứ an tâm mà “vượt qua chính mình” khi đối mặt với thế gian và ma quỷ.
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Chúa Giêsu đã xác định như vậy. Tuy nhiên, chính Chúa Giêsu cũng là Đấng Bảo Trợ, như Thánh Gioan nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Đấng Bảo Trợ Giêsu Kitô đã được Chúa Cha trao toàn quyền, như chính Ngài đã xác nhận: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất” (Mt 28:18). Ngài bảo trợ cho tội nhân chúng ta ngay ở đời này, đặc biệt là trong thời khắc quan trọng nhất: Phán Xét Chung.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống tâm linh của chúng ta. Một trong các hoạt động giúp con người thư giãn là âm nhạc, thế mà cũng không thể tách khỏi Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô khuyên: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Âm nhạc rất cần thiết trong Phụng Vụ, thế nên Giáo Hội có loại nhạc đặc trưng là Bình Ca.
Lạy Thiên Chúa hằng sinh và hằng hữu, xin soi sáng và dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài (Tv 25:5) để kiến tạo hạnh phúc ngay trên thế gian này. Kiếp người luôn gặp đủ thứ nhiêu khê, trắc trở, cúi xin Ngài đồng hành và nâng đỡ chúng con theo đúng Thánh Ý của Ngài, nhờ đó chúng con có thể can đảm thể hiện tình yêu thương đối với mọi người qua từng nhịp thở. Nguyện xin Thần Khí Thiên Chúa biến đổi chúng con nên khí cụ hữu ích – hôm nay và suốt đời này, xin thánh hóa để mọi người làm chứng nhân theo hoàn cảnh sống hiện tại. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Điều kiện cơ bản nhằm giúp vận động viên đạt thành tích trong thi đấu chính là sức khoẻ, kỹ năng tập luyện, cho dù nơi cuộc sống người ta vẫn nói tới yếu tố may mắn. Tính nghiêm túc và tính kỷ luật giữa tình thầy trò, luôn phản ánh một tương lai tốt đẹp, hoàn toàn hợp lý khi gia đình xã hội thuần tuý là: trò ngoan, thầy giỏi. Nếu chỉ vì xác suất của công việc, người ta đã biết chọn giải pháp: ốm tha già thải, hẳn chẳng ai phải “lăn tăn”, tất cả dễ dàng chấp nhận quy luật đó. Thầy cần thù lao, trò mong được kiến thức, xã hội kỳ vọng thế hệ trẻ phải bén nhạy, phát huy được nét đẹp truyền thống của tiền nhân. Thời đại công nghệ hôm nay, năng lực làm việc, hiệu quả bền vững, đang chi phối đến mọi tầng lớp, đôi khi làm phai nhạt cả nguồn sức mạnh rất thiêng liêng nơi gia đình.
Cuộc chiến thắng thế gian của Thầy Giêsu, hé mở ra nguồn sinh lực mới từ Đấng phục sinh, Đấng có đủ quyền năng để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Sự bình an của Đấng phục sinh đến với các học trò, cụ thể và rõ ràng, mang dấu chứng của tình yêu, một tình yêu không thể cân đo đong đếm, hoặc lý giải, nếu được yêu và biết yêu chỉ dừng lại ở cảm nhận “phàm trần”. Ngỡ ngàng của các môn đệ không phải Vị khách lạ hiện diện giữa lúc cửa đóng then cài, mà vì yêu, tình Thầy trò từ nay không còn cảnh ly biệt, vinh quang phục sinh phủ lấp con người giới hạn nơi các học trò. Ơn ban của Đấng phục sinh chính là Thánh Thần, là sức nóng của tình yêu, là suối nguồn hạnh phúc, trào tràn từ đức tin và lòng mến.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy niềm vui sẽ được nhân đôi, nếu ta có bạn hữu chia sẻ, và khi tâm hồn trống vắng cô đơn, lại là nỗi ám ảnh đáng sợ của mọi người không phân biệt giai cấp, lứa tuổi. Các chuyên gia y tế về sức khoẻ cộng đồng cho rằng, chúng ta chỉ thấy được niềm vui rạng rỡ, nơi người thành đạt, nơi người không phải sống trong cảnh lắng lo ưu phiền. Thực ra, đối tượng nào mà chẳng cần có sức khoẻ ; bác sĩ, thầy thuốc, luôn thiết thực cho cuộc sống. Đấng phục sinh hôm nay ban bình an, ban cho các học trò, ban cho chúng ta khái niệm mới về ơn ban Thánh Thần. Ơn ban Thánh Thần là tình yêu, là hồn sống, là quyền năng, Đấng phục sinh ban cho các tông đồ, ban cho mọi thế hệ, những tâm hồn đang hiệp thông trong Đại gia đình Chúa.
Ơn ban Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là ơn soi sáng, gìn giữ, củng cố đức tin, giúp người theo Đức Kitô, đủ sức mạnh chiến thắng cám dỗ, đủ khôn ngoan hành động theo thánh ý Chúa. Giá trị của tình yêu, tuỳ thuộc đức mến của từng cá nhân với Đấng chúng ta tin thờ, dù ơn ban của Đấng phục sinh là niềm vui Thánh Thần. Thánh Phaolô tông đồ quả quyết: không ai có thể nói Đức Giêsu là Chúa mà không do tác động của Thánh Thần. (bài đọc 2). Sách công vụ thì diễn tả ơn ban Thánh Thần kỳ diệu đến độ, các môn đệ nói được tiếng lạ, tuỳ theo ơn ban cho mỗi vị khác nhau. Khả năng và tình yêu đầy giới hạn của con người, chỉ được ơn Thánh Thần biến đổi khi chúng ta tin Đức Giêsu là Thầy, là Chúa. Chúng ta chỉ yêu Chúa yêu người, khi được ơn Thánh Thần soi sáng giúp cho hiểu Đấng đã chết vì yêu chính là Thiên Chúa cứu độ.
Với người nghèo, cơm bánh là cần thiết hơn cả ; kẻ giầu tiền của, họ cần sức khoẻ và tình yêu ; những học trò Đức Giêsu, Ngài thấu biết là họ cần ơn bình an, cần Thánh Thần tình yêu hơn. Trong tâm tình đó, chúng ta có thể nói: để sống hạnh phúc, người trẻ, người cao niên, linh mục, tu sĩ, ai cũng cần đến “vitamin yêu thương” ; để có thể hành động đúng ý Chúa, người môn đệ theo Đấng phục sinh, nhất định phải có ơn ban Thánh Thần. Chúng ta đang sống giữa thế gian đầy phức tạp, có thể lẫn lộn giữa tình yêu thật và giả, hạnh phúc ảo và niềm vui hời hợt, hẳn Đấng phục sinh thấu biết điều đó, Ngài ban ơn Thánh Thần, cũng là ban sự hiện diện của tình yêu Ba Ngôi cho nhân loại.
Tiền nhân chúng ta có câu: không thể có một mặt tờ tiền rách, còn mặt bên kia là tiền mới. Không ai gọi cây cọc là thập giá, cũng không thể thấy thanh gỗ nào cũng cho đó là thanh ngang của cây thập giá. Không thể có ơn ban Thánh Thần, nếu chúng ta chưa tin Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết và sống lại vì tội lỗi nhân loại. Người kitô hữu chúng ta không thể có khuôn mặt xinh đẹp của Chúa, còn trong tâm hồn đầy ác tâm, ác đức. Người môn đệ của Đức Kitô không thể chỉ nói tôi yêu Chúa mà không yêu người anh chị em mình, vì ơn ban của Thánh Thần là dấu chứng tình yêu được ban phát không giới hạn. Thánh Thần khai sinh giáo hội, lấp đầy tâm hồn các tông đồ sức mạnh và tình yêu, hầu giúp các ông chu toàn sứ mạng Đấng phục sinh trao phó. Thánh Thần hôm nay cũng là ơn ban, là tình yêu và là sức sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT HIỆN XUỐNG
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Sau khi đã tưởng niệm triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa trong suốt Mùa Vọng và cuộc giáng trần của Chúa Con từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, chúng ta tưởng niệm lễ Ngũ Tuần khai mạc kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca thuật lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, khi họ tụ họp trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này có nhiều điểm chung với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày này.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân sủng làm chứng về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi tín hữu lãnh nhận những ân sủng của một Chúa Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật “tiền Ngũ Tuần”, tức là ngay khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân sủng của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau này; nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Phục Sinh của Chúa Giê-su là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Ngay từ ngày đầu tiên này, Chúa Thánh Thần ở với Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11)
Theo thánh Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13), chắc hẳn đó là căn phòng, ở đó Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Đó cũng chính là căn phòng, ở đó, dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh; đó cũng chính là căn phòng, ở đó Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông.
- Mọi người đang tề tựu ở một nơi
Không nên hiểu kiểu nói “mọi người đang tề tựu ở một nơi” là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”, họ cùng nhau cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do Thái giáo được gọi là lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
- Lễ Ngũ Tuần
Được gọi là “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ này được cử hành đúng vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do Thái giáo tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, ngày lễ kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Do thái đều đã trải qua một tiến trình tâm linh hóa, từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Thế nên, lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập, lễ Lều tưởng niệm cuộc lưu lại trong Sa-mạc, sau cùng lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki-tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc giao ước được làm mới lại hằng năm. Vào ngày đại lễ này, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
- Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra một cách long trọng. Biến cố này được tác giả mô tả theo một văn phong rất gần với phép ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, những biểu tượng được mượn ở nơi trận cuồng phong theo sau là những cuộc thần hiển. Trong Do thái giáo, chúng ta ghi nhận một nét đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài nhưng chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo khung cảnh của những cuộc thần hiển Cựu Ước. Thêm nữa, những hình ảnh truyền thống đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở nơi thể loại văn chương khải huyền này, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân muôn nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày cánh chung. Thánh Lu-ca liên kết trực tiếp những hình ảnh này với ân ban nói các thứ tiếng khác mà các Tông Đồ lãnh nhận. Như thế, kỷ nguyên Ki-tô giáo thật sự được loan báo theo cùng những dấu chỉ của kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng, truyền thống Kinh Sư đã suy gẫm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được. Hơn nữa, làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29)?
Vì thế, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả cho sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai chi tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra những khác biệt thật sâu xa.
- Phép rửa trong Thần Khí
Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Các Tông Đồ đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo này: “Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”.
Những biến cố xảy ra trên núi Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố xảy ra trong phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Chúa Thánh Thần. Xưa kia, một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, muôn dân đều được mời gọi chung hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân ban nói các thứ tiếng khác, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về”. Một danh sách liệt kê dài các dân tộc nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11). Theo chuyện tích này sự xáo trộn của ngôn ngữ và sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Vì thế, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng phục hồi sự hiệp nhất của các dân tộc.
Chúng ta có thể nhận thấy ngay ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài; họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục hồi quyền của Đấng chịu đóng đinh và làm chứng là Ngài đã sống lại.
- Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a
Như chúng ta đã ghi nhận trên, kiểu nói: “mọi người đang tề tựu ở một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần thật là quan trọng. Vào lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí linh thánh của căn phòng Na-da-rét, Thiên Chúa đã kín đáo đến ở giữa nhân loại với tư cách là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Còn bây giờ, Đức Ma-ri-a đảm nhận một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của Nhiệm Thể Đức Giê-su, Con của Mẹ.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những người phụ nữ này không phải dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ, các bà làm chứng theo một cách khác. Rõ ràng, các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la “tông đồ của các tông đồ”, nghĩa là “tông đồ tuyệt hảo nhất”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-sô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, gởi cho cộng đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào khoảng những năm 50-52.
- Hoàn cảnh của cộng đoàn Cô-rin-tô
Cộng đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm: đây là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô. Giáo đoàn này sống ở giữa thế giới lương dân và trong một thành phố mở rộng cửa đón nhận những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu này không phải là không tác động đến cách ăn nếp ở của các Ki-tô hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh đặc thù của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki-tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật, tổ chức còn non yếu và chưa chặt chẽ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu này. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều, sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là thực tế.
Xem ra các tín hữu Cô-rin-tô đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế, thánh Phao-lô đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ này.
- Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính là Ba Ngôi Thiên Chúa
Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu chỉ của Ba Ngôi Thiên Chúa, bắt đầu từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) làm mọi sự trong mọi người”.
- Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính vì lợi ích chung
Thánh Phao-lô đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là đem lại lợi ích cho cộng đoàn, nghĩa là, nếu không vì lợi ích cho cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh.
Tiếp đó, thánh nhân so sánh thân thể với Đức Ki-tô, hình ảnh này rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki-tô làm cho Giáo Hội nên một như thế ấy, bất chấp vô số thành viên. Nguyên tắc hiệp nhất chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất ban muôn ân sủng cho cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Chúa Thánh Thần tuôn trào sự sống trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng này rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, với một đoạn trích dẫn dài hơn và trong ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Hôm nay, bản văn này được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của biến cố Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng này được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Biến cố này không mâu thuẫn với biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng bổ túc: “Giáo Hội được khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, cho dù những ân huệ của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau này.
- Cuộc sáng tạo mới
Đức Giê-su trao gởi sứ vụ cho cộng đoàn nhỏ bé này, họ tiếp tục sứ vụ của Ngài:“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. “Nhóm còn lại” này hình thành Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội được khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Đây là một trong những giáo huấn cốt yếu của bản văn này.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, tái hiện cử chỉ của Đấng Sáng Tạo: thổi sinh khí vào con người, và con người trở nên một sinh linh (St 2: 7). Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en dùng để mô tả cuộc hồi sinh những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, đây cốt là khởi điểm của một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành hạt nhân của một nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
- Hiệp nhất giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần
Thánh Gioan luôn luôn liên kết biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống với biến cố Phục Sinh, như thánh ký đã giải thích lời công bố của Chúa Giê-su về “những dòng nước hằng sống” vào ngày lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại này, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là khúc dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố này. Hai ngày lễ này đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, thánh Gioan khẳng định sự liên đới của hai biến cố này trong một viễn cảnh mới.
.
THÁNH THẦN, NGUYÊN LÝ HIỆP NHẤT
Lm. Đinh Lập Liễm
Nhìn lại những đoạn Tin Mừng theo Thánh Gioan được trích trong hai tuần lễ vừa qua, chắc hẳn chúng ta đều nhận ra rằng lời hứa ban Thánh Thần là điều được Đức Giêsu lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông Đồ: ”Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16 :7).
Và lời hứa ấy đã được thực hiện ngay khi Đức Giêsu sống lại hiện ra với các Tông Đồ tại nhà Tiệc Ly vào ngày thứ nhất trong tuần. Sau khi chào thăm các ông, Ngài thở hơi và nói với các ông: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:22). Như thế, đối với Gioan, việc Đức Giêsu Tử nạn – Phục sinh – Ban Thánh Thần chỉ là một. Chính vì thế, phụng vụ đã chọn đọc bài Tin Mừng hôm nay chính thức hai lần trong mùa Phục Sinh: một là vào ngày Chúa Nhật trong tuần Bát Nhật Phục Sinh và hôm nay, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Cũng theo chiều hướng đó, Thánh Gioan đã gắn liền cái chết của Đức Giêsu trên thập giá với việc trao ban Thần Khí; Thánh Sử đã thuật lại giờ ra đi của Đức Giêsu như sau: ”Ngài gục đầu xuống và trao ban Thần Khí” (Ga 19 :30).
Như vậy, ngày Phục Sinh Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ (Ga 20:21-23), nhưng ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo Hội (Cv 2 :1-13). Cũng như qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm Sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng để trở thành người chiến sĩ của Nước Trời vậy.
Vào dịp lễ Ngũ Tuần, tức là 50 ngày sau lễ Vượt Qua, theo lời dặn của Đức Giêsu, các Tông Đồ họp nhau lại tại nhà Tiệc Ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Sách Công Vụ Tông Đồ kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xẩy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Mẹ ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà, có những lưỡi lửa xuất hiện và đậu trên đầu từng người. Họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xẩy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Joel đã tiên báo: ”Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri.” Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho ba ngàn người trở lại (Act 2:1-41). Các Tông Đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về (Act 2:8).
Trước hết, Chúa Thánh Thần, chính là Đấng qui tụ muôn dân nên một trong Giáo Hội. Thật vậy, các Tông Đồ trước khi nhận lãnh Thánh Thần đã “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái.” Thế nhưng, sau khi đã nhận được sức mạnh của Thánh Thần, các ngài đã mở tung cửa mạnh dạn bước ra rao giảng cho mọi người Tin Mừng về Đấng Phục Sinh khiến mọi người đều bỡ ngỡ.
Theo sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại, lúc đó, tại Giêrusalem có rất nhiều người thuộc các dân tộc với nhiều tiếng nói khác nhau, từ muôn nơi trở về nhân dịp lễ Vượt Qua, nhưng có một điều lạ là tất cả đều nghe rõ và hiểu điều các Tông Đồ loan báo; họ thắc mắc: ”Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia, Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ tại đây, là Do Thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa” (Act 2:5-11).
Khi nêu lên danh sách các dân tộc này, Thánh Sử Luca đã cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng Cứu Độ. Mọi dân nước dù xa xôi như Rôma, mút cùng thế giới theo quan điểm của người Do Thái, hay bé nhỏ như Pamphylia, một thành phố rất nhỏ của đế quốc Rôma, cũng phải được nghe loan báo Tin Mừng và qui tụ về thành một đoàn chiên duy nhất dưới quyền của một chủ chiên là Đức Kitô (Jn 10:16; Eph 1:10). Như thế, Chúa Thánh Thần chính là mối dây liên kết muôn dân nên một, như lời khẳng định của Thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần” (I Cor 12:12-13).
Khi chịu phép Thêm Sức, người tín hữu học về Ngôi Ba Thiên Chúa, về ơn Chúa Thánh Thần và những hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống người tín hữu. Giáo Lý Công Giáo dạy: có 7 ơn Chúa Thánh Thần là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Đó là những ơn căn bản cần thiết cho đời sống người Kitô giáo. Còn có những ơn khác nữa như ơn nhẫn nại, chịu đựng, ơn đơn sơ, hồn nhiên… Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn nơi các Tông Đồ mà thôi, nhưng còn được tác động trong nhiều cách thế, nơi nhiều người khác nhau (I Cor 12:4-11;12:27-31).
Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, chúng ta đặc biệt chú trọng đến ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta là qui tụ mọi dân tộc lại trong một cộng đoàn tức là Giáo Hội. Ngài là hồn sống của Giáo Hội và của từng người một. Bài tường thuật của sách Công Vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước (Gen 11:1-9).
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau (Gen 11:1-9). Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 226).
Khi được chịu phép Rửa Tội, chúng ta trở thành một phần tử trong Giáo Hội, thành một chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mỗi người phải có một vai trò trong Giáo Hội tùy theo khả năng mà Chúa Thánh Thần sắp xếp (Rm 12:4-5). Không ai được đứng bên lề Giáo Hội.
Ta thấy ơn Chúa Thánh Thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo Hội như Thánh Phaolô chỉ dạy: ”Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người” (I Cr 12 :4-5). Như vậy tất cả các phần tử trong Giáo Hội đều đóng những vai trò quan trọng khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau. Ơn Chúa Thánh Thần ban cho mỗi phần tử khác nhau là để hợp nhất các phần tử (I Cor 12:25-26). Và cái dấu chỉ của việc hoạt động tông đồ nhằm mục đích vinh danh Chúa (II Cor 4:5-6).
Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm lặng lẽ hoạt động nơi ta và Giáo Hội mà ta không thấy. Có người tự hỏi tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang sống? Để trả lời, ta cần nhận định là Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng trong thời đại chúng ta đang sống, miễn là ta biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống.
Công đồng Vatican II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử trong Giáo Hội đều được gọi để sống đời sống thánh thiện và làm chứng của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi đóng vai trò của mình trong việc hoạt động tông đồ của Giáo Hội tùy theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo Thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần là mối dây liên kết mọi thành phần trong Hội Thánh, nên mỗi thành phần không đứng riêng rẽ, nhưng liên đới và gắn bó chặt chẽ với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể: ”Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy” (I Cor 12:12).
Nhìn vào con người chúng ta, chỉ có một thân thể mà có nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, chân tay… Mỗi chi thể có nhiệm vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhằm lợi ích cho toàn thân. Và cái dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang Nước Chúa không chỉ tùy thuộc vào cái tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị của mỗi người mà thôi, nhưng còn tùy thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với Chúa.
Hai người bơi chung một chiếc xuồng trên dòng sông nước ngược. Vì có sự bất đồng ý kiến nên qua một hồi lời qua tiếng lại, anh ngồi phía đầu thuyền không bơi nữa. Anh phía sau lái thấy vậy mới nói: “Này anh, tôi với anh dù có bất đồng ý kiến, nhưng chúng ta cùng đi chung trên một chiếc xuồng, cùng tiến chung về cùng một mục tiêu, anh không thể để mặc tôi bơi một mình như vậy được.” Anh ở trước mũi trả lời tỉnh bơ: “Chiếc xuồng có hai phần, lái và mũi. Phần lái thuộc về anh; phần mũi thuộc về tôi. Anh cứ bơi phần anh; phần tôi, tôi bỏ, tôi thả trôi thì mặc tôi.”
Anh phía sau tức quá, nhưng cũng ráng bơi, vì nếu bỏ thì chiếc xuồng sẽ trôi ngược và không ai tới đích. Không ngờ chỉ một lúc sau, anh nghe tiếng nước tràn vào phía sau, anh quay lại thì thấy anh chàng kia không còn đủ bình tĩnh nữa, đang đục một lỗ để định nhận chìm xuống. Anh kia hoảng sợ nói: “Ơ này, anh có giận tôi thì giận; chứ anh nhận chìm xuồng, tôi không biết bơi đâu đấy nhé.” Anh phía sau thản nhiên nói: “Chiếc xuồng có hai phần, phần mũi và phần lái. Phần mũi của anh, còn phần lái của tôi, tôi nhận chìm kệ tôi chứ!” Thế là chẳng mấy chốc cả hai đều chết chìm trong lúc vẫn cứ cố gắng cãi nhau hơn là cùng nhau bơi vào bờ!
