LỄ CHÚA KITÔ VUA_C
Lời Chúa: 2Sm 5, 1-3; Cl. 1, 12-20; Lc. 23, 35-43
——-
- Ở Thiên Đàng Với Ta(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Vua Giêsu (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Vương quốc vĩnh cửu (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Xin Vua Tình Yêu nhớ đến tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
- Vua không như mong đợi (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
- Vua các Vua (Lm. Giuse Trần việt Hùng)
- Chọn vua nào? (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
- Tình yêu có sức biến đổi (Sr. Anna Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)
- Lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Vị Vua cuộc đời (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
- Giêsu Vua Tình Yêu (Maria Kiều, MTG.Thủ Đức)
- Giêsu, Vua Tình Yêu (Maria Vũ Linh, MTG.Thủ Đức)
- Chúa Giêsu, Vua yêu thương (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
- Đức Giêsu Vua, Người tôi tớ Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
- Đấng Kitô của Thiên Chúa (Lm. Louis G. Đặng Quang Tiến)
- Chúa Kitô, vua nhân từ (Lm. Minh Vận, CRM)
- Người trộm lành (Lm. Thu Băng, CRM)
- Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
- Vua tình yêu (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
- Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ (Lm. Trần Đình Nhi)
- Đức Giêsu Vua Tình Yêu (Lm. Nguyễn Hồng Giáo)
- Chấp nhận vương quyền của Chúa (Lm. Trần Bình Trọng)
- Vua an bình, yêu thương và phục vụ (Lm. Bùi Mạnh Tín)
- Nếu ông là vua (Lm. Âu Quốc Thanh)
- Khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi (Lm. Bùi Thượng Lưu)
- Xin nhớ đến tôi (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
- Vua công lý (Trầm Thiên Thu)
- Vị vua trên thập giá (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
- Cơn cám dỗ cuối cùng (Thiên Phúc)
- Quyền năng tối thượng (JM. Lam Thy, ĐVD)
- Alpha & Omega (P.Trần Đình Phan Tiến)
- Giêsu – Vua Tình Yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
- Chúa Kitô vua vũ trụ (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
- Vua phục vụ (Lm. Vũ Đình Tường)
- Vua tình yêu. (Lm. Jos Hoàng Mạnh Hùng)
- Dân vi quý (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
- Vua Giê-su trên thập giá (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa – Lễ Chúa Kitô Vua (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Lời hứa cứu độ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Chúa Kitô Vua (Gm. Giuse Vũ Duy Thống, Gp. Phan Thiết
3. Vương quốc Đức Kitô (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
4. Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Vị vua bị đóng đinh (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Người công dân đầu tiên trong vương quốc Vua Kitô (Lm. Gioan Nguyễn Ty, SDB)
7. Đây là Vua người Do Thái (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
8. Vinh quang và đau khổ (Trầm Thiên Thu)
9. Đức Vua quyền lực nhất (AM. Trần Bình An)
10. Đức Giê-su, Vua Tình yêu (Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ)
11. Vâng phục đến hơi thở cuối cùng (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
12. Những điều lạ lùng (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
13. Vương Quốc Giê-su (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
14. Vua Thương Xót (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
15. Vua “Ngược Đời” (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
16. Vua chân lý (JM. Lam Thy, ĐVD)
17. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
18. Vua Giêsu: vị mục tử nhân ái (Lm. Đan Vinh)
19. Chúa Nhật lễ Chúa Kitô Vua_C (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
.
Ở THIÊN ĐÀNG VỚI TA
Tuần 34-C. Đức Kitô Vua. Lc 23, 35-43
Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
Ngụ ngôn 2 con gà trống, ít nhiều gì cũng đọng lại trong chúng ta một chút suy tư về sự đời. Hai chú gà con được gà mẹ chăm sóc chu đáo, rồi khi lớn lên, chúng trở thành hai con gà trống rất to đẹp. Chúng hay cãi nhau, con nào cũng tự cho là mình đẹp, oai phong, có quyền làm vua của nông trại. Một hôm, chúng cãi nhau, gà mẹ can ngăn không được, chúng quyết chiến với nhau, chúng tuyên bố, nếu ai thắng sẽ làm chủ, làm vua của nông trại này. Cuối cùng thì cuộc chiến cũng có thắng kẻ thua. Con gà thắng trận liền bay lên đống rơm cất tiếng gáy vang trời, nào ngờ tiếng gáy của chú gà, đã khiến con đại bàng từ xa tìm đến vồ luôn chú gà thắng trận mang đi. Trong khi đó chú gà bại trận đang năm thoi thóp nửa sống nửa chết ! Bài học mà tiền nhân chúng ta nhắc nhớ: nơi đâu có tranh chấp, sự chết liền xuất hiện; nơi đâu có tình yêu, đó mới thực sự là tổ quốc, là quê hương.
Yêu và ghét, vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, thành công hay thất bại, từ xa xưa vẫn là cơ hội dẫn người ta tới một chân lý ở phía trước. Tình yêu đâu phải vì tiền, tình yêu đâu phải ngẫu nhiên mà thành, tình yêu đâu phải tranh giành, tình yêu là phải chân thành thuỷ chung. Ở đời có hai thứ không thể giấu được ai, đó là đang say và đang yêu. Có hai thứ cần, là được yêu và được tự do. Cổ nhân cũng nói: ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên. Ý tưởng và suy tư mỗi người mỗi khác, điều đó vừa làm phong phú sứ mạng, vừa nói lên sự giới hạn của mình, bạn có thể khuyên bảo nhau, nhưng không thể bắt ai làm việc thiện. Các môn đệ tin Đức Giêsu, rất mong được thấy Chúa thực hiện quyền phép để thắng kẻ thù, số đông khác còn mong muốn Đức Giêsu làm vua để khôi phục đất nước, …
Vâng, trở nên môn đệ, làm thần dân của Thầy Giêsu, xem ra có vẻ mơ hồ, bởi hiện tại là đau khổ thập giá, vị Thầy vĩ đại lúc này đang quằn quại như số phận của tử tội mà thôi ! Đức Giêsu chịu treo trên thập giá không phải say rượu, có chăng là say tình, say tới độ mê muội, dù người ta chế giễu, nhục mạ, Ngài vẫn im lặng, khó hiểu … Tiếng la hét, nhạo cười, quá khủng khiếp, đáng sợ: “nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Cả đời hai tên trộm làm điều phi pháp cũng lên tiếng: “nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” ! Được yêu, được tự do là quyết định hết sức ý nghĩa của anh trộm lành: ông này là Vua dân do-thái, tin ông Giêsu là Vua, cảm nhận được ánh mắt nhân từ của Vua Giêsu, và anh ta đã biết phải làm gì để là thần dân của Giêsu …
Hôm nay đây, “anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”, anh sẽ cảm nhận đau khổ trần gian và hạnh phúc nước trời thật đặc biệt. Hôm nay đây, anh sẽ rõ ràng hơn vua chúa trần gian, không thể so sánh với Vua Giêsu, còn gọi là Vua Tình Yêu, thật đáng tự hào khi được gọi là con Vua Trời. Qua anh trộm lành, có phải Vua Giêsu còn muốn nói cho thiên hạ: nghịch cảnh không phải là để ngăn cản, nhưng là để vượt qua. Một thật bại, có thể trở thành cơ hội vàng, khi ta nắm bắt và xoay chuyển chúng ? Ở trên thiên đàng với Ta, muốn làm thần dân của Ta, các thủ lãnh và đám đông dân chúng hôm đó, đều có thể. Thực ra, tin và yêu không phải là rung động, không phải là ái mộ, càng không phải là động chân động tay, mà phải là hiểu. Hai anh trộm bên tả bên hữu Đức Giêsu đều là kẻ xấu, là tội đồ, nhưng đối diện với giờ sau hết, một anh đã tận dụng được cơ hội để tin, để yêu, và rồi để hiểu, anh ta đã thống hối ăn năn thật sự.
Ở trên thiên đàng với Ta, ở trong vương quốc của Ta, lời vị Vua tình yêu đang chịu treo trên thập giá, sẽ mãi mãi là “mầu nhiệm” đối với những ai cứng lòng, thiếu niềm tin yêu. Người giỏi chiến đấu, không bao giờ trách móc tướng sĩ, mà sẽ tập trung vào thế cuộc. (Tôn Tử). Vua Giêsu, Vua tình yêu, ở đâu, hoàn cảnh nào, thời đại nào, Ngài vẫn là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. “Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu ?”. Qua anh trộm lành, Vua Giêsu rất muốn chuyển tải nhiều thông điệp đến người cùng thời và hậu thế: ai cũng có cơ hội để tuyên xưng niềm tin yêu. Ai cũng phải biết mình, hiểu mình: sống đừng giả bộ, yêu đừng lệ thuộc, nghe đừng bào chữa, nói đừng xúc phạm. Cơ hội sẽ tan biến, đáng sợ nhất là vào một ngày bạn tỉnh táo, bạn nhận ra mình không có ai bên cạnh, không có gì để chờ đợi, để hy vọng !
Ở trên thiên đàng với Ta, không chỉ là lời khích lệ, là phần thưởng cho anh trộm lành, nhưng còn là lời tuyên dương niềm tin yêu, mà Vua Giêsu đã nói với nhân thế: “Ta bảo thật ngươi”, … ngay hôm nay và lúc này, ngươi thực sự là thần dân của Ta. Dù không đo được cảm giác của anh trộm lành, không phân tích được tốc độ của niềm tin mà anh ta đạt được, không hiểu hết hết tài trí mà anh ta đã vận dụng, để rồi anh có được Nước Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đang là thần dân của Vua Giêsu, nhưng đó mới là một nửa niềm vui, một nửa niềm tin yêu một cách tự do như anh trộm lành. Cái chân lý mà tới “phút 99” người trộm lành đã phát hiện, đã gặp và đã có, đó là TIN, là tuyên xưng NIỀM TIN: Đức Giêsu chính là VUA TÌNH YÊU, là Thiên Chúa cứu độ. Mỗi chúng ta hôm nay, ai cũng có cơ hội để cảm nhận: ở trên thiên đàng với Ta. Amen.
.
VUA GIÊSU
Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức
Có người nào cho đến những giây phút cuối đời lại phải hứng chịu những cười nhạo, chế giễu, nhục mạ như vua Giêsu? Từ trên thánh giá, vua Giêsu hoàn toàn thinh lặng trước những lời nói xúc phạm của những kẻ đang nhục mạ, cười nhạo và đang thách thức mình. Người chỉ lên tiếng đáp lại lời cầu xin tha thiết của một người tử tù- người duy nhất đã dám lên tiếng bênh vực Người. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng” (Lc 23, 43). Người hứa ban cho anh phần thưởng tuyệt vời dành cho những ai biết thương xót thì sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Vua Giêsu đã dành cả cuộc đời của mình để sống và rao giảng về vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa là tình yêu. Con đường cứu độ của Người được thực hiện bằng việc hiến dâng cho Thiên Chúa Cha tình yêu tự hiến. Thiết nghĩ, vương quyền của vua Giêsu chính là tình yêu. Người cai trị vũ trụ này với tình yêu khôn dò khôn thấu, Người đã sống cho tình yêu và là chính tình yêu. Những ai muốn trở thành công dân của vương quốc Giêsu thì nhất thiết phải đạt tiêu chuẩn này: biết sống yêu thương. Trước mặt tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Vậy thì Nước của Chúa ở đâu? Lời hứa của Chúa Giêsu dành cho người gian phi đã lên tiếng bênh vực Người cho ta câu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng”. Thiên Đàng là nơi không còn đau khổ, chỉ còn vui sống hạnh phúc khi được ở với Đức Kitô.
Nếu trên trần gian này ta biết sống yêu thương thì chắc chắn ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào Nước của Người. Chính Người đã hứa ban phần thưởng cho những ai yêu mến Người. Dân chúng thì “khoanh tay đứng nhìn”, các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo người tử tù Giêsu, cách lính tráng chế giễu Người, một trong hai người tử tù đã nhục mạ Người. Những hành vi này đều cảnh tỉnh ta về thái độ và cách ta hành xử với những người khác. Đứng trước một người bị kết tội, ta có tỏ lòng thương xót họ hay ta cũng tự cho mình có quyền giết chết người khác bằng lời nói. Vũ khí giết chết thân xác nhưng lời nói đầy bạo lực và thái độ khinh chê của ta sẽ giết chết tinh thần của người khác. Ta có nhận ra khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh nơi khuôn mặt đầy thương tích của họ không? Rất dễ để buông một lời than trách, nguyền rủa người khác nhưng lại rất khó để trao ban một lời nói tử tế, tôn trọng người khác, nhất là dành sự quan tâm và yêu thương cho những người bị xem là tội lỗi cách công khai. Hành động đầy can đảm của người tử tội đã bênh vực Chúa Giêsu thôi thúc ta cũng hãy biết kính sợ Thiên Chúa, chê ghét tội lỗi nhưng yêu thương những tội nhân; đừng chỉ nhìn về quá khứ của họ nhưng hãy sống trong giây phút hiện tại, giúp họ mở ra cánh cửa tương lai tốt đẹp hơn. Có lẽ, không có điều gì dễ hơn việc kết án một người bằng một trái tim vô cảm. Chỉ có tình yêu mới sáng tạo và đem lại sự sống mới.
Là công dân của Nước Chúa, ta hãy noi gương vua Giêsu, sống yêu thương mọi người anh chị em chung quanh, học cách tha thứ và quảng đại, trước là đối với mình, sau là với người khác. Khi yêu thương bản thân đúng cách, người ta sẽ biết cách để yêu thương người khác. Khi ta biết yêu thương như Chúa, ta sẽ trở nên giống Chúa, và ta cũng sẽ có được một nguồn năng lực nơi mình phát ra chữa lành hết mọi người- năng lực ấy không phải do chính bản thân ta nhưng là chính Chúa. Một người yêu mến Chúa thực sự thì cũng yêu thương anh chị em mình. Như lời thánh Gioan đã khẳng định: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,21).
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Vua là người đứng đầu một vương quốc, là người có quyền lực trong mọi lãnh vực và được người ta tôn sùng. Tuy vậy, lịch sử cũng chứng kiến có những vị vua bị lật đổ vì nhiều lý do. Có thể do chính bản thân vị vua thiếu tài thiếu đức, nhưng cũng có thể do thay đổi chế độ, những người “chiến thắng” muốn phế bỏ một hệ thống chính trị mà họ coi như lỗi thời.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, cũng không giống một vị vua được phong vương sau khi đã chiễm lĩnh một vùng lãnh thổ. Chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Khi nghe nói đến Đức Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”, nhiều người trong chúng ta cũng liên tưởng ngay đến những vị vua mặc hoàng bào, ngồi trên ngai, có triều thần hầu cận với biết bao cung nữ cung phụng. Trong khi đó, Phụng vụ lại giới thiệu cho chúng ta một vị vua hoàn toàn khác: bị đánh bầm dập đến nỗi người thân không nhận ra, trần trụi không một mảnh vải che thân và bị hành hình treo trên thập giá. Thập giá là một hình khổ làm cho người bị xử vừa đau đớn vừa nhục nhã. Vị vua Giêsu không có lễ phong vương huy hoàng. Vị vua ấy đã tự nguyện hy sinh, bị hạ xuống tận cùng cùng nhuốc nhơ đau khổ. Chính trong hoàn cảnh này, Người được tôn làm người đứng đầu một vương quốc, mà người tôn vinh ấy là một người trộm cũng bị kết án tử hình và bị thi hành án cùng với Người: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Qua lời cầu xin này, người kẻ trộm nhận ra vương quyền và vương quốc của Chúa. Xuyên qua một con người bị hành hình, anh ta nhận ra Người là Vua, là chủ một vương quốc và có quyền năng đón nhận những công dân mới vào vương quốc đó. Trong khi các thủ lãnh và một số người Do Thái muốn phế bỏ Đức Giêsu, vì họ coi Người như một tên phản loạn nhìn theo khía cạnh tôn giáo cũng như xã hội, thì một người trộm cùng hoàn cảnh với Người lại nhận ra Người là Vua. Cũng thế, trải dài suốt bề dày của lịch sử, có những người khôn ngoan uyên bác phủ nhận giáo huấn và vương quyền của Chúa Giêsu, thì có tầng tầng lớp lớp những người bé mọn và khiêm nhường lại tôn nhận Người là Vua và là lý tưởng của cuộc đời, và nhờ đó họ tìm thấy sự bình an hạnh phúc. Hãy nhìn hai người trộm cùng bị hành hình với Chúa Giêsu: một người tôn nhận vương quyền của Chúa; người kia lại phủ nhận quyền năng của Người. Nói như thế không có nghĩa là trong số những người tôn nhận Vương quyền của Đức Giêsu chỉ những người bình dân thất học. Không phải vậy, có rất nhiều nhà khoa học, những học giả trong nhiều lãnh vực khác nhau đã “nhìn thấy Thiên Chúa” qua những công trình nghiên cứu, và họ đã trở nên những tín hữu đạo đức, thánh thiện.
Vị Vua Giêsu hạ mình sâu thẳm đến mức “hủy mình ra không” để cứu vớt những con người đắm chìm trong tội lỗi. Người chuốc lấy đau khổ của nhân loại để nhân loại được hạnh phúc. Người mang lấy tội lỗi nhân gian để nhân gian được tha thứ. Đó chính là nét đặc thù làm cho vị Vua Giêsu hoàn toàn khác với các vua chúa trần gian. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tuyên bố điều ấy. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu khẳng định Người là Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Mặc dù có bị đánh bầm dập, trần trụi, đau khổ, Người vẫn là Thiên Chúa và vẫn có quyền chấp nhận một người, dù nhiều tội lỗi, trở thành công dân của vương quốc vĩnh cửu.
Thiên Chúa là Đấng vô hình. Con người không thể thấy Ngài. Tuy vậy, qua Đức Giêsu, con người có thể nhận ra khuôn mặt bao dung và đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta: “Thánh Tử (Đức Giêsu) là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”. Qua Đức Giêsu, con người có thể “chạm tới” tình thương Thiên Chúa và nhận ra Ngài đang hiện diện.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Chúa Giêsu không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Tạ ơn Chúa cho chúng ta trở nên công dân của Vương quốc vĩnh cửu, qua Bí tích Thanh tẩy. Xin cho chúng ta biết trân trọng danh hiệu cao quý ấy, đồng thời cố gắng rập khuôn đời mình theo gương Vua Giêsu, để cùng chung hưởng vinh quang với Người, như lời Người đã hứa với người trộm lành năm xưa.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ở thời nào con người cũng đề cao tình yêu, nhưng tìm được một tình yêu tinh ròng không lợi dụng, không ích kỷ mà chỉ biết yêu và hy sinh cho người mình yêu là điều rất khó. Đây chính là tình yêu cao thượng. Không giống như tình yêu lãng mạn, tình yêu cao thượng có nghĩa là cho người yêu của mình những gì mà người yêu cần mà không kỳ vọng nhận được bất cứ một điều gì đáp lại. Tình yêu cao thượng cũng hiện hữu trong các mối quan hệ khác của con người, không phải chỉ có trong tình yêu đôi lứa.
Nhưng liệu trong đời này còn có tình yêu dám chấp nhận thiệt thòi và sẵn sàng tha thứ? Hi sinh vì người khác mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì? Dường như trong cuộc sống ngày nay, rất khó để chúng ta tìm thấy một người sống dám sống mình vì mọi người. Hình như cách sống cao thượng quá khó với con người ngày nay?
Cách đây hơn 2000 năm người tử tội bên hữu Chúa đã nhận ra một tình yêu tinh ròng ấy. Chúng ta hãy hình dung khung cảnh đồi sọ vào giờ tử nạn của Chúa Giêsu quả thực u ám. Đám đông dân chúng từng được Chúa ban ân huệ ăn bánh của Người, thế mà hôm nay, đang hùa theo các thủ lãnh và quân lính cười nhạo và chế giễu Chúa: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Bên cạnh thập giá Chúa cũng có hai người trộm cướp bị đóng đinh. Một trong hai kẻ tử tội sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô hãy tự cứu Ông và cứu chúng tôi nữa.”
Nhưng chính vào giây phút tăm tối ấy, một ánh sáng vừa lóe lên. Một người tử tội bên phải thưa với Chúa: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi, ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với ta.”
Qua đây, Chúa Giêsu đã mạc khải cho người trộm lành, cho toàn thể dân chúng, quân lính, các thủ lãnh và toàn dân Isarel đang đứng dưới thập giá: Người là vua nhân hiền, đầy tình thương xót và tha thứ. Nước Người là Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Thần dân của Ngài là tất cả những tâm hồn thành tâm thiện chí, biết mở rộng lòng đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Cờ hiệu của Ngài là thập giá đưa đến vinh quang. Hiến pháp của nước Thiên Chúa là giới luật yêu thương: yêu Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn và yêu thương và anh em đồng loại như chính mình.
Tai sao giữa lúc tối tăm đó, người trộm lành lại can đảm thốt lên điều đó? Giữa lúc mà mọi người đã bỏ Chúa, giữa lúc mà mọi người đang nhục mạ Chúa, mà người trộm lành lên tôn vinh Chúa? Vâng, anh đã tôn vinh Chúa không phải vì Chúa đã thành công theo lối nhìn ở đời mà quan yếu là anh đã cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho nhân thế.
Ngay trên khổ giá của mình, anh thấy trong bao lời trách mắng về Ngài với những câu như : “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá”. Nhưng những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42).
Vâng, chính Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Một vị vua không đăng quang trên ngai vàng mà trên cây thập giá. Một biểu tượng cho tình yêu tự hiến chết cho người mình yêu. Một biểu tượng cho tình yêu bao dung dành tình yêu cho cả kẻ làm hại mình.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế. Hành trình nào cũng có khó khăn, đôi khi cả vấp ngã, nhưng hãy tin tưởng và cầu xin Vua tình yêu nhớ đến chúng ta ngay bây giờ và trong vương quốc của Ngài.
Xin Vua Tình yêu thống lĩnh gia đình và từng người chúng con trong vương quốc của Ngài để nhờ đó chúng con luôn được che chở bình an trong sự quan phòng đầy tình yêu của Chúa. Amen
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Rất nhiều những khát mong Chúa làm vua, xin Người giải quyết mọi khó khăn, bức xúc, bất công, độc tài và nhiều chuyện khác liên quan đến an sinh, trật tự thế giới. Mong ước về một vị vua đầy toàn năng, toàn trị thế giới này, vẫn là câu trả lời của Chúa im lặng trên thập giá. Vị Vua không như các vị vua trần gian khác.
Thất vọng nếu chỉ dừng ở thập giá.
Khát mong chỉ dừng lại ở thập giá, con người sẽ thất vọng về những mong chờ của mình về một Thiên Chúa toàn năng. Người ta sẽ chẳng bao giờ giải thích được Một Thiên Chúa toàn năng sao lại là con người tử tội? Một Thiên Chúa toàn trị trên địa cầu mà lại chịu chết dưới tay quan quyền thế gian?.
Chúa Giê su là Đấng Messia, đầy quyền năng, đầy tràn sức mạnh, có thể thống trị toàn cõi địa cầu, giải thoát các dân tộc bị toàn trị, bất công, đói kém triền miên, xung đột lợi ích. Đem lại sự thịnh vượng, giải quyết cho những vấn đề khó khăn kinh tế. Một vị vua thay thế các vua quan trên trần gian.
Thật thất vọng cho mọi khát vọng của những người xem Chúa như vị vua trần gian, can thiệp vào chính trị, trả lại nền độc lập tự trị cho Israel. Hoặc như cách nghĩ về vương quyền, như xưa Mẹ con Zêbêdê, xin cho con ngồi bên tả bên hữu (Mt 20, 20 -28). Một số bỏ ra đi khi nghe (Ga, 6, 66) về diễn từ “Bánh Hằng Sống”. Không như kỳ vọng của mọi người, ngay ở toà án Philatô, khi quyết định tha Baraba hay Chúa Giêsu, Người đã bị liệt vào hàng trộm cướp, họ đã xin tha Baraba (Mt 27, 20) và đòi đóng đinh Chúa.
Không như những mong ước của nhiều người, Chúa xuống khỏi thập giá để họ có thể tin, họ đã bỏ ra đi. Có vẻ như họ đã thất vọng về một người uy quyền, toàn năng mà chẳng thể hiện gì trên thập giá, cứ im lặng mà chịu chết. Thật thất vọng!
Mầu nhiệm thập giá thật không hiểu, nếu chỉ dừng lại ở cái chết theo cách nghĩ con người.
Vua các vua
Trở lại vinh tụng ca của Thánh Phaolô nói về việc Thiên Chúa Cha siêu tôn Chúa Con, nhờ sự vâng phục của Người (Pl 2, 6 – 11). Nếu muốn hiểu biết về ý nghĩa của thập giá cần có lòng khiêm hạ lắng nghe cách Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu.
Là Vua, Chúa Giêsu tự hiến tế chính mình để thánh hiến mọi người (Ga 17, 19).
Là Vua, Chúa Giêsu trở nên người phục vụ sự sống cho con người: “Vì chưng Con Người không đến để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ, và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mc 10, 45).
Là Vua không ngai: “Chồn có hang, chim trời có tổ, chứ Con người không có chỗ ngả đầu” (Lc 9, 58).
Là Vua mang lại sự sống đời đời nhờ sự Phục sinh của Người. Muốn hiểu về vương quyền của Chúa, cần đón nhận mầu nhiệm Phục Sinh, nghĩa là từ bỏ tội lỗi, sống đời sống mới trong Chúa.
Sau cùng, Chúa là Vua Tình yêu tuyệt đối, yêu thương con người không điều kiện, chỉ vì tình yêu. Dù con người đáp lại, không thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự, cũng hãy yêu mến Chúa với tất cả sự yếu kém của mình. Một tình yêu thiếu sót dâng trao tình yêu vô biên, xin được biến đổi trong Người.
Chúa là vua, xin Người làm chủ cõi lòng chúng con, cho chúng con hằng khao khát Người trong mọi hoàn cảnh.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Treo thân thánh giá đớn đau,
Nhiều người cười nhạo, hãy mau thoát rời.
Họ còn thách thức nhiều lời,
Ác tâm phản bội, tạo khơi mối thù.
Hùa theo thủ lãnh đui mù,
Giấm chua thay nước, dập trù tấm thân.
Mạo danh chế diễu ngu đần,
Tuyên xưng danh thánh, thế trần gian manh.
Trả thù bản án đóng đanh,
Tâu vua Do-thái, chính danh của Người.
Xếp hàng trộm cướp nhạo cười,
Đóng đinh xỉ nhục, đồng thời khinh khi.
Tỏ lòng thương xót từ bi,
Một anh kẻ trộm, thực thi giao hòa.
Cả đời làm ác phai nhòa,
Nài xin sám hối, trước tòa thứ tha.
Thiên đàng rộng mở bao la,
Chúa tha tất cả, ác tà xóa tan.
Hôm nay hưởng phúc thiên nhan,
Vua trời chiến thắng, vẻ vang muôn đời.
Các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu rằng: Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi. Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá trần trụi mà chúng lại tuyện xưng là Vua. Bảng viết treo trên cây thánh giá: Người này là Vua dân Do Thái, được nhà cầm quyền Rôma ấn định và không thể thay đổi. Tước hiệu quân vương của Chúa Kitô được chính quyền Rôma thừa nhận cách hy hữu trong bản án. Trong khi đó, dưới chân thập giá, đám đông tò mò nhìn xem quân lính nhạo cười Chúa.
Người ta gọi Ngài là Vua dân Do Thái, nhưng chỉ để nhạo báng Ngài. Lúc bị xét xử và kết án như một tên tử tội, bọn lính đặt Chúa ngồi trên ghế và khoác cho Chúa áo choàng đỏ, đội lên đầu một mão gai như Vương miện và bắt cầm cây gậy như cây Phủ việt, rồi qùy gối chế nhạo: Tâu Vua dân Do Thái. Họ đâu có biết họ đang bái lạy Vua cả trời đất, Vua các Vua. Chúa Giêsu là vị Vua có ngai vàng là chính cây Thập giá và lễ phong vương với bảng viết danh hiệu INRI. Chúa Giêsu là vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian. Vương quốc của Chúa là vương quốc tình thương và hy vọng.
Chúa kết thúc cuộc sống trần gian trên thánh giá. Các đối thủ nhục mạ và đóng đinh Chúa giữa hai tên trộm và nói rằng hắn xưng mình là Vua, nhưng chỉ là vua bịp đáng chết như tên gian phi. Họ hoàn toàn không biết Chúa Giêsu là ai. Họ đã xúc phạm đến Chúa cách tồi tệ. Chúa im lặng cam chịu mọi khổ nhục để hoàn tất hy tế dâng Chúa Cha để đền tội cho nhân loại.
Chính trên thập giá, vương quyền Chúa đã thắng tâm hồn con người. Một trong hai tên trộm đã thưa rằng: Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhờ đến tôi. Anh trộm đã cảm thông với Chúa. Anh đã nhận ra quyền năng và tin vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã chấp nhận anh như người đầu tiên bước vào Nước của Chúa: Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta. Anh đã được giải thoát. Anh đã đi đường tắt vào cửa thiên đàng.
Vua Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua của tâm hồn. Chúa yêu thương mọi người như người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa đã yêu thương và tha thứ tất cả những người đã xúc phạm đến Chúa. Trên thánh giá, Chúa đã xin Chúa Cha tha tội cho họ vì họ lầm chẳng biết. Chúng ta nài xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta, vì chúng ta cố tình phạm tội làm mất lòng Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Ngày hôm ấy, toàn thể nhân loại được tập họp lại trước ngai tòa của hai vị vua đầy quyền thế: Một bên là vua Tiền, còn được gọi là thần Tài, đang chễm chệ trên ngai cao nạm ngọc dát vàng hết sức lộng lẫy; còn bên kia là vua Giê-su, cũng được gọi là vua Tình Yêu, đang bị treo thân trên thập giá, trên đầu Ngài có tấm biển ghi rõ danh hiệu của Ngài, đó là dòng chữ INRI, nghĩa là Giê-su Nadaret Vua Israel.
Mọi ánh mắt ngưỡng mộ đều đổ dồn về vua Tiền, tức thần Tài đang uy nghi trên ngai vàng lộng lẫy mà ít ai hướng nhìn về vua Giê-su đang bị treo trên thập giá.
Thế rồi, thời khắc chọn lựa bắt đầu. Mọi người chuẩn bị. Vua Giê-su lên tiếng mời gọi trước:
“Ta là vua Tình Yêu. Ai theo Ta thì hãy yêu thương người khác như chính mình và hãy hy sinh phục vụ mọi người như Ta đã nêu gương. Người đó sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.”
Tất cả chìm vào trong yên lặng nặng nề, không ai nhúc nhích. Sau chừng 10 phút chờ đợi, có một ít người rời khỏi đám đông tiến về thập giá để theo vua Giê-su.
Đến lượt vua Tiền, ông ta huênh hoang mời gọi, dõng dạc và đầy tự tin:
“Ta là vua Tiền, là thần Tài đây! Ai theo ta thì ngay ở đời này, sẽ được giàu sang phú quý và được vui hưởng lạc thú trần gian!”
Tiếng vua Tiền vừa dứt, cả đám đông xôn xao náo động, hối hả đua nhau chạy đến với ông ta.
Thế là trong cuộc tranh đua mời gọi thần dân về với mình, vua Tiền thắng lớn, còn vua Giê-su xem ra thất bại nặng nề.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn xem chính sách, đường lối của hai vị vua này ra sao.
Vua Tiền hô hào, thúc giục thần dân làm gì ?
Đây là bản tuyên ngôn của ông ta:
– Mọi người phải tôn vua Tiền lên ngôi cao, phải xem “tiền là tiên, là phật”, xem tiền là thần, là thánh, là thần tượng số một của đời mình.
– Mọi người phải cậy dựa vào sức mạnh vạn năng của vua Tiền.
Người có lắm tiền trong tay có thể mua đủ mọi thứ trên đời, thậm chí có thể mua chức mua quyền, mua lạc thú, có thể mua được cả hoa hậu, hoa khôi, người mẫu làm vợ, có thể bẻ cong cán cân công lý cách dễ dàng…
– Mọi người hãy để cho vua Tiền thống trị và sai khiến.
Vua Tiền xô đẩy người ta phạm đủ thứ tội ác: Vì tiền mà tham ô, vì tiền mà cướp của giết người, thậm chí giết luôn cả ông bà cha mẹ để chiếm đoạt tài sản… xô đẩy các nhà cầm quyền châm ngòi nổ chiến tranh để xâm chiếm tài nguyên, lãnh thổ của các nước khác…
Còn vua Giê-su kêu gọi thần dân làm gì ?
Vua Giê-su là vua Tình Yêu. Ngài chủ trương lấy tình yêu xóa bỏ hận thù. Ngài truyền cho thần dân hãy tuân giữ điều răn mới: “Thầy truyền cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13, 34).
Tuyên ngôn của vua Giê-su là yêu thương. “Người ta căn cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, đó là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Mục tiêu của vua Giê-su là xây dựng thế giới này thành trời mới đất mới, nơi công lý, hòa bình và yêu thương ngự trị.
Chọn theo ai ?
Nếu hôm nay, vua Tiền và vua Giê-su tập trung chúng ta lại như đoàn dân trong câu chuyện trên đây và cất lời kêu gọi, chúng ta quyết định thế nào?