Tính cách cộng đoàn của lễ Hiện Xuống đòi hỏi phải có đức bác ái huynh đệ: Thánh Thần không đến trên từng cá nhân riêng rẽ, nhưng trong một tập thể được nối kết bằng hiệp nhất yêu thương. Nơi nhóm người họp nhau tại căn phòng, Chúa Thánh Thần muốn nối kết thành cộng đoàn hiệp nhất; cộng đoàn này luôn luôn mở rộng ra khắp thế giới mà vẫn luôn giữ được mối hiệp nhất.
Ngày Hiện Xuống này chính là ngày thành lập Hội Thánh. Thế nên, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ của mình cùng lãnh nhận Thánh Thần ở Giêrusalem bằng một biểu lộ hiệp nhất (Act 2:42-47; 4:32-35). Các môn đệ đã thực hiện sự hiệp nhất này qua việc chung sống yêu thương. Đây chính là kiểu mẫu bác ái phải có nơi các Kitô hữu khắp mọi nơi.
.
Lm. Nguyễn Thái
Hôm nay lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta nghe nói đến lửa và gió ngự trên các Thánh Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Lửa và gió (GLCG #691, 696) là biểu tượng cho sự hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Mỏ dầu và than là những nguồn năng lượng đang cạn dần trên thế giới và sẽ biến mất đi. Nhưng lửa và gió là những nguồn năng lượng vật chất vô cùng phong phú, không bao giờ cạn, và luôn mới mẻ. Chúng biểu tượng cho những nguồn sức mạnh tinh thần, những ơn lành của Chúa Thánh Thần. Vì thế Giáo Hội cầu xin với Chúa Thánh Thần: “Xin hãy đến và canh tân bộ mặt trái đất.”
Cũng như lửa và gió là những món quà của Thiên Chúa ban cho nhân loại đã có sẵn trong thiên nhiên trước khi chúng ta được sinh ra, thì ơn của Chúa Thánh Thần cũng đã được ban cho chúng ta khi chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, và các bí tích khác để trở nên con cái của Thiên Chúa (GLCG #1087, 1120). Đồng thời, sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần còn được ghi nhận qua những ơn đoàn sủng khác nhau, trong những vai trò và tác vụ riêng, vì ích lợi của đời sống gia đình, cộng đoàn, và Giáo Hội (Tông Thư Tertio Millennio Adveniente, số 45).
Thứ nhất, Chúa Thánh Thần là Đấng Bình An (Ga 14:27). Hãy nhìn giàn nhạc đại hòa tấu. Sự êm dịu tuyệt vời của bản nhạc hòa tấu đến từ những nhạc cụ khác nhau, trổi lên đúng lúc, do tài năng điều khiển nhịp nhàng của người nhạc trưởng. Nếu ví thế giới này là giàn nhạc cụ, thì Chúa Thánh Thần là người nhạc trưởng đó. Ngài là Đấng hiệp nhất, yêu thương, và hòa giải con người lại với nhau. Chúa Thánh Thần kêu gọi mỗi người chúng ta hãy ca vang lên nốt nhạc của tình yêu thương, hòa bình, và êm ái giữa một thế giới đầy xung khắc, hận thù và đố kỵ đang cần được chữa lành. Như lời kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, mỗi người chúng ta phải là “khí cụ bình an của Chúa” (Pl 4:7).
Thứ hai, Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ (Ga 14:26). Khi chúng ta gặp phải tình huống lộn xộn và khó khăn, không biết phải làm gì, làm cách nào, thì ngay bên cạnh chúng ta, như Đức Chúa Giêsu đã hứa, là Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ hướng dẫn và khích lệ chúng ta (Mt 10: 19; GLCG #692).
Thứ ba, Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi (GLCG #692). Người an ủi là người hiện diện, có mặt với chúng ta khi gặp khó khăn, đau khổ (2 Cr 1:3-4). Những người làm việc mục vụ trong nhà thương biết rất rõ vai trò của một người an ủi. Trước khi làm linh mục, chủng sinh phải qua khoá học CPE – clinical and pastoral education, để biết giúp đỡ những người đang gặp khó khăn, khủng hoảng. Sự hiện diện một cách chủ động với người khác có nghĩa là dùng trọn vẹn con người của mình để chia sẻ, tham dự vào đau khổ của người khác, mang cái kinh nghiệm của chính bản thân mình như một con người để thông cảm với sự đau khổ của tha nhân; không nói nhiều, không dạy đời. Đứng trước đau khổ và sự chết, lời nói nhiều khi vô nghĩa và vô duyên. Chỉ có sự hiện diện nối kết con người với con người mới thoa dịu và chữa lành.
Thứ tư, Chúa Thánh Thần là Đấng Phổ Quát. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ giảng cho dân chúng từ khắp các nơi tụ về. Họ nói những ngôn ngữ khác nhau, nhưng mỗi người lại nghe các tông đồ giảng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình (Cv 2:6). Điều này nói lên tính chất chung, tính chất phổ quát của ơn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi mỗi tâm hồn chúng ta, không phân biệt chúng ta là ai. Nơi mỗi tâm hồn chúng ta đều là đền thờ của Chúa Thánh Thần ngự trị (1 Cr 3:16).
Thứ năm, Chúa Thánh Thần là ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả ân phúc chúng ta có đều đến qua Chúa Thánh Thần (Jn 4:23-24; 15:5). Không có Ngài chúng ta không thể làm được bất cứ việc gì (Ga 4:26). Ngài giúp chúng ta sống đúng với con người đích thật của mình, không giả dối hay đóng kịch.
John Bradshaw rất nổi tiếng với những cuốn sách và hằng loạt chương trình TV công cộng về gia đình “On the Family”. Ông nói rằng 96% các gia đình ở Mỹ ban phát tình yêu dựa trên cách sống và thái độ bề ngoài của người thân. Con cái, vợ chồng, anh chị em, càng cư xử theo như cách chúng ta muốn về họ, chúng ta càng yêu họ, chấp nhận họ, khẳng định giá trị của họ. Trong những gia đình mà chúng ta đã lớn lên dạy chúng ta phải sống với thái độ bề ngoài như thế nào để được cái mà chúng ta cần.
Nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay, Ga 20: 19-23, Chúa Giêsu hứa ban “Bình an cho các con.” ” Bình an của Thầy cho các con… không như thế gian ban tặng” (Ga 14:27). Bình an Chúa Giêsu ban cho chúng ta là bình an đến từ sự chấp nhận của Thiên Chúa về con người của chúng ta. Bình an ban vô điều kiện. Bình an không do thái độ bề ngoài, cái vỏ trình diễn, nhưng do con người đạo đức thật sự của chúng ta tạo nên.
Thứ sáu, Chúa Thánh Thần luôn hoạt động. Thần học gia Karl Rahner, trong cuốn Pfingten entgegengehen, Freiburg, Basel, Wien 1986, tr. 86, đã viết lại những kinh nghiệm cá nhân về sự hoạt động Đức Chúa Thánh Thần tùy theo những hoàn cảnh của mỗi người: “Khi nhận lãnh trách nhiệm và chu toàn tới nơi tới chốn, và cả khi làm việc mà không nhìn thấy kết quả. Khi cảm thấy sự thong dong tự do của mình không bị giới hạn, khi phải chấp nhận trong giờ phút đen tối sợ hãi như bước khởi đầu cho một giai đoạn được chúc phúc, mặc dù không hiểu nổi sự việc đã, đang và sẽ đến. Khi bình thản chấp nhận thất vọng trong đời sống hằng ngày xảy đến, dù phải chịu đựng tới cùng sức. Khi kiên nhẫn cầu nguyện trong thinh lặng, trong u tối, vì tin rằng thế nào cũng được nhận lời, mặc dù không có dấu hiệu thấy hiệu quả của lời cầu xin kêu khấn. Khi chấp nhận từ bỏ không có điều kiện gì, vì tin rằng chính sự từ bỏ mang lại chiến thắng thật sự cho đời sống. Khi trong cuộc sống hằng ngày bình thản và sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro bất trắc xảy đến. Và còn rất nhiều cảnh huống trong đời sống mỗi người… Tất cả những điều đó là ân đức của Thiên Chúa. Ân đức này người Kitô hữu chúng ta gọi là ơn của Đức Chúa Thánh Thần” (VietCatholic News 29/5/2004. Lm Nguyễn Ngọc Long dịch).
Mặc dù chúng ta đã đón nhận Ngài trong bí tích Rửa tội và các bí tích khác, chúng ta phải để cho Ngài được tự do hoạt động trong ta (Rm 8:1-16). Có một chàng thanh niên muốn chơi xỏ vị trưởng lão có tiếng là thánh thiện. Hắn nắm một con chim trong lòng bàn tay, rồi hỏi vị trưởng lão: “Nếu ngài là bậc thông minh thánh hiền thì hãy nói cho tôi biết con chim trong lòng bàn tay này còn sống hay đã chết?” Vị trưởng lão suy nghĩ một chút và lập luận rằng, nếu mình nói ‘chết’ thì gã thanh niên sẽ mở bàn tay ra để con chim bay đi; nếu mình nói ‘còn sống’ thì hắn sẽ bóp chặt bàn tay vào và giết chết con chim đi. Gã thanh niên nóng ruột nhạo báng vị trưởng lão: “Xin ngài trả lời mau đi!” Vị trưởng lão chỉ ung dung mỉm cười trả lời: “Con chim ở trong lòng bàn tay là của anh. Anh muốn nó sống thì nó sống; muốn nó chết thì ắt nó sẽ chết.”
Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn chúng ta. Ngài có được tự do hành động hay không là tùy ý muốn của chúng ta. Thánh nữ Têrêsa Avila, tiến sĩ hội thánh, đã nói rằng trên trái đất này, chúng ta là những bàn tay của Thiên Chúa, là mắt, là chân, là những cánh tay của Ngài (Ep 1:22). Nếu chúng ta không xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa trên trái đất, thì không ai có thể làm được vì chính chúng ta có Đức Chúa Thánh Thần (Ep 2:22; 4:12).
.
Lm Vũđình Tường
Hàng năm người Do Thái mừng lễ Vượt Qua Biển Đỏ, do Môisen lãnh đạo, kính nhớ ngày Thiên Chúa cứu họ thoát khỏi ách nô lệ bên Ai Cập. Bảy tuần sau ngày lễ Vượt Qua là ngày lễ hội mùa Xuân. Trong ngày này họ dâng của lễ bao gồm lúa mạch mới và trái cây đầu mùa trong Đền Thánh Jerusalem để nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa cho mưa thuận gió hoà đem về mùa thu hoạch, có thực phẩm sống quanh năm. Đức Kitô cùng các môn đệ dự lễ Vượt Qua. Chính tại nơi đây Ngài bị bắt và ngay đêm đó đưa ra bản án tử hình, đóng đinh trên thập tự. Bản án phải thi hành ngay, không cho thời gian kháng án; đến khi dân chúng nghe tin thì mọi sự đã thành hình. Ba ngày sau Đức Kitô sống lại từ cõi chết và hiện ra với các môn đệ và nhiều người khác. Lễ Ngũ Tuần – lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày lễ Ngũ Tuần, thực ra là bảy tuần, nhưng dùng ngũ tuần để nói lên là năm mươi ngày sau, vì thế chữ tuần đây không có nghĩa là 7 ngày trong tuần mà ngụ í nói đến thời gian. Khi người Do Thái di tản vượt qua Biển Đỏ họ đi trong vội vã không đủ thời gian ủ men cho bánh dậy men nên ngày đó còn được biết đến với tên Bánh Không Men.
Kitô hữu mừng lễ Thánh Thần hiện xuống với tâm tình rộn rực niềm vui. Lễ kính xảy ra năm mươi ngày Đức Kitô sống lại từ cõi chết ban sự sống mới cho nhân loại và toàn thể vũ trụ. Đức Kitô chính là hoa quả đầu mùa của lễ hội mùa Xuân Kitô. Mầm non bắt đầu đâm chồi nảy lộc từ sự Phục Sinh của Đức Kitô. Mùa Xuân Kitô có sức sống mãnh liệt nhờ vào sự tác động của món quà Đức Kitô hứa trước đó; Thánh Thần Chúa tiếp tục làm trổ sinh hoa trái rũ cành công việc Đức Kitô khởi đầu. Điểm này nhắc chúng ta nhớ lại dụ ngôn hạt lúa mì rơi xuống đất sinh bông, kết trái gấp trăm lần (Gn 12,24). Cái chết của Đức Kitô được ví như hạt lúa mì rơi vào lòng đất; sự Phục Sinh của Ngài ví như thành quả hoa trái rũ cành. Dân Do Thái ra đi vội vã đến độ không có thời gian chờ cho bánh dậy men; Bữa Tiệc Li các môn đệ dùng với Đức Kitô được ví như bữa tiệc Bánh Không Men bởi trong bữa tiệc đó Đức Kitô loan báo việc sắp xảy ra cho Ngài và cũng thông báo việc phản bội của con người. Bí tích Thánh Thể là hoa trái của món quà Đức Kitô hứa ban bởi chính Thánh Thần Chúa tác động biến bánh, rượu thường trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Điều này vượt khỏi sự hiểu biết và trí tưởng tượng của con người. Hoa quả Mùa Xuân Kitô có sức mạnh không chỉ hàn gắn vết thương của toàn thể vũ trụ do tội lỗi gây nên mà còn đổi mới toàn thể vũ trụ. Điều này có được bởi do sự liên kết với Đức Kitô Phục Sinh trong lời mời gọi ‘ hãy ở lại trong tình yêu của Thầy’. Chính nhờ liên kết với tình yêu mà mọi sự được đổi mới qua Đức Kitô Phục Sinh. Dụ ngôn cây nho liên kết với cành nho giúp hiểu tầm mức quan trong liên kết giữa thân và cành (Gn 15). Dụ ngôn này nhắc nhở đến sự liên kết vĩnh cửu của một Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kitô hữu sinh hoa, kết trái rũ cành khi liên kết mật thiết với Đức Kitô Phục Sinh và mở tấm lòng đón nhận hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ở lại trong tình yêu của Đức Kitô sẽ thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi bởi chính tình yêu Đức Kitô Phục Sinh giải thoát con người. Khi tâm hồn ta tràn đầy Thánh Thần Chúa, cuộc sống tâm linh được hướng dẫn bởi Thánh Thần và cuộc sống đó được liên kết mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa. Khi sai Thánh Thần Chúa xuống Đức Kitô làm trọn điều Ngài hứa là sẽ sai Thánh Thần đến, cùng đồng hành với Kitô hữu, cho đến tận thế (Mat 28,20). Thánh Thần Chúa tác động cuộc sống của Kitô hữu biến hành động tốt lành, bác ái, của ta nên cao trọng đẹp lòng Chúa. Nhờ vào Thánh Thần Chúa trợ lực mà Kitô hữu mỗi ngày đều có khả năng trổ sinh bông trái tốt qua hành động bác ái, đạo đức và hy sinh. Thánh Thần Chúa biến yếu hèn của ta trở nên mạnh mẽ, nhu nhược thành can đảm, biếng nhác thành siêng năng. Điều này có được bởi do sự liên kết trong tình yêu Chúa. Không phải do sức riêng hay khôn ngoan trí tuệ mà chính là do sức mạnh tình yêu Chúa, hướng dẫn, ban sức mạnh mà tha nhân được hưởng hoa trái của tình yêu ngoài sức mơ tưởng của con người.
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Nếu ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”(x.Gl 5,25).
Thần Khí chính là Chúa Thánh Thần. Ngài là Ngôi thứ Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúng ta đang ở trong thời đại của Chúa Thánh Thần. Thời đại của Chúa Cha là thời kỳ đầu, thời của việc tạo dựng vạn vật. Thời đại của Chúa Con là thời Đức Giê-su xuống thế cứu chuộc. Và thời đại của Chúa Thánh Thần là thời để thánh hóa. Thời đại của Thánh Thần từ khi Đức Giê-su lên trời cho tới ngày tận thế.
Trong thời đại này, những hoạt động của Thánh Thần làm là để thánh hóa chúng ta, tức là làm cho chúng nên thánh. Nhờ Thần Khí, mà chúng được gọi Thiên Chúa là Cha (x.Rm 8,15). Nhờ Thần Khí ta biết và tin rằng Đức Giê-su là Chúa (x.1Cor 12,3). Nhờ Thánh Thần, ta được tha tội (x.Ga 20,22). Nhờ Thánh Thần, ta loan báo những kỳ công của Thiên Chúa (x.Cv 2,11). Nhờ Thánh Thần, ta mới biết cầu nguyện thế nào cho phải (x.Rm 8,26).
Chúng ta lãnh nhận Thánh Thần khi chịu phép rửa và nhất là khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Trong hành trình truyền giáo đến Ê-phê-xô, thánh Phao-lô hỏi: “Anh em tin theo Đức Ki-tô, anh em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa? Họ trả lời: Ngay việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề nghe nói. Vậy anh em chịu phép rửa nào ? Họ trả lời: của Gio-an Tẩy Giả. Khi họ được rửa tội nhân Danh Đức Ki-tô thì họ mới lãnh nhận Thánh Thần. Khi lãnh nhận Thánh Thần, họ bắt đầu nói tiếng lạ và nói tiên tri” (x.Cv 19,1-8).
Nói “tiếng lạ” không phải là nói được nhiều ngoại ngữ. Nói được ngoại ngữ, chỉ có các Tông Đồ mà thôi, ngoài ra, không có ai được nữa hết. Vì xưa kia các Tông Đồ, không có cơ hội để học ngoại ngữ và cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc. Bây giờ, ta có nhiều cơ hội, cũng như ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có các tín hữu ki-tô hay Linh mục rồi, nên không có chuyện lãnh nhận bí tích Thêm Sức là nói được nhiều ngoại ngữ. Nếu mà được vậy, chắc có nhiều người trẻ vào Đạo lắm nhỉ, đỡ phải mất công học ngoại ngữ !!!
Ngày nay việc nói tiếng lạ đó là ta loan báo những kỳ công của Chúa đã làm trong cuộc đời của ta hay trong đời sống đức tin của mình. Như việc cầu nguyện. Nó lạ bởi vì xưa nay ta chưa cầu nguyện cho phải, chưa cầu nguyện cho ai; cũng như chưa bao giờ cầu nguyện cho kẻ ta ghét, ta không ưa. Nay ta cầu nguyện cho tất cả.
Nó lạ khi ta biết tha thứ cho những ai nói xấu ta, làm hại ta, mà xưa nay ta làm không được.
Nó lạ vì xưa kia ta nhút nhát, vụng về; khó một chút là bỏ, cực một chút là chán, nay thì ta can đảm, dám chịu khó, chịu cực và cố gắng cho tới cùng. Ơn can đảm đó là một trong bảy ơn của Thánh Thần.
Nói theo thánh Phao-lô, nói “tiếng lạ”, là sống theo Thần Khí, đó là sống trong “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (x.Gl 5,22-23). Đồng thời, không sống theo kiểu thế gian như: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, chia rẽ, bè phái; ganh tỵ, chè chén, say sưa”(x.Gl 5,19-21). Nói tóm lại là, “Nếu ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”.
Nói “tiếng lạ” không phải là nói không ai hiểu, cũng như không hiểu ai nói gì. Chỉ có những người “bệnh tâm thần” hay “đầy rượu rồi”, say xỉn rồi mới nói “tiếng lạ” như vậy; còn người bình thường thì không nói như vậy. Người mà “đầy Thần Khí”, nói là người ta hiểu. Không chỉ hiểu không mà thôi, mà còn vui mừng, còn yêu mến, còn mê tít thò lò nữa. Vì họ nói không cầu kỳ, không rào trước đón sau, cũng không nổ.
Họ nói thật lòng, nói đúng người, đúng việc, trong sự tôn trọng, yêu thương. Có nói có, không nói không; dịu dàng, từ tốn. Có đôi lúc nóng đấy nhưng người nghe hiểu được tâm tư, lòng nhiệt thành, lòng tốt của họ. Cũng chỉ vì muốn cho mình tốt hơn thôi, chứ không có ý mạt sát hay chê bai gì cả. Có bực mình, tủi tủi chút đấy, nhưng ta cảm được tấm lòng yêu thương sâu sắc của người đó. Ta tin tưởng, ta quí mến họ.
Người mà có đời sống “nội tâm” sâu sắc, sẽ không nói lung tung; không bạ đâu nói đó; không ngồi lê đôi mách; không tụm năm túm ba nói hành, nói xấu người khác. Họ chìm sâu trong tĩnh lặng; họ dành giờ để suy tư; họ ở yên để chiêm niệm, suy gẫm. Do đó mà họ nhận được sự khôn ngoan của Chúa; họ tiếp nhận được sự soi sáng của Thánh Thần, giúp họ sống một đời thánh thiện và hăng say giúp đỡ người khác.
Nói “tiên tri” là tiên đoán rằng, như Đức Ki-tô đã chiến thắng thế gian thế nào thì ta cũng sẽ chiến thắng bản thân, thế gian và ma quỉ như vậy. Đó cũng là nhờ ơn can đảm mà có. Nhờ sự can đảm mà ta chiến thắng bản thân, vượt khó, vượt khổ; nhờ việc can đảm kiên trì sống Lời Chúa mà ta chiến thắng thế gian và ma quỉ, không để chúng chi phối hay làm nô lệ cho chúng.
Nói “Tiên tri” là chia sẻ những kinh nghiệm mình có cho người khác. Như mình có được gì bây giờ cũng là do sự kiên trì, nhẫn nại, học hỏi, tập tành mà có, thì sẽ dự đoán chính xác cho người nào đó rằng, nếu cũng biết kiên trì, nhẫn nại học hỏi hay tập tành, chắc chắc sẽ thu được những kết quả bất ngờ, không chóng thì chầy. Điều đó khích lệ người kia tích cực chịu khó và khi gặt được một chút kết quả, người đó sẽ phấn khởi, vui mừng và tiếp tục cố gắng.