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình và trả lời cho thật: Tôi sẽ bước theo ai? Thật là khó khăn khi phải từ giã vua Tiền và những lôi cuốn hấp dẫn của ông ta để theo vua Giê-su.
Theo vua Tiền thì được hạnh phúc chóng qua đời này nhưng phải trầm luân đau khổ đời đời mai sau. Theo vua Giê-su thì được hạnh phúc hoan lạc vĩnh cửu đời sau nhưng phải chấp nhận thiệt thòi, mất mát ở đời này. Cần phải biết chọn lựa thế nào cho khôn ngoan sáng suốt.
Sự khôn ngoan cho ta biết rằng: Thế giới chỉ được hòa bình, nhân loại chỉ được hạnh phúc, ghen ghét hận thù chỉ bị đẩy lùi… khi mọi người biết tôn Chúa Giê-su làm vua của mình và lấy luật yêu thương của Ngài làm kim chỉ nam cho cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Từ bỏ vua Tiền để theo Vua Giê-su là điều rất khó. Chỉ có những ai khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, có nhiều bản lãnh và dồi dào ơn Chúa thì mới có thể lìa bỏ vua Tiền để theo Chúa mà thôi.
Xin ban ơn phù trợ để chúng con đủ sức theo Chúa, thờ Chúa và sống theo luật yêu thương Chúa truyền dạy, nhờ đó, chúng con sẽ được hưởng phúc muôn đời với Chúa. Amen.
.
Sr. Anna Nguyễn Như Ý
Vua trần gian thì lấy quyền mà thống trị thiên hạ. Còn những ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ mọi người. Đó là điều mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ qua chính cuộc sống của Ngài khi còn ở trần gian. Và hôm nay, như trong Tin mừng Luca trình thuật, Ngài là Vua vũ trụ nhưng đã chết cho toàn dân thiên hạ. Là Vua nhưng Ngài đã đem chính mạng sống của mình để đánh đổi cho cuộc sống của nhân loại. Ngài chết, nhưng cái chết của Ngài không phải của một tội nhân, nhưng chết cho những ai đáng lẽ ra phải chết. Chắc hẳn chỉ có mình Ngài đã dám làm điều đó. Ngài đang dạy chúng ta bài học về một tình yêu bất tận. Có ông vua nào trên trần gian đã từng làm điều Giêsu đã làm.
Nhìn vào hình ảnh của quân lính và dân chúng, họ có thể làm gì ngoài việc chế nhạo, đóng đinh Ngài vào thập giá. Điều đó cho chúng ta thấy sự bất lực, yếu hèn của kiếp người. Họ mong muốn Giêsu làm một phép lạ nào đó nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi bản thân, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra khi con người biết mở rộng lòng mình với Thiên Chúa. Chỉ nhưng ai nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng cứu độ với một lòng tin mạnh mẽ, thì sẽ thấy ơn cứu độ xảy ra ngay trong chính cuộc sống của mình. Và người trộm lành đã nhận được ân huệ ấy ngay từ giây phút anh nhận ra Giêsu là Đấng Cứu Độ. Với lòng ăn năn thống hối thật sự, anh đã được cùng với Thiên Chúa lãnh nhận nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu mà có lẽ anh đã khao khát bấy lâu nay. Và ngay khi nhận ra sự bất toàn yếu đuối của bản thân, anh đã được chính sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa lôi cuốn, và giúp anh nhận ra hạnh phúc vĩnh cửu chỉ có từ Thiên Chúa. Anh đã khiêm tốn thật sự để cho Chúa đi vào tâm hồn mình và chính nơi đó anh đã gặp gỡ được Thiên Chúa.
Còn đối với Đức Giêsu, Ngài dùng chính tình yêu thủy chung qua cái chết của mình để biến đổi tội nhân và cứu chuộc nhân loại. Đối với Ngài, tất cả chỉ vì tình yêu. Tình yêu tuyệt đối dành cho Cha đã giúp cho Ngài hi sinh đến giọt máu cuối cùng. Tình yêu vô điều kiện dành cho nhân loại đã làm cho Ngài không còn nhận ra hành động tội lỗi của con người, đến nỗi Ngài đã xin Cha tha thứ cho việc con người làm chỉ vì họ không biết. Đối với Ngài họ là nhưng người đáng thương hơn đáng trách. Tình yêu của Ngài đã che lấp muôn vàn tội lỗi của con người (x. 1Pr 4, 8). Tình yêu đó được biểu lộ cách tỏ tường khi Ngài nói với người trộm lành “Tôi bảo thật anh, hôm nay, ngươi sẽ được ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
Còn đối với chúng ta, những Kitô hữu đang sống trong niềm tin và hi vọng vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta đã và đang làm gì để đáp trả lại tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta? Vì tình yêu, vua Giêsu đã từ bỏ địa vị cao sang của mình để mang đến cho nhân loại một tình yêu vĩnh cửu trong Nước của Cha Ngài như Ngài đã hứa “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” (Ga 14, 2). Chúng ta có muốn từ bỏ những gì cuốn hút, quyến rũ nơi trần gian đã làm cho ta không còn nhìn nhận đâu là hạnh phúc bất diệt để vào trong vinh quang mà Giêsu đã hứa như Ngài đã nói với người trộm lành không? Chúng ta có dám để cho Chúa đi vào tận cõi lòng để ta được biến đổi và trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài không?
Lạy Chúa, giữa một thế giới đang tìm kiếm những giá trị phù vân, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm những gì phù hợp với giá trị Tin mừng. Xin cho chúng con được biến đổi mỗi ngày nhờ ơn Chúa, để chúng con biết nhận ra đâu là hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban cho những ai hi vọng vào tình yêu của Ngài, hầu mai sau chúng con cũng xứng đáng hưởng ơn cứu độ muôn đời. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Đồi Canvê, một buổi chiều u ám. Ba người tử tội bị treo trên cây thập giá, mỗi người một cuộc đời. Người tử tội bị đóng đinh ở giữa đã từng là người nổi danh một thời. Phía trên thập giá của Người có ghi bản án: “Đây Là Vua Dân Do Thái”. Người tên là Giêsu.
Đức Giêsu có phải là vua dân Dothái không? Tại sao Người lại chấp nhận chịu chung một hình phạt với hai tên gian phi, chết nhục nhã trên thập giá? Đứng dưới chân thập giá, dân chúng thì đứng nhìn. Họ đang nghĩ gì, lòng họ có quặn đau trước con người Giêsu, người đã từng chữa lành bệnh tật cho họ, Đấng mà mới hôm qua đây họ còn tung hô: “Hoan hô Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21, 9)? Các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! (Lc 23, 35). Lính tráng chế giễu Người và một trong hai tên gian phi cũng nhục mạ Người. Người là ai?
Khi tổng trấn Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Dothái không?” (Ga 18, 33), Chúa Giêsu đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga 18, 36). Đức Giêsu quả thật là Vua nhưng Nước của Người không thuộc chốn này như lời Người quả quyết. Người hứa với người tử tội đã bênh vực mình khi anh cầu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 42) rằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, Đấng đã dùng cái chết của mình mà giao hòa con người với Thiên Chúa, đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời (Cl 1, 20). Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, ta được mời gọi nhìn lại chỗ đứng của mình dưới chân thập giá Chúa Kitô. Đứng dưới thập giá của Người, ta đã mang tâm tình và thái độ nào? Trong cuộc sống, có những lúc ta cũng đã thách thức Chúa vì không hài lòng với chính mình. Thật đáng buồn khi ta đã chỉ muốn được Chúa giải thoát khỏi đau khổ mà không lặng nhìn ngắm Chúa để cùng với Người đón nhận chén đắng Cha trao. Chúa Giêsu đã không chối từ cái gọi là thực tế của một con người là khổ đau và bị bách hại. Người chỉ tìm kiếm thánh ý Chúa Cha và yêu mến Cha hết lòng. Theo gương Chúa Kitô, ta hãy phó thách hoàn toàn con người và cuộc sống mình cho Thiên Chúa. Chắc chắn, Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta sẽ dành hết tất cả những gì tốt đẹp nhất cho ta. Điều quan trọng là ta có để cho Chúa Kitô làm Vua của lòng mình không?
Lạy Chúa Giêsu là Vua Vũ Trụ! Xin Ngài hãy làm vua của lòng con. Xin cho con đứng dưới chân thập giá Chúa mỗi ngày, để cùng với Mẹ Maria và Thánh Gioan Tông đồ, con được trung kiên theo Chúa đến cùng. Amen.
.
Anna Cỏ may
Vua chúa trần gian nắm quyền trị nước. Có nhiều vị vua được quần thần và dân chúng kính trọng và tùng phục. Cũng có một vị vua mang tên Giêsu. Tuy nhiên, ngai của vị vua này không phải là ngai vàng nhưng là cây thập giá. Vì thế, trước một vị vua quá khiêm hạ, các thủ lãnh và binh lính đã cười nhạo, chế giễu. Họ không thể đón nhận vì vị vua dân Do thái lại là người chẳng còn gì.
“Nếu ông là vua dân Do thái, thì hãy cứu lấy mình đi” (Lc 23,37). “Hãy cứu lấy mình” được Tin Mừng nhắc lại ba lần với ba hạng người khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là cùng thách thức Đức Giêsu. Khi tổng trấn Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Dothái không?” (Ga 18, 33). Chúa Giêsu đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga 18, 36). Những người tụ cho mình là hiểu biết lại không thể nhận ra Giêsu bị treo trên thập giá là một vị vua nhưng một trong hai tên gian phi đã nhận ra Ngài là vua khi nói: “ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Nhờ sự hoán cải cùng lời kêu xin chân thật, ông đã được Đức Giêsu đáp lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”(Lc 23, 43).
Đức Giêsu là vua. Ngài đã được Chúa Cha công bố: “Đây là con yêu dấu Ta, hãy vâng nghe lời Người”(Mc 9,7). Thiên Chúa mời gọi mọi người hãy vâng nghe lời Con của Ngài. Thái độ vâng nghe biểu hiện một sự đón nhận và đặt để Đức Giêsu là chủ và là Vua của mình. Ngài là Vua mạnh mẽ oai hùng trước những địch thù gian ác, là Vị Vua cả Vũ trụ và Vua sự sống. Đức Giêsu là vua thật nhưng người ta lại thích vẻ hào nhoáng bên ngoài của những ông vua giả. Vì thời nay, cái giả lại có vẻ đẹp hơn cái thật, hoa giả, điện thoại giả và ngay cả người cũng giả luôn. Sống trong thời đại vàng thau lẫn lộn, liệu còn ai sống sự vâng phục trong Đức Giêsu? Là Kitô hữu, là con Thiên Chúa, chúng ta đang vâng phục vị vua nào? Phải chăng vua đam mê, vua danh vọng hay Vua Giêsu Kitô? Ước gì mỗi người chúng ta được thức tỉnh được như tên gian phi là nhận thấy vị vua đích thực cùng đích của mình là ai. Đức Giêsu Kitô – Vua Vũ Trụ đã từ bỏ vương quyền đến sống với dân mình, để hiểu, để cùng chịu những cực nhọc và đau khổ của dân, để đem ơn cứu độ cho dân. Ngài trao ban chính mạng sống mình để dân được sống và sống dồi dào trong Chúa Cha. Ngài là Vị Vua duy nhất ở đời này và cả đời sau.
Lạy Đức Giêsu, “Ngài là Vua từ ái, vinh danh Ngài cùng với Chúa Cha, cao sang hiển trị thiên tòa, cùng Thánh Thần Chúa vinh hoa muôn đời” (Thánh thi kinh sáng). Xin giúp chúng con biết, nhận ra và chọn Ngài là Vua duy nhất của cuộc đời mình. Amen.
.
Maria Kiều
Là một Kitô hữu, chắc ai trong chúng ta khi nhìn vào bất cứ cây Thánh giá đều thấy có chữ IN-RI, nghĩa là “Giêsu Nadarét, Vua của dân Do thái.” Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Giêsu Vua vũ trụ, cũng là Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Đây là cơ hội để mỗi người nhìn lại cung cách sống của mình trong tư cách là những thần dân của vua Kitô, chúng ta có sống danh xưng “Kitô hữu” ấy cách ý thức và trách nhiệm hay không?
“Ông Giêsu ơi khi nào ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi’’(Lc 23,42b). Đây là câu nói của tên gian phi khi cùng chịu chết trên cây thập giá với Đức Giêsu, tên gian phi này như nhận ra được Đức Giêsu là một vị vua đích thực. Mỗi người trong chúng ta cũng có xu hướng tự tôn cho mình những vị vua. Nào là vua xe hơi, vua nhà lầu, vua tiền tài danh vọng, vua bóng đá … và chính Đức Giêsu cũng là một vị Vua nhưng sao Ngài lại dễ bị con người lãng quên đến thế? Ngài là vị vua của tình yêu, chính Ngài đã đến thế gian mang lấy thân phận con người, phải chịu đau khổ và chịu chết trên cây thập giá như một tội nhân. Trước lúc chịu chết Ngài vẫn tha thứ cho tên gian phi: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,43). Chính Chúa Giêsu là ngọn lửa của tình yêu, đã đến thế gian và ném ngọn lửa ấy vào tâm hồn mỗi con người chúng ta và Ngài thầm ước mong rằng ngọn lửa của tình yêu đó sẽ cháy lên và lan tỏa cho mọi người xung quanh.
“Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ” (Mt 10,45) Con Thiên Chúa đã xuống thế gian trong thân phận một con người, Ngài đã cúi mình xuống mà phục vụ những người nghèo nhất trong các người nghèo, chính Ngài cũng đã cúi xuống mà rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc cuối cùng trước khi đi chịu chết, đây là một hành động thể hiện sự yêu thương và phục vụ. Ngài là vị Vua của vũ trụ nhưng vị vua này không ngồi trên ngai vàng cao sang, Ngài chọn thánh giá gỗ làm ngai cho mình và đổi lại là sự sống cho nhân loại. Vị Vua không cai trị thần dân bằng quyền lực nhưng bằng tình yêu thương, Vị Vua không có lãnh thổ trong thế giới nhưng luôn có trong tim mỗi con người .
Vậy tôi và bạn hãy thử đặt ra một câu hỏi rằng: “Đức Giêsu có phải là vị vua của đời mình hay không?” Ngài có phải là vị vua mà chúng đang kiếm tìm? hay chính chúng ta đang kiếm tìm và tôn thờ một vị vua nào khác? Hãy để cho Chúa Giêsu chiếm ngự tâm hồn chúng ta, Ngài mới thực sự đáng giá hơn tất cả kho tàng và những thứ phù phiếm mau qua. Chẳng có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã thí mạng sống vì chính chúng ta, ngay cả khi chúng ta bất xứng, Chúa vẫn yêu thương ta bằng tình yêu vô điều kiện nhưng chúng ta có nhận ra điều ấy, nhận ra sự cai trị của Ngài cách âm thầm, bằng những yêu thương, phục vụ tế nhị và khiêm tốn đến nỗi không để lại dấu vết gì. Trong thế giớ 4.0 ngày hôm nay, các bạn trẻ có xu hướng chỉ quan tâm đến bản thân mà không nghĩ đến người khác, họ chỉ nghĩ những thứ tốt đẹp và niềm vui đến với bản thân mà quên đi ngoài kia còn bao người thiếu vắng tình yêu thương và sự chia sẻ và dĩ nhiên Chúa thật xa vời trong khái niệm của họ. Là Kitô hữu, chính tôi và bạn sẽ phải là những chứng nhân tình yêu giữa một xã hội đầy cạm bẫy này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được rằng yêu thương phục vụ tha nhân là con đường dẫn đến thiên đàng và vô cảm thờ ơ trước những nỗi đau khổ cảu tha nhân là con đường dẫn đến hỏa ngục. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ là một ngọn lửa của tình yêu, dám bỏ đi chủ nghĩa cá nhân mà sống yêu thương phục vụ như Chúa đã phục vụ chúng ta.
.
Maria Vũ Linh
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu đúng không ạ?
Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Ông vua là người hầu như có toàn quyền trên mọi dân trong nước và có nhiều tài sản. Và có cả khí giới phương tiện khác nhau để giữ gìn an ninh trật tự. Dĩ nhiên ông vua là người rất giàu có, nhiều của cải đất đai nhà cửa. Con Thiên Chúa làm người là Đức Giê-su Ki-tô cũng được quan niệm và đối xử như mọi người. Cho nên khi Đức Ki-tô tuyên bố mình là vua không ít người đã nghĩ Ngài là một vị vua có chức quyền. Nhưng trớ trêu thay, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, đó là cách thế chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Như một nghịch lý, Chúa Giêsu Kitô là Vua khi Người bị treo lên thập giá. Lại thêm, hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Đây là Vua dân Do Thái”(Lc 23, 38). Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: vì yêu thương loài người nên “vị Vua” này đã hy sinh tính mạng mình để cứu chuộc nhân loại. Cùng chịu đóng đinh với Chúa có hai tên gian phi, cả hai đều chứng kiến cảnh hành hình Đức Giê-su, nhưng chỉ có tên trộm lành nhận ra vương quyền nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh. Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này. “Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng”.
Đức Giêsu luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha ban hòa bình và no ấm cho nhân loại. Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi! Lý do “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình.” (Cl 1,19-20)
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu. Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, chúng ta nài xin Ngài “nhớ” đến chúng ta trên mọi hành trình dương thế. Xin Vua Giêsu ngư trị và ban cho chúng ta lòng can đảm để bênh vực cho chân lý tình yêu, và mang bình an đến những nơi chúng ta hiện diện.
.
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ. Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày xéo. Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom đạn thiêu rụi.
Trước tình hình đó, Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ tại quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn. Ngay sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng nề.
Thế nhưng công việc của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi sóc tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng y Ambrose Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như một vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua Dân Do thái”. Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái”(Lc 23: 41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài”(Lc 23: 42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi”.
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta”(Lc 23: 43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng”.
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
.
ĐỨC GIÊSU VUA, NGƯỜI TÔI TỚ THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Thật nghịch lý, để mừng lễ Đức Kitô Vua, Giáo hội đưa ra cảnh tượng Đức Giêsu mạc khải triều đại Người: ngai vàng là thập giá, vương miện là một vòng gai, lễ phong vương là một danh hiệu của việc kết án tử đóng đinh bên trên đầu Người, nam tước là hai tên gian phi. Nghịch lý cao cả của Tin mừng! Vua? Phải! Nhưng chắc chắn không hiểu theo nghĩa của những người đứng về phía Người, cũng không theo nghĩa của những đối thủ lên án Người, nhưng theo cách của Thiên Chúa.
Luca viết: “Khi đến nơi gọi là Núi Sọ, họ đóng đinh Người vào thập giá”. Thực ra đây chỉ là quả đồi nằm ở cổng thành Giêrusalem, cổng Ephraim, một nơi khai thác đá cũ, nhưng thợ khai thác còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5m. Vì hình dạng của tảng đá giống như cái sọ, nên gọi là núi Sọ, tiếng Dothái là Gôlgôtha tiếng Hylạp là Kranion, tiếng Latinh là Calvario. Theo truyền thuyết đó là cái sọ của Ađam được chôn cất mãi mãi ở đó. Bởi là một nơi gần đường, nên người ta hay đóng đinh các tội nhân ở đó để mọi người qua lại xỉ nhục hoặc để làm gương cho người khác.
Cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu có hai tên gian phi. Để chứng minh Đức Giêsu không phải là gian phi, Luca đặt nơi môi miệng Người một lời nguyện: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Họ đây là ai? Đó là các vị thân hào. Luca thường ghi nhận, đối với Đức Giêsu thì “dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1-20.45, 21.38). Trước biến cố Đức Giêsu chịu đóng đinh, dân chúng chán ngán, yên lặng đứng nhìn. Sự yên lặng của dân chúng thật ấn tượng và đáng trân trọng. Dân chúng Israel hiền lành không hiểu gì cả. Họ chờ đợi Đức Giêsu như¬ Đấng Messia, như một vua Đavít mới.
Trong lịch sử dân tộc họ, không thiếu vua, nhưng tầm cỡ vua Đavít và Salomon thì không có, đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Messia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù, làm vị thẩm phán của Thiên Chúa, họ ngờ rằng Đức Giêsu đến để phục hưng vương quyền của Israel. Họ đã thử tôn Người làm vua, Người lại tránh né. Giờ đây, Người kia kìa, Người bị kết án tử hình, Người đang bị treo trên thập giá.
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh buông lời cười nhạo, thách đố Người: “Nếu ngươi là cứu Chúa, trước tiên cứu mình đi”. Đó là tiếng vang của ma quỷ trong sa mạc (Lc 4,3), của người đồng hương Nadarét (Lc 4,23). Trong thế giới ngày nay, những kẻ chế nhạo Thiên Chúa cũng cùng giọng điệu như thế: “Nếu Thiên Chúa có, hãy hiện diện đi, để mọi người thấy”.
Câu trả lời của Thiên Chúa vẫn là câu trả lời của Đức Giêsu: “Người im lặng”. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực, là không hiện hữu. Đức Giêsu cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ, hành động vì mình, sử dụng quyền năng của mình chỉ vì chính mình.
Còn lính tráng? Lính tráng cũng chế giễu Người: “Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu mình đi”. Thế nhưng, những binh lính này vẫn còn chút lương tri, họ đã lấy một chút giấm đưa cho Ngài uống. Giấm đây là thứ rượu chua thời ấy binh lính Lamã quen dùng, nếu pha thêm một chút mộc dược, sẽ thành một thứ thuốc gây mê, các bà Dothái thường cho các nạn nhân uống như thế để giảm đau. ở đây, Luca không cho biết Chúa có uống hay không, nhưng Mátthêu nói rõ, Chúa chỉ nếm một chút để tỏ lòng biết ơn người đã có thiện chí giúp đỡ mình (Mt 27,34).
Khi phong vương, theo tục lệ Dothái, ông vua được phong ngồi trên ngai, một thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua danh hiệu như thường thấy trong Thánh vịnh 109: “Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. Ở đây, ngai vàng của Đức Giêsu là thập giá, bản văn phong vương Người chính là bản án của Philatô ghi trên đầu Người: “Đây là vua người Dothái “.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là vua không theo cách thức thế gian, Nước Người không thuộc về thế gian này (Ga 18,36). Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế, nhưng không cạnh tranh với các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế. Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của Vua Israel, của chủ nghĩa Messia.
Bi kịch thập giá của Đức Giêsu, được Luca xây dựng theo kiểu căng thẳng tịnh tiến: dân chúng đứng nhìn, các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế giễu, và tên gian phi nhục mạ. Đúng thế, một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Cứu mình? Đó là thách thức ghê tởm nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi mà các thủ lãnh, lính tráng cũng như tên gian phi đã đưa ra. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu “Mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên” còn có ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: “Ai tìm sự sống thì sẽ mất” bây giờ ở đâu?
Vậy, ta có thể kết luận Đức Giêsu là Vua, Người làm Vua trên thập giá, trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình theo Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa, tin Người được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời ngôn sứ về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế; quá sự chờ mong của mọi người vì trên thập giá, không những Người là vua mục tử hơn Đavít mà còn là người tôi tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
.
Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân. Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ khác nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: – Nhóm dân chúng, thủ lãnh và quân lính (23:35-38); – Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của cảnh chế giễu nầy.
Luca đã dùng phân từ “kai”, “và” để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng (c. 35) – và các thủ lãnh” – “và quân lính” – “và tấm bảng”. Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện “nếu”, trong đó họ có lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc. 35.37.39), và họ gọi Chúa Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô” (c. 35), “Vua dân Do thái” (c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu trả lời cho những thách thức và chế giễu nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c. 35)
Luca chỉ ghi nhận “dân chúng đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô) tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29, Luca cho thấy “cái nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô) (14:29). Chính dân chúng đã đứng chung với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu (động từ ở thể phân từ hiện tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những người lên tiếng chế giễu Người.
Các thủ lãnh (c. 35)
Ở đây Luca chỉ nói đến “các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”; chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ “Hãy cứu lấy chính mình” được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và phạm nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự chữa lành bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau. Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người (9:24). Tước hiệu “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đã được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương quan và sự thông hiệp của Người với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu “Kitô” đứng một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một đấng thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu “Người được tuyển chọn” cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).
Nhóm quân lính (c. 36)
Sau các thủ lãnh tôn giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ (22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái” nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos (x. 23:2).
Cho đến lúc nầy, cả các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai. Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì Người biết họ không tin vào Người (22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc. 23:38)
“Và” (xem trên) liên kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos” chỉ Đấng bị đóng đinh dưới tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh. Như thế, tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động từ blasphçmçô, “nói phạm thượng”, để chỉ thái độ của người nầy đối với Chúa Giêsu. Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa Giêsu (22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái chết gần kề.
Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ lời trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến việc nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi, người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.
Nói về Chúa Giêsu, ông bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34), với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con vua Đavít” (18:38), với “Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia, của Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30); “Nước Thiên Chúa” được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp cho những người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: – “Giêsu” là Con Thiên Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương xót ông như Thiên Chúa; – “Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới có “Nước của Người”; – Nước của Người là Nước của Thiên Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân Do thái”.
Chúa Giêsu trả lời với phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên đàng. Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là “trong tay” của Người (x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông được Người nhận biết và cho hưởng Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Như thế cái chết trên thập giá của Người có tính cách cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.
.
Lm. Minh Vận
Thánh Gioan Cantius, người Balan sinh năm 1390. Khi còn nhỏ, ngài là một cậu bé thông minh, tốt lành. Sau khi chịu chức Linh Mục, ngài làm giáo sư Kinh Thánh tại đại học Cracow, rồi làm Cha Sở nhiều năm, chuyên lo việc tông đồ phục vụ người nghèo. Ngài hành hương Rôma bốn lần, đi bộ, vai mang hành trang, một trong bốn cuộc hành hương này, ngài bị bọn cướp chặn lại và lấy hết tiền của, tra hỏi ngài còn tiền của gì nữa phải đưa hết. Ngài trả lời: Thưa đã hết cả rồi. Bọn chúng cho ngài ra đi. Đi được một quãng đường xa, ngài nhớ lại còn một số tiền nữa khâu ở dưới gấu áo, nên ngài vội vã trở lại và trao hết cho bọn cướp, xin lỗi họ vì đã quên lãng mất… Thấy lòng chân thật, nhân từ và thánh thiện của Thánh Nhân, bọn cướp bỡ ngỡ, cảm động nên đã bảo nhau trả lại cho ngài tất cả.
I. VUA TÌNH THƯƠNG VÀ CHÂN THẬT
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Chúa Kitô Vua. Chúa là Vua của chúng ta, chúng ta là thần dân của Người. Người là Vua trên muôn vua, là Chúa muôn loài, là Đấng mọi loài trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục đều phải tôn thờ, phụng sự, sùng bái, kính tôn và yêu mến.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Philatô đã hỏi Chúa: “Ông có phải là Vua không?” Chúa long trọng tuyên bố: “Tôi là Vua, Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý đó. Ai thuộc vào chân lý thì nghe tiếng Tôi” (Jn 18:37).
Là thần dân của Vua Kitô; hơn nữa, còn là các Hoàng Tử và Công Chúa của Thượng Đế, Đấng Thiên Hoàng, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Chúa chúng ta là Vua thế nào? Vương Quyền Ngài ở đâu? Quyền năng Ngài ra sao?
Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trả lời cho chúng ta tất cả những câu vấn nạn trên: “Cha đã xức dầu hoan lạc tấn phong Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, làm Linh Mục đời đời và làm Vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ Thập Giá làm lễ phẩm giao hòa và tinh tuyền, Người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài qui phục quyền bính mình, Người trao lại cho Cha là Đấng uy linh cao cả, một Vương Quốc vĩnh cửu và vô biên: Vương Quốc đầy tràn sự thật và sự sống, Vương Quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, Vương Quốc đầy tràn tình thương, công lý và bình an”.
II. CHÚA KITÔ THIẾT LẬP VƯƠNG QUỐC
Chúa Kitô là Thiên Chúa nhập thể làm người nơi trần gian để làm Vua, tự bản tính Ngài là Vua; không như các vua trần gian, được làm vua do dòng tộc loài người, do chiến đấu dành dân mà được tôn lên ngôi vị… Chúa chúng ta đã thiết lập Vương Quốc Ngài nơi trần gian bằng sự khiêm nhu, bằng tình thương yêu, lòng nhân từ tha thứ, bằng cái chết làm Hy Lễ Cứu Độ trên bàn thờ Thập Giá để qui phục mọi người về với Ngài.
Trước khi Ngài hoàn tất công nghiệp Ơn Cứu Độ, Ngài đã chọn mười hai Tông Đồ, bảy mươi hai Môn Đệ, đa số là những người dân chài, quê mùa dốt nát, thật thà lương thiện, để giữ những chức vụ, mà theo lối trần gian, chúng ta thường gọi là các tổng trưởng, bộ trưởng, dân biểu thượng viện, hạ viện… Ngài đặt Phêrô làm Quốc Vụ Khanh lập nội các và các nghành Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp, để phục vụ trong Vương Quốc Ngài đã thiết lập… Thánh luật của Vương Quốc Chúa là Bộ Thánh Kinh, bao gồm thánh ý Thiên Chúa được mạc khải qua lời các tiên tri, các tổ phụ, các thánh ký, nhất là bộ sách Tin Mừng do chính Chúa Kitô đã chỉ thị, giáo huấn, ban bố, đã sống và đã làm gương… Quốc sách cai trị trong Vương Quốc Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh xả kỷ vị tha, chân lý và an bình. Biên cương Vương Quốc của Chúa Kitô bao la vô tận vượt mọi không gian và thời gian, không chỉ hệ tại nơi vũ trụ vật chất hữu hình này, mà còn bao gồm mọi tâm hồn con người… Giáo Hội Công Giáo chính là Vương Quốc của Chúa Kitô.
III. GIÁO HỘI, VƯƠNG QUỐC CỦA VUA KITÔ
Giáo Hội là một Siêu Quốc Gia, không theo một chính thể nào trên trần gian, quân chủ hay dân chủ, nhưng là được tổ chức theo thần quyền do Chúa thông truyền theo phẩm trật, không làm chính trị, không có quân đội hay sức mạnh trần thế, không chiến đấu tranh dành với ai.
Quốc sách cai trị trong Vương Quốc của Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh, lòng xả kỷ vị tha, sự thánh thiện cao cả của Thiên Chúa.
Biên cương hữu hình theo pháp lý chỉ là mấy chục mẫu đất, xây dựng các cơ sở, đặt các cơ quan điều hành trung ương tại Rôma, nhưng được bao gồm mọi chủng tộc, mọi quốc gia trên khắp thế giới, vượt mọi không gian và thời gian, đến tận tầng thâm sâu linh thiêng của các tâm hồn, nơi Thiên Chúa hiển trị.
Thần dân của Vương Quốc Chúa Kitô là mọi Tín Hữu rải rắc trên khắp năm châu bốn bể, là tất cả mọi người chúng ta, gồm tất cả mọi người tin theo Chúa Kitô, làm nên một Đoàn Chiên duy nhất của Chúa nơi trần gian.
Đấng kế vị Thánh Phêrô, là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng thứ 264, đại diện Chúa Kitô phục vụ Giáo Hội, Vương Quốc hữu hình của Chúa nơi trần gian, Đấng mà chúng ta có thể mệnh danh là Chúa Kitô đang sống nơi trần gian. Đấng mà mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi sắc tộc dù theo chính thể nào, ngay cả những kẻ thù cũng phải kính nể, tôn trọng ngài như vị Đại Diện tối cao của Thiên Chúa, vị Lãnh Đạo tinh thần thế giới.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta tôn xưng Chúa là Vua chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua toàn thể vũ trụ và muôn loài thụ tạo trên trời dưới đất và trong hỏa ngục. Không gì làm Chúa hài lòng và chứng minh lòng chúng ta thần phục Vương Quyền Người, bằng cách chúng ta hãy mặc lấy tinh thần lòng chân thật, nhân từ tha thứ và thánh thiện của Chúa.
Thánh Gioan Cantius người Balan là một vị Thánh có lòng chân thật, khiêm nhu, nhân từ tha thứ, khiến cho kẻ trộm cướp, người tội lỗi cũng phải kính phục sám hối trở lại. Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta đã sống thế nào?
.
Lm. Thu Băng
Tôi còn nhớ vào lúc lên 12 tuổi, vừa bắt đầu vào lớp trung học, cái thú của tuổi trẻ là đấu kiếm và mê “Thần tượng Đồ Long Đao, chém một nhát 7 đầu người khỏi cố”. Trong lóp tôi có một người bạn giỏi đấu kiêm mà cả lớp không ai địch lại được những đường lả lướt của hắn. Ai cũng tôn hắn là “Đại Ca mắt lươn”. Bao nhiêu trận đụng độ với các lớp, chúng tôi đều phải nhờ đại ca mắt lươn này dàn trận.
Thần tượng của giới học sinh là ông thầy giỏi, là bà cô giỏi.
Thần tượng của đám trẻ chơi là người bạn có mưu cao và có tài biến báo.
Thần tượng của các tay anh chị Bến Nghé là Dũng Đakao hoặc Năm Mỏ Lét.
Thần tượng của Tôn Giáo là đấng sáng lập nên tôn giáo đó (Như Thích Ca Mâu Ni, như Lão Tử, như Khổng Tử hay như Chúa Giêsu…) Các ngài đã tìm ta một con đường giúp người ta giải thoát khổ nạn và tìm được niềm hạnh phúc.
Đọc cuốn sách “Những bộ xương khô” của một nhà sưu tầm tôn giáp Pháp, kể lại chuyện của những nhà sư nổi tiếng trở lại Công Giáo, trong đó có một cầu chuyện rằng: Nhà sư T….. áo vàng Ấn Độ ngồi trên xe lửa bên vị Linh Mục. Dựa vào cảnh toa xe không có khách, hai vị tu hành ngồi nói chuyện tôn giáo với nhau. Vị khất tu T…. đặt câu thắc mắc:
– Tại sao nhân sinh lại theo nhiều tôn giáo khác nhau? Sao Cha lại theo Chúa Giêsu mà không thờ đức Thích Ca là người dẫn đường đi trước? Vị Linh Mục trả lời:
– Chuyện đó dễ thôi, thế giới ngay nay người nào giỏi thì được tôn làm đại ca. Nhưng những đại ca gở thì ai thèm ngó tới. Tôi rất kính phục các vị đại ca của các tôn giáo, vì các ngài đã tìm ra một lối giải thoát cho con người. Còn tôi, tôi không phục hết cả các ngài trừ ra đấng Đại Ca của tôi. Xưa kia tôi cũng là một nhà sư như đại đức đây. Cũng chính tại nghĩ đến lời đại đức vừa nói mà tôi tìm ra được vị đại ca tối cao này. Vị đại ca có quyền thế trên các vị đại ca khác là Đức Kitô. Tôi trà tầm hết cả các đường lối dẫn độ của các tôn giáo, nhưng tôi chỉ thấy có một vị dám xưng là “Chúa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao trên toàn cõi đất” Các vị khác không ai dám xưng như vậy.
Điều chứng minh Ngài chính là đại ca đã nhiều người được thấy tận mắt những việc Ngài làm mà chúng tôi gọi là phép lạ chứ không phải là phép phù thủy.
Ngày thứ 6 tuần thánh, Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo rằng Ngài tự xưng là vua. Do đó quan Philatô hỏi:
– Ông tự xưng là vua Do Thái ư? (Mt.27:11).
Philato đâu có ngờ đó là một sự thật, sự thật mà Chúa không thể nói cách nào khác để tránh né. Ngài phải nhận:
– Tôi là vua.
Ngài cũng đã dám tuyên xưng vương quyền của Ngài chẳng phải ở thế gian này và giáo lý của Ngài không ai áp đảo được như thánh Phaolô nói:
– Ngài là vua đứng đầu mọi thụ tạo. Ngài là vua vô hình và mọi loài trên trờ dưới đất đều phải thờ lạy. Ngài cai quản mọi loài, và Ngài có trước mọi loài.
Người trộm lành trong giây phút cuối cùng đã đặt hết hy vọng vào Ngài , nên Ngài đã hé môi “Hôm nay con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng” Chúng ta đang sống trong cảnh thiếu hạnh phúc cũng cần nhằm đến một thần tượng, một vua bất diệt.
Chuyện kể rằng: Trong lúc phong ba bão lớn, người nào cũng tin có Đấng Thượng Đế tối cao có quyền trên biển cả, nên họ kêu gào cầu cứu. Nhiều khi họ hứa sống hứa chết thay đổi cuộc đời xin Ngài cứu thoát. Tiếng lòng thành kêu xin được đáp lời ai nấy đều sửng sốt nói lên lời cảm tạ. Nhưng tháng ngày trôi qua, việc an lành đã đến, lúc đó họ chỉ còn nhìn thấy “thần Dolas” trước mắt. Họ cố gắng quên lời thể hứa đã qua.
Thần tượng của đời này được người ta tôn thờ là “Thần Tài, Thần Danh” Thực ra đó chỉ là phương tiện mà chúng ta đặt lên làm cứu cánh, còn chính Chúa Giêsu là cứu cánh, chúng ta hạ xuống làm phương tiện. Phương tiện cũ rồi không xài nữa, để cho màng nhện chăng. Chúa lúc nàu cầu không thiêng, thôi dẹp.
Nhân dịp cuối năm, Giáo Hội mừng kính Chúa Kitô là vua, nhắc nhở chúng ta xét lại quan niệm sống và cách xử đối với Đấng là Vua, là minh chủ, là đại ca mà chúng ta tôn thờ. Hãy tôn vinh Người là vua thực sự trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong gia đình và ngoài xã hội.
.
Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
“Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!”
Bài tin mừng hôm nay (Lc 23,35-43) trích trong trình thuật thương khó theo Thánh Luca, kể lại những giây phút cuối cùng trước khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Nhưng chính trong khung cảnh bi thương đó, dung mạo và tư cách quân vương của Ngài đã được mạc khải một cách rõ nét.
- “Nếu hắn là Vua Kitô” (cc.35-39)
Mở đầu bài tin mừng là ba cảnh nhạo báng Đức Giêsu, do các thủ lãnh của dân, do lính tráng và do một tên gian phi cùng chịu đóng đinh vời Đức Giêsu, thực hiện. Dân (laos) thì đứng nhìn, trong một thái độ chăm chú mang tính tôn giáo (chứ không chỉ là tò mò).
Trước tiên là sự cười nhạo của các vị thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: “Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!”” (c. 35). Lời của các vị thủ lãnh ở đây có hai giá trị. Trước hết, do chỗ Đức Giêsu được trình bày như một người có tài làm phép lạ (“cứu được người khác”), nên lời thách thức “cứu lấy mình đi” trong thực tế là một lời nhạo báng tương tự như trong 4,23 “thầy lang ơi hãy chữa lấy mình”. Thứ hai, đặt trong sự nghi ngờ về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, lời yêu cầu “hãy cứu lấy mình đi” đồng nghĩa với lời yêu cầu một dấu lạ chứng thực tư cách Mêsia.
Sau lời nhạo báng của các thủ lãnh là sự chế giễu của bọn lính tráng. Đây chắc chắn phải là những người lính Rôma (x. 23,47). “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (cc.36-37). Lời chế giễu của bọn lính Rôma cũng tương tự như lời chế giễu của mấy ông lãnh đạo Do Thái, nhưng tập trung trên khía cạnh chính trị, và như thế, làm nên đợt sóng thứ hai trong cuộc cười nhạo Đức Giêsu bị đóng đinh. Tiếp nối ngay vào lời chế giễu này, tấm bảng ghi bản án đặt phía trên đầu Đức Giêsu cũng là một thành phần của lời chế giễu về phương diện “chính trị”: “Phía trên đầu Người, cũng có bản án viết: “Đây là vua dân Do Thái” (c.38).
Lời nhạo báng thứ ba tiếp ngay sau đó, là của một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. (Chúng ta không có cơ sở nào để khẳng định chắc chắn anh này là một người Do Thái hay một người dân ngoại). “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!” (c.39). Lần thứ ba xuất hiện ngữ đoạn “hãy tự cứu mình đi”, sau đó là một yếu tố được thêm vào cho phù hợp với hoàn cảnh của tên gian phi: “và cứu cả chúng tôi nữa”. Nhưng chính Đức Giêsu, trong thực tế, lại chỉ chờ đợi ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, đúng theo lôgích của lời Ngài đã nói trong 9,24: “Ai đành mất mạng sống mình… thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Nội dung sự cười nhạo của ba hạng người trong bài tin mừng hôm nay đối với Chúa Giêsu, cho chúng ta hiểu thế nào là niềm mong chờ phàm trần mà người ta đặt nơi vương quyền của Đức Giêsu.
Là Vua Mêsia, Đức Giêsu sẽ đem đến cho con người ơn giải thoát của Thiên Chúa? Câu hỏi trở nên vô cùng gay cấn khi người ta phải đối diện với Đức Giêsu đang quằn quại đau đớn trong những giờ phút cuối cùng trước khi chết thê thảm trên thập giá. Kẻ không thể cứu nổi chính mình khỏi thảm cảnh thập giá, sẽ có thể cứu cả nhân loại này không? Vua Mêsia đấy ư? Đặt vào trong một nhãn quan mang tính chính trị, câu hỏi xem ra càng thêm gay cấn. Những kẻ đặt hy vọng vào Ngài sẽ không phải tuyệt vọng và buồn tủi hay sao, khi đối diện với tình cảnh của Ngài trên thập giá?
Mỗi năm chúng ta đều mừng lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ. Nhiều lần chúng ta tuyên xưng vương quyền của Ngài. Chúng ta vẫn trông chờ Ngài sẽ tỏ vương quyền của Ngài trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn và trong xã hội mà chúng ta đang sống, nhưng hình như Ngài có vẻ yếu thế (vì Ngài vẫn là Đấng chịu đóng đinh). Thực ra, chúng ta chờ đợi gì nơi Ngài? Một vị vua sẽ phô trương quyền lực trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội? Nếu Ngài không phô trương quyền lực trong các lãnh vực đó cho chúng ta hưởng thụ và vinh vang, chúng ta sẽ nhìn lên Ngài với cặp mắt nào? Có lẽ sẽ không phải là nhạo báng, nhưng chắc sẽ là oán trách và than thở…
Hóa ra Đức Giêsu vẫn có thể đang bị nhạo cười theo một nghĩa nào đó bởi chính chúng ta, những đồ đệ của Ngài.
- “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (cc.40-43)
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ ở phần thứ nhất của bài tin mừng là một cảnh tượng hết sức ý nghĩa, bắt đầu bằng một phản ứng của người còn lại trong hai kẻ cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đối với thái độ nhục mạ vừa diễn ra: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái” (cc.40-41). Người trộm lành thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!” (c.42). Người trộm lành trực tiếp thưa chuyện với Đức Giêsu sau khi đã phê bình tên gian phi đồng bọn. Anh gọi: “Giêsu!”. Đây là lần duy nhất trong Tân Ước Đức Giêsu được gọi tên riêng một cách gần gũi như thế này. Trong một số trường hợp (không nhiều), Đức Giêsu được gọi bằng tên riêng nhưng luôn luôn kèm theo một sự xác định như: “Lạy Thầy Giêsu…” hay “Giêsu Nadaret”… Người trộm lành đã sám hối bây giờ không hướng về Thiên Chúa, mà hướng về Đức Giêsu và công nhận tư cách và vai trò Mêsia của Ngài. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Đức Giêsu, đối với anh trộm lành, là Đấng Mêsia Phục Sinh mà anh có thể có tương quan thiết thân với Ngài. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu.
“Và Người nói với anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (c.43). Trong lời xin của mình, người trộm lành mong ước một ơn cứu độ tương lai sẽ được thực hiện vào lúc cùng tận, khi vương quốc Mêsia được thực hiện theo cách hiểu của niềm mong đợi Israel. Nhưng Đức Giêsu lại bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.
Đức Giêsu chịu đóng đinh đã cho thấy Ngài không phải là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của ngài không liên quan trước hết đến những thực tại trần gian, mà là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa. Ngài hứa với người trộm lành một sự hiệp thông trọn vẹn trong sự sống viên mãn trên Thiên Đàng. Ngài phá bỏ những rào cản không cho con người hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong hạnh phúc miên viễn, cho dù con người ở đây là tên gian phi đang bị kết án tử hình.
Lời tuyên bố long trọng của Đức Giêsu dành cho người trộm lành cho thấy một nội dung quan trọng của lòng tin Kitô giáo. Tương lai của nhân loại, cá nhân cũng như tập thể, là chính Đức Kitô. Thiên Đàng được trình bày ở đây không phải trong nhãn quan khải huyền, mà là trong những hạn từ diễn tả sự ở với Đức Kitô. Đàng khác, ơn cứu độ là thực tại của “hôm nay” và của cá nhân, chứ không phải chỉ là thực tại của tương lai và mang tính tập thể. Đức Kitô thực hiện vương quyền của Người ngay hôm nay và cho từng người cũng như cho mọi người.
Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực. Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục. Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua.
.
Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Tình yêu là mức đo giá trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả! Đó là trung tâm qui tụ toàn thể tiểu vũ trụ. Từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ, Đức Giêsu vẫn là vua, vì Người đã đã chiếm trọn con tim nhân loại. Khi nằm trên thập giá, Đức Giêsu thấy tất cả những giới hạn vô cùng hẹp hòi của người đời. Tất cả binh lính đều một giọng như nhau: “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc 23,37) Các thủ lãnh có vẻ thâm độc hơn: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23,35) Nhưng Đức Kitô vẫn im lặng. Tuy cười nhạo Chúa, bọn lý hình đã thâm gan tím ruột khi đọc bản án tổng trấn Philatô truyền viết phía trên đầu tử tội: “Đây là vua người Do thái.” (Lc 23,38) Không cưỡng nổi lệnh truyền đó, nên họ đã tìm cách trả thù. Bao nhiêu căm tức đã đổ dồn lên con người Đức Giêsu.
Nhưng chẳng có đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ Chúa: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối với!” (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang: “Dân chúng thì đứng nhìn.” (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23,26) Ngay trong hàng ngũ quân đội cũng có “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: ‘Người này quả thật là công chính.’” (Lc 23,47) Nếu Người là công chính, tất nhiên bản án tử hình là một bất công lớn lao giáng xuống người vô tội. Như thế, Đức Giêsu đã chiếm trọn được lòng người, kể cả những tên lý hình và người gian phi. Một trong hai người gian phi đã thành tâm thưa với Chúa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,41) Giữa lúc cùng khốn đó, trí óc ông vẫn minh mẫn biện hộ cho Chúa, đối lại với đồng bọn: “Ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23,42) Nghĩa là, chính những người đã từng chống cưỡng lệnh Thiên Chúa, giờ đây cũng phải tuyên xưng Người là Đấng Công Chính. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải cho ông tất cả sự thật về Nước Chúa: “Tôi bảo thật anh: hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43) Tin Mừng luôn mang tính “hôm nay” ngay cả khi gặp cảnh cùng khốn nhất. Khác hẳn với những kẻ lợi dụng tương lai để biện hộ cho những ý đồ thống trị hiện tại, Đức Giêsu luôn tìm thấy nét hiện thực trong Tin Mừng. Người không muốn trốn thoát hiện tại, dù hiện tại đau thương nhất, để ẩn mình trong cái vỏ tương lai.
Chính vì thế, Tin Mừng luôn mang tính hiện sinh, loan báo cho người hôm nay về một Vua Công Chính, Vua Hòa Bình. Mọi đối kháng đều bị hóa giải trong chính trái tim Người. Nói khác, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những tên lý hình (x. Lc 23,34) và người gian phi, như Người đã từng tha thứ cho Maria Mađalêna, phụ nữ Samaritana, Phêrô v.v. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,20) Là con dân trong Nước Chúa, Kitô hữu không thể không nhớ tới sứ mệnh hòa bình, hòa giải của mình trong gia đình cũng như xã hội. Sứ mệnh đó chúng ta đã đón nhận từ ngày tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô trong bí tích thánh tẩy. Quả thực, “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh.” (Cl 1,18) Trở thành chi thể Đức Kitô, chúng ta chia sẻ cùng sứ mệnh với Người. Chỉ khi nào thi hành sứ mệnh cao cả đó, chúng ta mới được vinh phúc trở thành con Thiên Chúa (x. Mt 5,9)
Chính khi thi hành sứ mệnh đó, chúng ta chia sẻ vương quyền Đức Giêsu. Trong bí tích thánh tẩy, chúng ta đã được chia sẻ quyền làm vua với Chúa. Sứ mệnh vương giả đó chỉ được thể hiện trong phục vụ. Phục vụ là đối thoại, lắng nghe, tôn trọng mọi người. Phục vụ là sẵn sàng coi người khác hơn mình. Người phục vụ không có gì để tự hào. Trái lại, họ biết mình phục vụ ai và tại sao phải phục vụ. Phục vụ cho một đối tượng duy nhất là Đức Kitô, hiện thân nơi nhiệm thể là Giáo hội, tức là dân Chúa. Họ noi gương Đức Giêsu, Đấng đã “sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27) Thầy phục vụ cho đến chết. Con đường phục vụ là con đường ngắn nhất dẫn đến vinh quang Nước Chúa. Mỗi khi phục vụ, họ thấy mình trở nên giống Chúa Kitô và thể hiện được tất cả nét dịu hiền và đầy lòng thương xót của Chúa. Phải có một tấm lòng bao dung như Chúa mới có thể phục vụ một cách vô tư mọi người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đây là nét đặc trưng cao đẹp nhất của Nước Chúa dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với những người Hồi giáo Algerie rằng: “Giáo hội Công giáo rất nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người Algeria và mọi nơi, bất kể họ có tin vào Đức Kitô hay không.” (VietCatholic 23/11/2001) Tính cách vô tư đó đã hấp dẫn mọi người tìm đến với Đức Kitô Vua Tình Yêu. Nhờ Người, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1,13)
Chính Người đang thúc đẩy “triều đại Cha mau đến.” (Mt 6,10) Hằng ngày chúng ta vẫn đọc lời kinh cao đẹp ấy. Nhưng hỏi mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời kinh đó? Thú thật cho đến gần đây, mỗi khi đọc lời kinh đó, cá nhân kẻ viết bài này rất run sợ vì vẫn nghĩ rằng Nước Cha trị đến có nghĩa là Chúa sắp tái lâm để phán xét. Nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Như thế, càng lâm cảnh khổ đau, cô đơn, bị đàn áp bất công, càng cần phải xin cho “triều đại Cha mau đến.” Nghĩa là, Đức Giêsu luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha ban hòa bình và no ấm cho nhân loại. Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi! Lý do “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình.” (Cl 1,19-20)
.
Lm Trần Đình Nhi
Để diễn tả quyền bính cai trị của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Mátthêu (25:31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (18:33-37) cho ta một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23:35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Thánh danh Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu” đã nói lên uy quyền cứu độ của Thiên Chúa dành cho muôn dân qua sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha.
a) Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu
Vua Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Trong giờ phút trọng đại ấy, thánh Luca cho ta một hình ảnh tương phản giữa những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa và những kẻ tôn vinh Người. Một phía là các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel, đám lính tráng và một tên gian phi bị đóng đinh cùng nhau nhục mạ Người. Một phía là đám dân chúng kính cẩn đứng nhìn và tên gian phi hối cải đã can đảm bênh vực, tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội và cầu xin Người cứu độ mình.
Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu đã nhìn vương quyền ấy theo nhãn quan riêng của họ. Đối với đám lính tráng, vương quyền chỉ có nghĩa đơn giản là quyền hành của một ông vua trần gian, thí dụ như hoàng đế Rôma hoặc vua Hê-rốt chẳng hạn. Do đó họ không thể chấp nhận một người đã bị họ đóng đinh vào thập giá lại có thể xưng mình là “vua dân Do-thái” được. Nếu quả thực Chúa Giêsu là một tên tội phạm, thì chính dân Do-thái cũng chẳng muốn chấp nhận một người như vậy là vua của họ. Tên gian phi nhục mạ Chúa thì chỉ nhìn vương quyền của Chúa dựa trên nhu cầu riêng tư của hắn. Vì Chúa Giêsu không thể tự cứu mình và cứu được hắn, nên Chúa Giêsu cũng chẳng hơn gì hắn. Nhưng đối với những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái, cái nhìn của họ về vương quyền của Chúa Giêsu phức tạp hơn. Khi đặt câu hỏi giả dụ Chúa Giêsu là “Đấng Kitô”, chắc chắn họ đã hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu Kitô ấy. Là những người học biết và tin vào Kinh Thánh, họ hiểu Đấng Kitô là ai theo sấm ngôn của I-sai-a nói về Người Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6). Nhưng đối với họ, Chúa Giêsu chỉ là một anh thợ mộc đến từ Na-da-rét miền Ga-li-lê. Những người ở Giê-ru-sa-lem đặt câu hỏi Chúa Giêsu có đích thực là Đấng Kitô không và họ tự trả lời: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7:27). Tóm lại, họ không muốn nhìn nhận sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu, mặc dù Chúa Cha đã đích thân giới thiệu: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9:35), hoặc chính Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi đến là Đấng chân thật. Các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7:28-29).
Có lẽ mỗi cách phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu qua những hạng người ấy đều nói lên một cách nào đó của những con người hôm nay không muốn nhìn nhận quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu. Những tham vọng, tự cao tự đại và lợi nhuận vật chất đã trở thành những trở ngại, che lấp con mắt đức tin của ta để ta không nhận ra được con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giêsu nữa.
b) Nhìn nhận Chúa Giêsu là Vua cứu độ
Trái ngược với những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu là đám dân chúng “đứng nhìn” và nhất là người gian phi thống hối. Những kẻ phủ nhận thì ồn ào buông lời chế giễu Người. Còn những người nhận biết Chúa Giêsu thì giữ thái độ im lặng kính cẩn hoặc tha thiết cầu xin Người. Bởi đâu họ nhận biết Người? Hẳn phải là do cung cách của Chúa Giêsu ngay trong những giây phút trầm trọng cuối đời. Chính trên thập giá, Người đã biểu lộ tột đỉnh của tình yêu, và tình yêu đã nói lên cung cách của người “thí mạng sống mình vì bạn hữu” và sẵn sàng tha thứ tất cả. Tình yêu đã biến đổi lòng đám dân chúng. Họ không theo thói a dua của người đời mà khinh bỉ người tử tội Giêsu, giống như nhóm lãnh đạo tôn giáo, tên gian phi không hối cải và đám lính tráng đã làm. Nhưng họ đang “đứng nhìn”, một thái độ chiêm ngưỡng để cố gắng nhận ra chiều kích “dài, rộng, cao, sâu” của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu trên thập giá cũng biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giêsu là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia: “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là “ông Giêsu”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh danh Người. “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Chiêm ngưỡng tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu, đồng thời kêu cầu với Người: “Xin nhớ đến con” chắc chắn sẽ là điều mọi Kitô hữu phải lập đi lập lại trong suốt cuộc sống mình.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi thuộc nhóm người phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu không? Nếu có thì điều gì đã làm cho tôi không muốn nhận Chúa làm vua tâm hồn tôi?
Tôi có chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và tình yêu Thiên Chúa khi cầu nguyện trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá bao giờ không? Tôi thử tập thói quen cầu nguyện như vậy, bằng cách quỳ trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá và ngước nhìn lên Chúa, để cố gắng cảm nghiệm Chúa đã yêu thương tôi đến mức nào.
Những khi gặp đau khổ hay bất công, tôi có dùng dịp ấy để biểu lộ tình yêu đối với người khác không? Tôi có làm chứng cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khao khát nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì khổ đau của con
nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
– Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
.
Lm Nguyễn Hồng Giáo
Năm phụng vụ kết thúc với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ. Nhưng Chúa Kitô làm vua như thế nào? Vương quốc Người ở đâu?
Trong suốt cuộc đời của Người, Chúa Giêsu chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Người không hề làm vua một quốc gia hay một mảnh đất nào, dù là như một ông vua lưu vong. Có một lần đám đông dân chúng phấn khởi vì Người đã làm phép lạ cho họ ăn uống no nê, đã muốn tôn Người làm vua nhưng Người đã trốn khỏi họ. Cũng có lần người ta gọi Người là vua dân Do Thái nhưng là để nhạo báng Người. Lúc đó Người chỉ là một tên tử tội. Bọn quân lính đặt Người ngồi lên ghế, khoác cho Người chiếc cẩm bào là tấm áo choàng đỏ, đặt lên đầu Người một vòng gai như vương miện và bắt cầm cây sậy làm phủ việt, rồi họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!” (x. Mt 27, 27-29) Trước lời vặn hỏi của quan tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã nhận mình là vua, nhưng để tránh mọi ngộ nhận, Người tuyên bố: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. ” (Ga 18, 36). Nhưng trong sách Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Maccô, tước hiệu “vua dân Do Thái” chính là một lý do người ta trưng ra để kết án Chúa Giêsu.
Cuộc đời trần thế của Đức Giêsu đã chấm dứt trên thập giá. Bài Tin Mừng Lc 23, 35-43 trong ngày lễ năm C giới thiệu Chúa Kitô Vua của chúng ta đang bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Các đối thủ của Người muốn nói gì qua cách hành xử này thì đã quá rõ. “Hắn ta xưng mình là vua, nhưng vua cái nỗi gì, chỉ là một tên bịp bợm không hơn không kém, chỉ đáng chết như một tên gian phi mà thôi. “
Chọn đoạn Tin Mừng này mà đọc trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, thật cũng lạ thường. Nhưng chính cái lạ thường đó lại giúp ta hiểu đúng, hiểu rõ hơn Chúa Giêsu làm vua như thế nào và Nước của Người là gì?
Trên thập giá, chính Chúa đã phong thánh cho một trong hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người. Anh ta đã làm gì mà được phong thánh mau lẹ vậy? Anh thật lòng nhận mình đã lầm đường lạc lối và nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Chúa cứu chuộc. Anh tin vào ơn cứu rỗi do Người mang đến. Anh phó mình cho Đức Kitô Vua Tình Thương: “Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” Và Đức Giêsu đã nhận lời cầu xin của anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. ” Làm thánh đơn giản thật! Tên cướp sám hối đã tuyên xưng Đức Giêsu có một Nước, một Vương Quốc. Đức Giêsu xác nhận điều đó là đúng và tuyên bố Người có quyền đưa anh ta vào vương quốc của mình.
Vậy Vương Quốc của Chúa Giêsu là vương quốc tình yêu, quyền hành của Người cũng là quyền hành của tình yêu, dùng để cứu độ con người.
Làm vua tình yêu như thế, tất nhiên Chúa Giêsu đã không ngồi trên ngai vàng, đã không có dinh thự lâu đài, không có ngân hàng hay kho báu, không có quân đội chinh nam dẹp bắc…, Người không tìm kiếm thế lực, không thống trị ai, cũng như không có tôi tớ ra vào phục dịch… nhưng trái lại đã hạ mình làm tôi tớ phục vụ mọi người và hy sinh tính mạng vì hạnh phúc nọi người.
Chúa Giêsu làm vua và thống trị bằng một cuộc đời hy sinh từ bỏ, và bằng cái chết đẫm máu trên thập giá. Chính từ cái chết đó đã phát sinh sự sống. Người đã thực hiện điều Người không ngừng dạy bảo: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13). Và Người cũng đòi hỏi các môn đệ mình: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt16, 25)
Phục sinh sẽ là tột đỉnh cuộc đời Chúa Giêsu và là sự thành tựu của công trình cứu thế Người thực hiện. Tuy nhiên đường dẫn tới phục sinh không phải là một đại lộ thênh thang mà là con đường thập giá cam go. Người tiến tới vinh quang theo con đường tự hiến, liều mấy mạng sống mình vì tình yêu. Phục sinh là cùng đích, còn thập giá là con đường dẫn tới đích. Nhưng linh hồn của thập giá là tình yêu. Thiếu tình yêu, thập giá (tức là đau khổ, hy sinh và cái chết) sẽ trở nên không những là nặng nề mà còn vô nghĩavà vô lý. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc của mình bằng một cái chết-vì-tình-yêu. Sống chính là chết vì tình yêu, và thống trị là hạ mình phục vụ cho đến chết vì sự sống của kẻ khác.
Phải chăng lý tưởng sống đó hoàn toàn đi ngược với nền văn minh hiện đại?
.
CHẤP NHẬN VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA
Lm Trần Bình Trọng
Có những người mang cái tên họ nhà vua như họ Trần, họ Nguyễn, họ Lý, họ Lê, họ Trịnh, họ Đinh.. Mang cái tên họ hoàng tộc có thể có liên hệ gần hay xa đến hoàng tộc đó, có thể làm người ta hãnh diện hoặc mắc cở với hoàng tộc nào liên hệ. Riêng người công giáo, họ còn thuộc dòng tộc Kitô giáo, mang dòng máu đức tin vào Đức Kitô, vua vũ trụ. Như trong kinh Tiền tụng Chuá nhật Thường niên I, Giáo hội tuyên xưng qua miệng chủ tế: Bởi đó, chúng con được hân hạnh mang danh là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tư tế, là dân thánh, dân riêng của Chúa.
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô vua. Khi quan Philatô hỏi Chúa Giêsu xem Người có phải là vua dân Do thái không? Chúa trả lời đó là ý tưởng của Philatô. Philatô phải hiểu rằng câu trả lời của Chúa có nghĩa là Ngài chối từ danh hiệu là vua dân Do thái. Tuy nhiên Philatô vẫn cho khắc trên Thánh giá dòng chữ: Đây Là Vua Dân Do Thái (Lc 23:38). Thực ra dòng chữ khắc trên Thánh giá là một tính toán sai lầm của Philatô. Bởi vì các thày cả thượng phẩm trong dân không muốn Chúa Giêsu làm vua của họ. Và Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của dân Do thái. Sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn vinh Chúa làm vua. Còn Chúa thì lại không muốn can dự vào việc cai trị một vương quốc trần thế.
Vậy thì vương quốc của Đức Kitô là gì và ở đâu? Theo Phúc âm thánh Gioan, Chúa trả lời Philatô rằng: Vương quốc của tôi không thuộc thế gian này (Ga 18:36). Đứng bên Thánh giá Chúa, ta thấy có hai loại người: một loại chế diễu và nhạo báng Chúa, một loại người khác khóc than và thương tiếc Chúa. Trong số những người khóc than và thương tiếc Chúa, có một người Trộm lành, cũng chịu đóng đinh với Chúa, đã nhận ra được tội lỗi mình. Anh ta có lòng kính sợ Chúa và tin vào sự sống vĩnh cửu. Người Trộm lành có tên là Điđimô nhận ra Đức Kitô đích thực là Con Thiên Chúa và là Vua vũ trụ nên đã xin với Chúa: Lạy Ngài Giêsu, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi (Lc 23:42). Bằng lời nói đó, người Trộm lành đã tuyên xưng vương quốc và chấp nhận vương quyền của Chúa. Và Chúa hứa với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng (Lc 23:43).
Hôm nay mỗi người cần tự hỏi xem mình có chấp nhận vương quyền của Chúa chưa? Ta có để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa như thế nào? Nhận Chúa làm Vua là việc xem ra dễ dàng. Còn để Chúa làm vua và làm chủ tâm hồn và đời sống mình lại là chuyện khác. Để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là để Chúa làm chủ tư tưởng, lời nói, ước muốn và hành động. Còn khi ta bực mình về những sự việc xẩy ra ngoài ý muốn như mưa bão làm hỏng chương trình đi du ngoạn là ta không muốn để Chúa làm chủ đời sống. Để Chúa làm chủ tâm hồn sẽ gặp khó khăn khi ta được thành công. Còn khi gặp thất bại, người ta sẽ nảy sinh ta hai thái độ: hoặc là hận Chúa rồi bỏ Chúa hay phó thác vào Chúa, để Chúa làm chủ. Có những người nghĩ nếu để Chúa làm chủ, họ sẽ mất đi cái tự do. Những ai đã sống theo đường lối vã thánh ý Chúa, chắc hẳn đã cảm nghiệm được thế nào là tự do của con cái Chúa. Cái tự do đó chính là sự bình an trong tâm hồn. Vậy hiện thời thì ai đang làm chủ tâm hồn và đời sống ta? Có phải Chúa làm chủ đời sống hay ta đã để cho tiền tài, danh vọng, thú vui làm chủ? Ta có mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa để quyền năng Chúa có thể biến đồi hay ta vẫn còn chần chừ trong bóng tối của sự chết, tính ích kỷ, đam mê và lười biếng.
Giáo hội thiết lập lễ Chúa Kitô vua để kêu gọi loài người công nhận vương quyền của Chúa trên đời sống cá nhân và gia đình. Lời kêu gọi này rất là cần thiết trong thời đại ta đang sống khi mà những tham lam thế gian và tham vọng trần thế đang lôi kéo tâm trí loài khỏi Thiên Chúa và những lãnh vực thiêng liêng.
.
VUA AN BÌNH, YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Lm. Bùi Mạnh Tín
Nói đến “vua”, chúng ta lập tức liên tưởng đến một nhân vật đầy uy quyền, với trăm ngàn người hầu hạ, với cung điện nguy nga, y phục lộng lẫy, với cuộc sống vượt trên mọi người… Nhưng nếu đó là những hình ảnh và đặc điểm của bậc vua chúa, thì qủa thực, người thanh niên sinh quán tai Belem và lớn lên tại Nadarét có tên là Giêsu, nhất định không phải là vua, vì Anh xuất thân từ một gia đình nghèo, sinh ra tại một chuồng bò, sống bằng nghề thợ mộc, và sau cùng chấp nhận cái chết ô nhục, đau thương, phải chôn nhờ nơi phần mộ của người khác. Thế nhưng, trong cuộc sống của Anh thợ mộc này, có những điều làm chúng ta suy nghĩ:
– Dù Anh sinh ra tại một chuồng bò, nhưng các đạo sĩ ở Đông Phương lại nói: “Đó là Vua người Do Thái mới sinh ra, nên chúng tôi tới đây mang theo lễ vật để triều bái Ngài” (Mt 2,2).
– Khi dân chúng muốn tôn phong Anh làm vua, thì Anh lại trốn đi một nơi khác (Gio 6,15).
– Thấy Anh cỡi lừa vào Giêrusalem, dân chúng lớn tiếng tung hô Anh: “Hoan hô vua Israel” (Gio 12,13).
– Khi Anh bị dẫn đến trước tòa án, vấn đề “làm vua” lại được đặt ra. Thật vậy, khi Philatô hỏi: “Anh có phải là vua không?”, Anh đã thẳng thắn và dõng dạc đáp: “Ông nói đúng…” (Mat 27,11; Lc 23,23).