Nói “Tiên tri” cũng là nói với những kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình về ơn gọi đi tu hay lập gia đình để có một đời tu an bình và hạnh phúc; cũng như có một gia đình hạnh phúc và bình an.
Về đời tu, thì đi tu là để sửa mình, để nên thánh nên thiện chứ không phải để làm việc này việc nọ. Bởi đó mà phải bám vào Chúa, suy gẫm và sống Lời Chúa hằng ngày, luôn khiêm nhường dù mình có giỏi dang hay khôn khéo cách mấy. Phải sống lời khấn trong đời tu, biết sống tinh thần khó nghèo, không bon chen, không theo mốt, theo thời; Biết sống vâng phục, biết bỏ ý riêng; biết có một tình thương bao la đối với Thiên Chúa và con người; đối với mọi vật và mọi loài. Làm như vậy để mình có một đời tu an bình và thư thái; thanh thản và siêu thoát và giúp ta nên thánh. Đó là điều chắc chắn.
Về đời hôn nhân, thì trước khi cưới thì phải có một thời gian cần thiết để biết rõ người kia thế nào, để qua đó, cùng nhau xây dựng mối tương quan tốt. Trong thời gian đó, cũng cần có một công việc ổn định, có thu nhập để lo cho mình và lo cho tương lai. Nếu cả hai cùng làm như thế, chắc chắc sẽ có một tương lai sáng đẹp. Cả hai cùng có công việc ổn định mà, vấn đề kinh tế đỡ phải lo; rồi có tinh thần tương trợ như thế ngay từ lúc quen nhau, thì khi cưới nhau rồi thì hạnh phúc biết bao nhiêu.
Đừng có sợ mất; cũng đừng có ham ngọt, ham cái mã bên ngoài, cao to đẹp trai mà sau này phải khổ. Bây giờ nó đang thích nên nói gì nó cũng chịu; muốn gì nó cũng hứa. Nhưng khi cưới rồi mới“hỡi ôi”. Cưới nhanh cưới gấp quá, hạnh phúc chẳng được bao lâu mà khốn khổ thì mãi mãi.
Giờ “gạo đã nấu thành cơm”, còn nói được gì nữa. Làm gì có lần thứ hai nữa. Mà điều này cũng đã được nói cho biết trước, chứ không phải không. Thế mà cứ lao đầu vô. Lao đầu vô thì “lãnh đạn” thôi.
Vậy ta đừng nói là “việc có Thánh Thần không chúng tôi còn chưa nghe”, vì chúng ta đã nghe và đã biết và chúng ta đã được chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su và cũng đã lãnh nhận bí tích Thêm sức rồi. Ta phải biết nói “tiếng lạ” và nói “tiên tri”; không nói được thì ít ra thì cũng phải nghe “tiếng lạ”, nghe lời người ta nói “tiên tri”cho mình. Đương nhiên không phải người nào ta cũng nói hay người nào ta cũng nghe. Ta chỉ nói với những người ta có trách nhiệm và nghe những người “đầy Thánh Thần” và có đời sống nội tâm sâu sắc, ta sẽ có một đời sống an bình và hạnh phúc. Nếu ta mà nghe những người “đầy rượu rồi” hay những người “bệnh tâm thần”, thì coi chừng ta sẽ lãnh đủ đấy.
Nói cho cùng là ta phải sống nhờ Thần Khí và tiến bước nhờ Chúa Thánh Thần. Ta sẽ nói được “tiếng lạ” và nói “tiên tri” cho mình và cho người khác.
.
CHÚA THÁNH THẦN – ĐẤNG TÁC SINH MỌI SỰ
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển
Có một câu chuyện kể về vị Giáo sư Triết Học, từng dạy tại nhiều trường đại học như sau:
Ông là người tôn thờ Đạo Ông Bà. Tuy nhiên, ngay từ khi còn nhỏ đến lúc lấy học hàm tiến sĩ Triết Học và thạc sĩ Thần Học, ông đã được ảnh hưởng rất nhiều từ nền giáo dục cũng như nơi ở của Đạo Công Giáo qua các dòng tu. Vì thế, ông luôn dành tình cảm đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo nói chung và với giới nhà tu nói riêng.
Trong những lần tiếp xúc với người Công Giáo, ông thường hay kể: trong thời gian đi du học tại nước ngoài, sau khi đã lấy xong học hàm tiến sĩ Triết tại đại học Harvard, ông đã quyết định học thêm để lấy bằng thạc sĩ Thần Học. Tuy nhiên, cái khó của ông, đó là: muốn học Thần Học, phải có Đức Tin. Không có Đức Tin là một điều vô cùng khó khăn nếu không muốn nói là vô lý! Lúc đó, ông cảm thấy bế tắc!
Tuy nhiên, nhớ đến vai trò của Chúa Thánh Thần mà đã nhiều lần ông được nghe biết đến! Nên ông đã quỳ gối để cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và giúp ông hiểu được những chân lý, mầu nhiệm của Thiên Chúa qua các môn học Thánh Khoa. Quả thật, khi cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, mọi vấn đề được khai sáng. Vì thế, ông không ngần ngại xác nghiệm vai trò của Chúa Thánh Thần bằng câu nói rất dí dỏm nhưng đầy xác quyết như sau: “Mỗi khi khó khăn, hãy cầu xin với ‘Đồng Chí Thánh Thần’ là mọi chuyện sáng ra hết”. Ông còn nói thêm: “Tuy nhiên, khi cầu xin ‘Đồng Chí Ý’ là phải quỳ gối”, ý muốn nói về sự khiêm nhường.
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ trọng kính Chúa Thánh Thần. Khi mừng lễ này, Giáo Hội muốn xác tín mạnh mẽ về vai trò tác sinh mọi sự của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và xã hội mọi thời.
Vì thế, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Khi nói đến Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn khẳng định Người là: Thiên Chúa Ngôi Ba; Đấng Quyền Năng (x. Lc 1,35; Mt 12,28; Mt 4,23); Tác Sinh; Thánh Hóa và Biến Đổi; Thần Khí Sự Thật của Đức Giêsu Phục Sinh; là Sức Mạnh (x. Mt 4,1-10); Nguồn Bình An (x. Ga 20,19); là Sự Sống Thần Linh (x. Ga 20,22); Đấng An Ủi, Bào Chữa và Tha Tội (x. Ga 20,23).
Với những tước hiệu khác nhau như vậy, chúng ta sẽ hiểu về vai trò Chúa Thánh Thần qua các hoạt động của Người trong Giáo Hội, như:
Khởi đi từ ngày Lễ Ngũ Tuần, “mọi người được tràn đầy ân huệ của Chúa Thánh Thần qua việc đón nhận hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (x. 1 Cr 12,4-11). Khi nhận được ơn sốt mến và biến đổi qua biểu tượng hình lưỡi lửa, Chúa Thánh Thần đã tác động trực tiếp đến các mục tử đầu tiên của Giáo Hội là các Tông đồ qua việc ban cho các ông một sức mạnh phi thường, lòng can đảm vô biên, nên các ông không còn hèn nhát, sợ sệt và tối trí như trước kia nữa (x. Cv 2,14-36); mà ngược lại, các Tông đồ đã mở toang cánh cửa của sự sợ hãi, sẵn sàng ra đi hiên ngang làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng mà trước đó, các ông rất lo sợ bị liên lụy!
Với những lời lẽ đầy khôn ngoan và hết sức thuyết phục (x. Ga 16,12-13), các Tông đồ đã loan báo về Đức Giêsu – Đấng đã chết và phục sinh một cách hùng hồn và đầy xác tín. Hơn nữa, ngọn lửa yêu mến đã thâm nhập vào trong tâm trí và con tim các ông, khiến các ông sẵn sàng chấp nhận thí mạng để làm chứng cho những điều mắt thấy, tai nghe. Kết quả: biết bao nhiêu người đã được ơn nhận biết Thiên Chúa (x. Cv 2,41).
Điều đặc biệt ngay trong thời kỳ đầu của Giáo Hội và mãi cho đến ngày nay, vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong việc quy tụ mọi người thuộc mọi dân nước và ngôn ngữ trong sự hiệp nhất (x. Cv 2,5-8) (x. Cv 2,42-47).
Khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình không chỉ biết về Chúa Thánh Thần cũng như vai trò của Người không mà thôi, nhưng Giáo Hội còn đi xa hơn nữa khi kêu gọi con cái mình hãy cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho ơn thánh của Người được lớn mạnh trong lòng mỗi chúng ta cũng như triển nở trong nhân loại hôm nay.
Muốn được vậy, trước tiên, mỗi người hãy trở nên ngoan hiền, khiêm tốn, giống như một dụng cụ vừa tay Chúa Thánh Thần, để Người tự do biến đổi và sử dụng chúng ta, ngõ hầu mỗi người trở thành muối thành men và ánh sáng soi trần gian.
Thành men, thành muối và ánh sáng cho trần gian, đó là: chúng ta phải sống những đặc tính của người thuộc về Thiên Chúa, là lan tỏa nét đẹp của Đạo Công Giáo bằng chính đời sống tốt lành, gương mẫu của mình, một mặt để ướp con người và thế giới này khỏi hư thối bởi sự vô cảm, dửng dưng, bất nhân, ác thú, gian dối, hình thức, lễ nghi, ăn chơi trác táng…. Mặt khác, cần chiếu tỏa nhân đức như: bác ái; vui vẻ; bình an; kiên nhẫn; nhân từ; hòa nhã; nhẫn nại; hiền lành; tin tưởng; tiết độ; trong sạch, khiêm tốn, liên đới, cảm thông….
Làm được điều đó, mỗi người cần bén rễ sâu và đắm chìm mình trong đời sống cầu nguyện với Thiên Chúa, để nhạy bén với tác động của Chúa Thánh Thần ngang qua các dấu chỉ nơi những sự kiện, biến cố trong cuộc sống của riêng ta, cũng như của xã hội và Giáo Hội.
Có thế, chúng ta mới thực sự làm cho ơn của ChúaThánh Thần tác sinh trong ta và nơi mọi người.
Mong sao, lời tuyên tín đầy xác quyết: “Mỗi khi khó khăn, hãy cầu xin với ‘Đồng Chí Thánh Thần’ là mọi chuyện sáng ra hết” của vị Giáo sư trong câu chuyện trên sẽ là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta xác tín rằng: Chúa Thánh Thần chính là Chủ Tể mọi sự trong Giáo Hội và nơi từng người chúng ta hôm nay.
Qua đó, xin cho chúng ta thêm lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Người trong sự khiêm tốn, để Người biến đổi và ban ơn cho ta, ngõ hầu mỗi người trở nên chứng nhân của Đức Giêsu trong thế giới hôm nay. Amen.
.