– Chính lúc Anh bị đóng đinh trên thập giá, người ta lại nhìn thấy phía trên thập giá có hàng chữ “Giêsu Nadarét, Vua người Do Thái” (Gio 17,19; Mt 27,37).
– Sau cùng, trước giờ chết, khi một tử tội cùng bị đóng đinh với Anh nói với Anh: “Thưa Ngài, khi nào Ngài trở lại vương quốc của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi với”, Anh hứa ngay: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23,42-43).
Như vậy, Đức Kitô qủa thực là một vị vua, nhưng là một vị vua khác hẳn với các vua chúa trên trần gian; vương quốc của Ngài không thuộc về trần gian này, cũng không nằm trong những ý niệm mà người ta vẫn thường có, khi nghĩ về một vị vua chúa. Chính Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Tôi là vua… nhưng nước tôi không thuộc về trần gian này” (Gio 18,36). Tuyên bố như thế, Chúa Kitô cho chúng ta hiểu rằng: Ngài là một vị vua có những tâm tình và chủ trương khác hẳn với mọi vua chúa trần gian. Thay vì bắt người ta phục vụ mình thì Ngài hạ mình xuống, đích thân phục vu mọi người. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ mọi người” (Mc10,45). Đồng thời Ngài cũng kêu gọi con dân trong nước Ngài phải noi gương Ngài: “Anh em biết rằng, những người được coi là lãnh tụ trong các quốc gia thì cai trị dân chúng, còn anh em thì không được như thế. Ai làm lớn thì hãy trở thành đầy tớ cho anh em mình, ai muốn thành người thủ lãnh thì hãy trở thành nô lệ cho mọi người” (Mc 10,43-44). Về điểm này, đức Kitô đã đích thân làm gương khi Ngài qùy gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thay vì mọi người phải bảo vệ mạng sống cho vua thì Ngài lại liều chết để cứu sống con dân của mình. Thay vì dùng lãnh thổ, ngôn ngữ, màu da để xác định công dân của mình thì Ngài dùng giới luật yêu thương làm nguyên tắc nhập tịch cho những ai muốn trở thành công dân trong nước của Ngài; và đây cũng là điều luật căn bản trong quốc gia của Ngài. Ngài nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thày, là anh anh em thương yêu nhau” (Gio 13,35b); “Yêu thương nhau chính là giới răn mới mà Thày truyền cho anh em” (Gio 15:12, 17).
Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta chính thức trở thành công dân trong vương quốc của Vua Giêsu. Xin cho ân sủng của bí tích giúp chúng luôn sống xứng đáng là những công dân tốt trong vưong quốc này, vương quốc của an bình, của yêu thương và phục vụ.
.
Lm Âu Quốc Thanh.
Các thánh sử đều kể lại câu truyện tang thương của cuộc khổ nạn một cách hết sức vắn gọn, mặc dù trong truyền thống Do Thái tường thuật những vụ tử vì đạo rất tỉ mỉ (2 Macc 7:3-19). Phúc âm theo thánh sử Luca kể lại cách sơ sài sự kiện một tử tội mang danh là Giêsu thành Nazareth đang hấp hối trên cây thập giá. Thánh Luca còn bỏ cả chi tiết cho ông Giêsu uống rượu pha mật đắng. (Mk 15:22; Mt27:33). Tuy nhiên trong bài trích Phúc âm cho Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, thánh Luca đã tỉ mỉ nói lên bốn phản ứng của những người hiện diện tại đồi Golgotha để chứng minh con người và căn tính siêu việt của Chúa Giêsu.
Thái độ thứ nhất là thái độ dửng dưng của những người qua đường. Là khách bàng quang, họ đến xem cho biết chuyện gì đang xảy ra. Thánh Luca phân biệt rõ những người dân và các vị lãnh đạo. Đám dân thường chỉ đứng quan sát sự việc cách thụ động. Họ không biết rõ căn tính và con người ông Giêsu. Chính vì thế mà họ được ơn thống hối ăn năn. (Lc 23:48)
Còn hàng lãnh đạo tôn giáo thời đó thì chủ động nhạo báng ông Giêsu. Họ không tin ông Giêsu là Vua dân Do thái, đấng được tuyển chọn để cứu dân Chúa khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự dữ. Họ chế nhạo: “Nếu ông là vua dân Do thái. ông hãy tự cứu mình đi.” Họ hiểu “Vua” theo nghĩa trần gian, một vị lãnh đạo chính trị sẽ giải thoát dân Chúa thoát ách thống trị của Đế quốc Rôma. Một tử tội đang hấp hối trên thập tự không thể giúp họ thực hiện ước mộng đó của họ.
Thái độ của người trộm dữ cũng giống như thái độ của đám lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Hắn buông lời hằn học và sỉ nhục: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.” Hắn biết mình đã rơi vào tình trạng “thập tử nhất sinh” và biết chẳng còn ai có thể cứu mình khỏi chết. Có thoát lời thóa mạ ai cũng chẳng thiệt thòi gì hơn. Đối với hắn, chết là hết.
Nhưng người trộm lành đã thực sự được ơn giải thoát khỏi sự ngu muội và sự không tin. Hắn nhận ra Đức Giêsu là người vô tội nhưng lại bị án tử hình như những kẻ phạm trọng tội như hắn. Hắn nhận ra rằng vị Vua này không phải là một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng là một lãnh đạo tinh thần, và nước của Ngài chính là thiên đàng vĩnh cửu. Chính vì được ơn giác ngộ và thống hối, hắn đã thốt lên lời đầy tin tưởng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” (Bản dịch mới của nhóm Phiên Dịch VN, 1998, có lẽ chính xác hơn: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Người trộm lành đã kêu đích danh của Chúa Giêsu, danh hiệu có nghĩa là “Chúa chữa.” Chính vì niềm tin nơi Chúa Giêsu, người trộm lành đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được hưởng phúc thiên đàng.
Chúng ta là những Kitô hữu có lẽ chúng ta không bao giờ dám nhạo báng Chúa Giêsu như tay trộm dữ và những vị lãnh đạo cứng lòng tin. Cùng lắm khi vì tính yếu đuối xác thịt để cho mình rơi vào tình trạng dửng dưng với Chúa Kitô và công việc của Giáo Hội, nhiệm thể của Ngài. Đôi khi chúng ta muốn Chúa Giêsu trở thành một vị lãnh đạo chính trị giải thoát chúng ta khỏi những đau khổ phần xác và những bất công xã hội. Bằng chứng của lòng mong ước này là phong trào thần học giải phóng, là phong trào phụ nữ bình quyền… Dĩ nhiên khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu đã cứu chữa biết bao nhiêu tật nguyền và đả phá những hủ hóa của giới lãnh đạo. Nhưng Ngài đã không giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị Rôma và không làm phép để giải vòng vây cho chính Ngài. Lý do: vì Ngài không phải là Vua trần gian. Như Chúa Giêsu nói rõ với Philatô khi Ngài bị bắt: “Nước ta không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Nước của Ngài là Thiên đàng mai sau, chỉ có nơi đó mới không còn đau khổ phần hồn phần xác, không còn áp bức và bất công xã hội.
Chắc hẳn, chúng ta đều muốn được ơn giác ngộ và trở lại như người trộm lành. Chúng ta muốn tôn thờ Chúa Giêsu là Vua của vũ trụ và là vị Vua của từng tâm hồn mỗi người. Lời nguyện nhập lễ trong thánh lễ Chúa Kitô Vua: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là Người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng.”
.
KHI NÀO VỀ NƯỚC NGÀI, XIN NHỚ ĐẾN TÔI
Lm. Bùi Thượng Lưu
Khung cảnh đồi sọ vào giờ tử nạn của Chúa Giêsu quả thực u ám. Đám đông dân chúng trước đây theo Chúa, được chứng kiến những phép lạ nhãn tiền như việc Lazarô chết chôn ba ngày được sống lại, phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi năm ngàn người, không kể đàn bà trẻ con, ăn no nê… Chính đám đông đã có lần định tôn Chúa lên làm vua, đã trải áo và ngành ô liu đón mừng Chúa vào thành Thánh Giêrusalem hôm đầu tuần, đám đông ấy đang hùa theo các thủ lãnh và quân lính cười nhạo và chế giễu Chúa: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Bên cạnh thập giá Chúa cũng có hai người trộm cướp bị đóng đinh. Một trong hai kẻ trộm sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô hãy tự cứu Ông và cứu chúng tôi nữa.”
Nếu đứng về khía cạnh và quan điểm của nhân loại, thì quả thực Chúa Giêsu đã hoàn toàn bị thảm bại, đúng như lời than thở của hai môn đệ Emmau: “Về Đức Giêsu Nagiarét, là Đấng tiên tri, có quyền phép trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và cả dân chúng: mà các trưởng tế, các nghị viên ta đã nạp Ngài để xử tử và đóng đinh vào thập giá. Chúng tôi vốn trông mong Ngài sẽ cứu chữa dân Isarel: dầu thể ấy, việc đã xảy ra đã được ba bốn hôm nay rồi.” Nhưng chính vào giây phút tăm tối ấy, một ánh sáng vừa lóe lên. Một người trộm thưa với Chúa: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với ta.” Lời tuyên xưng của người trộm lành vào lúc sắp kết thúc tấn bi kịch thương khó của Chúa đã đảo ngược thế cờ: Chúa Giêsu đã mạc khải cho người trộm lành, cho toàn thể dân chúng, quân lính, các thủ lãnh và toàn dân Isarel đang đứng dưới thập giá: Người là vua nhân hiền, đầy tình thương xót và tha thứ. Nước Người là Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Thần dân của Ngài là tất cả những tâm hồn thành tâm thiện chí, biết mở rộng lòng đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Cờ hiệu của Ngài là thập giá đưa đến vinh quang. Hiến pháp của nước Thiên Chúa là giới luật yêu thương: yêu Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn và yêu thương và anh em đồng loại như chính mình.
Người trộm lành là hình ảnh của cả nhân loại hư đốn và sa ngã, nhưng được cứu thoát nhờ biết nhìn nhận ra Đấng Cứu Chuộc là Vua đầy tình lân mẫn. Đúng như thánh Phaolô đã ca ngợi trong thư gửi cho tín hữu thành Colossê: “Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tội. Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật, vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình… Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người, Người là đầu thân thể tức là Hội Thánh, là nguyên thủy và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hòa vạn vật nhờ Người và vì Người, nhờ máu Người đã đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hòa bình trên trời dưới đất.” Vương quyền của Chúa đã được thánh Phaolô tuyên xưng và tung hô. Quả thực, Đức Kitô là đầu và là tận điểm của lịch sử nhân loại: Hội Thánh đã tôn vinh vương quyền Chúa vào Chúa Nhật kết thúc năm phụng vụ.
Trước kia khi còn ở Việt Nam, nhiều gia đình đã có thói quen mời cha xứ đến làm phép nhà mới và đặt tượng Chúa là Vua trong bàn thờ của gia đình. Chính người gia trưởng đã đem tượng Chúa lên bàn thờ, giữa lúc tất cả gia đình, thân tộc và hàng xóm láng giềng đọc kinh tôn vương hay hát bài: “Lạy trái tim Chúa Giêsu, làm vua cai trị mọi loài, xin trái tim Chúa làm vua, cai trị lòng con suốt đời.” Cảm động và ý nghĩa thay hành động nhận Chúa làm vua gia đình và vua tâm hồn chúng ta. Chớ gì thói quen tốt lành ấy được tái diễn ngay trong hoàn cảnh sống mới của chúng ta ở xã hội Âu Mỹ này.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
“Đáng lẽ tôi đã được rửa tội từ lâu, nhưng vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được. Dù vậy tôi rất ư là kitô hữu.”
Đó là lời của nhạc sĩ Văn Cao trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe với mọi người như thế, và thẳng thắn nhìn nhận: “Chúng tôi đã được đào tạo, nhờ đức tin và âm nhạc kitô giáo.”
“Chúng tôi” ở đây muốn ám chỉ giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ.
Đức tin đã thấm vào con người tài hoa ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
“Nếu tôi không hiểu Halêluia là gì, thì đã chẳng có bài “Làng tôi”, cụ bảo vậy.
Chẳng ai ngờ Văn Cao lại là con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá. Từ năm 1954, cụ vẫn treo một thánh giá trước mặt.
Giêsu trần trụi, Giêsu không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu?
Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. “Đây là vua người Do thái”, tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. “Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng. “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được ơn cứu độ nhờ cái chết thập giá của Đức Giêsu.
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để Ngài làm vua của vũ trụ lòng mình. Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực cuộc sống: văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội… Cần có đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Ngài bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ, trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao và anh trộm lành.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người cho rằng: “Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiện nghi vật chất, thì lòng đạo đức càng sa sút. Nước Chúa như bị thu hẹp lại.” Bạn có đồng ý với nhận xét trên không? Làm sao để tiện nghi vật chất không làm người ta xa Chúa?
Bạn đã làm gì để Nước Chúa đến với tập thể bạn đang sống như gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, trường học, nơi làm việc? Bạn có gặp những khó khăn khi xây dựng Nước Chúa trong môi trường sống của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu, có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người Công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
.
Trầm Thiên Thu
Không có công lý thì không có tự do, không có tự do thì không có bình an – hòa bình, nghĩa là bất ổn, xã hội bất ổn thì hỗn loạn, sinh ra tội lỗi. Thế nên Chúa Giêsu đã đến thế gian để bảo vệ công lý và giải thoát những con người bị áp bức, bị bóc lột. Thánh Vịnh gia xác định: “Triều đại Người đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.” (Tv 72:7)
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ duy nhất. Kinh Thánh xác định: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4:12). Mặc dù “Người là Đấng Toàn Năng, ta chẳng sao vươn tới, Người cao cả, vì Người hùng mạnh và công minh. Người quyền năng, vì Người chính trực, nhưng CHẲNG ÁP BỨC AI.” (G 37:23)
Xã hội luôn cần có công lý để loại bỏ bất công, cần có luật để duy trì an sinh xã hội. Nhưng “luật bất công không phải là luật” (Thánh Augustinô, 354-430). Theo xã hội loài người, công lý là một khái niệm đúng đắn về luân lý, dựa trên nền tảng đạo đức, tính hợp lý, luật pháp, quy luật tự nhiên (hệ thống luật được xác định bởi tự nhiên, mang tính phổ quát), tôn giáo, công bằng, cũng như việc quản lý của pháp luật, có tính đến quyền sống bất khả nhượng của mọi người và mọi công dân, quyền chung của mọi người và cá nhân để bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật của các quyền dân sự của họ, không phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, giới tính, dân tộc, màu da, tôn giáo, tuổi tác, hoặc các đặc tính khác, và được coi là bao gồm các luật về công bằng xã hội.
Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, bởi vì “không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13:1) Thế nhưng người ta không tin nhận Ngài, đến nỗi đã lập mưu ác sát hại Ngài. Trên đầu Thập Giá, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, có ghi bảng bằng tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp: INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái. Thế nhưng các thượng tế của người Do Thái nói với ông Philatô: “Xin ngài đừng viết: Vua dân Do Thái, nhưng viết: Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do Thái.” Tuy nhiên, ông Philatô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22) Vô tình mà chính họ lại tôn vinh tử tội Giêsu là Vua. Thế mới độc đáo, kỳ lạ và mầu nhiệm. Bảng chữ đa ngữ đó đã nói lên tất cả.
Ngày xưa theo quan niệm phong kiến, người ta có một câu như mệnh lệnh bất di bất dịch: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Thời quân chủ, vua mệnh danh là Thiên Tử, mọi quyền hành nắm gọn trong tay, cho sống thì được sống, bắt chết cũng phải chết. Vua đi đâu cũng có tiền hô, hậu ủng. Mọi sự sang trọng, quyền thế, ưu tiên,… đều phải dành cho vua. Ai muốn tâu với vua điều gì cũng không được nhìn “long nhan”, cũng không được tâu trực tiếp, mà chỉ được tâu cái bệ rồng vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ.” Nhà vua độc quyền màu vàng, và cái gì của vua cũng đệm chữ “long” – rồng: Long nhan, long thể, long bào, long sàn, long xa, long đình,… Dù sướng từ trong trứng nước, nhưng rồi chính nhà vua cũng không tránh khỏi “long đanh” và “long đong” như bao thần dân khác. Thế mà vẫn chảnh lắm!
Thế mà Chúa Giêsu, Vua muôn vua và Chúa các chúa, Hoàng đế của các hoàng đế, Thủ lãnh của các thủ lãnh, lại “được” người ta đội cho triều thiên là vòng gai nhọn và khoác cho chiếc áo choàng đỏ, và họ mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!” (Ga 19:3), thậm chí họ còn vả vào mặt Ngài. Kẻ ác càng hèn càng nhát, càng nhát càng ác. Thật đáng ghê tởm!
Ngày xưa, toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến trình báo vua Đa-vít tại Khép-rôn: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với ngài: Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” (2 Sm 5:1-2) Sau đó, toàn thể kỳ mục Ít-ra-en cũng đến gặp vua tại đó. Rồi Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Họ đã xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en. (2 Sm 5:3) Xức dầu là dấu chỉ “công nhận” một người nào đó với chức vụ và trách nhiệm nào đó, cụ thể là phong vương. Ngày nay, Công giáo cũng vẫn theo truyền thống đó khi cử hành các bí tích theo nghi thức phụng vụ, đặc biệt là nghi lễ truyền chức.
Chắc hẳn xưa nay ít người được vào nội cung triều đình của vua chúa trần gian hoặc dinh tổng thống, người ta chỉ đứng xa mà ngắm nhìn cũng là “có phước” lắm rồi, thậm chí có mơ cũng chẳng thấy, huống chi đối với Thánh Cung của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Vịnh gia sung sướng thốt lên: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.” (Tv 122:1-2) Hạnh phúc biết bao, ngỡ chỉ là giấc mơ mà lại là sự thật, thật ngay trong đời thường. Hạnh phúc gấp bội, gia tăng theo cấp số nhân. Ôi, thế thì còn gì bằng!
Như một kỹ sư xây dựng, Thánh Vịnh gia mô tả chi tiết: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít.” (Tv 122:3-5) Đền Thờ đó là Nhà Chúa trên trần gian, nhưng vẫn thật hạnh phúc cho ai được đặt chân vào: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11) Ngày nay, cuộc sống khá hơn, nhiều người muốn đã đến hoặc muốn được đến Ít-ra-en để đặt chân lên vùng đất mà Chúa Giêsu đã một thời sinh sống và thi hành sứ vụ: Thánh địa Giêrusalem. Tuy nhiên, đối với người nghèo thì chẳng khác chuyện lên cung trăng. Không thể đến được, mặc dù rất muốn!
Những ai được vào Nhà Chúa thì cùng được làm con cái Ngài. Thánh Phaolô động viên: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:12-14) Một loạt những cái “được” quý giá lắm. Thật vậy, các tội nhân chúng ta đang từ hố bùn lầy tội lỗi mà được Thiên Chúa kéo lên, được tẩy rửa và đặc biệt là được nhận làm con. Niềm hạnh phúc quá lớn lao!
Đấng cứu vớt chúng ta không là VIP bình thường theo khái niệm thế tục, mà Đấng đó là Chúa của các chúa, Vua của các vua, vô thủy vô chung. Đấng đó chính là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.” (Cl 1:15-18) Vua Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, không có Ơn Cứu Độ ngoài Ngài, và Ngài là Độc Đạo dẫn về Trời.
Với cách nói ngắn gọn mà súc tích, Thánh Phaolô giải thích: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:19-20) Đức Kitô là Vua, nhưng không thị uy hoặc độc đoán như vua chúa trần gian. Vua Giêsu đã không quản ngại thí mạng sống vì thần dân, Giá Máu của Ngài đã minh chứng tất cả. Chắc chắn rằng, cả quá khứ và tương lai, không có một vị vua nào dám chết vì dân tộc của mình, có tốt lành thì cố gắng làm lợi cho đất nước và nhân dân, không thì chèn ép và “hút máu” dân để mình sống ung dung, được vinh thân phì da.
Chúa Giêsu là Đệ Nhất Hàn Vương, Vua Nghèo vì không ngai vàng, không sở hữu bất cứ thứ gì, xả thân quên mình vì dân, chẳng có ai có thể nghèo như Ngài, đến cả “chỗ tựa đầu” cũng không có. (Mt 8:20; Lc 9:58) Vua chúa hoặc tổng thống nào cũng có lễ đăng quang, kể cả Giáo hoàng, nhưng Vua Giêsu không hề có lễ đăng quang, cứ cho là có “lễ đăng quang” thì lại chẳng giống ai: Bị treo trên Thập Giá. Tiều tụy, te tua, tơi tả, thiệt thòi, thảm thương,… Rất nhiều các mẫu tự T “ghép” thành Thập Tự.
Người ta đứng nhìn ngơ ngác, kẻ sợ người lo, kẻ ho người cười, không biết có được mấy người mủi lòng! Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23:35) Ngay cả bọn lính tráng cũng chế giễu Ngài, chúng lại gần đưa giấm cho Ngài uống, và chúng thách thức: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc 23:37) Nhưng Ngài vẫn im lặng và bất động. Trước mặt phàm nhân, Vua Giêsu thua trắng, chiến bại hoàn toàn. Thế nhưng không phải như vậy, họ hoàn toàn ngộ nhận vì thiển cận. Thánh Phaolô nói: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18)
Điều lạ lùng vô cùng là có một tử tội chung số phận với Chúa Giêsu lại có động thái khác thường. Đó là “người gian phi sám hối”, chúng ta quen gọi là “người trộm lành” nhưng thật ra anh ta là tướng cướp khét tiếng, đại ca thứ thiệt, dân “anh chị” chính hiệu chứ không phải loại cướp cạn “tép riu”, vì thế mới đáng tử hình, chứ nếu chỉ là tên trộm thì đâu đến nỗi chịu án tử như vậy.
Thế nhưng một tên tử tù đồng bọn với anh ta cũng bị treo trên thập giá chiều hôm đó, chính hắn cũng nhục mạ Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39) Chết tới nơi mà còn ngông cuồng, ngang ngược, thách thức và cố chấp, không chịu “mở mắt” mà nhận biết cái sai của mình. Tội này mới đúng là “tội tày trời” – tính cố chấp, chắc chắn không ai có thể cứu hắn. Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay!
Có thể là một số người trong chúng ta cũng có “tầm nhìn” như tên-cướp-ác-ôn này. Đó là những người thiển cận, không chịu rán sức “mở to” mắt ra để nhìn vấn đề cho thấu đáo, mà vẫn lì lợm, thủ cựu, không chịu nhìn rộng hơn “cái bóng” của mình, hoặc không đủ “tầm” để nhìn xa trông rộng, thế nên nhận xét của họ cũng phiếm diện. Thiển cận sinh độc đoán, độc đoán sinh ích kỷ, ích kỷ sinh tự tôn – lúc nào cũng cho mình là “number one” (số dzách, số một). Họ “mù” mà cứ tưởng mình “sáng mắt”. Tên-trộm-ác là thế, không chịu nhận mình có trọng tội mà còn “gân cổ” thách thức và nguyền rủa Đức Kitô. Có lẽ Ngài thấy tên này “dở hơi”, “trẻ ranh” vắt mũi chưa sạch nên Ngài không thèm nói gì. Nói với hạng người cố chấp thì cứ nói với đầu gối còn hơn!
Thế nhưng Ngài lại nói với tên-cướp-tốt-bụng. Tại sao? Hắn có tên “cúng cơm” là Dismas (hoặc Dimas), hắn lên tiếng phản đối: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:40-41) Như thế mới là “mắt sáng”, là anh hùng, can đảm, nói thẳng nói thật chứ không hèn nhát mà che đậy hoặc giấu giếm sự thật. Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Tên cướp này thực sự có “trình độ”, xứng danh là một “tay anh chị” lắm. Anh ta đã “nhìn” rõ Tử Tội Giêsu thực sự là VIP rất đặc biệt nên mới xin như vậy. Giỏi lắm. Nhanh trí lắm. Anh ta phải giỏi mới đủ trình độ nhận biết Chúa Giêsu là “siêu nhân” thực sự. Tên tử tội ác ôn kia ngu muội nên không có tầm hiểu như Dismas.
Nghe anh ta cầu xin chân thành, Vua Giêsu nhẹ nhàng nói với thần dân Dismas ngay: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Có lẽ không ai may mắn và sung sướng hơn tướng cướp “hiền lành” Dismas, vì dù tội lỗi tày trời, nhưng anh biết thú nhận và ăn năn nên Chúa Giêsu tha thứ, và còn cho anh hơn những gì anh muốn. Lòng Chúa Thương Xót chỉ cần thế thôi, còn tội to hay nhỏ không là vấn đề. Tên-cướp-tốt-bụng Dismas có điều rất “độc đáo” này: Cả đời anh ta chuyên đi ăn cướp, giờ lại “cướp” được cả Thiên Đàng. Khôn và khéo quá chừng luôn. Thật tuyệt!
Chúa Giêsu luôn khuyến khích các tín nhân chịu đau khổ – vác thập giá. (Mt 10:38; Mt 16:24) Khó thì Khổ, thế nhưng lại là Khéo và Khôn. No Cross, No Crown – Không có Thập Giá thì không có Triều Thiên, không có Đau Khổ thì không có Vinh Quang. Hạnh phúc tỷ lệ thuận với gian nan, vất vả, hy sinh – tức là đau khổ. Thập Giá hình chữ T, Chúa Giêsu dang tay hình chữ Y. Theo Việt ngữ, TY là Tình Yêu.
Lạy Vua Giêsu Kitô – Vua Công Lý, Vua Cứu Thế, Vua Thương Xót, xin chữa lành con-mắt-tâm-linh để chúng con thật lòng tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Vương đích thực muôn đời, là Vua Cứu Độ duy nhất, và xin giúp chúng con sống kiên cường với đức tin mà chúng con đã lãnh nhận. Kính lạy Thánh Tử Giêsu cai trị linh hồn chúng con và cho chúng con về sum vầy tại Vương Quốc Trường Sinh, Ngài là là Đấng Hằng Sống, đồng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đời đời kiếp kiếp. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa Nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá.
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Người trộm bên hữu đã nhận ra vị vua tình yêu, nên anh đã xin với Ngài nhớ đến anh khi vào vương quốc của Ngài. Anh đã tuyên xưng vị vua tình yêu chiến thắng.Tình yêu đã chiến thắng mọi trở ngại: từ những lời thách thức của những người đòi một vị vua uy quyền đến cái chết khổ đau. Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã giao hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”(Cl 1,20).
Trong tất cả những gì đã viết về Chúa Kitô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gioan ở lời tựa sách Tin Mừng: “Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận” (Ga 1,11). Bêlem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Nadarét không có chỗ cho Ngài sinh sống, Giêrusalem không có chỗ cho Ngài chết.
Bốn mươi ngày sau khi Ngài sinh hạ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ Maria: “Ngài sẽ là dấu gợi lên chống đối”(Lc 2,34). Đó là một kiểu nói khác chứng thực điều Thánh Gioan đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hêrôđê lùng sục để sát hại. Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá.
Chúa Giêsu Kitô đã chọn Thập giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự hận thù ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết; giữa vui và buồn; cười và khóc; hận thù và thứ tha; ghen ghét và yêu thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Đặt thanh sự sống và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một thập giá.
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Vì vậy Giáo hội đã chọn bài Tin Mừng Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá giữa hai người trộm cướp cho ngày lễ hôm nay.
Nói đến vua, chúng ta thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc cẩm bào, ngồi trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay, người ta còn nói đến vua xe hơi, vua bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính… Đó là những thần tượng giàu có, sang trọng của con người thời đại. Chúa Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, vương quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Chúa Giêsu là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Bài Tin Mừng đưa chúng ta về với Chúa Giêsu trên Thập giá.Vị Vua bị lăng nhục, các thủ lãnh thế gian cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Chẳng lúc nào Chúa làm Vua rõ ràng bằng lúc này. Tấm bảng trên Thập giá ghi bằng tiếng Hípri, Latinh và Hylạp chữ INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.
Nhưng kiểu làm Vua của Ngài thật khác thường: không có vương miện mà chỉ có vòng gai, không có cẩm bào mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc rất ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu: “Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình.Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin.Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực rỡ. Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Mừng Lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, người Kitô hữu muốn khước từ những thần tượng trần thế, muốn để Ngài làm vua của lòng mình.Người Kitô hữu muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội…để xây đắp hoà bình và tình thương cho trần thế.
Vương quốc Vua Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn hai ngàn năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người, nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống mình.
Lạy Chúa Giêsu, Vua Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nỗi đã ban chính sự sống mình, xin Chúa chiếm trọn con người chúng con từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, để chúng con không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và thánh thiện, của công lý và hoà bình. Amen.
.
Thiên Phúc
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi: – Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười
Án Tử trả lời:
– Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu: “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn” “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi”.
Tuy nhiên, Nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người. Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh thánh rằng: “Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân”. Người đã hòa mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi”.
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người.
Thần dân đầu tiên mà vị vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh mắng người trộm dữ: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!” Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời tức khắc: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng Phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính”.
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, mới được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen.
.
JM. Lam Thy
Để diễn tả quyền năng tột đỉnh của Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ, Giáo Hội đã chọn bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh khác nhau. Năm A với bài Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25, 31-46), tôn vinh Đức Vua Giêsu như một vị Thẩm phán tối cao ngự trên ngai toà vinh hiển xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (Ga 18, 33-37) dùng chính miệng Phi-la-tô tuyên xưng Đức Giêsu là Vua, nhưng là Vua của một “nước không thuộc thế gian”. Từ đó, đưa ra một cái nhìn thần học về uy quyền của Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể và nhập thế để làm chứng cho Sự Thật: Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một xuống thế chịu khổ hình và chịu chết để cứu độ nhân loại. Năm C với bài Tin Mừng Lu-ca (Lc 23, 35-43) trình thuật Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để tiêu diệt tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người.
Ngoài ra, đọc cả 4 sách Tin Mừng sẽ thấy các môn đệ cũng như nhiều người khác đều tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Vua It-ra-en. Đó là những chứng tích minh hoạ cho ngôi vị Vương Giả của Đức Giêsu. Thánh danh Giêsu có nghĩa là “Đấng Cứu Độ” (Mt 1, 21; Lc 2, 11) – Đấng Cứu Độ là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – mà Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, vậy chẳng phải Người chính là Vua Vũ Trụ đó sao? Một cách cụ thể thì có thể khẳng định ngôi vị Vua Vũ Trụ đã được tiền định từ trước vô cùng, nên trong Cựu Ước đã tiên báo (“Con Người đang ngự giá mây trời mà đến… Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” – Đn 7, 13-14; xc thêm Is 9, 1-6; 52, 7-10).
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giêsu, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.
Danh hiệu vua thực chất chỉ là một cách gọi những người đứng đầu trị vì một quốc gia thời phong kiến, mà về sau được gọi bằng danh xưng khác như: tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước v.v… Với Đức Giêsu thì vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật (điều này không phải chỉ do Người tự xưng – đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa).
Còn một điều mấu chốt là Đức Giêsu tuy được tôn xưng là Vua Vũ Trụ, nhưng Người không hề sống như kiểu các ông vua phong kiến hay các ông trị vì quốc gia hiện đại (hét ra lửa, mửa ra khói). Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng”, mà đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Một ông vua mà lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34). Đức Vua Giêsu là như vậy đó.
Rõ ràng Đức Giêsu Ki-tô chính là “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài; như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giêsu Ki-tô thật sự là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Từ xưa đến nay, chúng con vẫn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của loài người, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Tuy nhiên, hành động của chúng con, cách cư xử và đời sống của chúng con dường như lại đi ngượic với những lời chúng con tuyên xưng. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con đủ can đảm sống đúng những điều chúng con tuyên xưng. Ôi! Lạy Chúa! Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con xin tuyên xưng từ ngay trong bản thân, trong gia đình chúng con, qua chính cách sống và hành động của chúng con: Đức Giêsu Ki-tô là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là Vua Vũ Trụ, Vua của mỗi người, mỗi gia đình chúng con.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ).
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Kinh thưa quý vị! Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể và tôn thờ một Vị Vua, một Vị Vua đích thực, Người là Vua Sự Thật, Vua Tình Yêu, Vua Sự Sống. Vâng, Vị Vua ấy là” Giêsu Nzaret”, một Vị Vua mà trong bối cảnh Tin Mừng hôm nay (Lc 23,35-43) cho chúng ta thấy về “Người Tôi Tớ của Giavê”. Có nghĩa là: Vị Vua mà chúng ta tôn thờ không phải ở trên ngai vàng, mà là ở trên một “cái ngai cao hơn ngai vàng”, vâng, cái ngai ấy chính là “Thập giá”. Thập giá là một hình phạt cao nhất dành cho tội nhân của người Dothai, nhưng Vua Giêsu đã chọn lấy, dù Người vô tội, đó là một bản án bất công nhất, vì một án phạt nặng nhất lại dành cho một “Con Người “vô tội. Nhưng đối với Vua Giêsu là một bản án “vì tình”, bởi vì Người là” Vua Tình Yêu”.
Đoạn Tin Mừng (Lc 23,35-43) hôm nay là đoạn Tin Mừng diễn tả một mầu nhiệm chóp đỉnh của sự đau khổ. Mầu nhiệm ấy gọi là mầu nhiệm Thập giá, bởi vì từ cổ chí kim và mãi mãi, duy nhất trong lịch sử loài người, không có một cảnh tưởng nào hãi hùng, khinh khiếp bằng cảnh tượng Thập giá. Vì nơi đó, đã thỏa mãn cơn điên loạn, sự độc ác, sự căm thù, sự ích kỷ, sự nhỏ nhen thâm độc nhất của loài người, tất cả cũng chỉ vì muốn thỏa mãn tính người, tính ngạo mạn của satan, phủ nhận chân lý, muốn xóa mờ tình yêu của Thiên Chúa, muốn khỏa lấp Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với người công chính. Vì thế, thảm cảnh Thập giá đã xảy ra, nhưng tình yêu đã chiến thắng. Vì Thiên Chúa là tình yêu.