HIẾN CHƯƠNG THÀNH LẬP HỘI THÁNH
JM. Lam Thy
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa nhật 4/6/2017 tại đền thánh Phê-rô, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã giải thích ý nghĩa của lễ Ngũ tuần qua những biểu tượng đọc thấy trong các bài Sách Thánh: “Lễ phụng vụ mà chúng ta mừng hôm nay quen được gọi là “Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống”, hay nói tắt là “lễ Hiện xuống”. Trong nguyên ngữ Hy-lạp và La-tinh, danh xưng là “Ngũ tuần” (Pentecostes), nghĩa là 50 ngày, bắt nguồn từ lịch phụng vụ của người Do Thái. Năm mưoi ngày sau lễ Vượt qua tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi cảnh nô lệ bên Ai-cập, người Do Thái mừng lễ Ngũ tuần kỷ niệm việc Chúa thiết lập giao ước trên núi Si-nai. Trong Tân Ước, sách Tông đồ công vụ đã gắn biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống với lễ Ngũ Tuần, diễn ra năm mươi ngày sau khi Chúa Phục sinh. Khi chú giải đoạn văn này, các giáo phụ đã ví biến cố như là việc ban hành Hiến chương thành lập Hội Thánh; trong đó quy định các nhân tố của Giáo hội tiên khởi (các Tông đồ) được phái đến muôn dân, rao giảng Tin mừng qua các ngôn ngữ của các dân tộc.” (nguồn: Đài Vatican).
Với Đức Ki-tô, khi nói về Chúa Thánh Thần, thì Người lại nói đó là ngọn lửa: Sau khi kể dụ ngôn “Hãy canh thức chờ chủ về” (Lc 12, 35-48), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49). Tuy rằng ngọn lửa ấy luôn hiện diện trong Đức Giê-su, trong tất cả những Lời dạy và việc làm của Người, nhưng chưa có dịp “bùng lên” như Người mong muốn. Phải chờ tới ngày Lễ Ngũ Tuần, ngọn lửa ấy mới thực sự bùng lên thành những lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ “từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2, 1-5).
Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20, 19-23) trình thuật việc Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần. Cứ thử tưởng tượng đang có mặt tại nơi các môn đệ Chúa tề tựu, sẽ thấy nét mặt người nào cũng đầy ưu tư. Họ vừa chứng kiến một biến cố kinh hoàng làm tan biến mọi hy vọng. Thôi, thế là hết, giấc mộng được làm Tả Hữu Thừa tướng của Vua Giê-su (Ông Gio-an và ông Gia-cô-bê xin được ngồi bên tả bên hữu Đức Vua Giê-su – Mc 10, 35-40) đã hoàn toàn tan biến, vì Người đã chịu chết nhục nhã trên thập giá, xác Người lại do chính bản thân mình táng trong hang đá! Những cuộc hiện ra của Chúa dường như vẫn chưa đủ để giúp họ được hăng hái và xác tín vào sứ mệnh Người muốn họ thi hành. Họ vẫn còn sợ hãi đến nỗi khóa chặt cửa và sống trong một bầu khí thinh lặng nặng nề. Sự hiện diện của Mẹ Ma-ri-a ở giữa họ là chiếc phao cuối cùng để họ bám víu.
Mọi người đang chờ đợi “sự bất ngờ” từ trời đến! Và quả thực “sự bất ngờ” đã đến dưới hình thức “tiếng động như tiếng gió mạnh” và “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa”. Ai cũng nghe được tiếng động ấy và lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một, không trừ một ai. Tiếng động và lưỡi lửa ấy chính là Chúa Thánh Thần, Tình yêu của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức Ki-tô. Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các môn đệ. Người đã lấy tình yêu để đốt cháy mọi sợ hãi, và lấy tiếng động của gió mạnh để thay thế sự yên lặng nặng nề đang làm tê liệt cộng đoàn đức tin bé nhỏ. Người giúp họ hăng hái nhiệt thành đáp lại mệnh lệnh của Chúa Giê-su: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thi Thầy cũng sai anh em”. Thế là cánh cửa đã bị khóa chặt vì sợ hãi nay mở tung ra. Trước mặt dân chúng (không chỉ cư dân tại Giê-ru-sa-lem và những người Do Thái sùng đạo từ các dân thiên hạ trở về, mà cả những dân ngoại thuộc các nước chung quanh), các môn đệ Chúa không chút sợ hãi và lên tiếng rao giảng. “Đám đông kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông đồ nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2, 6). Mọi sự hoàn toàn đổi mới.
Có một vấn nạn: Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay từ khi Người mới sống lại, vậy tại sao mãi tới 50 ngày sau (vào ngày Lễ Ngũ Tuần) Chúa Thánh Thần mới thực sự đến với các Tông đồ? Sở dĩ vậy, vì Thiên Chúa muốn mạc khải cho loài người biết mọi việc Người làm đểu thể hiện tình yêu vô bờ bến của Người đối với nhân loại. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chỉ cần phán một lời thì tất cả tội lỗi của loài người sẽ được tha thứ hết, nhưng như thế thì con người – vì được tự do và với sự hiểu biết hạn chế, bất toàn – sẽ không thể hiểu được ân sủng vô cùng cao quý ấy, và chắc chắn sẽ tiếp tục sai lầm, tiếp tục sống đời tội lỗi một cách vô tư. Hoá cho nên tất cả những sự kiện – từ biến cố Giáng Sinh đến cuộc khổ nạn, rồi phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Giê-su đều được thể hiện một cách cụ thể, để con người thấy tận mắt (thực mục sở thị) mà tin vào Thiên Chúa. Đến như vậy mà loài người vẫn còn không ít những kẻ hoài nghi, không tin. Vậy đó! Vì thế, nên vẫn rất cần thiết cho các môn đệ và cho tất cả mọi người một ngày Lễ Ngũ Tuần vậy.
Sách Xuất hành có viết về Lễ Vượt Qua trong Cựu Ước: “Đó là lễ tế Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn.” (Xh 12, 27). Vì được Thiên Chúa thương giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, và ban cho mười giới luật để đóng ấn giao ước giữa Chúa và dân của Người (trên núi Si-nai), nên dân Ít-ra-en đã mừng biến cố này hết sức long trọng vào đúng ngày thứ 50 sau lễ Vượt Qua. Vì thế, ngày này được gọi là lễ Ngũ Tuần (“Pentecost”: ngày thứ 50). Bước sang thời kỳ Tân Ước, thì cuộc vượt qua khổ nạn, chiến thắng sự chết và sống lại hiển vinh của Chúa Ki-tô cũng đúng vào dịp mừng Lễ Vượt Qua và 50 ngày sau (vào đúng Lễ Ngũ Tuần) thì biến cố hiện xuống của Đức Thánh Linh xảy ra. Biến cố ấn tượng và hết sức lạ lùng này được Sách Công vụ Tông Đồ tường thuật lại một cách rất thuyết phục:
“Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” Sự kiện lạ lùng xảy ra khiến đám đông dân chúng hiện diện ”sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 1-4.7-11).
Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như: Thần Khí, Thần Chân Lý, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… (xc. Giáo lý HTCG số 691-693). Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong công trình sáng tạo vũ trụ và trong con người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8).
Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện bên dân Chúa và với các ngôn sứ trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13); “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15). Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thánh Thần vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua: Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người (G 33, 4); là Đấng phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần (Ed 37, l4); là Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất (G 34, 14-15). Thánh Thần còn là Tác giả các sách Cựu Ước mà các ngôn sứ chỉ là người ghi chép lại sự linh hứng của Người (Dcr 7, 12; Mk 3, 8; Nkm 9, 30.29).
Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thánh Linh khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khi dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự (diễn tả giây phút từ trần của Đức Giê-su, Thánh sử Gio-an viết là “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” – Ga 19, 30), rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.” – Rm 8, 11).
Còn đối với Giáo hội, thì Chúa Thánh Thần hoạt động như thế nào? Ngay từ khi Chúa Giê-su thiết lập Hội Thánh thì Chúa Thánh Thần đã hoạt động thông qua Đức Ki-tô (mỗi khi Người chào các môn đệ, Người đều nói “Bình an cho anh em” hay “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, sự bình an đó chính là Chúa Thánh Thần vậy; hoặc cũng có khi Người nói thẳng: ”Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” – Ga 20, 21-23). Tuy nhiên phải đến ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần mới thực sự hiện xuống trên các thánh Tông đồ.
Vì thế, Lễ Hiện Xuống là ngày khởi đầu cho hoạt động truyền giáo của Giáo hội, là “Sinh Nhật” của Hội Thánh Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giê-su đã giảng dạy, đặc biệt là ân sủng “vẫn nói tiếng Ga-li-lê quê hương của mình, nhưng người nghe lại nghe thành tiếng nói bản xứ của họ”. Các Tông đồ không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Ga 20, 19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các ngài ở (Cv 2, 14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Hội Thánh Chúa (Cv 2, 41).
Có thể nói trong cuộc tử nạn của Chúa Giê-su thì các Tông đồ cũng chết theo Người. Sự sợ hãi, co cụm vào nhau không dám hoạt động, khiến cho môi trường sinh hoạt của các Tông đồ mất hết sinh khí và chỉ giới hạn trong một gian phòng nhỏ đóng kín các cửa. Nhưng khi Chúa Phục Sinh và nhất là từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì sinh khí bùng phát, các Tông đồ như được từ cõi chết cùng sống lại với Đức Ki-tô. Đúng là Giáo hội tiên khởi đã cùng chết với Đức Ki-tô và được tái sinh bởi Thần Khí Thiên Chúa vậy.
Vì thế mới coi ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là ngày sinh của Giáo hội (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8, 11). Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển và cho đến ngày nay, Giáo hội đã hiện diện trên khắp năm châu bốn biển, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi” (Mc 16, 16…). Qua dòng thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đồng hành và chở che Giáo hội qua “mọi cơn gian nan thử thách!”, qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Như vậy thì Đức Thánh Linh luôn hiện diện ở khắp mọi nơi và trong mọi thời điểm, còn nói Chúa Thánh Thần hiện xuống chỉ là cách nói nhằm làm sáng tỏ sự thật về Ngôi Ba Thiên Chúa. Đó là Đấng Thánh, là Thần Khi Sự Thật luôn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con trong mọi công trình của Thiên Chúa (từ sáng tạo vũ trụ và con người, đến hồng ân cứu độ, từ khởi nguyên tới tận cùng). Một cách cụ thể, khi nòi Chúa Thánh Thần hiện xuống, là để miêu tả hình ảnh thật (Chim Bồ Câu, Lưỡi Lửa, Ánh Sáng…) từ trời cao bay xuống đậu trên những vật thể hữu hình, và đó cũng chính là những mạc khải của Thiên Chúa để con người hiểu được mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ôi! Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh! Chúa đã ban Thánh Thần cho Giáo hội ngay từ ngày mới thiết lập và cũng nhờ thế mà Giáo hội ngày nay đã hiện diện trên toàn thế giới. Tuy nhiên, những người biết và tin vào Thiên Chúa trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Xin Chúa thương ban cho chúng con được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần để chúng con được như các Tông đồ thủa xưa tái sinh trong Thần Khí mà vững bước trên con đường loan báo Tin Mừng, đem Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc của cuộc đời con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!
.
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu gặp gỡ các tông đồ, trước ngày Chúa chia tay các ông để về lại với Cha, đấng ngự trên trời. Và cũng là lúc Chúa trao ban Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa ngự đến trên các ông và mọi người.
Chúa thấu suốt lòng các đồ đệ của mình, trong lúc các môn đệ lo sợ, Ngài đã lên tiếng trấn an, nâng đỡ để các ông khỏi xao xuyến khi Ngài không còn hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, chỉ bảo các ông. “Bình an cho anh em “, một lời cầu chúc khiến các ông thật an lòng. Và còn phấn khởi hơn nữa khi Ngài lặp lại lần thứ hai: “Bình an cho anh em “ cùng với việc tin tưởng giao nhiệm vụ mới :”Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em “. Còn gì sung sướng cho bằng những học trò được Thầy mình tín nhiệm, ủy thác. Mà đâu chỉ là những lời dặn dò, ủy thác. Chúa còn trao ban Thần khí của Ngài :”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,; anh em cầm giữ ai , thì người ấy bị cầm giữ “. Chính từ sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa đã đổi mới con người các ông, mà còn đổi mới mặt địa cầu.
Ngày hôm nay, Chúa không hiện diện hữu hình nơi trần gian nữa, nhưng trong lòng tin, dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà biết bao người đã tin theo Chúa. Biết bao các đấng Thánh, khởi đi từ các Tông đồ ngày ấy, cho đến các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ hay giáo dân vì đã tin vào Chúa nên đã thực hiện được những điều Chúa đã từng làm khi còn tại thế: Cứu chữa những người tật bệnh, đói nghèo. . .Đem lại niềm vui cho bao người khốn khổ, thất vọng, ngã lòng . . .Sẵn sàng đổ máu mình để làm bằng chứng cho tình yêu thập giá.
Một Mẹ Tê- rê-xa Can-quýt-Ta Ấn Độ , một Linh mục Mac-xi-mi-li-a Kôn- Bê người Ba Lan, một Tổng Giám Mục Rô-Mê-Rô người Braxin, hay một người Việt Nam chúng con đây, Đức Hồng Y Phan-Xi-Cô Xa-vi-ê Nguyễn văn Thuận và mới đây nhất hai Đấng Thánh Giáo hòang Yoan XXIII, Yoan –Phao-Lô II cùng biết bao vị khác đã đón nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, nhận bài sai từ Chúa Giêsu, đã làm chứng cho Chúa, đã đưa biết bao người tin nhận Chúa. Giúp xua đi bao khổ đau và đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ.
Xin Chúa Thánh Thần luôn củng cố niềm tin cho chúng con, xin Ngài đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để mỗi người, từng người chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa trong thế giới này.
Xin Thánh Thần Thiên Chúa đốt lên trong con ngọn lửa sốt mến để con biết đáp lại lời “Thầy cũng sai anh em”, biết đem sự bình an của Đức Kitô đến những người còn chưa được đón nhận Tin mừng, góp phần cùng với mọi tín hữu tạo dựng trời mới đất mới ngay từ cuộc sống trần gian và mai ngày con sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trong nước trời . AMEN .
.
THẦN KHÍ CHÚA PHỤC SINH TÁC ĐỘNG
VÀ SAI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 20,19-23
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”.(22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
2. Ý CHÍNH:
Chúa Giê-su Phục Sinh hiện đến mang lại cho các môn đệ sự bình an (c.19) và niềm vui (c.20). Sau đó Người sai các ông đi (c.21a), như chính Chúa Cha đã sai Người (c.21b). Cuối cùng, để giúp các ông chu toàn sứ mạng, Người đã thổi hơi ban Thần Khí cho các ông (c.22), nhờ đó các ông có quyền tha thứ hay cầm giữ tội của người ta tùy theo họ tin hay không tin vào lời rao giảng của các ông (c.23).
3. CHÚ THÍCH:
– C 19-20: + Vào chiều ngày ấy, ngày thứ Nhất trong tuần: Theo sách Sáng Thế, ngày thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát. Từ nay, ngày thứ Nhất được gọi là Chúa Nhật nghĩa là Ngày của Chúa để kỷ niệm mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và các Ki-tô hữu có bổn phận hội họp nhau lại cử hành nghi thức Bẻ Bánh. + Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái: Lý do cửa đóng then cài, là vì các ông đang hoang mang giao động. Các ông sợ người Do thái sẽ đến bắt bớ các ông như họ đã làm đối với Thầy các ông.+ Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông: Điều này cho thấy thân xác Chúa Phục Sinh không còn bị không gian và thời gian giới hạn như lúc Người còn sống. +“Bình an cho anh em !”: Trong bữa Tiệc ly trước khi nộp mình chịu chết, Đức Giê-su đã hứa ban bình an cho môn đệ (x. Ga 14,27), và động viên các ông can đảm đương đầu với những thử thách sắp đến (x. Ga 16,33). Giờ đây sau khi sống lại, Người đã thực hiện lời hứa ấy bằng việc hai lần chúc bình an cho các ông (x. Ga 20,19.21). +Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Chúa Giê-su cho môn đệ xem các dấu đinh bị đóng nơi hai bàn tay (x. Ga 19,23) và vết thương bị lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này chứng tỏ thân xác Chúa Phục Sinh cũng chính là thân xác Người đã từng chịu khổ nạn trước đó.
-C 21-23: +Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em: Việc hiện ra và sai các môn đệ ngay sau khi sống lại, cho thấy mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng của ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin mừng của Hội thánh. Như Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai xuống trần gian, thì giờ đây, sau khi phục sinh và được siêu tôn làm “Chúa” (x. Pl 2,11), được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18), Người lại sai các môn đệ ra đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người (x. Mt 28,19), và làm chứng nhân cho Người (x. Cv 1,8). + Người thở hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần: Xưa khi sáng tạo lòai người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào hình nhân bằng đất sét, để hắn trở thành một người sống động là A-dam (x. St 2,7). Thì nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi Thần Khí để biến đổi các môn đệ nên người mới, đầy ân sủng của Thánh Thần. Tuy nhiên vào lúc này các ông chưa đón nhận được ơn Thánh Thần, vì còn thiếu đức tin. Vì thế Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần và đã dùng nhiều cách để tăng cường đức tin cho các ông. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã phát huy tác động trên các ông (x. Cv 2,1-4). + Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ: Đức Giê-su đã được Gio-an Tẩy giả giới thiệu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Sứ mạng của Người là tẩy xóa tội lỗi loài người bằng việc tha thứ cho những tội nhân thực lòng sám hối và đặt trọn niềm tin nơi Người (x. Lc 23,40-43). Giờ đây các môn đệ cũng được Người trao quyền tha tội nhờ quyền năng Thánh Thần.
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao Chúa Giê-su cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người sau khi sống lại ? 2) Người dã sai các ông đi rao giảng Tin mừng khi nào ? 3) Đức Giê-su đã làm gì để ban Thánh Thần cho các môn đệ ? 4)Các ông đã nhận được ơn Thánh Thần từ khi nào? Nhưng chỉ được Thánh Thần tác động vào lúc nào ? Tại sao ? 5) Chúa Phục Sinh đã ban quyền tha tội và cầm buộc cho các môn đệ qua câu nói nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẦN KHÍ CHÚA BAN ƠN BÌNH AN TRONG TÂM HỒN CÁC TÍN HỮU:
Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua đã ngắm tất cả các bức tranh nhưng cuối cùng ông chỉ thích hai bức mà ông sẽ phải chọn một.
Bức tranh thứ nhất vẽ cảnh một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng bay lơ lửng. Mọi người hiện diện đều đánh giá đây là bức tranh diễn tả sự an bình thật sự.
Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi cao nhưng không cây cối và lởm chởm đầy những tảng đá xám xịt. Bầu trời trên cao đang giận dữ đổ mưa lớn kèm theo sấm chớp sáng lòe. Bên vách núi có một dòng thác đổ nước mưa xuống nổi bọt trắng xóa. Bức tranh xem ra chẳng chút bình an. Nhưng khi đến gần quan sát kỹ, nhà vua nhìn thấy phía sau dòng thác có một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang giang rộng đôi cánh ủ ấp mấy chú chim con. Dù giữa dòng thác đang trút nước ầm ầm mà chim mẹ vẫn ấp ủ bảo về lũ con của mình. Điều này đã diễn tả sự an bình nội tâm thực sự.
Nhà vua đã tuyên bố : “Ta chấm bức tranh này! Vì sự bình an không phải là nơi không có tiếng ồn ào, không gặp khó khăn cực khổ. Bình an tâm hồn chính là : dù đang sống giữa phong ba bão táp, mà người ta vẫn giữ được sự an bình nội tâm.
2) THẦN KHÍ CHÚA ĐỘNG VIÊN CHÚNG TA LÀM VIỆC TỐT:
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
– Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
– Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
– Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
3) THẦN KHÍ CHÚA TÁC ĐỘNG NƠI MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Tê-rê-sa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: “Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta”. Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với nhiệm vụ chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang hấp hối gần chết và bị bỏ rơi trên các hè phố thành Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ mệnh của chị em nữ tu này là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ được chết trong bình an. Về sau mẹ Tê-rê-sa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: “Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây ?”. Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ với sứ mệnh chuyên lo phục vụ cho những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào việc đầu tiên là tìm mướn một căn nhà để làm nơi phục vụ cho họ, đang khi trong túi bà chỉ còn đúng ba đồng bạc Ấn ! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã lan truyền đi khắp các nước trên thế giới. Quả thực, điều này cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa trong Hội Thánh.
4) THẦN KHÍ CHÚA TÁC ĐỘNG TRONG LÒNG CÁC TÍN HỮU CÁCH DIỆU KỲ:
Tại một tỉnh thuộc miền Trung Ấn Độ, một tín hữu Kitô có tên là Sacdu-Sundasi tự nguyện tham gia công tác truyền giáo bằng cách phổ biến sách Tin Mừng. Ngày kia, trên một chuyến xe lửa, anh can đảm lấy ra một số sách Tin Mừng của thánh Gioan đựng trong cặp và trao cho hành khách không phải là Kitô hữu cùng đi trên xe. Một hành khách, thay vì chỉ từ chối không nhận, lại còn giận dữ chộp lấy một quyển Tin Mừng xé nát ra và quăng những mảnh giấy vụn qua cửa sổ. Thiện chí truyền giáo của Sacdu tưởng chừng như tan biến theo gió. Nhưng cũng vào lúc ấy, có một người tình cờ đi dọc theo đường ray, anh ta tò mò cúi xuống nhặt mảnh giấy bị gió cuốn trước mặt, và anh đọc được hàng chữ “Bánh Hằng Sống” được in bằng tiếng địa phương. Tuy không hiểu rõ những chữ trên có ý nghĩa gì nhưng anh cứ giữ lấy mảnh giấy để dò hỏi các bạn quen biết. Một trong bọn họ bảo: Đây là mảnh giấy trong sách đạo Kitô, anh không nên đọc nó nếu không muốn bị ô uế.
Suy nghĩ trong khoảnh khắc, người đã nhặt được mảnh giấy, nói:
– Tôi không sợ bị ô uế, ngược lại, tôi muốn đọc trọn quyển sách mang dòng chữ tuyệt vời này.
Sau đó, anh tìm mua một quyển Tân Ước và được chỉ chỗ của câu trong mảnh giấy lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là Bánh Hằng Sống”. Anh say mê đọc và thấy con tim được chiếu sáng. Rồi sau khi lãnh nhận phép thanh tẩy, chính anh đã trở nên một giáo lý viên.