Lời lẽ sỉ nhục Đức Kitô, là lời lẽ thách thức Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa không theo bất cứ thế lực nào, bất cứ lời lẽ nào, vì Ngài là Thiên Chúa. Một ý nghĩa chân lý là nếu Thiên Chúa theo tư tưởng của loài người thì không có mầu nhiệm ơn Cứu Độ. Vì: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của loài người bấy nhiêu” (Isaia 55,9). Nên Đấng Cứu Thế Kitô phải chịu khổ hình và treo lên, vì chương trình cứu độ của Thiên Chúa chính là Thập giá Đức Kitô. Khi nhân tính biểu lộ trọn vẹn sự hữu hình trong mầu nhiệm tử nạn, đồng thời cũng là lúc Thiên Tính biểu lộ trọn vẹn quyền phép cao cả của Thiên Chúa, và giá trị siêu nhiên cùng với ơn Cứu Độ được hình thành nơi Đức Kitô- Giêsu.
Vinh quang Thiên Chúa không dừng lại nơi Thập giá, mà là vinh quang của Thiên Chúa chính là sự Phục Sinh của Đức Kitô. Thập giá, nơi biểu lộ tình yêu, chứ không phải nơi biểu lộ quyền năng, Thập giá, nơi biểu lộ án phạt mà nhân loại phải chịu. Nhưng, kẻ có tội, thì mất quyền tha thứ, mất quyền tự do, không thể cứu người khác được. Nên chi, theo lẽ tự nhiên là thế, Thiên Chúa phải dùng lẽ tự nhiên bởi một Người vô tội, là Đấng Cứu Thế, có nghĩa là Kitô. Đấng vô tội chịu mức án của kẻ có tội, như vậy mới có giá trị “cứu” kẻ có tội. Xét theo lẽ tự nhiên, đó là sự bất công, nhưng theo lẽ siêu nhiên, thì đây là Hy Lễ Cứu Chuộc. Như vậy, Thập giá là Hy Lễ Cứu Chuộc. Mà Hy Lễ ấy được một Con Người vô tội thực hiện, thì có giá trị vô song. Nhưng mầu nhiệm Cứu Chuộc không dừng lại nơi Thập giá, mà là bước qua Thập giá (không phải theo nghĩa đen là “quá khóa”), mới đến Vinh Quang của Thiên Chúa
Đức Kitô là Vị Vua không tự tìm vinh quang cho mình, mà là “Vị Vua” tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Nơi trần gian, con người tìm gì? Chắn chắn là tìm vinh quang trần thế. Vinh quang trần thế chắc chắn không phải là vinh quang Nước Trời. Vì vậy, con người trần thế muốn tìm vinh quang thế trần, thì họ phải tôn thờ những thứ “vua” của trần thế. Còn thần dân của Nước Trời, thì phải tôn thờ “Vua Giêsu”, là Vua trên các Vua, Chúa của các chúa. Đó là hợp lẽ.
Theo trần gian, người nào tài giỏi về một điều gì đó, thì người ta gọi là vua, như vua dầu lửa, vua xe ơi, vua caphê, vua bóng đá v.v…. Nhưng tất cả những vị vua đó chỉ tìm vinh quang cho họ, chứ không tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Ai tìm vinh quang cho Thiên Chúa là thần dân trong Nước Của Vua Giêsu, Vị Vua của chân lý, tình yêu và sự thật.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian không tìm vinh quang của trần thế, mà là đã chọn Thập giá là vinh quang cho Hy lễ Cứu Chuộc. Xin thương cho chúng con biết tôn thờ sự thật ấy, là vinh quang vĩnh cửu cho chúng con, vì Chúa là Vua mà chúng con tôn thờ. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Đủ lớn khôn để ghi dấu mức độ trưởng thành, đủ năng lực xây dựng ngôi nhà đẹp, tiện nghi, nhưng cần lựa chọn vật liệu kiến tạo cuộc đời mình theo tiêu chí hạnh phúc, bao giờ cũng là khó khăn phức tạp. Đầu tư công sức tiền của, nuôi dưỡng ý tưởng: điều lành thì nhớ, điều dở hãy quên, ấy vậy, giữa thành công và thất bại, luôn có “con sông” gian khổ, hẳn vẫn thực sự cần thiết cho ta biết mình là ai ! Hiểu cha mẹ ông bà, các đấng bậc đã từng yêu thương, hy sinh cho con cháu, nhưng chưa chắc ai cũng đủ ý thức để sống, và chu toàn ơn gọi hiếu kính đối với các ngài. Hiểu, biết, và sống niềm tin, dù có trừu tượng lý thuyết, thì phận làm con cháu, vẫn phải sống “ân đức cao dầy” không thể khác được.
Có những thứ người ta cần, và chờ mong trong cuộc sống, ta sẽ nói: càng nhiều càng lành, nhiều tiền, nhiều sự khôn ngoan, nhiều sức khoẻ, nhiều sự hiểu biết… Chúa Giêsu trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện bằng lời, bằng hành động yêu thương tha thứ, và Chúa chờ mong mọi người, chờ mong hai kẻ trộm sám hối ăn năn càng nhiều càng tốt. Trong khi đó, hai anh trộm và nhiều người đứng dưới chân thập giá hôm đó, họ chờ mong phép lạ Ông Giêsu sẽ thực hiện ít là thoát khỏi đau thương, xuống khỏi thập giá. Chúa Giêsu thấy rõ nhu cầu của mọi người là cần được sống, Ngài đã minh chứng cho họ thấy thế nào là yêu, như thế nào là Giêsu, Vua tình yêu, khi Ngài xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại, trước khi trút hơi thở cuối cùng trong tín thác.
Vua theo quan niệm thông thường là được ăn trên ngồi chốc, là có kẻ hầu người hạ, được gọi là thái tử con trời, gắn với câu ca dao: con vua thời lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa. Vua Giêsu chịu treo trên thập giá vì yêu, có mão gai nhọn, không có binh hùng dũng tướng, nhất định không phải là vua trần thế, là Thái Tử, nhưng không đến để được phục vụ. Hai anh trộm năm xưa thấm nhuần được như thế nào là phần thưởng và hình phạt của xã hội. Chúa Giêsu bằng lời nói chân thành và hành động yêu thương đã soi sáng và giúp người trộm lành nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa thật lớn lao đối với tội nhân. Tất cả những ai suy gẫm hiệp thông với mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, đều có thể cảm nhận: người biết nhìn xa trông rộng thì sớm muộn cũng thấy bình an, người biếng nhác, lười suy xét, nguy hiểm luôn vây quanh.
Giêsu, Vua tình yêu, là Giêsu chịu đau khổ trên thập giá, Giêsu, Vua tình yêu, chính là Giêsu Kitô Đấng đã sống lại từ cõi chết. Giêsu, Vua tình yêu, không xuống khỏi thập giá trước sự thách thức và chờ mong của đám đông đang hò hét. Giêsu, Vua tình yêu, Ngài không phạt, không loại trừ kẻ xấu xa tội lỗi, Giêsu, Vua tình yêu, Ngài đợi chờ kẻ trộm có lòng hối cải và ban ơn tha thứ: “ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Đúng, thời nào, ở đâu cũng có người tốt, người chưa tốt, nhưng ở đâu và đối tượng nào, cũng thao thức được hạnh phúc. Đúng, tình yêu và ơn tha thứ, mới làm cho người ta hiểu: sự khác biệt giữa thành công và thất bại không phải ở sức mạnh, kiến thức, hay sự hiểu biết, mà chính là ở lý trí và sự quyết tâm hành động.
Người xưa có câu: xem mặt đặt tên, hoặc chiến thắng, thành công, không thể là do tình cờ. Các luật sĩ biệt phái, đám đông, đắc thắng hò reo, cả anh trộm bên tả cũng a-dua nhục mạ Con Thiên Chúa, trong khi đó, kẻ tội lỗi bên hữu thì vừa đủ sáng, vừa đủ nghe, vừa đủ cảm nhận thế nào là tình yêu và lòng thương xót của Đấng cứu độ trần gian. Giêsu, Vua tình yêu, Ngài là hiện thân của Chúa Cha: đau khổ, thập giá, tử nạn phục sinh, chính là ơn ban, là cơ hội, mỗi gia đình, mỗi tâm hồn, và tất cả những ai tội lỗi, đều là đối tượng của Đấng giầu lòng thương xót. Người đương thời nhìn lên Chúa Giêsu: kẻ vui, người đắc chí, người khác thấy đau thương mất mát, những môn đệ thì khó hiểu, đúng hơn, tất cả đều đáng thương, vì ai cũng cần được biến đổi, cần được hưởng lòng thương xót của Đấng cứu độ trần gian.
Cha ông chúng ta có câu: gươm trần có thể làm cho người ta khiếp sợ mà thay đổi lập trường, nhưng tình yêu thật, lòng bao dung tha thứ thật, mới thu phục và có sức biến đổi tâm tính lòng dạ con người. Chúa Giêsu từ cây thập giá đau khổ, bằng sự trần trụi, bằng hành động yêu thương tha thứ, Ngài đã cho nhân thế một quan niệm đặc biệt: Thiên Chúa làm Người và làm Đấng cứu độ. Hôm nay đây, cả thế giới đang kêu gọi nhà nhà, người người, hãy sống hoà thuận yêu thương, quảng đại tha thứ, trong khi đó, người kitô hữu chúng ta đang tuyên xưng Đức Giêsu, Vua tình yêu, Ngài không xuống khỏi thập giá, Ngài không ban vàng bạc châu báu, không đáp ứng nhu cầu để chúng ta sống mãi ở đời này. Giêsu, Vua tình yêu, Ngài không hứa sẽ cất hết đau khổ bệnh tật cho thế giới, Ngài hứa ban tình yêu, ban sức mạnh, cho chúng ta, cho những kẻ đang tin tưởng cậy trông và sống giáo huấn của Ngài: “ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”. Amen.
.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Việc cảnh sát Anh phát hiện ra 39 người Việt chết trong chiếc xe đông lạnh hôm 23/10 vừa qua đã gây chấn động cho cả thế giới. Người ta đặt vấn đề: tại sao cho đến hôm nay vẫn có nhiều người dám liều mạng sống để được vào Mỹ hoặc các nước phát triển. Làn sóng di dân từ Châu Phi, Bắc Mỹ và Châu Á đặc biệt là tại Việt Nam dường như chưa lúc nào ngừng. Tại Việt Nam từ năm 1954 khoảng ba triệu người di cư từ bắc vào nam với hy vọng tìm kiếm được một cuộc sống an lành. Sau năm 1975, một đợt di dân khổng lồ bằng đường biển đã khiến cho hành trăm ngàn người Việt bỏ quê hương để đi tìm đất mới, nhiều người trong họ đã bỏ xác ngoài biển khơi. Sau đó là những cuộc di dân qua hình thức HO, bảo lãnh, con lai và đến nay là những cuộc di dân lao động qua các hình thức xuất khẩu lao động. Những người may mắn được “đi nhờ” trên máy bay của Chủ tịch Quốc Hội, có người đi bằng đường bộ qua Trung Quốc hoặc qua những đường dây cò lái…tất cả đều phải trả một giá rất đắt không chỉ bằng tiền nhưng bằng cả mạng sống của mình. Những người này di dân vì lý do gì? Có rất nhiều lý do từ chính trị, kinh tế, tôn giáo… nhưng tất cả có chung một mục tiêu là: mơ ước và tìm kiếm một thế giới mới, một thiên đàng nơi trần gian, với hy vọng sẽ bớt khổ, sẽ hạnh phúc hơn, tự do hơn.
Hôm nay mừng lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta một vương quốc nơi đó sẽ không còn đau khổ nhưng ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Vương quốc này mở cửa đón tất cả mọi người mọi dân. Đó và vương quốc Nước Trời, có vua Giêsu là thủ lãnh là Đấng dẫn dắt và chăm sóc cho toàn dân. Vương quốc Nước Trời là khao khát sâu thẳm của tất cả mọi người. Tuy nhiên, để trở thành công dân Nước Trời, đòi mỗi người phải tỏ lòng thần phục vua Giêsu. Để gia nhập vương quốc Nước Trời mỗi người cần phải có “hộ chiếu và visa” là lòng tin và các việc làm thể hiện tình yêu của mình đối với Chúa mới có thể được cư ngụ lâu dài trong Nước Trời.
Sách Samuen thuật lai một sự kiện những người Israel đến gặp vua Đavit lúc đó đang làm vua miền Giuda để xin ông làm vua dẫn dắt cả miền Israel, khi đó hai miền chưa thống nhất. Vua Đavít đã chấp nhận lời thỉnh cầu của người Israel và ký kết giao ước với họ. Sau đó, họ xức dầu tấn phong Đavít làm vua Israel. Kể từ đây đất nước được thống nhất toàn lãnh thổ, từ Bắc chí Nam quy về một mối. Người Israel xin Đavít làm vua vì tin vào Lời Chúa đã nói với Đavít: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.” Họ tin rằng qua Đavít, chính Thiên Chúa là Đấng làm vua lãnh đạo Israel. Niềm tin có Thiên Chúa làm vua là Đấng lãnh đạo đã trở thành niềm tự hào cho dân Israel và là động lực thúc đẩy Israel sống chu toàn lề luật của Thiên Chúa, xứng đáng là thần dân của Người.
Vương quốc Israel dưới quyền lãnh đạo của vua Đavít là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa sẽ thiết lập vương quốc của Ngài, quy tụ tất cả các dân tộc trên toàn thế giới để làm nên dân thuộc quyền của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thực hiện việc quy tụ nhân loại trở nên một dân mới qua cái chết và cuộc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã diễn tả công trình thiết lập vương quốc Nước Trời qua thư gửi cho cộng đoàn Côlôsê: “Anh em hãy vui mừng tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh.” Thánh Phaolô còn diễn tả công trình kỳ diệu này qua bài ca rất đẹp: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” Thánh Phaolô còn cho thấy Thánh Tử Giêsu chính là Đấng quy tụ muôn loài muôn vật qua cái chết và sự phục sinh của Ngài và đặt muôn vật dưới quyền thủ lãnh của Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa Cha đã đón nhận công lao của Chúa Giêsu và trao lại tất cả vương quyền cho Chúa Giêsu, để Ngài làm Thủ Lãnh mọi vật mọi loài và tiếp tục nuôi dưỡng dẫn dắt toàn dân mà Ngài đã đổ máu ra cứu chuộc. Như vậy, được trở nên công dân của Nước Trời, có nghĩa là được gia nhập vào vương quốc của Vua Giêsu và phải sống theo giới răn lề luật của Ngài.
Vương quốc của Chúa Giêsu không có sự phân biệt kỳ thị giàu nghèo, sang hèn nhưng mở ra cho hết mọi người miễn là tin Vua Giêsu là chính Thiên Chúa và là Thủ Lãnh. Câu chuyện trong Tin Mừng thánh Luca thuật lại cho thấy điều đó. Cùng chịu đóng đinh trên thấp giá với Chúa Giêsu có hai tên trộm, một tên bên phải, một tên bên trái. Người Do Thái cố tình làm như vậy để nhục mạ Đức Giêsu, coi Ngài như vua trộm cướp. Tên trộm bên trái đã theo cái nhìn của người Do Thái, anh nhục mạ, mỉa mai Đức Giêsu: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi nữa.” Tên trộm bên phải đã không nhìn theo cái nhìn bên ngoài, nhưng anh đã tin Đấng đang bị đóng đinh bên cạnh là Đấng quyền năng là vua là Thiên Chúa. Vì vậy, anh đã mắng tên trộm bên kia vì hắn không biết kính sợ Thiên Chúa và thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” Chúa Giêsu đã đáp lại lòng tin của anh một cách hết sức quảng đại: “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ được vào Thiên Đường với tôi.”
Người đời sẽ cho rằng quyết định cuối cùng này của Đức Giêsu là vô lý, nhưng Thiên Chúa không dựa trên lý lẽ của con người. Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của mỗi người, Ngài chỉ quan tâm đến hiện tại và mở ra cho con người một tương lai. Chúa Giêsu không quan tâm đến quá khứ trộm cướp của anh trộm này, Ngài chỉ quan tâm lúc này đây, anh sám hối và tin vào Ngài là Thiên Chúa đồng thời khiêm tốn cầu xin với Ngài. Thiên Chúa sẵn sàng mở rộng vòng tay đón nhận tất cả, tha thứ tất cả và ban tặng cho họ một tương lai mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Thưa quý OBACE, để xin nhập cảnh vào Hoa Kỳ hay các nước luôn đòi phải có Visa và phải đáp ứng các điều kiện của quốc gia đó. Cũng vậy, để vào Nước Trời mỗi người cũng cần phải đáp ứng điều kiện của Nước Trời. Điều kiện của Nước Trời rất đơn giản, chỉ cần có một đức tin chân thành được thể hiện qua sự thiện chí, cố gắng của mỗi người. Vương quốc Nước Trời là nơi dành cho tất cả mọi người thuộc mọi dân mọi thành phần. Cho dù họ là người tốt lành hay kẻ gian ác, nhưng có lòng tin, biết hối hận và thành tâm thiện chí thì sẽ được vào.
Mừng lễ Chúa Giêsu vua vũ trụ, chúng ta cùng suy tôn vương quyền của Chúa Giêsu, Đấng đã được Thiên Chúa đặt làm vua thống trị muôn loài. Chúng ta suy tôn không chỉ qua một buổi lễ nhưng phải là sự thần phục hoàn toàn vương quyền của Ngài. Nhờ Bí tích Rửa tội, mỗi người đã được gia nhập vào vương quốc của Chúa Giêsu, vì thế chúng ta phải tôn Ngài làm chủ là Đấng dẫn dắt cuộc sống cá nhân và gia đình; phải tuân hành cách tốt đẹp luật pháp trong vương quốc của Ngài, luật của vương quốc Vua Giêsu chính là lề luật của Tin Mừng. Chúng ta còn phải trở thành người bảo vệ và là chiến sĩ chinh phục mọi người gia nhập vào vương quốc của Chúa.
Thế giới ngày nay đang tạo ra rất nhiều ngẫu tượng, thần tượng và những vương quốc ảo để lôi kéo mọi người. Nhiều người bị lôi kéo vào thế giới ảo: thế giới công nghệ, thế giới của người giàu, thế giới kinh doanh…nhiều người đang cố gắng để gia nhập các thế giới đó bằng mọi giá. Nhiều người trẻ ngày nay bị quay cuồng với cám dỗ trở thành vua trong các lãnh vực… coi đó như một giải pháp đem đến sự an toàn và hạnh phúc. Vì vậy, nhiều người đã sẵn sàng đánh đổi đời sống đạo của mình, loại trừ vua Giêsu ra khỏi cuộc đời để phục lạy các thế giới này. Thực tế cho thấy các thế giới do con người tạo ra, các vua do con người dựng nên đều là giả dối, đều mau chóng xụp đổ. Những ai đặt cuộc đời vào nó chắc chắn sẽ bị thất bại và thất vọng.
Thế giới của ma quỷ là có thật, nó rất mạnh và rất mưu mô, nó sẵn sàng tấn công lừa đảo, lôi kéo con người. Khi tâm hồn và gia đình không có Chúa thì ma quỷ sự dữ sẽ xâm chiếm tâm hồn đó và gia đình đó. Ma quỷ sẽ làm cho tâm hồn trở nên ngày càng tồi tệ hơn, bất an hơn; nó làm cho gia đình bất hòa bất hạnh và gây đổ vỡ cho gia đình.
Vương quốc của vua Giêsu là vướng quốc của tình yêu, bình an và hạnh phúc, những ai thường xuyên đón Chúa qua việc lãnh nhận các Bí Tích, Chúa sẽ là vua bảo vệ tâm hồn đó. Cũng vậy, những gia đình nào đem Chúa về với gia đình, đặt Chúa làm vua của gia đình, suy tôn Chúa qua các giờ kinh sớm tối, Chúa sẽ là vua, là chủ và là Đấng bảo vệ gia đình và đem đến cho gia đình hạnh phúc và bình an.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt Chúa làm vua làm chủ hướng dẫn cuộc sống cá nhân và gia đình, tôn vinh vương quyền của Chúa qua việc sẵn sàng vâng theo sự hướng dẫn chỉ dạy của vua Giêsu. Amen.
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Khép lại chu kỳ năm C, phụng vụ của ngày đại lễ hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô là Vua vũ trụ. Các bài đọc Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe giúp khám phá ý nghĩa tước hiệu vua của Chúa Kitô, Nước Chúa Kitô và những điều kiện để vào Nước Chúa.
1- Ý nghĩa tước hiệu vua của Chúa Kitô
Chúng ta có thể hiểu sai về tước hiệu vua của Chúa Kitô. Điều này đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu.
Quả thế, trong Tin Mừng, dân chúng và nhiều môn đệ của Đức Giêsu có một quan niệm về Đấng Mêsia theo nghĩa chính trị. Họ chờ đợi một Đấng Mêsia, một vị vua đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ và thống trị của người La Mã. Bởi thế, khi Đức Giêsu xuất hiện như là một người giảng dạy có uy quyền, có khả năng làm nhiều phép lạ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, họ tôn Người lên làm vua.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thẳng thắn khước từ kiểu làm vua theo nghĩa chính trị và trần thế như vậy. Một đàng, Người tự nhận mình là Vua và đến trong thế gian để làm Vua. Nhưng đàng khác, Người xác định rõ tước hiệu vua của mình theo một kiểu khác. Trong cuộc đối thoại với Philatô, Chúa Giêsu làm rõ điều đó. Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu trả lời: “Chính ông nói điều đó, tôi là vua” (x. Ga 18,37).
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu, đó là biến cố thập giá. Nếu thập giá là hình phạt ô nhục nhất đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, thì theo cái nhìn thần học của Luca, thập giá là tột đỉnh của tình yêu và nguồn mạch ơn cứu độ. Bởi thế, cả cuộc đời Đức Giêsu hướng về Giêrusalem và nhất quyết đi lên đó. Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá cùng với hai tên gian phi. Một tên chết đến gần cửa cổ mà vẫn còn chế nhạo Người. Còn một tên nhận ra Người là Con Thiên Chúa và là vua; anh ta cầu khẩn Người: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Đây là lúc Đức Giêsu thể hiện khuôn mặt đích thực của một vị vua uy quyền. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá lời cầu xin. Thay vì hứa một tương lai bất định, Người nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Như thế, Đức Giêsu trên thập giá thực thi quyền bính của một vị vua của tình yêu. Đúng như bản án được ghi trên thập giá: “Đây là Vua người Do Thái.” Người không chỉ là vua Do Thái mà còn là Vua muôn dân, Vua vũ trụ. Trước đây Đức Giêsu tránh tước hiệu vua kẻo người ta hiểu lầm. Bây giờ, tước hiệu vua xuất hiện trước mắt mọi người một cách rõ ràng nhất. Từ khi Người hiến mình trên thập giá, Người là vua đích thực cai quản theo cách của mình mà Philatô và những người lãnh đạo Do Thái không thể nào hiểu.
2- Ý nghĩa Nước Chúa Kitô
Vậy nếu Chúa Kitô là Vua, Người làm Vua ở đâu hay ở nơi nào? Khi nói đến Nước Chúa Kitô, chúng ta có thể hình dung về một vị Vua cai quản một vùng đất, một quốc gia hay một địa hạt nào đó. Thực ra, Nước Chúa Kitô không được đồng hóa với bất cứ quốc gia hay vương quyền trần thế nào trên thế giới, nó vô hình, người ta không quan sát được. Chính Chúa Giêsu quả quyết với Philatô rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36).
Nhưng Nước Chúa là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (x. Rm 14,17); Nước Chúa hiện diện trong tâm hồn mỗi người. Và Đức Kitô là vua các tâm hồn con người. Lời cầu nguyện rất ý nghĩa của Kinh Tiền Tụng nhắc nhở chúng ta rằng vương quốc của Người là “một vương quốc vĩnh cửu và vô biên: vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an.”
Trong Nước đó, thập giá là ngai tòa, mão gai là vương miện, lưỡi đòng là vương trượng, áo mặc là long bào, hai cánh tay giang ra là cán cân công lý, lề luật xét xử là tình yêu, sự yếu hèn của thập giá là sức mạnh và quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Vương quốc này không có quyền lực, không có binh đội nào để sử dụng. Ai, đứng về sự thật và tình yêu thì thuộc về Nước Chúa.
3- Để thuộc về Nước Trời
Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Đức Kitô là Vua nhân loại; Người giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi và cho ta được gia nhập vào Nước Chúa, như lời thánh Phaolô nói ở trong bài đọc II: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi… Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,13-14.20).
Đức Giêsu là Vua dẫn chúng ta vào Nước Trời để hiệp thông với Thiên Chúa và để lãnh nhận ơn cứu độ. Người trộm lành trở thành hình ảnh của hy vọng – sự an ủi chắc chắn, lòng nhân từ của Thiên Chúa có thể đến với chúng ta ngay trong giây phút cuối cùng; dù có lầm lạc hay yếu đuối thế nào, nhưng nếu chúng ta biết hoán cải và cầu xin ơn lòng khoan hậu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện đó sẽ không vô ích.
Từ những ý nghĩa trên, có một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đặt ra trong ngày lễ này là Chúa Kitô có phải là Vua của tâm hồn tôi không? Tôi có nhận biết và tôn thờ Người như là Vua không? Theo thánh Phaolô, có hai cách thế sống: hoặc là sống cho chính mình hoặc là cho Chúa (Rm 14,7-9). Sống cho mình nghĩa là khép kín trên chính mình, chỉ lo tìm thỏa mãn và vinh quang cá nhân mà không có hướng nhìn về vĩnh cửu. Ngược lại, sống cho Chúa là hiến mình cho Người, sống theo ý Người, vì vinh quang và Nước Chúa.
Sống cho Thiên Chúa cũng có nghĩa là thực thi lòng bác ái đối với tha nhân, nhất là phục vụ những người nghèo và người đau khổ. Đây cũng là điều kiện để được vào thiên đàng. Bởi lẽ, vào ngày sau hết, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta làm hoặc không làm cho những kẻ bé mọn nhất. Tin Mừng Mátthêu 25 nói về tiêu chuẩn của sự phán xét chung: Vị Vua nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi… vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36).
Như thế, để được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, chúng ta được mời gọi thực thi lòng thương xót đối với những người nghèo và những ai gặp đau khổ. Nguyện xin Đức Maria, Nữ Vương trời đất, hướng dẫn chúng ta trên con đường hướng về Nước Trời. Amen.
.
Lm Vũđình Tường
Đức Kitô, vua nước trời xuống trần gian được đại đa số đón nhận và thiểu số cực lực chống đối. Đón nhận vua nước trời là những nghèo khó, kẻ bị áp bức, bị đối xử bất công, bị hành hạ, coi thường trong xã hội họ đang sống. Họ vui mừng đón nhận Ngài. Hàng hàng, lớp lớp đến lắng nghe, học hỏi và trở thành môn đệ. Họ là số đông nhưng không nắm quyền hành trong tay, số đông của thấp cổ, bé miệng. Họ đón nhận Ngài vì họ mong được giải thoát khỏi ách nô lệ, giã từ giai cấp bần cùng, bị ép buộc phục vụ. Đối nghịch thành phần nghèo hèn là thành phần kiêu căng, nhờ giầu sang, cậy trưởng giả, bám vào trí thức. Họ là thành phần thiểu số, họ cực lực phản đối, chống lại bởi họ có quyền trong tay, có chức, có lực, có kẻ theo hầu và họ thưởng đám đầy tớ này làm công cụ, phục vụ, nghe lời họ sai bảo, tìm cách trước là hạ nhục vua nước trời, Đức Kitô. Nếu số người ủng hộ vẫn đông đảo họ sẽ thi hành cách tàn bạo, đáng khinh bỉ hơn là thủ tiêu Vua nước trời. Họ thủ tiêu bằng cách mượn tay ngoại bang để tay họ khỏi dính máu người khác. Ngoại bang trong trường hợp này là sức mạnh của quân viễn chinh Roma.
Dù đón nhận hay chống đối cả hai nhóm nghèo, giầu đều hiểu sai í nghĩa phục vụ Vua nước trời giảng dậy.
Thứ nhất, Ngài không đến làm chính trị bởi nước của Ngài không thuộc về trần thế. Ngài không tổ chức đội quân, cảnh sát hay ngấm ngầm cộng tác với côn đồ. Môn đệ của Ngài được học về yêu tha nhân, tha thứ nếu lỡ có tránh tranh chấp. Trong mọi hoàn cảnh luôn tìm cách giúp đỡ, không phân biệt mầu da, thành phần, giai cấp. Ngài đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ tội lỗi của chính họ, và tội lỗi của xã hội họ đang sống. Để khỏi chết muôn đời do tội lỗi gây ra, Ngài ban cho họ sự sống trường sinh. Tất cả những ai đón nhận với tâm tình đó đều được hưởng nước trời, sau khi họ hoàn thành cuộc lữ hành trần thế. Thành phần chống đối khởi đầu bằng việc ghen tị. Đám đông khen ngợi, ca tụng Vua nước trời khiến họ bực mình, ghen ghét. Đổ thêm dầu vào lửa là do giáo huấn của Ngài. Giáo huấn ngài hướng dẫn, kêu gọi sống công chính; nghịch điều nhóm lãnh đạo đang làm. Ngài kêu gọi tha thứ; chạm phải điều nhóm lãnh đạo chủ trương trả thù, tiêu diệt thành phần không chung chủ trương với họ. Ngài kêu gọi sống bình đẳng; trái với chủ trương giai cấp cai trị và bị cai trị. Vì những lí do trên mà họ quyết tâm chống lại. Bởi sống theo Ngài là họ mất quyền cai trị, quyền được ăn, được nói, được trọng vọng nơi công chúng. Điều này cho thấy giáo huấn của Vua nước trời không có gì sai. Giáo huấn này bị chống đối bởi nhóm thống trị đặt quyền lợi cá nhân trên công chúng. Họ không thể giết Vua nước trời vì giáo huấn của Ngài. Nhóm thống trị ghép cho Vua nước trời tội làm loạn, tụ tập đám đông chống lại nhóm lãnh đạo, tội phản nghịch xử tử hình.
Thứ hai, cả hai nhóm đều không hiểu Vua nước trời đến không phải để tỏ uy quyền mà để phục vụ và cứu chuộc. Vì hiểu lầm như thế nên khi xét xử Ngài họ luôn kêu Ngài là ‘vua’ theo nghĩa nhục mạ, xỉ nhục hơn là kính trọng. Ba nhóm người đại diện cho xã hội đều kêu gọi Vua nước trời tỏ quyền năng ra nhưng Ngài từ chối. Nhóm lãnh đạo các tôn giáo đứng từ xa nhìn khinh bỉ. Họ nói với nhau: ‘Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu hắn thật là ĐẤng Kitô.’ Lk 23,35. Gần Ngài hơn, dưới chân thập tự, nhóm lính nghe Ngài kêu khát. Chúng lấy dấm đưa cho và nói ‘Nếu ông là vua dân Do Thái, thì cứu lấy mình đi’. c. 37. Gần hơn cả là tên trộm bị treo trên thập giá, lên tiếng ‘Ông không phải là Đấng Kitô sao? hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa c. 39’. Cả ba nhóm đều muốn Vua nước trời tỏ uy quyền. Vua nước trời đến để hoà giải, tha thứ nên Vua nước trời lên tiếng xin tha cho mọi người ‘Lậy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm c. 34’. Tất cả đều muốn được cứu nhưng họ muốn Vua nước trời cứu theo phong cách của họ. Có nghĩa là biểu diễn uy quyền bằng cách tự xuống khỏi thập giá. Vua nước trời muốn cứu họ theo phong cách của Ngài, không phải cách của họ, vì thế họ từ chối.
Không phải tất cả đều từ chối giáo huấn của Vua nước trời. Trong cơn cùng cực một trong hai tên trộm nhận ra điều đó và anh ta đã nói với Vua nước trời. ‘Ông Giêsu ơi, khi nào ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi c.43’ . Vua nước trời hứa với anh ta ‘Ngay hôm nay anh sẽ ở thiên đàng với Tôi c.43b’.
Sau khi Ngài tắt thở một số chứng kiến cảnh bất thường của đất trời liền đấm ngực ăn năn, thống hối. Người đầu tiên là thủ lãnh nhóm hành hình ông ta đấm ngực nói ‘Người này đích thực là người công chính’ c.47b. Đám đông cũng âm thầm ra về, không còn vung tay đả kích như trước.
‘Ngay hôm nay anh sẽ ở thiên đàng với Tôi’ chính là sứ mạng trần thế của Vua nước trời. Mục đích của Ngài đến trần gian là ban sự sống đời đời cho những ai đón nhận và tin vào Ngài.
.
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Tin Mừng Chúa Nhật cuối cùng năm Phụng vụ C tường thuật lại cái chết ô nhục của Chúa Giêsu Kitô trên thập giá để nói về chức vị Vua cao cả của Ngài. Giữa những lời nhạo báng và thách thức, nổi bật lên một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa.