Người đã ghi lại câu chuyện trên ghi chú: qua Chúa Thánh Thần, mảnh giấy nhỏ đã thực sự trở nên Bánh Hằng Sống cho anh.
- SUY NIỆM:
1) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊ-SU: Về việc đầu thai của Đức Giê-su, trong kinh Tin kính có câu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (x. Lc 1,35). Chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã thụ thai Hài Nhi Giê-su mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin chịu phép Rửa của Gio-an tại sông Gio-đan. Vừa chịu phép Rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện và chịu thử thách cám dỗ. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giê-su đã chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng của Thánh Thần, Người đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Ga-li-lê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Người đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ mạng của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người cũng thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ mạng ấy (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông được quyền tha hay cầm giữ tội của người ta nữa (x. Ga 20,23).
2) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG HỘI THÁNH: Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động để biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm và công khai làm chứng cho Chúa Giê-su trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng và muốn thoái lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối đến xin chịu phép Rửa nhân danh Đức Giê-su (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà Cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47). Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị Chủ chăn để các ngài chu toàn ba sứ vụ được Đức Giê-su trao phó: Một là sứ vụ Ngôn sứ để công bố Lời Chúa. Hai là sứ vụ Tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các bí tích. Ba là sứ vụ Vương đế để chăn dắt và phục vụ Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng Chung mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì đều bất khả ngộ nghĩa là không thể sai lầm, vì luôn được Thần Chân Lý soi dẫn, như trong quyết nghị của Công đồng Giê-ru-sa-lem vào năm 49 có viết: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” (Cv 15,28).
3) THÁNH THÂN TÁC ĐỘNG ÂM THẦM NHƯNG HỮU HIỆU TRONG MỖI TÍN HỮU :
Linh mục Natarinô Rochky, một thừa sai người Italia làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây:
“Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những cuộc thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Phúc Âm, về Giáo hội và về luân lý của đạo công giáo.
Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ đã sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:
– Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.
Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:
Trong những tháng qua, con đã âm thầm quan sát xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thờ mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Phúc Âm, nhưng con muốn xem Cha có sống Phúc Âm thực sự hay không”.
Câu chuyện trên cho thấy Cha Rochky không những đã truyền giảng bằng lời nói, bằng việc giảng dạy giáo lý, nhưng còn bằng chính cuộc sống chứng nhân giữa đời thường nữa!
4. THẢO LUẬN: Mỗi tín hữu hôm nay phải làm gì để được Thánh Thần tác động giống như các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần khi xưa ?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là một người Bạn, người Thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba! Ba ơi !” nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giê-su là “Chúa” khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa Giê-su. Cũng chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.
– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH, xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi âu lo sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ mệnh được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ trần gian.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Bài đọc 1 trích Sách Tông đồ Công vụ hôm nay thuật lại cho chúng ta nghe sự kiện Chúa thánh thần hiện xuống. Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau lễ Vượt qua, lúc đó các Tông đồ đang hội họp trong phòng cầu nguyện bỗng từ trời có tiếng gió thổi mạnh, và có những ngọn lửa hiện xuống, chia ra thành nhiều hình lưỡi đậu trên họ. Quang cảnh thật kỳ lạ, nhưng lập tức mọi người đều nhận thấy ngay đây là việc của Chúa. Qua tiếng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa hiện đến, mọi người cũng nhận biết rằng Chúa muốn chứng tỏ một hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng của Ngài cho các ông.
Mà thực vậy, chúng ta thấy các Tông đồ bỗng dưng sốt mến, nhiệt thành khi nhận được Chúa Thánh Thần như các tiên tri trong những giây phút xuất thần và thiêng liêng nhất. Các Tông đồ lập tức nói được những tiếng lạ, can đảm và bạo dạn ca tụng các kỳ công và việc lạ lùng của Chúa một cách công khai giữa đám đông dân chúng. Thấy sự lạ, người ta kéo nhau lại coi. Không ai đếm được số người bao nhiêu và thuộc những dân nước nào, nhưng vì hôm đó là ngày lễ lớn, các người Do thái đi làm ăn hay sống ở nơi xa cũng về dự lễ. Tác giả sách Tông đồ Công vụ kể tên 12 nơi, từ Đông sang Tây lấy Giuđêa làm chính, có ý ám chỉ rằng, tất cả mọi nơi trên mặt đất này đều được Chúa gọi về để tham dự hồng ân Ngài đã từng hứa ban. Như lời tiên tri Gioel đã tuyên bố từ lâu trong Cựu ước rằng: “Sẽ đến ngày Ta đổ Thần trí Ta trên mọi người; già trẻ trai gái hết thảy sẽ nói tiên tri và tiếng lạ.”
Như vậy, ngày hôm nay, việc đó đã xảy đến. Quả thật Thiên Chúa đang hành động kỳ diệu nơi các Tông đồ. Họ là người Galilêa, thế mà mọi người đang nghe họ nói về Chúa trong thứ ngôn ngữ của mình. Rõ ràng Chúa muốn dùng họ để đoàn tụ muôn dân lại trong một niềm tin, khác với cảnh xây tháp Babel ngày xưa, anh em một nhà mà bỗng dưng nói tiếng xa lạ không còn hiểu nhau nữa. Gia đình nhân loại từ ngày đó đã bị phân rẽ và chia rẽ, kình địch nhau vì họ kiêu căng, tự cao muốn chống lại Chúa. Hôm nay các Tông đồ, những con người Galilêa yếu kém, đã được Chúa Thánh Thần biến đổi, tràn đầy lòng yêu mến Chúa, đang nhiệt tâm ca tụng và nói lên những lời sốt sắng về niềm tin của họ vào Chúa Ki-tô để đoàn tụ muôn dân lại trong một cộng đoàn dân Chúa.
Các Tông đồ cũng hiểu rõ ý nghĩa của những ngọn lửa xuất hiện trên đầu các ông. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng lửa để báo hiệu việc Chúa hiện diện và dẫn dắt dân đi trong u tối và để thánh hóa chấp nhận các lễ vật. Các lưỡi lửa hôm nay cũng nói lên việc Chúa hiện diện, thánh hoá, soi sáng, khích lệ cộng đoàn Tông đồ của các ông. Vì thế các Tông đồ xác tín vào Chúa hơn để can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Chúa. Thế nhưng cùng với việc các Tông đồ nói được tiếng lạ và hình lưỡi lửa hôm nay còn làm chứng cho sự kiện Chúa Thánh Thần muốn đặt vào lòng Giáo hội sơ khai bản tính can đảm, sốt sắng và nhiệt thành để biến cả thế giới nên một gia đình đầy bác aí yêu thương.
Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mà chúng ta mừng hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta sống lại tất cả ý nghĩa của ngày lễ Chúa Thánh Thần, để chúng ta thấy sự lạ lùng cả thể của ngày lễ, và nhất là để chúng ta đem tất cả những ý nghĩa và sự lạ lùng đó vào đời sống đạo, đời sống đức tin của chúng ta. Như các Tông đồ của Chúa trong ngày lễ Hiện xuống được tràn đầy Thánh Thần can đảm làm chứng nói lên niềm tin đoàn tụ muôn dân lại thế nào, thì hôm nay chúng ta cũng phải trở thành những con người thu hút người ta về với Chúa, và hiệp nhất với nhau thành một gia đình cộng đoàn giáo xứ và Giáo hội. Người khác sẽ nhận ra và tin vào Chúa Ki-tô Phúc sinh nhờ thái độ sống đạo sốt sắng và nhiệt thành, nhờ lòng xác tín, và nhờ lòng can đảm trung thành sống Lời Chúa, trở thành những nhân chứng của Chúa Ki-tô của chúng ta.
Bởi vì hôm nay, trên thế giới và trong xã hội này, còn nhiều sự thù hằn, tranh chấp, đàn áp, khủng bố cũng như hiểm họa chiến tranh và sự dữ như những vụ tàn sát học sinh trong các trường học như tại tiểu bang Texas mấy ngày vừa qua, ngoài ra chúng ta còn thấy những gia đình vợ chồng không hòa thuận, tan nát, chia rẽ, có những người vì bị vật chất lôi cuốn bỏ niềm tin, sống thờ ơ và xa Chúa, và nhiều người sống trong sự lo âu, sợ hãi vì nhiều lý do, Thiên Chúa cũng vẫn đang còn muốn ban Thánh Thần Người cho những ai cầu xin. Và Chúa Thánh Thần muốn tiếp tục hoạt động trong các cộng đoàn, trong mỗi Kitô hữu như ngày trước, để đem bình an, sự an ủi và hy vọng đến cho người khác.
Ðặc biệt trong Thánh lễ này, Thiên Chúa đang muốn đổ Chúa Thánh Thần xuống để biến đổi và thánh hóa, ban cho chúng ta những người đang sum họp nơi đây ơn can đảm và sốt mến, để chúng ta biết hy sinh, sống bác ái và quảng đại cộng tác với Chúa đem tình yêu và ơn cứu độ đến cho mọi người.
Chúng ta cùng hướng lòng và dâng lên với Chúa lời cảm tạ, tri ân vì những việc lạ lùng Chúa đã làm cho chúng ta. Nhất là Thánh Thể mà chúng ta sắp chịu lấy, là Mình Máu Thánh Chúa, là sự sống mạnh mẽ đầy yêu thương tuôn trào ra từ Thân Thể Chúa, để ai lãnh nhận, chính họ sẽ không sống nữa, nhưng là chính Chúa và Thánh Thần của Người sống ở trong họ.
Chúng ta xác tín khi ra về tùy theo phận sự và công việc, nếu chúng ta tiếp tục để cho Chúa sống ở trong chúng ta, thì như lời Thánh thư hôm nay nói, chính Chúa Thánh Thần tác động, làm việc và hành động ở trong mọi người chúng ta. Và như vậy, một Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn công việc của mọi người chúng ta, tuy nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng cũng là những sự thúc đẩy người khác quy tụ lại trong cùng một gia đình yêu thương của Chúa Ki-tô. Đồng thời cũng làm cho các sự lầm lạc tối tăm, chia rẽ hận thù, tranh chấp khủng bố, tàn sát và giết người dần dần bị loại ra.
Chúng ta nhận biết vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu và trong Giáo hội, vì vậy một Thượng phụ đã không ngần ngại quả quyết rằng: “Không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ ở xa. Đức Ki-tô bị khép lại ở trong quá khứ. Tin mừng chỉ là những dòng chữ chết. Hội thánh sẽ chỉ là một tổ chức bình thường. Công việc truyền giáo sẽ trở thành một việc tuyên truyền không hơn không kém. Rồi việc cầu nguyện, thờ phượng chỉ còn là một thứ tưởng niệm, và những sinh hoạt Ki-tô giáo sẽ chỉ là một thứ đạo đức nô lệ và hình thức.”
Xin Chúa Thánh Thần luôn luôn ngự trong tâm hồn và thúc đẩy chúng ta hành động vì yêu thương và cho yêu thương, để chúng ta được sống bình an, ơn sủng và hạnh phúc đời này và đời sau trong vinh quang Nước Chúa.
.