Tên trộm lành, một trong hai kẻ cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu, đã hiểu và tin vào Vua Giêsu Kitô, nên đã thưa với Chúa: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! ” (Lc 23,42). Chúa Giêsu đã an ủi và bảo đảm với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43).
Chúa Giêsu là Vua, một vị Vua chỉ nói lời yêu thương và tha thứ, chứ không nói lời kết án. Ngài đã thoát ra khỏi quy luật bình thường của một vị vua trần gian, như Ngài đã nói: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).
Vương quốc của Vua Giêsu Kitô là vương quốc của Tình Yêu vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Nhưng Ngài không đòi hỏi phải được phục vụ như một vị vương đế: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45).
Ngài yêu thương con dân và đã hi sinh mạng sống mình trên thập giá một cách khổ nhục để cứu họ thoát khỏi ách thống trị của sự chết. Ngài dùng tình thương để cai trị đồng thời đòi hỏi các thần dân của Ngài cũng phải biết yêu thương như chính Ngài đã yêu thương họ.
Ngài đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ, những kẻ đau ốm, những kẻ tù đầy, những kẻ đói khát, trần truồng. Mỗi khi chúng ta làm một nghĩa cử yêu thương cho tha nhân là chúng ta làm cho chính Chúa như lời Ngài đã phán: ”Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta“ (Mt 25, 40).
Khi nhận lãnh bí tích Thanh tẩy, chúng ta cũng đã được tham dự vào vương quyền của Đức Giêsu Kitô. Là người thừa kế, là chi thể của Ngài, chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ và làm cho vương quyền của Ngài được mở rộng để tất cả mọi nguời nhận biết Đức Giêsu Kitô là vua vũ trụ và hết lòng tin theo Ngài.
Nói cách khác, chúng ta phải củng cố và hoàn thiện vương quốc mà Đức Giêsu Kitô đã thiết lập khi Ngài còn ở duơng thế bằng chính cuộc sống trần gian của mình. Mọi việc chúng ta làm đều phải quy hướng về Người và làm cho danh Người được cả sáng trên trần gian.
Trong xã hội ích kỷ và hưởng thụ của nhiều người hôm nay, Giáo Hội rất cần những con người sống yêu thương và phục vụ, để làm cho khuôn mặt yêu thương của Chúa luôn được tỏa sáng cho mọi người.
Sống theo lương tâm ngay chính, hoà thuận, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, làm những việc lành phúc đức… để ngày càng có thêm nhiều người sống như ta. Qua đó, Nước Chúa ngày càng được mở rộng cho đến khi nào tất cả loài người đều biết sống như thế thì Vương quốc Tình Yêu sẽ tỏ hiện dưới ánh quang Thiên Chúa.
Long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta cũng bình tâm soi xét lại cuộc đời mình để nhận ra những thiếu sót và lỗi lầm vì bao đam mê và vương vấn trần tục. Chúng ta mong đợi ngày hồng phúc, ngày Chúa của chúng ta vinh quang ngự đến, xét xử mọi người chúng ta.
Vì thế, từng giây phút ta phải sẵn sàng và chuẩn bị tâm hồn để đón rước Vua của chúng ta ngự đến trong giờ sau hết của cuộc đời mỗi người. Ngày xét xử đó có thể là “ngày hạnh phúc, vui mừng và vinh quang” nhưng cũng có thể là “ngày tăm tối, khóc lóc và nghiến răng.”
Lạy Chúa, trong những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng con nhìn lại những chân giá trị của cuộc phán xét chung ngày tận thế. Giáo Hội cũng đặc biệt nhắc nhở chúng con về vương quyền của Ðức Giêsu Kitô và mối tương quan giữa hành vi của chúng con với vương quyền ấy.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ vương quốc của Chúa là bền vững và đem lại hạnh phúc trường cửu cho chúng con. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội luôn nêu gương bác ái yêu thương cho mọi người. Xin cho các Kitô hữu biết nhìn thấy Chúa trong anh chị em nghèo khổ, bất hạnh xung quanh để tận tình hy sinh, thương yêu giúp đỡ họ cả phần hồn lẫn phần xác.
Và xin cho chúng con biết đặt niềm tin cậy vào Chúa, biết chuẩn bị ngay từ đời này những gì cần thiết. Để mai sau xứng đáng được vào Vương quốc Tình Yêu là “Vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an”.
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Cl 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, Giáo Hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.
Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người, trong khi các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền “có như vậy”. Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi được dựng nên “giống hình ảnh” của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Cl 1,15). Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà Giáo Hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đình dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.
Mối tương quan “cùng-với” này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó…, khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng “người rừng” đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại…là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.
Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quãng thời gian rao giảng Tin Mừng và đích điểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cv 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Một vị minh quân đúng nghĩa là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.
Dõng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: “Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Cl 1,20).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy… (Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27). Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi “ngự trên ngai vinh hiển của Người” sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em “bé mọn” (x.Mt 25,31-46).
.
Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1-. Trong câu đầu của đoản văn này, dù không minh nhiên trích dẫn một câu nào của kinh thánh, Lc đã ám chỉ đến thánh vịnh 22,8: “Tất cả những kẻ nhìn con (thêôrountes) đều nhạo báng con (exemuktêrisan) chúng vừa bĩu môi vừa lắc đầu”, bản văn này môt cách nào đó đã được phản ảnh lại khi Lc mô tả dân chúng và các đầu mục: “Dân chúng đứng đó và nhìn xem (theorôn). Còn các đầu mục nhạo báng (exemuktêrizon)”, qua việc dùng hai lần cùng một động từ, Lc gợi ý cho thấy cảnh đang diễn ra đây cần phải được hiểu sâu xa hơn nữa, chứ đừng dừng lại ở cử điệu bên ngoài: cảnh này hoàn tất thánh kinh cách kỳ diệu. Ở câu tiếp theo (c. 36) cũng thế, việc nhắc đến dấm chua cũng gợi lại cách xa xa Thánh vịnh 69,22: “Con khát, chúng cho uống dấm chua”.
2-. Toàn bộ đoản văn này, trong phụng vụ cũng như trong phúc âm, đã được dưới dấu chỉ “Vua”, vừa là đối tượng của cười chê nhạo báng (cc.35-39) vừa là đối tượng của niềm tin phó thác và được tưởng thưởng (cc.40-43).
Trong lúc dân chúng nhìn xem và chiêm ngưỡng cảnh này (không bản văn nào nói đến tâm tình của dân chúng) vương quyền Chúa Kitô bị các đầu mục, bộ đội, bản án và người trộm dữ nhạo cười. Các đầu mục tôn giáo nhạo báng bằng cách nại đến việc Chúa Giêsu tự xưng là Vua thiên sai. Nếu Ngài là đấng được xức dầu của Thiên Chúa (tước hiệu của Vua) là người Thiên Chúa tuyển chọn, (tước hiệu thiên sai) là đấng Cứu Thế, như Ngài nói thì hãy tự cứu mình đi! Chính qua một cơn cám dỗ tương tự mà Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ của mình (4,3). Ngài cũng đã bị cám dỗ như thế ở Nazareth, quê hương của Ngài (4,23), đó là cơn cám dỗ đầu đời trần thế; bây giờ là cơn cám dỗ cuối cùng trước khi được tôn vinh. Lời cám dỗ đó thực ra là của ma quỉ: tự bản chất nó là lời satan đề nghị khi cám dỗ Ngài trong sa mạc. Bộ đội cũng nhạo báng, khi dâng Ngài dấm chua để uống. Bản viết treo trên thập giá mà tác giả phúc âm đã ghi lại ý nghĩa hơn là dòng chữ của nó, cũng vậy Chúa Giêsu là dân Do thái. Đây là lối châm biếm sâu sắc của Philatô (Gio 19,15.19.22), người trộm dữ cũng châm biếm yêu cầu đấng mà y xem như một Messia giả (đó là một vua giả ban cho y ơn cứu rỗi mà y nghĩ là không thể thực hiện được vào chính lúc mà cả 3 tử tội sắp chết).
Thái độ ngược lại của người trộm lành thật đẹp: thống hối ăn năn các tội đã phạm, tuyên xưng sự vô tội của Chúa Giêsu. Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn là việc anh tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu như là Đấng Messia và là Vua, trong chính lúc mà mọi sự xem ra như sụp đổ. “Xin hãy nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong nước của Ngài”. Hiển nhiên theo ý anh, mọi sự không chấm dứt với cái chết của Chúa Giêsu: đối với bản thân Chúa Giêsu, đối với chủ nghĩa thiên sai, đối với chính bản thân anh: còn việc tìm biết anh ta tưởng nghĩ cách rõ ràng về cuộc sống bên kia thế giới và các nhãn giới tương lai, thì không thể xác định được.
Tuy nhiên, câu Chúa Giêsu trả lời cũng soi sáng thêm ít điều vì để anh ta hiểu, câu trả lời phải phù hợp với tâm lý và môi trường Do thái của anh. Có ba chữ biểu thị điều đó: hôm nay, với tôi, trên thiên đàng.
a/ Hôm nay: đây là một việc thực hiện ngay tức khắc chứ không phải là một việc xảy ra hoặc sau khi Chúa Giêsu phục sinh, hoặc vào ngày thế mạt.
b/ Với tôi: đây là điểm then chốt chính yếu. Hạnh phúc hứa ban cho người trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, mà anh đã chia sẻ số phận của Ngài trên thập giá.
c/ Trên thiên đàng: thành ngữ này đưa ta đi từ ngôn ngữ thực nghiệm (với tôi) sang một kiểu nói tượng hình, mà ta chớ vật chất hóa. Người Do thái đã qui ước với nhau trong việc diễn tả thế giới bên kia bằng các công thức thuộc không gian và thời gian: shéol hay địa ngục, nơi yên ngủ chung của người chết, lòng Abraham hay thiên đàng (nghĩa tự nguyên: vườn là nơi mà các người công chính qui tụ quanh các tổ phụ, chờ đợi được hoàn toàn vinh hiển trong ngày thế mạt, đây là niềm hy vọng có tính cách tiên sai và cánh chung).
Chúa Giêsu không phủ nhận hình ảnh, nhưng đã thay đổi điều thiết yếu. Vì các người được chọn sẽ không qui tụ quanh các tổ phụ, nhưng quanh Ngài. Hơn nữa, giờ chờ đợi thiên đàng đã trở nên vô ích, vì đã đến giờ được sống thân mật với đấng Cứu thế.
3-. Vương quyền đó, xem ra bị hủy hoại vì các lời thóa mạ lăng nhục. Giờ đây sắp được Chúa Giêsu tỏ hiện ngay trong khi Ngài bị sỉ nhục. Ngài thi hành vương quyền theo cách riêng của Ngài, cách hoàn toàn thần linh, không phải bằng cách xuống khỏi thập giá và đè bẹp đối phương, nhưng bằng cách kéo mọi người lên cùng Ngài, bằng cách bình tĩnh chấp nhận đau khổ. Ngay chính trên thập giá, vị vua bị đóng đinh đã bắt đầu các cuộc chinh phục tiên khởi. Thay vì xin phép lạ được xuống khỏi thập giá ngay lập tức, người trộm lành thống hối xin Đấng mà anh đã nhận biết quyền năng trong một thế giới cao siêu đừng quên anh. Anh tuyên xưng niềm trông cậy vào sự phục sinh tương lai. Anh phó thác bản thân anh vào Chúa Kitô với một tình yêu mãnh liệt nồng nàn, được diễn tả qua cách gọi thân mật: “Hỡi Giêsu”.
Và cuộc chinh phục của vị vua bị đóng đinh lan rộng đến viên sĩ quan, ông “tôn vinh Thiên Chúa khi nói: ông này thật là một người công chính” (23,47), đến đám đông dân chúng hết thảy “đều đấm ngự và lui về” (23,48) và sau cùng đến với tất cả những ai qua muôn thế hệ sẽ tin vào Ngài.
KẾT LUẬN
Cho đến chết, Chúa Giêsu vẫn luôn là Đấng Cứu rỗi, cũng như đã bênh vực người đàn bà tội lỗi trong nhà người biệt phái, những gì Ngài đã nói bằng dụ ngôn về những kẻ bị lạc mất, việc Ngài âu yếm tiếp đón Giakêu – tất cả những điều này đạt đến cao điểm trong lời hứa cứu rỗi cho người trộm lành vào giờ sau hết. Lòng thương xót của Thiên Chúa được mạc khải trong thập giá của Chúa Kitô, đấng đã chết thay và chết vì nhiều người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1-. Hôm nay chúng ta cử hành lễ kính Chúa Kitô Vua, Ngài là Con Một, là Con muôn đời của Chúa Cha. Vương quyền Ngài bao trùm toàn vũ trụ và không gì thoát khỏi quyền thống trị mọi tạo vật khi đến ngày Ngài trở lại, dịp thế mạt.
Để có thể khám phá vương quyền của Chúa Kitô và để sống vương quyền đó cách phong phú, phải công nhận hôm nay giáo hội đưa ra một trang phúc âm thật lỳ lạ.
Trong khi xung đột với các đầu mục của toàn dân, Chúa Giêsu có vẻ như là người bại trận và ai nấy đều chứng kiến cảnh thất bại của Ngài. Đối với toàn thể, đối với môn đệ, thế là hết hy vọng. Đó là tình trạng của Chúa Giêsu khi xảy ra cảnh mà chúng ta vừa nghe phúc âm kể lại. Vị vua không mấy quyền thế! Tuy nhiên, vào giữa trình thuật, chúng ta nghe đọc có treo trên đầu Ngài một bảng ghi: “Người này là Vua dân Do thái”. Thánh Gioan còn xác định rõ: dòng chữ đó đã được ghi bằng tiếng Hy bá, Latinh và Hy lạp. Vương quyền bị chi phối bởi các điều kiện nhục nhã đó là vương quyền nào?
2-. Vị vua đó, khi người ta khiêu khích, thách thức Ngài tỏ sức mạnh, sức mạnh mà Ngài luôn xác quyết, đã không phản ứng. Ngài có thể dùng sức mạnh để khỏi bị đóng đinh ở tay chân, xuống khỏi thập giá và cai trị mọi người cách uy quyền; nhưng Ngài không làm gì hết. Ngài không tìm tư lợi cho riêng mình. Ngay từ lúc sống trong sa mạc, sau khi được Gioan Baotixita làm phép rửa, Ngài đã bị một cám dỗ tương tự; người ta yêu cầu Ngài dùng uy quyền để mưu cầu tư lợi; chúng ta nhớ lại cách Ngài đã khéo từ chối.
Điều này cho chúng ta hiểu: vương quyền Ngài không nhằm phục vụ tư lợi cá nhân. Việc Ngài thống trị toàn vũ trụ không phải để tự mãn. Nếu Ngài thực thi vương quyền Ngài trức khi chết, chỉ là để đưa người trộm lành vào vương quốc Ngài. Ngài thực hiện điều đó mà không cần biểu dương quyền năng, chỉ một lời hứa là đủ vì lời Ngài là sức mạnh.
Chúa Giêsu Vua không cai trị bằng vũ lực, nhưng bằng phục vụ, yêu thương. Con người xem ra mạnh hơn Chúa Kitô trong việc áp đảo, bắt bớ và thắng Ngài. Nhưng điều đó không làm Chúa Giêsu bận tâm. Hơn nữa, chính việc Chúa Giêsu bình thản chấp nhận bị gây thương tích mạc khải cách tuyệt diệu bản chất đích thực của Vương quyền Ngài. Cái chết chỉ là một rắc rối nhỏ không ảnh hưởng gì đến sự tự do hành động của Ngài, chỉ là một giai thoại tạm thời trong đời sống vĩnh cửu.
Qua thái độ và lối sống, Chúa Giêsu bị đóng đinh (mà phúc âm ghi lại) đã mạc khải bản chất vương quyền bí nhiệm của Ngài: không muốn thống trị con người, có thể bị con người tấn công. Tuy nhiên vương quyền đó có khả năng giúp mọi người thắng vượt cái chết cách vẻ vang.
3-. Cả giữa những người Kitô hữu, phải chăng đã có lắm kẻ đòi Chúa Kitô dẹp tan sự đau khổ, bất công, chiến tranh… cách thần thông đó sao? Có người nói: nếu Chúa Kitô là vua thì hãy tạo cho chúng tôi một xã hội tốt đẹp hơn và bấy giờ chúng tôi sẽ tin vào Ngài. Chúa Giêsu không trả lời điều đó bằng phép lạ, điềm thiêng. Ngài chỉ làm gương bằng một tình yêu và lòng tha thứ tuyệt đối. Với những người thành tâm thiện ý hằng ao ước Vương quốc Ngài chóng đến, thì gương sáng và ân sủng Ngài ban cho các tâm hồn, là đủ.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – LỄ CHÚA KITÔ VUA
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ đã được Đức Pi-ô XI thiết lập, nhằm khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng hoàn vũ của Chúa Ki-tô trên cá nhân, gia đình và xã hội. Trong Thông Điệp “Quas primas” được ban hành vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI lên án đặc biệt chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa này phủ nhận triệt để vương quyền của Chúa Ki-tô. Đức Giê-su không những là Thầy, là Anh, là Bạn mà còn là Vua của chúng ta nữa.
2Sm 5: 1-3
Bài Đọc I gợi nhớ tổ tiên của Chúa Ki-tô là vua Đa-vít. Trước đó, Đa-vít đã được các chi tộc miền Nam tôn phong làm vua, bây giờ lại được các chi tộc miền Bắc tấn phong làm vua tại Khép-rôn. Như vậy, vua Đa-vít, tổ tiên của Đức Giê-su, đã thống nhất toàn thể dân Ít-ra-en và đã thiết lập vương quốc trong sự bình an thịnh trị.
Cl 1: 12-20
Trong thư của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Cô-lô-xê, chúng ta gặp thấy một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, tôn vinh Chúa Ki-tô, Ngài là Chủ Tể của vũ trụ và là Thủ Lãnh của Giáo Hội.
Lc 23: 35-43
Tin Mừng Lu-ca thuật lại tình tiết của người gian phi sám hối. Anh nhận ra ở nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh là Người Công Chính thập toàn, Vua Thiên Quốc, Đấng đầy lòng thương xót, Ngài có quyền dẫn đưa các tội nhân vào Vương Quốc của Ngài.
BÀI ĐỌC I (2Sm 5: 1-3)
Bản văn này đưa chúng ta trở lại bối cảnh của năm 1000 trước Công Nguyên. Trong thời gian dài, dân Ít-ra-en đã từ chối chọn cho mình một vị vua, vì Đức Chúa là vua duy nhất của họ.
- Hoàn cảnh đòi buộc
Trong những giờ phút nguy kịch cần đến những hành động đúng lúc, các chi tộc chỉ định những vị đứng đầu tạm thời mà họ gọi các “Thủ Lãnh”. Nhưng trước mối nguy của quân Pha-lê-tinh càng lúc càng khẩn thiết và nghiêm trọng, toàn dân Ít-ra-en cảm thấy cần phải huy động mọi sức mạnh và phối hợp mọi thế lực. Ông Sa-mu-en, vị Thủ Lãnh cuối cùng đã xức dầu tấn phong vua Sa-un (vào năm 1030-1025 trước Công Nguyên). Nhưng vì vua Sa-un đã làm những điều trái mắt Đức Chúa, ngôn sứ Sa-mu-en được Đức Chúa sai đi xức dầu tấn phong cậu bé Đa-vít, con trai út của ông Gie-sê, thay thế vua Sa-un.
- Đa-vít được tấn phong làm vua
Kể từ khi còn ở dưới trướng của vua Sa-un, Đa-vít đã tỏ ra là một người có tài thao lược. Vả lại, tên “Đa-vít” có nghĩa “thủ lãnh”, “người chỉ huy”. Thuộc hạ của ông đã ca ngợi nhân cách của ông, lòng quảng đại của ông trong việc phân chia chiến lợi phẩm. Đồng thời, việc ông xuất thân từ làng Bết-lê-hem chiếm được cảm tình của các chi tộc miền Nam, họ đã tôn ông lên làm vua tại Khép-rôn (vào năm 1010 trước Công Nguyên).
Vào lúc đó, các chi tộc miền Bắc vẫn trung thành với nhà Sa-un. Nhưng những cuộc tranh chấp quyền hành và những cuộc trả thù đã dẫn đến việc ám sát vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un. Vì thế, các chi tộc miền Bắc liên minh với vua Đa-vít. Đoạn trích hôm nay là chuyện tích về các chi tộc miền Bắc thần phục vua Đa-vít.
- Sấm ngôn về vua Mê-si-a
Như vậy vua Đa-vít trở thành vua của toàn dân Ít-ra-en và cai trị một dân thống nhất; “vua Đa-vít lập giao ước” với toàn thể các chi tộc Ít-ra-en. Vua đã chiếm Giê-ru-sa-lem và thiết lập thành này làm thủ đô. Đa-vít là vị vua đầu tiên của thành thánh, thành này sẽ là biểu tượng nơi cư ngụ của Đức Chúa ở cõi thế.
Các ngôn sứ sẽ nêu bật nhân cách Đa-vít và sẽ loan báo rằng từ nhà Đa-vít sẽ sinh hạ vua Mê-si-a mà vương quốc của Ngài sẽ là vương quốc bình an và công chính.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 12-20)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-lô-xê này chứa đựng một bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô, Chủ Tể của vũ trụ và Thủ Lãnh của Giáo Hội.
- Bối cảnh
Thư gửi tín hữu Cô-lô-xê được viết trong khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61 và 63. Trong thời gian này, thánh Phao-lô đã suy nghĩ sâu xa về Chúa Ki-tô, trên cùng một mức độ như người ta gặp thấy trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thư này thuộc cùng một thời kỳ. Nhưng bài thánh thi, trung tâm phát triển đạo lý của thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, xem ra là một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, cũng như bài thánh thi được trích dẫn trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê. Trong trường hợp thư gửi tín hữu Cô-lô-xê này, bài thánh thi là câu trả lời tốt nhất cho những biện luận sai lạc được phổ biến trong khắp các giáo đoàn miền Phygia. Thánh nhân đã được báo cho biết những biện luận sai lạc này: chúng giảm thiểu vai trò của Chúa Ki-tô trong công trình tạo dựng cũng như công trình cứu độ, vì quá đề cao những quyền năng trung gian, nhất là các thiên sứ.
Đoạn trích hôm nay gồm có hai phần: phần dẫn nhập (1: 12-14) và bài thánh thi (1: 15-20).
- Phần dẫn nhập (1: 12-14)
A- Vương Quốc của Thánh Tử
Phần dẫn nhập mở đầu với việc chúc tụng Chúa Cha. Ở phần dẫn nhập này, chúng ta gặp thấy lần duy nhất trong Tân Ước diễn ngữ “vương quốc Thánh Tử chí ái”. Các tác giả Tin Mừng nói về Vương Quốc Thiên Chúa hay Nước Trời, chứ không Vương Quốc Thánh Tử. Thật ra, trước quan tổng trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã công bố mình là vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này (Ga 18: 36). Ở đây, rõ ràng thánh Phao-lô ca ngợi vương quốc của Thánh Tử.
B- Cảm tạ Chúa Cha
Chính luôn luôn với Chúa Cha mà thánh Phao-lô dâng lên lời nguyện cầu của mình; và cũng chính luôn luôn về Chúa Cha mà thánh nhân quy chiếu nguyên lý cứu độ. Lời cầu nguyện của Giáo Hội cũng sẽ theo cùng một chuyển động như thế: cầu nguyện là hành vi cảm tạ Thiên Chúa, vì Đức Ki-tô và nhờ Đức Ki-tô.
Rõ ràng thánh nhân đang mời gọi các Ki-tô hữu gốc lương dân, chắc chắn họ chiếm đa số trong Giáo Đoàn Cô-lô-xê, hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng “đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng”. Ơn cứu thoát vốn là gia nghiệp được dành riêng cho dân Ít-ra-en xưa, nay Thiên Chúa cho dân ngoại cũng được dự phần vào (x. Cl 1: 11-13). Họ được dự phần vào nhờ phép Thánh Tẩy, tức là lìa bỏ mọi quyền lực tối tăm mà bước vào “trong cõi đầy ánh sáng”.
Đoạn, thánh Phao-lô chuyển từ “anh em” sang “chúng ta”: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm”. Thánh nhân không tách mình ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Không phải chính thánh nhân cũng đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và được ánh sáng chói lòa của Đấng Phục Sinh quật ngã và chinh phục trên đường Đa-mát đấy sao?
C- Ơn Cứu Độ
Sau cùng, lời ca ngợi cao cả nhất dâng lên Thiên Chúa: “Người đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi”. “Ơn cứu chuộc” không gì khác hơn là giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi, tức là ơn tha thứ tội lỗi, do sáng kiến của Chúa Cha, nhờ Đức Giê-su Ki-tô là Thánh Tử.
Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô dùng thì quá khứ: “Người đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái”. Đây là nét đặc trưng của các “thư trong tù” của thánh nhân. Ơn cứu độ là một thực tại đã được thực hiện rồi và đang thành tựu. Trong thư gửi cho các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân cũng nói như thế: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6). Trong cảnh xiềng xích, thánh nhân đã chiêm ngắm mầu nhiệm; thánh nhân định lượng sự viên mãn của mầu nhiệm; thánh nhân chăm chú chiêm ngưỡng ơn cứu độ đã được thực hiện và đang đơm bông kết trái. Từ suy niệm, thánh nhân dẫn đưa chúng ta vào bài thánh thi tôn vinh Thánh Tử.
- Bài thánh thi (1: 15-20)
A- Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong công trình tạo dựng
“Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử nắm quyền Trưởng Tử trên mọi loài thụ sinh,
vì trong Người muôn vật được tạo thành,
trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.
Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn trào lưu minh triết:
–“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,
là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,
là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26).
–“Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người,
trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.
Ta đã được tấn phong từ đời đời,
từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất…
Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời…
Khi người đặt nền móng cho đất.
Ta hiện diện bên Người như tay thợ cả…” (Cn 8: 22tt.).
Phần mở đầu của bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ:
“Vì trong Người muôn vật được tạo thành,
trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.
Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ của thư gửi các tín hữu Cô-lô-xê này trong Tựa Ngôn của mình:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành.
Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).
Viễn cảnh của bài thánh thi không mang tính vũ trụ, nhưng mang tính thần học: Đức Giê-su Ki-tô “thâu tóm” trong Ngài toàn thể vũ trụ:
“Người có trước muôn loài muôn vật,
tất cả đều tồn tại trong Người” (1: 17).
B- Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên
Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài cũng là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thụ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền: Đức Giê-su Ki-tô là “An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (Kh 22: 13).
Chính Đức Giê-su Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ:
“Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá,
Thiên Chúa đem lại bình an
cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (1: 20).
Song đối với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.
Khi trích dẫn thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô này, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây diễn ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự.
TIN MỪNG (Lc 23: 34-43)
Vào Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ này, năm phụng vụ của Tin Mừng Lu-ca, Giáo Hội trích dẫn Tin Mừng Lu-ca để gợi lên dung mạo của Vua Ki-tô.
- Bối cảnh
Đức Giê-su bị đóng đinh, bị bêu xấu, đối tượng của những lời nhục mạ và chế nhạo. Ở đây, chúng ta có thể nhận ra Tv 22: 8:
“Thấy con ai nấy cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mĩa mai”.
Ở trên đầu Ngài, một tấm bảng ghi bản án: “Đây là vua người Do thái”.
Thật ra, Tin Mừng Lu-ca bày tỏ thái độ thiện cảm của dân chúng đối với Đấng chịu đóng đinh. Họ không dự phần vào những lời nhục mạ; họ trầm ngâm đứng nhìn. Nhưng rồi một ánh sáng bất chợt lóe lên, những lời nói thốt lên trước khi mọi sự được hoàn tất. Đó là những lời nói phát xuất từ một trong hai tên gian phi chịu đóng đinh với Chúa Giê-su. Tình tiết này thuộc riêng thánh Lu-ca.
- Lời khẩn nguyện của người gian phi sám hối
Trong khi một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài buông những lời phỉ báng mà hắn đã nghe các thủ lãnh Do thái nhục mạ Đức Giê-su: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!”, thì người gian phi kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không sợ!”, rồi công bố Ngài vô tội: “Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm gì trái!”.
Ân sủng được ban ngay tức khắc cho người gian phi khiêm tốn này, anh xưng thú tội lỗi mà mình đã làm, và như thế mặc nhiên bày tỏ tâm tình sám hối của mình. Anh ta nhận ra Đức Giê-su là vua Mê-si-a và lời cầu xin đầy tin tưởng của anh chứng tỏ anh tin chắc là mình được tha thứ: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.
Thật hiếm khi Đức Giê-su được gọi đích danh như thế. Chắc chắn, ở đây có một ghi nhận mang tính thực tế: tiếng kêu của một tội nhân ngỏ lời với người cùng chịu chung cảnh cùng khốn với mình: “Xin nhớ đến tôi”. Đây là lời mở đầu kinh nguyện Do thái mà những người hấp hối ngỏ lời với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con”, “Xin nhớ đến giao ước của Ngài”, vân vân.
- Lời đáp trả của Chúa Giê-su
Đức Giê-su trả lời anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Đây là lời khẳng định long trọng: “Tôi bảo thật anh” mà Lu-ca hiếm khi sử dụng.
Tại Tin Mừng Lu-ca, “Hôm nay” là từ ngữ luôn luôn được kết nối với sự đăng quang của ơn cứu độ. Đó là “hôm nay” mà các thiên sứ đã loan báo ở Bết-lê-hem: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (2: 11); đó là “hôm nay” mà Chúa Cha đã công bố vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3: 22); đó là “hôm nay” mà Chúa Giê-su đã tuyên bố ở hội đường Na-da-rét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe” (4: 21), và cũng là “hôm nay” mà Ngài đã ngỏ lời với ông Da-kêu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19: 9).
Kể từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, niềm tin vào sự sống lại vào ngày tận thế ló rạng, Thiên Đàng biểu tượng nơi ở mà những người công chính mong chờ sau khi qua đời. Thuật ngữ này luân phiên với diễn ngữ “trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham” mà Lu-ca nêu lên trong dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô khốn cùng. Anh La-da-rô qua đời, được vui hưởng niềm hoan lạc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (16: 23).
- “Anh sẽ được ở với tôi”
Trong lời khẩn nguyện khiêm tốn, người gian phi sám hối phó thác tương lai của mình vào Đức Giê-su. Tương lai này được tóm gọn vào lời Chúa Giê-su ngỏ với anh: “Anh sẽ được ở với tôi”, lời này định nghĩa đức cậy trông của Ki-tô giáo. Niềm hoan lạc của Nước Trời hoàn toàn được thu tóm ở nơi lời hứa này về cuộc sống thân mật với Chúa.
Chúng ta đừng quên nét đặc trưng của Tin Mừng Lu-ca là lòng Chúa xót thương. Chẳng hạn như chỉ thánh Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su tha thứ người phụ nữ nổi tiếng tội lỗi trong thành: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha thứ, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (7: 47), hay chỉ mình thánh Lu-ca ghi lại dụ ngôn: ‘Người cha nhân hậu” (15: 11: 32), dụ ngôn: “Người Sa-ma-ri nhân lành”, hoặc chỉ có mình Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su cầu nguyện cho thánh Phê-rô trước khi bước vào cuộc Thương Khó Tử Nạn của Ngài: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy cầu nguyện cho anh để anh không mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (22: 32).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chỉ thánh Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su cầu nguyện trên thập giá cho những người hãm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (23: 34) và câu chuyện thật cảm động của một người gian phi sám hối.
.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.
Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).
Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.
.
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Trên báo Tuổi Trẻ cách đây khá lâu, tôi gặp một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mang tựa đề “Tôi thích làm vua”, truyện kể về một đội kịch khi đã dàn dựng xong một vở xoay quanh vai chính là một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn, người thủ vai ông vua đã không có mặt. Đang còn lúng túng thì may sao tác giả chuyện ngắn lù lù dẫn xác tới. Bằng sức ép của tình thân người ta xếp ngay ông vào vai ông vua với lời trấn an: “Làm vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai, trong ngai bệ vệ thị oai xong liền”. Tác giả đã làm như thế và buổi diễn được xem là thành công. Truyện chỉ có thế, nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận: làm vua quá dễ và xét cho cùng, làm vua cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả.
Phụng vụ hôm nay cũng đặt tín hữu đối diện với một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế nào? Đường lối làm vua của Người có nhàn hạ không?
1. Đức Kitô khởi đầu sự nghiệp bằng việc tự hiến.
Ngay từ đời đời, Đức Kitô đã là vua trên cả tạo thành, nhưng vì không muốn cho con người chỉ thấy nơi Người tự bản tính đã là vua, mà còn muốn tỏ bài cho họ hiểu để “là vua” Người phải “làm vua” nữa. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã trở thành Vua muôn vua.
Dẫu là Vua Trời, Người đã chấp nhận từ bỏ tất cả để bước xuống với đời sống con người. Sự bước xuống ấy chẳng phải là một chuyến vi hành như kiểu những ông vua trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”, ban ngày thì thét ra lửa, nhưng ban đêm lại cải trang giả dạng thường dân len lỏi vào những ngõ ngách cuộc sống để nắm bắt tình hình dân chúng, rồi bước sang ngày mới, lại áo mão nghênh ngang ra dáng đức vua oai vệ.
Sự bước xuống ấy cũng chẳng phải là những chuyến du hành như những chuyến đi lại của những ông vua hiện đại luôn được bao vây bởi những vệ sĩ cận kề hoặc những fan hâm mộ cuồng nhiệt, có muốn quan sát sự tình cũng khó mà thấy sự thật.
Nhưng sự bước xuống ấy là một chuyến đồng hành theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này, nghĩa là Vua Trời đã làm người thực thụ giữa muôn người trần gian để đồng hành với con người trong cuộc phiêu lưu cứu độ.
Từ trời cao hạ cố bước xuống với con người, chưa đủ; từ Thiên Chúa tự nguyện bước xuống làm người vì chúng ta, cũng chưa đủ; từ con người vô danh tiểu tốt lại khiêm nhường bước xuống làm một tội nhân dẫu chẳng mang tội gì, cũng chưa đủ. Qua Phúc Âm hôm nay, người ta còn thấy Người bước xuống nữa, từ một tội nhân lại nhận vào mình cái án của tên tử tội.
2. Đức Kitô xưng vương bằng việc tận hiến.
Đọc kỹ trang Tin Mừng hôm nay, người ta sẽ vô cùng sửng sốt, bởi vì hình ảnh vị vua thì quá nhạt nhòa trong khi hình ảnh của người tử tội lại thật đậm nét, đến nỗi cái chết của người ấy cũng không thể gọi là một cái chết bình thường nếu không muốn nói là “cái chết dữ”, theo ngôn ngữ Việt Nam. Thay vì triều thiên là một vòng gai, thay vì long ngai là một Thánh Giá, thay vì xa giá oai phong lẫm liệt lại chỉ là những tiếng nhục mạ thách thức của đủ mọi thành phần dân chúng. Kỳ mục ghen ghét nên nhục mạ đã đành, lính tráng liên quan gì mà phải lên tiếng, đến như anh trộm dữ chết đến nơi rồi mà vẫn không hết cay xè cà cuống độc mồm độc miệng.
Nhưng người ta càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng người tử tội ấy là Chúa Kitô, và cái chết của Người chính là đỉnh cao tận hiến, đi đến cùng trong lựa chọn hiến thân cho loài người. Nếu sinh thời Người đã nói “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến thân vì bạn hữu” thì câu nói đó trước hết đã ứng nghiệm nơi Người. Người chết thay cho nhân loại mà Người hằng yêu mến, Người chết cho họ được sống. Nhưng chính lúc Người chết lại là lúc Người tỏ mình là Vua như hàng chữ trên Thánh Giá đã ghi rõ.
Người làm Vua bằng con đường tận hiến. Như hạt lúa phải thối đi mới sinh nhiều bông hạt; như cỗ máy phải chấp nhận hao mòn đi mới phát sinh công suất; như bông hoa phải chịu ngắt đi mới trang hoàng đẹp bàn thờ; và cũng như cây nến phải chấp nhận hao mòn đi mới có thể đem cho ngày lễ ánh sáng lung linh.
3. Chúa Kitô cai trị bằng thánh hiến.
Nếu toàn cảnh Phúc Âm hôm nay là một bầu khí ảm đạm thì câu kết thúc lại là một cảnh hoàn toàn khác. Từ đỉnh cao Thập Giá, Chúa Kitô hứa Thiên Đàng cho anh trộm lành. Trong lời hứa, người ta đã thấy tỏ hiện vương quyền trời cao; trong cách hứa, người ta đã thấy vinh quang rạng ngời vương quốc; và vượt trên tất cả, trong tương quan của người trao và người nhận lời hứa, là sáng lên dung mạo của vị Vua bao dung thánh hiến tất cả để đặt vào tình trạnh sống mới.
“Hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Trong bảy lời Chúa Giêsu phán ra từ Thập Giá, đây là lời oai phong nhất, không là lời của người tử tội, mà là lời của một vị Vua quyền uy trong Vương quốc của Người là Thiên đàng. Đây cũng là lời đậm màu cứu độ nhất vì anh trộm khi chẳng còn hy vọng nào khác đã biết bám víu vào Chúa Giêsu, nên anh đã nhận được ơn cứu rỗi, tức là được thánh hiến để sẵn sàng tháp tùng Người bay thẳng vào chốn Thiên Đàng không cần qua một trạm trung chuyển nào. Sướng thật. Rõ trộm chuyên nghiệp nên phút cuối cùng còn trộm được cả Thiên Chúa.
Có lẽ cũng nên nói một chút về hai chữ “hôm nay” của lời hứa đặc biệt này, một chữ nhiều gợi ý, nhưng gắn liền với việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, nên chữ ấy cũng liên quan đến việc thánh hiến của vì Vua cứu độ. Ngay từ lúc Chúa Giêsu chịu chết, Vương quốc Thiên Đàng của Người đã tỏ hiện, vương quyền thánh hiến của Người đã phát huy, để chữ “hôm nay” trở thành chữ hiện thực muôn đời của tấm lòng vị Vua Cứu Thế.
Qua việc thánh hiến lòng cậy trông của ông trộm lành, Đức Kitô đã khẳng định đường lối làm vua của Người mãi mãi. Người thánh hiến trọn vẹn mỗi người và mọi người, như kiểu nói của thánh Phaolô: “Người thâu họp tất cả trong một đầu mối chính là Người, để mà dâng lên Chúa Cha”.
Tóm lại, Đức Kitô là một vị Vua rất khác lạ, Người làm tất cả chỉ vì muốn cứu độ muôn người: Người tự hiến cúi xuống với con người; Người tận hiến mạng sống cho con người, và Người thánh hiến để con người được sống muôn đời với Người trong vương quốc vĩnh cửu. Vấn đề còn lại là hãy tôn vương Chúa Kitô ngay trong cuộc sống hôm nay.
Có lần đến một xứ đạo vùng Hố Nai dâng Thánh Lễ, tôi không xác định được phương hướng, phải nhờ một bác tài xế chỉ cho. Bác bảo: tới ngã ba thấy tượng Chúa Kitô giang tay, hãy đi về phía tay phải, sẽ gặp địa chỉ muốn tìm. Rõ ràng chỉ là một câu nói, nhưng đầy gợi ý: hãy đi về phía tay phải Chúa Kitô bằng một cuộc sống tốt lành, người ta sẽ gặp được địa chỉ mong ước, đó là Nước Chúa Kitô, là quê hương hạnh phúc.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người.
Đó là Vương quốc của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2) Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào?
3) Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?
.
THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG NHƯ BẠN VÀ TÔI
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến nhà vua càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôm”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Vương miện là mão gai, ngai vàng là thập giá. Trên Thập giá, Chúa Giêsu lên ngôi Vua. Khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Ngài.Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết : “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng”.
Vị Vua lên ngôi trên thập giá bị nhạo báng. Các vị thủ lãnh cười nhạo: “Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!”. Bọn lính tráng chế giễu : “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!”. “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh, như thế tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ là phản ứng của người trộm lành: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái“. Anh ta thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!”. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu. “Và Người nói với anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng“. Đức Giêsu bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực.Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục.Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua. (Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện).
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Ngài là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã gọi Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố : “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Thánh Gioan Phaolô II : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành : “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống của mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu – Vua Vũ Trụ – Vua Sự Thật, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
.
NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trên thập giá, ngay trước khi tắt thở, Đức Giê-su đã hé mở cho thấy một điều vĩ đại vượt quá sức hiểu biết của tất cả mọi người: thiên đàng là vương quốc không chỉ dành riêng cho các kẻ đạo đức thánh thiện, mà trước hết là gia nghiệp biếu không cho tất cả các tội nhân cầu mong được xót thương tha thứ; điều này có thể làm nhiều người chúng ta ngạc nhiên, ngạc nhiên tới độ cảm thấy bị sốc, bị xúc phạm. Ta vẫn thường nghĩ: công dân thiên đàng phải là các bậc đạo đức thánh thiện, nếu không xuất chúng trổi vượt như các bậc đại thánh được tuyên phong thì chí ít cũng phải là lương thiện tốt lành tới một mức độ nào đó. Ấy vậy mà công dân đầu tiên và tiêu biểu của vương quốc Vua Ki-tô, công dân được chính Vua Ki-tô long trọng kết nạp ngay trên thập giá, lại là một tên đại gian đại ác tới độ xã hội loài người phải tìm cách loại bỏ bằng cách lên án tử.
Ngay cả Giê-su đang bị bị đóng đinh trên thập giá cũng bị thiên hạ bên dưới bêu rếu nhạo cười: nhạo cười vì chính tước hiệu ‘Vua’ mà ông đã tự gán cho mình; ‘Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Do Thái lúc đó đồng nghĩa với một dân tộc nhược tiểu, bị trị… và quan tổng chấn Phi-la-tô, khi cho viết, đã hàm ý đó; thậm chí cả các người Do Thái cũng cảm thấy bị nhục mạ vì cách nhạo cười bêu rếu này…, nên họ đã cực lực phản đối. Thế nhưng, người duy nhất đã nghiêm túc xác nhận lời bêu rếu trên là chính đáng, lại là chính người đang bị nhạo cười; ‘Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính ngài nói đó!” Thế thì quả thật Đức Giê-su đã khảng định cách công khải: Người là Vua, và cùng với lời tuyên bố đó, một Vương Quốc mới đã bắt đầu lộ diện, một Dân Riêng mới, một Do Thái mới. Tuy nhiên vấn nạn được đặt ra là: vương quốc đó thực tế là gì, và sẽ dành cho những ai? ai mới xứng đáng được gia nhập vương quốc của vị Vua bị đóng đinh này? Chắc chắn đó là những câu hỏi cần tìm được lời giải đáp! Trong vương quốc Do Thái của Cựu Ước, công dân là những người như tổ phụ Áp-ra-ham, đặt trọn niềm tin vào lời hứa của Đức Chúa; và họ cụ thể hóa niềm tin đó bằng việc nắm giữ trọn vẹn các lề luật do Mô-sê để lại. Vậy thì, nếu công dân vương quốc cũ đã phải là như thế thì công dân của vương quốc Do Thái Mới sẽ phải làm gì đây, đồng thời họ phải hội đủ các điều kiện nào để được gia nhập? để giải đáp vấn nạn này ta chỉ cần nhìn vào người công dân đầu tiên và tiêu biểu của Vương Quốc ấy là đã hiểu ra ngay, cả về bản chất lẫn điều kiện để được gia nhập.
Trong trình thuật thương khó của Phúc Âm Lu-ca, diện mạo người công dân đó đã được phác họa cách rõ nét: Lu-ca mô tả tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su trên thập giá là công dân đầu tiên của vương quốc mới thiết lập. Sẽ không ai gọi hắn là ‘lành’ vì cả đời tên này đã sống gian hùng và từng phạm nhiều trọng tội tới độ xã hội phải tuyên án tử. Một tên đại gian đại ác như thế mà lại được chính Đức Giê-su trực tiếp công bố rằng: anh được kể như người thứ nhất được nhận vào Vương Quốc mình thiết lập: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Ta thắc mắc: tại sao lại như thế, hắn đã làm được gì? – thưa, điều duy nhất mà tên gian phi này đã may mắn làm được trước khi chết là kêu nài tới lòng xót thương của Tân Vương: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi!” Đơn giản chỉ có thế, và thế là anh ta đã được nhận vào Vương Quốc, được trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời!
Tín hữu của mọi tôn giáo đều có chung một tư duy: ‘thiên đàng hay thiên cung’ là nơi chỉ dành cho những con người tốt lành thánh thiện. Riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho thấy điều ngược lại: trên thiên đàng của Cha Người xuất hiện một hạng người ‘lành thánh mới’, phù hợp hơn với Vương Quốc được Thập Giá tình yêu cứu độ thiết lập. Nếu ‘lành thánh cổ điển’ là tu thân tích đức, là đạo đức khôn ngoan…, chí ít cũng phải ăn ngay ở lành, thì ‘lành thánh mới’ chỉ đơn giản là đón lấy lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho mọi người trong Đức Ki-tô Giê-su. Nếu tên trộm trở nên ‘lành’, hay tên tướng cướp trở nên ‘thánh’ thì cũng chỉ vì hắn đã nại tới lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa.
Quan trọng hơn nữa: chúng ta không được coi người công dân đầu tiên này chỉ như một biệt lệ, một luật trừ hiếm hoi. Đúng hơn: anh ta phải được nhìn nhận như một nguyên mẫu (prototype) của mọi công dân trong Vương Quốc mới của Vua Ki-tô. Điều này đã được chứng minh qua thị kiến tông đồ Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?” “Họ là những người… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên… Và Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-14. 17). Thiên đàng mới hầu như gồm toàn những con người như thế cả, nói cách khác: mọi công dân Nước Trời đều phải là như thế. Vương quốc của Vua Ki-tô không phải là một thiêng đàng đầy khoái lạc được dùng để ân thưởng cho những thần dân trung tín tốt lành; Vương Quốc của Vua Ki-tô Giê-su Thập Giá chan hòa tình yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ đón nhận hết thảy mọi người, kể cả những kẻ gian hùng tội lỗi nhất, miễn là họ biết khiêm tốn đưa tay ra lãnh lấy tấm thẻ công dân được lòng thương xót Chúa ban tặng cho cách nhưng không. Đúng hơn, càng những ai nhận biết thân phận bất xứng tội lỗi của mình, thì lại càng dễ dàng mau mắn đưa tay ra đón nhận hơn. Như thế công việc và điều kiện duy nhất cần chu toàn để gia nhập Vương Quốc của Vua Ki-tô chỉ có thể là: khiêm tốn đón lấy ơn cứu độ đầy xót thương mà Thiên Chúa không ngừng trao ban!
Chúng ta được Hội Thánh nói cho biết: trong Vương Quốc ấy có một công dân rất tiêu biểu và uy tín: công dân Maria, người nữ đã từng khiêm tốn thốt lên tự đáy lòng mình: “Thiên Chúa đấng cứu độ tôi, đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn này!” (Lc 1:48) Chính vì khiêm tốn tột độ chân nhận Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình, mà Ma-ri-a mới thật sự xứng đáng trở thành Nữ Hoàng trong Vương Quốc của Vua Giê-su Ki-tô nhân ái.
Ngay cả một linh mục như tôi cũng không có cách nào khác để trở thành công dân Nước Trời! hơn nữa, nếu muốn trở thành công dân cao cấp hơn trong Vương Quốc đó, tôi sẽ phải nỗ lực trong diện nào hơn hết? Nếu trả lời được các vấn nạn trên, thời con đường ‘thánh thiện – công chính’ của tôi sẽ rộng mở hơn bao giờ hết; và rồi thì công tác mục vụ tôi đảm trách sẽ minh bạch và trực diện hơn nhiều!
Lạy Vua Ki-tô của vương quốc tình yêu cứu độ, xin hãy tiếp nhận con vào vương quốc của Người; xin cũng hãy nói với con như Chúa đã từng công bố với tên gian phi: “ngay hôm nay con sẽ ở với Cha trong vương quốc”. Xin hãy ban cho con ơn trọng đại nhất: là khi giờ chết đến, con biết ném mình vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Xin cho con sở đắc vĩnh viễn được cái cảm giác tuyệt vời mà đã một lần con được nếm cảm trong giờ chết lâm sàng…, là được tan biến trong vòng tay nhân ái thứ tha, và được vòng tay này ôm ấp đến muôn đời. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Chế độ quân chủ tại Việt Nam với một ông vua cai trị đất nước kéo dài hàng chục thế kỷ đã thực sự cáo chung vào năm 1945, sau khi vị vua cuối cùng là Bảo Đại bị truất phế. Ngày nay, ý niệm về một thể chế quân chủ đã hoàn toàn trở nên xa lạ đối với tâm thức con người sống trong các nước văn minh. Trên thế giới chỉ còn vài quốc gia như Anh quốc, Thái Lan, Nhật Bản… vẫn duy trì chiếc ghế của nữ hoàng hay hoàng thân, nhưng chỉ là sắc nét văn hóa theo truyền thống, còn thực quyền thì không có. Thể chế dân chủ được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Con người ngày càng văn minh càng thích sống bình đẳng, không ai muốn người khác đè đầu đè cổ mình. Cũng chẳng ai thích sống trong một chế độ mà quyền hành chỉ tập trung nơi một cá nhân, thậm chí vị lãnh đạo ấy nắm trong tay cả quyền sinh sát giống như các vua chúa ngày xưa.
Như vậy mừng lễ Chúa Kitô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi con người thời đại ngày hôm nay hay không, đặc biệt nơi giới trẻ? Đức Giêsu có thực sự là Vua hay đây chỉ là một lối nói cường điệu hóa giống như chúng ta suy tôn lãnh tụ một cách hình thức? Còn nếu Ngài đích thực là Vua, Ngài có bóp nghẹt tự do và nhân quyền của chúng ta hay không?
Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay sẽ gợi mở cho chúng ta câu trả lời.
Ông có phải là vua không?
Hai ngàn năm trước, Philatô đã nêu ra câu hỏi này khi Đức Giêsu bị điệu đến trước mặt ông như một tên tội phạm. Sách Tin mừng thứ tư thuật lại mẩu đối thoại này. Philatô dồn dập đặt ra nhiều nghi vấn, khi ông đối diện trước một con người đã từng được dân chúng tung hô là ‘Con Vua Đavit’, đã từng được mọi người nể phục như một ngôn sứ vì đã làm nhiều điều lạ lùng không giải thích được. Philatô càng ngạc nhiên hơn bởi lẽ, một ông vua phải có dáng vẻ oai phong và hiển hách, nhưng trước mặt ông chỉ là một con người rất bình thường, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ, không có một chú lính quèn để hộ tống. Ông mở to con mắt nhìn vào Đức Giêsu với sự kinh ngạc. Nếu ở vào vị trí của Philatô chắc hẳn chúng ta cũng sẽ đặt nghi vấn giống như vậy. Tuy nhiên khi đối diện với Philatô, Đức Giêsu đã không cần che dấu căn tính của mình. Ngài trả lời: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là Vua, và Ngài đến trong trần gian để khai mở Vương quốc của sự thật. Những thần dân của Ngài sẽ nghe tiếng Ngài vì họ là những công dân của Vương quốc ấy. Philatô không hiểu và hỏi lại: “ Sự thật là gì?” Ông chắc chắn không hiểu nổi vì ông đâu có phải là thần dân của vương quốc mà Đức Giêsu đã khai sáng (Ga 18, 33-38).
Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng nói khá nhiều về ‘sự thật’. Ngài mặc khải tiệm tiến về Vương quốc mà chính Ngài sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã vén mở một nền phụng tự mới trong Vương quốc ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn sinh, Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6 ). Đức Giêsu sẽ ra đi, tiến nhận cái chết và khai lập vương quốc của chân lý. Đồng thời Ngài cũng chính là sự thật, là con đường dẫn đưa chúng ta đi vào vương quốc vĩnh cửu để chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10). Đối diện trước Philatô, Chúa đã khẳng quyết căn tính của mình, nhưng chắc chắn Philatô không hiểu nổi vì ông ta không ở trong quỹ đạo Nước Trời. “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Philatô đã cho treo một tấm bảng đóng trên Thập giá với hàng chữ :‘Đây là vua người Do thái’. Có lẽ đây không phải là một sự tình cờ, song Thiên Chúa đã định liệu và sử dụng một ông quan ngoại giáo để công bố cho cả thế giới biết Đức Giêsu chính là Vua đích thật. Tuy nhiên chúng ta cần suy tư sâu xa hơn để tìm hiểu xem, trong vương quốc sự thật ấy, Chúa đã hành xử vương quyền như thế nào?
Đức Giêsu quả là một vị Vua rất khác người, chẳng giống ai. Vương miện của Ngài là một vòng gai thấm máu đầy nhục nhã. Cẩm bào Ngài khoác chỉ là một tấm thân trần trụi bị treo thân vào khổ giá như một tên tử tội. Ngai vàng cao sang của Ngài là chỗ chuyên để hành quyết những tên cướp đáng sợ. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người, bị đầy đọa, bị chửi rủa, bị khinh miệt và cuối cùng bị giết chết. Vương quốc Nước Trời mà Ngài nói tới là một Vương quốc đảo lộn mọi bậc thang giá trị mà con người vẫn thường đặt định. Sống trong Vương quốc đó, ‘ ai làm lớn nhất phải trở nên người bé nhất’ . Chính Ngài là một vị Vua cai trị theo một cung cách khác thường, đó là “ Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
Philatô không hiểu là phải, bởi vì ông chưa làm ‘thẻ chứng minh nhân dân’ để trở thành công dân của một vương quốc xem ra có vẻ quái chiêu và nghịch thường đến như vậy. Nói tắt một lời, Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập chính là Vương quốc của tình yêu. Đó không phải là một quốc gia hùng mạnh về quân sự, về dầu hỏa, về đôla hay về khí tài. Vương quốc của Đức Giêsu đích thực là Vương quốc tình yêu. Chỉ sống trong tình yêu chúng ta mới có được thẻ ID, thẻ căn cước để vào Nước Trời, nước của Ngài.
Vương quốc của tình yêu
Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các học trò. Ngài nói với họ: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Việc rửa chân cho khách đến nhà là công việc của những tôi tớ, thường là những tên nô lệ được ông chủ mua về. Người nô lệ không có một quyền hành nào cả và họ phải làm mọi công việc theo ý chủ. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Vua Chúa hay là bậc Tôn sư của các môn đệ. Nhưng Ngài đã khiêm tốn hạ mình xuống để phục vụ như một tôi tớ hèn mọn. Vì thế trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói đi nói lại cho các học trò về khuôn mẫu của tình yêu. “ Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu chính là ‘bộ luật dân sự’, là hiến pháp căn bản của Vương quốc Nước Trời. Tình yêu cũng chính là tên gọi của Thiên Chúa, hay nói cách khác tình yêu là chính Vương hiệu của Đức Kitô. Trên Thánh giá, Đức Giêsu cũng hành xử vương quyền Ngài để phong thánh cho một tên trộm khét tiếng. Nếu không đi vào quỹ đạo tình yêu và lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không thể hiểu động thái khác thường này.
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Piô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ thai nhi để bảo toàn tính mạng cho người mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Cô đã cầu nguyện trong nhiều ngày và kiên quyết từ chối lời đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “ Tôi không thể giết con của tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mà cô ta hết lòng thương mến. Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được truyền thụ lại từ chính người mẹ của mình. Đó là người phụ nữ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con bà được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tôn phong Chân phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu theo dấu chân của Đức Giêsu. Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “ Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Đức Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã từng nói: “ Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) để chứng minh mình là công dân Nước Trời.
Kết luận
Một nhà tâm lý học đã nói: “ Trong tình yêu, con người rất dễ trở thành người điên.” Điều đó rất đúng nếu chúng ta ngắm nhìn Thập giá Đức Giêsu và Vương quốc của Ngài. Hêrôđê đã mặc cho Chúa chiếc áo đỏ để chế diễu Ngài như một ông vua nửa điên nửa khùng. Khi chịu đóng đanh trên Thập giá, chiếc áo đỏ của Chúa đã bị lột ra, nhưng sự điên rồ vẫn còn rất đậm nét. Cũng trên Thập giá điên rồ ấy, Đức Giêsu khai mở Vương quốc sự thật, đó là Vương quốc của tình yêu. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng trở nên thần dân của Vương quốc cao cả này. Lúc bấy giờ “ Ai nấy sẽ thấy Người, kể cả những kẻ đã đâm người. Kìa Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1, 7).
.
Trầm Thiên Thu
Hạnh phúc nào cũng có nước mắt – dù ít hay nhiều. Nước mắt thì mặn chát. Tình yêu càng nhiều đau khổ thì niềm hạnh phúc càng chan chứa. Cuộc sống cũng tương tự. Hầu như đó là “nguyên lý” của cuộc đời. Người ta ví von rằng “hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ, loại nào ít phức tạp thì ít hư hỏng, loại nào càng đơn giản thì càng bền.
Vinh quang và đau khổ là hai lĩnh vực trái ngược nhau nhưng lại liên quan lẫn nhau. Cũng vậy sự sống và sự chết liên quan lẫn nhau. Sống mà cứ coi như mình sắp chết để có thể tránh nhiều thứ phiền toái, và thật kỳ lạ, chính cái chết lại là ngưỡng bước vào sự sống. Quá đỗi kỳ diệu!
Đức Kitô là Sự Sống (Ga 14:6), tức là Nguồn Sống, bất cứ ai muốn đến với Chúa Cha đều phải đi qua “con đường của sự sống” ấy, không thể không “đi qua” chính Đức Kitô Giêsu. Ngài là sự sống mà lại bị người ta giết chết, nhưng rồi Ngài đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh vinh hiển, và mãi mãi Tử Thần phải thần phục Ngài. Ngài là Vua của muôn loài, và Ngài được Chúa Cha trao quyền xét xử muôn loài, ngay cả Satan cũng phải xuất đầu lộ diện mà trình diện Ngài: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (G 2:1).
Trình thuật ngắn gọn 2 Sm 5:1-3 cho biết: Toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel”. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel”. Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Israel.
Quốc Vương thời Cựu Ước là hình bóng tiên báo về Vị Thiên Vương Tối Cao thời Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Điều tiên báo từ ngàn xưa đã ứng nghiệm từ hai ngàn năm qua, đó là Đức Kitô đã đến thế gian, và chính Ngài đã xác định: “Ai NGHE lời tôi và TIN vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5:24).
Vua chúa trần gian có thể hét ra lửa, xử sao nên vậy, nhưng chỉ là cho sống hoặc bắt chết về phần xác mà thôi, còn Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, đặc biệt là Ngài “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Tử Thần còn khuất phục thì ai có thể làm gì trái lệnh Ngài chứ?
Thật là hạnh phúc khi chúng ta được là thần dân của Thiên Vương Giêsu, Thánh Vương Kitô. Không thể có niềm hạnh phúc nào khác khả dĩ so sánh được với niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng.
Khi vui mừng, chắc chắn người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng ấy được. Tác giả Thánh Vịnh cũng vậy, cũng người trần mắt thịt, thế nên không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân” (Tv 122:1-2).
Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện, luôn có điều gì đó linh thiêng, khó diễn tả bằng phàm ngôn. Giêrusalem là hình bóng của Thánh Đô Thiên Quốc. Dù là Đền Thờ nơi trần gian nhưng vẫn được xây dựng một cách đặc biệt. Tác giả Thánh Vịnh mô tả: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Israel. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít” (Tv 122:3-5).
Đức Giêsu Kitô là Vua cả vũ trụ, cả càn khôn, cách riêng Ngài là Vua của cuộc đời mỗi chúng ta. Hôm nay và mãi mãi, hãy không ngừng tôn vinh Ngài: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:10). Với diễm phúc này, chúng ta có dành cả đời để dâng lời cảm tạ cũng không đủ. Mong ước chúng ta được tiếp tục là thần dân của Ngài nơi Thiên Quốc Hằng Sinh để đời đời chúc tụng Ngài!
Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, hạnh phúc tăng theo cấp số nhân. Niềm vui quá lớn, hạnh phúc dạt dào. Thật khó tả! Với kinh nghiệm từng trải và bằng cảm nghiệm tâm linh sâu sắc, Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta ĐƯỢC ơn cứu chuộc, ĐƯỢC thứ tha tội lỗi” (Cl 1:12-14).
Quả thật, những tội nhân như chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế nhưng không phải mơ mà là sự thật. Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng NHỜ Người và CHO Người” (Cl 1:15-16). Được làm thụ tạo là hạnh phúc lắm rồi, nhưng chúng ta không chỉ là thụ tạo mà còn được làm người, hơn hẳn các loài thực vật, sinh vật và động vật, đặc biệt còn được làm con cái của Thiên Chúa. Điều đó được chứng minh qua hằng ngày, chúng ta hãnh diện được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ: “Lạy Cha (của) chúng con, Đấng ngự ở trên trời,…”. Thật là trên cả sự tuyệt vời!
Còn nữa, chứ chưa dừng lại ở mức đó. Thánh Phaolô nói: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:17-20). Chúa Giêsu là Huynh Trưởng, còn tất cả chúng ta là những tiểu đệ và tiểu muội của Ngài. Chúa Giêsu là Vua, vậy thì chúng ta là em của Vua, cũng có nghĩa là chúng ta thuộc dòng dõi Hoàng Tộc. Đặc biệt hơn là chúng ta còn được hòa tan vào Thiên Chúa, nên một với Ngài mỗi khi tiếp rước Thánh Thể. Ôi, thật là kỳ diệu quá chừng!
Huynh Trưởng Giêsu là Vua, nhưng Ngài không đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không vương miện, không lòng bào,… như các vua chúa trần gian. Ngài là Vua-đa-không, không được tiền hô hậu ủng.
Trình thuật Lc 23:35-43 cho biết giây phút “đăng quang” đặc biệt của Vua Giêsu: Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Vua Giêsu bị sỉ nhục đến tột cùng, nhưng Ngài vẫn im lặng. Sự im lặng của Ngài khiến những kẻ thủ ác hả hê và ngạo nghễ, tưởng mình đã chiến thắng. Sự kiêu ngạo thật tồi tệ!
Không chỉ có thế, chính một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. Đúng là kẻ hợm hĩnh già mồm. Chết đến nơi mà còn hống hách với người khác. Có lẽ nghe “ngứa tai” nên tên kia lên tiếng mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Xấu thì xấu, dữ thì dữ, ác thì ác, nhưng tâm hồn của anh ta không như dáng bặm trợn bề ngoài.
Và rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Và Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Có thể nói rằng diễm phúc nhất là tướng cướp này, có tên cúng cơm là Dismas.
Vua Giêsu quá nhân hiền và đại lượng. Tội tày trời, cả đời không hề tỏ ra chút xót thương bất cứ ai, coi trời bằng vung, mấy ai dám “chơi ngông” như Dismas. Thế mà chỉ một lời sám hối chân thành, mọi tội lỗi của anh ta được Vua Giêsu xí xóa hết, hoàn toàn trắng án, không phải vô Luyện Hình, mà được cùng Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó.
Điều này nhắc nhở chúng ta đừng tuyệt vọng, dẫu có đôi khi cảm thấy thất vọng theo bản tính phàm nhân, hãy vững tin vào Lòng Thương Xót vô bờ bến của Thiên Chúa. Thất vọng về tình trạng tội lỗi của mình là một dạng kiêu ngạo, vì như vậy là không tin vào lòng đại lượng tha thứ của Thiên Chúa. Hạy vững tin, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Và Ngài cũng đã hứa: “Không một linh hồn nào kêu gọi Lòng Thương Xót của Ta mà phải thất vọng bao giờ” (Nhật Ký, số 1541). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được áp dụng với bất cứ tội nhân nào chân thành sám hối.
Với những người có chức, có quyền, lễ Chúa Kitô Vua nhắc nhở họ điều rất quan trọng qua lời Chúa Giêsu xác định với tổng trấn Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Đừng tưởng có “quyền” rồi thì mặc sức “hành” người khác. Tất cả mọi người đều là tôi tớ, và Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12:47-48).
Thiên Chúa là ai? Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa của anh em là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, xử công minh cho cô nhi quả phụ, yêu thương ngoại kiều, và cho họ bánh ăn, áo mặc” (Đnl 10:17-18). Thiên Chúa là Vua Hòa Bình, Vua Công Lý, Vua Lòng Thương Xót, và mọi quyền hành đều phát xuất từ Ngài. Đặc biệt là Ngài chí công, nghiêm minh khi thưởng công và trừng phạt.
Vua Giêsu là Thiên Chúa, thế mà Ngài đã đi trọn con đường đau khổ mới có thể đạt tới Vương Quốc vinh quang, vĩnh hằng, chắc chắn chúng ta không thể đi bất cứ một con đường nào khác!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết Ngài và biết con, xin thêm sức mạnh cho con để can đảm thú nhận tội lỗi và xin tha thứ mọi tội lỗi của con đã xúc phạm đến Ngài và đến tha nhân. Cúi xin Vua Giêsu cai trị và hướng dẫn cuộc đời con đi đúng định hướng của Chúa Cha. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Đương kim Tổng thống Uruguay, Jose Mujica Cordano được giới truyền thống Tây Ban Nha gọi là “Tổng thống nghèo nhất thế giới.” Ông Cordano năm nay 76 tuổi, sinh ra trong một gia đình nông dân.
Sau khi lên nắm quyền, ông Cordano từ chối dọn vào Dinh Tổng thống, bởi vì “Dinh Tổng thống rộng hơn quá nhiều so với nhà tù từng giam giữ ông 14 năm”. Ông cũng từ chối bố trí nhân viên tháp tùng và xe ô tô chống đạn đưa đón, để hàng ngày tự lái chiếc xe Fuchs Beetle đã có tuổi thọ 20 năm đi làm. Sau khi đắc cử Tổng thống, ông Cordano đã tuyên bố: Quyên góp 90% tiền lương cho Qũy Cứu Trợ những người vô gia cư. Khi được gọi là “Tổng thống nghèo nhất thế giới”, ông Cordano chỉ nói: “Tôi không nghèo chút nào cả, những người nói tôi nghèo mới thật sự nghèo. Nói tôi chỉ có một vài thứ quả là không sai, tằn tiện, chất phác khiến tôi cảm thấy đầy đủ và sung túc”. (Theo Dân Việt)
Tuy Tổng thống Jose Mujica Cordano sống đạm bạc, yêu dân, nhưng chua thể nào sánh với Đức Vua Giêsu. Trích thuật Tin Mừng hôm nay phác họa chân dung Vua Người Do Thái thật thảm hại. Tuy nhiên phản ảnh khá chính xác một vài đức tính nổi trội của Đức Vua Giêsu. Người chính là Đức Vua Quyền Lực nhất thế gian, chí ái, phục vụ và nghèo khó tột cùng.
Đức Vua uy quyền vô song
Chẳng bao giờ có vị vua thế gian nào có thể ban thưởng Thiên Đàng cho thần dân. Cũng chẳng có vua nào có thể xóa sạch hết các vết nhơ của tội nhân. Cùng lắm chỉ tha thứ một vài tội lỗi nào đó, chứ không thể nào thanh tẩy cả linh hồn thần dân, trở nên trong sạch.
Thế mà, Đức Vua Giêsu đã quả quyết với phạm nhân sám hối: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Thật lòng sám hối, bao nhiêu tội lỗi tôi vấp phạm, cũng được Người tẩy sạch qua bí tích Hòa Giải. Tuy nhiên, nhiều lúc tôi lại thường dại dột chạy đến các vua chúa thể gian, để xin khoan hồng dung tha, để khỏi bị tử hình. Tôi đâu nhớ đến Đức Vua Uy Quyền vô song, có thể cho tôi được sống đời đời. Tôi dửng dưng, vô ơn, bất kính với Người trong sinh hoạt thường ngày. Đâu cần biết tất cả hồng ân đều phát xuất từ Người.
Đức Vua Chí ái
Người không những uy quyền, mà còn chí ái nhất. Chẳng có vị vua nào toàn tâm, toàn ý, quan tâm, tận tụy chăm sóc những thần dân thấp cổ bé miệng, bé nhỏ, tật nguyền, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời. Người tìm đến, mời gọi không nguôi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30).
Những khi sa cơ thất thế, khi thất bại trắng tay, khi hoạn nạn tai ương, khi bị hành hạ, ức hiếp vì đức tin, tôi có lắng tai nghe thấy tiếng nói an ủi của Người chăng? Hay tôi lại ta thán, thất vọng, đâm ra chán nản, buông trôi theo dòng đời bon chen, lọc lừa, gian lận, tranh sống, thù hận, oán hờn? Đâu cần biết Người đang lo lắng, đôn đáo đi tìm con chiên lạc, tìm đồng xu rơi mất, tìm đứa con đi hoang, đang tan nát cõi lòng vì thói đời đen bạc?
Đức Vua Thanh bần
Cũng chẳng có vị vua nào nghèo khó hơn Đức Vua Giêsu. Nghèo hèn ngay từ khi hạ thế làm người ở Bêlem, cho đến khi tử nạn nhục nhã trên thập giá ở Đồi Sọ. Một cuộc đời thanh bần, không tiền bạc, tiện nghi, không chốn nương thân, vô gia cư, vô tài sản đích thực: “Con cáo có hnag, con chim có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu” (Mt 8, 20).
Người chẳng hề tư hữu, tích lũy của cải, nhưng Người giài lòng thương xót. Người chúc phúc cho người nghèo và cả những người có tinh thần khó nghèo: Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc 6,20) ”Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo”(Mt 5,3). Vì với tâm hồn nghèo khó, không vướng bận của cải giàu sang, mới có thể sống Lời Chúa tích cực.
Tôi lại cố gắng thoát cảnh nghèo, muốn tận hưởng tiện nghi vật chất, muốn vinh thân phì gia, để khỏi thua kém thiên hạ. Tôi không muốn những ánh mắt rẻ rúng vì nghèo túng. Tôi thích thú những tia mắt ngưỡng mộ sự thành đạt, giàu sang. Tham sân si quá độ, làm sao tôi được vào Nước Thiên Chúa?
Đức Vua Phục vụ
Chẳng có vị vua nào thương yêu, tận tụy phục vụ đệ tử, thần dân như Đức Vua Giêsu. Từ bỏ vương quyền cao sang, Người quên mình, khiêm tốn, quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Người tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là dể phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mt 20, 28).
Người trở nên chiên hiến tế, gánh tội trần gian, phục vụ cho sự cứu rỗi nhân loại, chịu mọi khốn khó, bị khinh ghét, bị vu oan, chịu khổ nạn và chịu đóng đinh, hầu cứu chuộc loài người khỏi án phạt trầm luân. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Tôi lại muốn được phục vụ, kính nể, ngợi khen, thậm chí còn coi tha nhân như phuong tiện cho tôi tiến thân. Tôi luôn tự ái, bất bình khi có ai nhận xét phê bình, cho dù rất chính xác, rất tishc cực, rất thiện chí xây dựng sửa chữa lỗi làm của tôi. Thế mà tôi vãn vênh váo, vẫn mạo nhận mình trrung thành thoe Đức Vua Phục vụ.
Lạy Chúa, Đức Vua cao cả của thần dân chúng con, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau, biết sống tinh thần nghèo khó, biết phục vụ tha nhân, cũng như chính Chúa đang hiện diện, để chúng con được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là hiền mẫu của chúng con, xin luôn nhắc nhở chúng con là con cái thân thương của Thiên Chúa, luôn biết tuyên xưng danh Chúa, luôn biết khiêm nhường, yêu thương, giúp đỡ mọi người, mọi lúc, để chúng con luôn sống trong ân sủng Ngài. Amen.
.
Lm. Phạm Thanh Liêm
Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua.
Vua: người trổi vượt trên tất cả
Vua là người trổi vượt hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch sử Việt Nam cho thấy, sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên “Đinh Tiên Hoàng”. Ngày nay khi người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người chơi bóng đá rất giỏi và trổi vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua, người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov và Kasparov.
Đức Yêsu là Vua. Ngài là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là vua cả hoàn vũ này.
“Chính để anh em được tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em” (Gl.5, 1). Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta được tự do và làm chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp chúng ta làm chủ, làm vua và là người tự do.
Đức Yêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả những người đang yêu
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình yêu của Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ Ngài, mọi vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Ngài hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài.
Đức Yêsu trổi vượt trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài. Ngài dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương thực nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau như Ngài yêu họ: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người làm điều gì khác ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về Ngài làm mọi công việc vì yêu thương. “Yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”.
Trước những lời nhạo báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương người khác: “hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Lời của Đức Yêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an.
Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua
Vua là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ, vì vũ trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên cá biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không tạo dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng ta làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. “Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ vũ trụ này với lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta.
“Được làm vua, thua làm giặc”. Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ, làm tôi đòi. Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô lệ, Ngài mời gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng những khuynh chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho những khuynh chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ danh vọng hão huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta làm vua với Ngài, với Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Điều gì quý nhất Đức Yêsu đã làm cho bạn?
- Cách hành xử của bạn có giống cách hành xử của Đức Yêsu không, khi có ai chọc tức làm cho bạn muốn nổi khùng, hoặc khi bạn bị oan ức? Trên đời, liệu có ai có cách hành xử giống cách hành xử của Đức Yêsu không?
- Nếu được gọi Đức Yêsu với một tước hiệu mà bạn ưng ý nhất, thay vì gọi Đức Kitô Vua thì bạn gọi Ngài bằng tước hiệu nào?
.
VÂNG PHỤC ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Ngay từ thuở khai sinh nhân loại, Nguyên Tổ loài người là A-đam và E-va đã bị Sa-tan cám dỗ từ bỏ đường lối Thiên Chúa để theo đường lối Sa-tan. Hai ông bà đã nghe theo lời ma quỷ xúi giục, không vâng phục Thiên Chúa, không đi theo đường lối của Ngài. Thế là một khi “đầu tàu” đã đi trật đường rầy thì sẽ lôi kéo các “toa tàu”, tức là vô vàn con cháu về sau lao vào cõi đau khổ trầm luân.
Để cứu nhân loại thoát cảnh lầm than do Nguyên Tổ gây ra, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, trở thành Nguyên Tổ mới, tác sinh ra một nhân loại mới, đồng thời trở nên “đầu tàu” thứ hai dẫn đưa nhân loại vào chốn hồng phúc.
Sa-tan đã hạ đo ván Nguyên Tổ A-đam E-va ngay từ thử thách đầu tiên, nay lại thừa thắng xông lên với quyết tâm lôi kéo “đầu tàu” thứ hai là Đức Giê-su Ki-tô đi trệch đường lối Thiên Chúa, nhằm nhận chìm nhân loại vào trong cõi trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Mặc dầu Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philipphê 2, 7), do đó, Ngài có thể “bị thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta” (Do thái 4, 15). Chính vì thế, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giê-su đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
***
Lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giê-su bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống công khai. Chúa Giê-su anh dũng chống lại và đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút lui để chờ dịp khác.
Trong thời gian rao giảng, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, bị cám dỗ hết sức khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giê-su bị giằng co giữa hai chọn lựa đau đớn: uống chén đắng hay khước từ chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong nội tâm đã khiến Chúa Giê-su phải toát mồ hôi máu, nhưng cuối cùng Ngài đã chiến thắng. Ngài cương quyết vâng theo ý Chúa Cha, anh dũng bước vào cuộc khổ nạn đau thương để cứu độ muôn người. (Lc 22, 42)
Lần nầy, Sa-tan ra sức đánh trận cuối cùng, may ra giành được chiến thắng vào phút chót. Chiến lược của Sa-tan là tìm cách cám dỗ Chúa Giê-su xuống khỏi thập giá nhằm phá vỡ hoàn toàn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trước hết, qua miệng các thủ lãnh, Sa-tan khiêu khích: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
Đây là một cám dỗ hấp dẫn, vì nếu Chúa Giê-su tự xuống khỏi thập giá, thì chắc chắn sẽ có nhiều người tin Ngài là Đấng Ki-tô.
Tiếp theo, Sa-tan dùng lời binh lính để dụ dỗ Chúa Giê-su: “Hãy xuống khỏi thập giá đi.” Lý do được đưa ra là: “Ông là vua dân Do-Thái”. Đúng vậy, là vua thì phải xuống khỏi thập giá để lãnh đạo toàn dân thần phục Thiên Chúa, hẳn sẽ có lợi hơn nhiều.
Ngay cả tên tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-su cũng được Sa-tan sử dụng để cám dỗ Ngài: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã không chịu lùi bước trước bất kỳ cám dỗ nào. Ngài quyết vâng phục Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài đã chiến đấu kiên cường và đã hoàn toàn chiến thắng.
Lời thánh Phao-lô trong thư Philipphê (chương 2, 6-11) sau đây như khúc khải hoàn ca tán dương Chúa Giê-su đã vẻ vang chiến thắng: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”
Ngợi ca Vua Giê-su Ki-tô toàn thắng vinh hiển muôn đời. Amen.
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay, trên thế giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường vận động cử chi bầu cho mình, và muốn được trúng cử thì đương sự phải đưa ra những kế hoạch mình sẽ làm trong nhiệm kỳ tới. Nếu lòng dân thấy thuận thì họ bầu cho. Rồi đến khi đắc cử, thường họ hay mở tiệc ăn mừng. Đến ngày ra mắt công chúng, đương sự phải có một bài diễn văn rất hay… như là một cách thức cám ơn dân chúng đã bầu cho mình. Và khi thi hành, người ta dùng quyền để cai trị con dân và giữ gìn an ninh quốc gia.
Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời, vị Vua ấy lại chọn cho mình một đời sống từ bỏ, khiêm hạ, yêu thương, khước từ vinh hoa phú quý, lợi lộc trần gian. Vị Vua ấy không cai quản và điều hành bằng quyền lực, mà bằng tình yêu. Rồi cuối cùng trở nên Đấng xóa tội trền gian qua cái chết (x. Ga 1,29). Vị Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô.
- Đức Giêsu là vua cách lạ lùng
Nếu một vị vua theo kiểu trần gian, ngày đăng quang và xưng vương phải là một ngày trọng đại, có các lễ nghi trang trọng, có dân chúng reo hò chúc tụng, thì Đức Giêsu làm vua, lại là vị vua âm thầm, khiêm hạ, cả cuộc đời, không hề có kiểu “diễu sĩ dương oai” không kèn không trống.
Vương quyền của Ngài được tỏ lộ không phải qua một nghi thức trọng thể, mà lại qua một tấm bảng bêu xấu mà Philatô truyền lệnh đóng trên thập giá, phía đầu Ngài: “Đây là Vua dân Do Thái”. Ngai vàng không phải là một cái nghế được sơn son thiếp vàng lộng lẫy cao sang, mà là hai thanh gỗ được ghép lại với nhau thành hình thập tự để làm ngai cho Vua trời ngự giá. Đây là một hình khổ mà người Do thái thời bấy giờ dành cho những kẻ bị kết án tử.
Vương niệm của Ngài không phải là mũ làm bằng kim loại quý (thường là bằng Vàng) và được khảm những châu báu, ngọc ngà, đá quý, kim cương. Còn Đức Giêsu lại có một vương niệm đặc biệt, đó là một vòng gai được đội trên đầu. Vương trượng là cây sậy yếu ớt, được người ta đưa cho để nhằm chế giễu, chọc ghẹo. Các quan hầu cận là 12 tông đồ, ít học, kém hiểu biết và hoàn toàn không mảy may am tường về chuyện binh đao, họ còn là kẻ bán Chúa, trối Thầy, những kẻ khác thì chạy trốn,… Áo cẩm bào thì lại là thân hình ô nhục. Người thân dự lễ phong vương lại là kẻ thù, chỉ có một vài người vỏn vẹn là Mẹ Ngài, Gioan, mấy phụ nữ và 2 tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài. Lẽ ra thần dân tung hô “chúc tụng vạn tuế đức vua” thì lại là: “đóng đinh nói đi”, “đóng đinh nó vào thập giá”, đến nỗi ngay cả kẻ cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng cất lên những lời nguyền rủa, nhục mạ, thách thức: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Khung cảnh phong vương thì lại ở trên núi sọ, thay vì ở trong thành phố… Diễn từ khai mạc là: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ” và sau cùng: “Mọi sự đã hoàn tất”.
Khi lập pháp thì lại hoàn toàn “Vâng theo ý Cha”. Khi truyền lệnh hành pháp thì lại chỉ có vỏn vẹn trong giới luật Yêu thương: “Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8). Suốt cả hành trình loan báo về Nước Trời, Ngài đã không ngồi yên, mà nay đây mai đó, miễn sao Tin Mừng cứu độ được loan báo và không hề có một dinh thự, lâu đài, mà là: “con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ dựa đầu”.
Như thế, triều đại của Đức Giêsu được kết thúc qua cái chết ô nhục trên thập giá.
- Đức Giêsu là vua của Tình Yêu
Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa thì vượt xa trí hiểu của con người. Thật vậy, Người đã dùng hành động tưởng chừng như bêu xấu này để mặc khải một lần nữa về bản chất Tình Yêu của Thiên Chúa qua người Con Một của Người là Đức Giê su Kitô.
Ngài là Vua, nhưng lại là một vị vua khiêm nhường, nhân hậu, Ngài là Vua của Hoà bình, Vua Tình yêu. Một vị vua thiếu thốn đủ điều: “Con Người không có nơi tựa đầu”, một vị Vua chết cho thần dân được sống. Ngài là một vị vua của lòng người, của nhân tâm. Ngài xử dụng quyền lực, nhưng là thứ quyền lực “mềm” chứ không phải là quyền lực “cứng” như các nhà lãnh đạo vẫn thường xử dụng.
Vị Vua ấy được ví như người mục tử nhân lành, biết và hiểu rõ từng con chiên trong đàn. Người Mục Tử ấy sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên khi gặp sói dữ và chấp nhận hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình (x. Ed 34,11-12.15-17). Thật vậy, người mực tử chân chính là người còn yêu thương cả những con chiên hư hỏng, đi lạc và tìm cách đưa nó về ràn: vị Vua ấy đến trần gian để cứu vớt những gì đã hư mất (x. Lc 19,1-10). Và vì yêu, Ngài đã “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2), cũng vì yêu mà: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Đức Vua ấy đã trở nên: “Người Tôi Tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa”, Đấng gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian, và dùng chính cái chết của mình để mưu cầu ơn tha tội cho nhân loại. Ngài “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (x. Is 53,2-12). Vì yêu, Ngài đã chấp nhận làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi, thu thuế, gái điếm, những người ốm đau, bệnh tật, thấp cổ bé họng… Vì thế, Ngài đã lên tiếng bênh vực những người cô thế cô thân. Và mời gọi mọi người hãy Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Và như một quy luật: sự sống, niềm vui và hạnh phúc nơi con người chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, mới nghe người trộm lành cất tiếng kêu xin: “Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” thì ngay lập tức, Ngài đã đưa anh ta vào vương quốc của mình qua lời tuyên bố: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng “.
- Người Kitô hữu tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu đều được tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Kitô ngày ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Qua Bí tích này, chúng ta được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến, vâng phục Cha hết lòng và, cuối cùng đã chết vì yêu để làm vinh danh Đấng đã sai mình đến trần gian hầu biểu lộ tấm lòng từ ái của Thiên Chúa cho nhân loại.
Khi thông chia và được thừa tự sứ vụ đó của Đức Giêsu qua Giáo Hội, nơi Bí tích Rửa Tội, mỗi chúng ta đều có bổn phận thi hành sứ vụ đó trong cuộc đời Kitô hữu của mình.
Là người kitô hữu, chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận này với một cách tốt đẹp khi noi gương và trở nên giống Đức Giêsu là dám chấp nhận khước từ những vinh hoa lợi lộc thuần túy trần thế. Ở điểm này, thánh Phaolô đã diễn tả: “Đức Kitô, Đấng vốn dĩ giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Người (x. 2 Cr 8,9).
Thật vậy, muốn được cứu độ, ta phải sống thực sự với tinh thần nghèo như Chúa, vì nghèo thì mới dễ yêu và khi yêu mới mong được trọn vẹn. Nếu chúng ta là con người đúng nghĩa thì phải có cả hồn và xác trong một thân thể, thì nghèo và yêu được ví như hai mặt của cùng một tấm mề đai.
Lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 28-29). “Mang lấy ách” của Chúa là gì nếu không phải là: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em”. Ách này không thể mang vác được, nếu ta kiêu căng, ngạo mạn và tự mãn, nhưng chỉ với sự hiền lành, khiêm nhường và tình yêu phát xuất từ con tim chân thành.
Thật vậy, chúng ta không thể cùng lúc vừa là Kitô hữu vừa mang tinh thần thế tục. Nếu để hai yếu tố đó thường trực trong con người chúng ta cùng một thời điểm, thì mọi việc chúng ta làm và suy nghĩ sẽ rơi vào tình trạng hư ảo, ngạo mạn, tự đắc.
Ước gì sống tinh thần nghèo và đến với người nghèo bằng một trái tim yêu thương rộng mở sẽ là hướng đích của mỗi chúng ta khi noi gương của vị Vua tình yêu, đã sống và chết vì yêu.
Sống được như thế, chúng ta mới có hy vọng được hưởng lời chúc phúc của Chúa: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi” (Mt 25,34), nơi đó có Vua Tình Yêu ngự trị (x. Pl 2,6-11).
Lạy Đức Giêsu là Vua vũ trụ, xin cho danh Cha được cả sáng, Nước Cha được hiển trị đến tận cùng bờ cõi trái đất. Xin Chúa hãy thống trị lòng trí chúng con bằng tinh thần của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong quỹ đạo của tình yêu, để sau cuộc đời này, chúng con được vào Vương Quốc của Chúa trên trời là nơi dành cho những người yêu và được yêu. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, vẫn được xem là một hệ thống đạo đức, triết lý, chặt chẽ theo tư tưởng “Nho giáo”. Để công thành danh toại, dù ở lãnh vực nào, người ta vẫn cần quan tâm đến những chi tiết nhỏ bé, rõ ràng nhất, từ bản thân, gia đình, rồi đến xã hội. Trong giáo dục, các bậc làm cha mẹ luôn đặt trọng tâm vào việc đầu tư : muốn sang thì bắc Cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Phạm vi gia đình, xã hội, đất nước, sẽ phát triển và hữu hiệu khi được liên kết với “từng cá nhân”, theo lý luận: một tinh thần minh mẫn trong một thân xác tráng kiện. Người tốt, gia đình sẽ tốt, xã hội an vui, đất nước vững mạnh.
Vấn nạn chung, Đức Giêsu nhân vật kỳ lạ đến khó hiểu với mọi đối tượng, cả trong ngôn từ lẫn hành động: giảng dạy hấp dẫn, làm cho người què đi được, mở miệng người câm, phục sinh kẻ chết… Tài đức như vậy, tình yêu thương ngập tràn trong cách cư xử, nhưng Ngài bị vu oan cáo vạ, bị đòn vọt, bị đóng đinh thập giá cùng hai tên trộm cướp ! Dưới chân thập giá hôm đó có cả những kẻ từng chứng kiến phép lạ, từng bị “hớp hồn” khi nghe Ngài giảng dạy nay họ đang hò hét, đắc thắng… Cả anh trộm bên tả cũng buông lời thóa mạ: “nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
Cha ông chúng ta có câu : tướng bại trận không thể nói mạnh, quan mất nước không thể nói hay. Đức Giêsu không xưng vương, không hành xử như một dũng tướng “chết vinh hơn sống nhục”. Đức Giêsu khi trên thập giá, người ta chỉ đọc được nơi Ngài là “vua tình yêu”, tha thứ, không hận đời. Trước nhãn giới tự nhiên, Đức Giêsu hoàn toàn thất bại, bị án chết thảm khi tuổi 33, đã từng chữa lành vết thương thể xác tâm hồn cho đám đông, nhưng Ngài không tự cứu mình ! Thắc mắc, chờ mong ông Giêsu xuống khỏi thập giá, hy vọng binh hùng tướng dũng từ Vương Quốc của Ngài sẽ tới ra tay lật đổ kẻ ác tâm. Hy vọng, đợi chờ, tâm trạng đó cả người thánh thiện đạo đức, người tội lỗi nhất đều vô vọng bởi sự lặng thinh của tình yêu Giêsu.
Xưa Tuân Tử dạy các học trò: “im lặng, lắng nghe, ghi nhớ, hành động và khôn ngoan, chính là 5 bậc thang khác nhau của trí tuệ”. Nay người ta chủ trương biết vui với người vui, biết khóc với người khóc, đó là hành vi của người có văn hóa, tri thức, biết ứng xử và thấu cảm. Không có gì vô duyên và đáng trách hơn, khi người ta đang khóc mà mình cười, hoặc ngược lại. Vương Quốc của Đức Giêsu thật mông lung ! Mức độ câu trả lời xác thực bao nhiêu về “Vua Giêsu” khi ở phía đầu Người, có tấm bảng ghi bằng ba thứ tiếng Hy-lạp, La-tinh và Do-thái: “Người này là Vua dân Do-Thái”. Philatô vô tình hãy hữu ý về điều ông đã viết “Vua Giêsu” ? Các thi sĩ thật độc đáo khi đưa ra ý tưởng: chỉ mất 3 giây để nói lời yêu, nhưng họ phải mất cả đời người để chứng minh lời yêu ấy.
Ngoài những phán đoán tiêu cực của một số người đứng dưới chờ Đức Giêsu thực thi vương quyền, nào ai ngờ, anh trộm lành khám phá ra Đức Giêsu chính là “Vị Vua” mà tâm hồn anh đang thiếu : tình yêu, tha thứ. Chỉ một câu nói tưởng chừng vu vơ, nhưng đó lại là lời thống hối, tuyên tín “Vương Quyền Giêsu” : “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Âm nhạc thể hiện những điều không thể nói, và cũng thể hiện những điều không thể lặng câm. (V.Hugo). Anh trộm lành không tấu lên giai điệu uất hận, thách thức chế giễu Đức Giêsu, hay ai oán đời mình…, anh đã thể hiện được điều cần thiết đối với phút “thứ 90” của đời người.
Tục ngữ có câu: im lặng là vàng, hay: thời gian làm lành mọi vết thương. Cái gì rồi cũng trôi qua, cái gì rồi cũng nhàm chán, cái gì rồi cũng tiêu vong, duy chỉ có tình yêu là tồn tại. Trong suốt thời gian chịu treo mình trên thập giá, Đức Giêsu chỉ thinh lặng, dù đám đông vẫn la ó, thách thức, nhạo cười…! Phút giây quý báu trôi qua, người ta chỉ nghe được những lời yêu thương, tha thứ, cụ thể là vết thương tâm hồn người trộm lành. Cuối cùng, không phải chỉ một số người hôm xưa, mà cả nhân loại đã được nghe Chúa Giêsu bày tỏ về “Vương Quốc” của Ngài : “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi ở trên thiên đàng với Ta”.
Niềm vui thông thường của người đời là: cha mẹ giầu thì con có, cha mẹ khó thì con không. Ông bà cha mẹ có chức danh, con cháu dễ cậy nhờ, bậc sinh thành sống có đức con cháu mặc sức mà ăn. Niềm tự hào và phúc đức của người Kitô hữu không dừng lại ở hưởng thụ, nhưng hạnh phúc hơn cả là được đứng vào hàng ngũ con cháu của “Vương Quốc Giêsu”. Sai lầm là điều tự nhiên nơi con người, ấy vậy, cái khó ở chỗ làm sao ta biết mình sai để sửa chữa ? Ăn trên ngồi chốc là cách cư xử của đại gia, nhưng làm sao để ta nhận ra sống hài hòa yêu thương mới là cùng đích của công dân “Nước Trời” ? Có gì đẹp trên đời hơn thế, người với người sống để yêu thương. Có gì hạnh phúc hơn, sau một cuộc đời học, hiểu, và sống chữ yêu, để rồi ta được nghe Chúa Giêsu nói : ngay hôm nay người sẽ được trên Vương Quốc của Ta. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, cũng là ngày cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương Xót, năm mà khi suy tư về lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta nhận ra rằng số phận của thế giới không nằm trong tay con người, nhưng trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Các bài đọc Kinh Thánh vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Người là trung tâm của tạo dựng, trung tâm của dân Chúa và trung tâm của lịch sử, là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, là vị Vua từ bi, thứ tha và hay thương xót.
Hướng nhìn lên đồi Calvariô nơi treo Chúa Giêsu Kitô trên cây Thánh Giá, chúng ta khám phá ra Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng vì đàn chiên, thương xót, tha thứ và cứu vớt tội nhân. Tấm bảng trên đầu có ghi : “Người này là vua dân Do thái” (Lc 23,38). Điều Philatô đã viết là đã viết. Hình khổ Vua chịu thật là khủng khiếp, mặt mày biến dạng. Thế mà Người lại là vua ư ? Sao có thể thế được ? Người là Vua những gì ?
Câu trả lời : Chúa Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì người ta muốn biến Chúa Giêsu trở nên trò cười khi mặc cho Người áo đỏ và đội mão gai.
Các bản văn phụng vụ trình bày vương quốc của Chúa Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Người là Chúa Cứu Thế đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), là Vua duy nhất của vũ hoàn, Vua khiêm nhường, Vua quyền năng. Nhưng Vương quốc của Vua Giêsu không lại thuộc về thế gian này. Vương quốc của sự thật và sự sống, Vương quốc thánh thiện và tràn đầy ân sủng, Vương quốc yêu thương, công lý và an bình. Một vương quốc được sinh ra từ Máu và nước từ cạnh sườn đâm thủng của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Chúa Giêsu bị hỏi : “Nếu ông là Đấng Kitô” (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Người đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi : “Nếu ông là Đấng Kitô “(Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La-mã thách thức Người :”Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi“(Lc 23, 38). Một tên trộm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết : “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 40). Họ khác nhau về địa vị, nhưng lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa : “Ông hãy tự cứu mình đi !” Như thể thách Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình ! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh cho ta thấy. Người đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót. Lòng thương xót không phải là yếu đuối hay đầu hàng, nhưng là ánh quan mạnh mẽ, hào hùng của tình yêu toàn năng của Chúa Cha, Đấnaangchwax lành những yếu đuối của chúng ta, nâng chúng ta dậy từ chõ vấp ngã và kêu gọi chúng ta làm điều thiện. Khi chịu treo thên thập giá Chúa Giêsu đã mạc khải vinh quang của Người, Người là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Tên trộm lành, một trong hai kẻ chịu cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu, đã hiểu được Vua Giêsu là thế nào, nên anh thưa với Chúa bằng giọng điệu van xin : “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Câu trả lời bảo đảm và đầy an ủi của Chúa Giêsu đối với anh : “Ta bảo thật người : ngay hôm nay, người sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23,43). Chúa Giêsu là Vua, một vị Vua chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án.
Vương quốc của Vua Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Chúa Giêsu viết, “Đây là Vua dân Do Thái” là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của Chúa Giêsu Kitô tỏa sáng vinh quang. Cái chết của Người trên thập giá là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Cùng với thánh Phaolô “chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp…trong cõi đầy ánh sáng“. Và bày tỏ lòng biết ơn vì : “Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái ; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” ( Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của mình, Vua Giêsu đã hòa giải tất cả mọi sinh linh ; “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá“, Người đã đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Chúa Cha đã tôn phong Người làm Vua và là “Trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại“, ” Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh.“
Ai sẽ loan báo cho thế giới vương quốc của Chúa Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể Người ? Một vị vua được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của vị vua ấy sẽ vô hiệu.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, Chúa Kitô hay ai khác? Theo thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: “hoặc cho mình hay cho Chúa” (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa ?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Tình Yêu. Xin thương xót chúng con, xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Hôm nay Hội Thánh tuyên xưng Chúa Kitô là Vua, nhưng không phải vua bình thường, không phải vua một quốc gia, một dân tộc, nhưng còn hơn vua quốc gia hay dân tộc: Người là Vua các vua Chúa các chúa. Và còn lớn hơn thế: Người là Vua vũ trụ.
Bài đọc hai, trích thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô cho thấy vương quyền của Chúa Kitô còn hơn gấp bội lần, vương quyền đó tuyệt đối. Tuyệt đối vì: Người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mọi loài cả trên trời, cả dưới đất, dù hữu hình hay vô hình, tất cả chỉ được tạo thành nhờ Người. Người có trước mọi loài. Người bá chủ mọi loài.
Vì vương quyền của Chúa Kitô là vương quyền tuyệt đối, nên khi nói Chúa Kitô là Vua vũ trụ, ta tuyên xưng và tôn vinh vương quyền của Người theo nghĩa tuyệt đối này.
Nhưng tôi lại thấy có cái gì mâu thuẫn trong cách trình bày của Hội Thánh về khuôn mặt của Vua Kitô?
Người là Vua lớn lao: Vua vũ trụ tuyệt đối, vương quốc của Người bao trùm mọi nơi và mọi sự, vương quyền của Người trải rộng như thế, vậy mà trong lễ này, Hội Thánh lại chọn Tin Mừng nói về việc Chúa chịu đóng đinh để ta suy niệm.
Ngay đầu bài Tin Mừng, thánh Luca cho biết “các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu”. Ngày người ta lên ngôi vua, là ngày vinh quang, ngày nổi đình nổ đám, ngày tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của. Đàng này một tử tội chịu đóng đinh trên thập giá trần trụi giữa trời giữa đất, lại được tôn xưng là vua!
Có cái gì đó quá mâu thuẫn. Mâu thuẫn đến độ phi lý. Vậy Hội Thánh có sai lầm, hay Hội Thánh có ý gì khác?
Hội Thánh cố tình trình bày như thế, để chính trong cái mà ta cho là mâu thuẫn, đòi ta phải khám phá ý nghĩa đích thực của Vua Kitô.
Đó là Chúa Kitô có đủ mọi uy quyền, nhưng không phải để ra oai tác oái, mà để cai trị bằng tình yêu.
Vương quyền Người càng tuyệt đối, vương quốc Người càng bao trùm bao nhiêu thì tình yêu của Người càng lớn lao bấy nhiêu.
Hóa ra khi trình bày Vua vũ trụ qua khuôn mặt của thập giá, Hội Thánh không mâu thuẫn, ngược lại Chúa Kitô mới “ngược đời”: Vua vũ trụ đấy, nhưng lại bảo rằng: “Ta đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hgiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Vua vũ trụ đấy, nhưng lại cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Vua vũ trụ đấy, nhưng người ta tôn làm vua – sau khi họ hưởng từ nơi Người một phép lạ cả thể: đang thiếu thốn vậy mà được ăn đến phát no và còn dư vật – thì Vua lại chạy trốn, không nhận sự vinh quang được ban tặng từ những con người trần thế.
Còn nhớ khi thánh Phêrô tuyên xưng bằng một lời long trọng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, thì ngay sau lời tuyên xưng đó, Vua Kitô báo trước cuộc khổ nạn của mình: Phải nhiều nhiều đau khổ, bị người ta giết rồi mới sống lại.
Tin Mừng thánh Gioan, trong khi tường thuật cuộc đối thoại giữa Chúa Kitô và ông Nicôđêmô, có ghi lại câu nói của Chúa khi Chúa khẳng định vương quyền của Người: “Như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, con người cũng sẽ được giương cao như vậy”.
Lời này tương đương một lời nói khác của Chúa Kitô, cũng theo Tin Mừng Gioan: “Ngày nào Ta được giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Rồi thánh Gioan kết luận: Người nói Người được giương cao là ám chỉ cái chết của Người.
Mà cái chết của Vua Kitô, cứ nhìn bằng mắt phàm trần, đó là cái chết ô nhục, chết treo trên thập giá. Nhưng với Chúa Kitô, chính khi được treo lên là lúc được giương cao. Treo lên là được tôn vinh.
Vẫn chưa hết. Sau khi phục sinh, sách Công vụ Tông đồ gọi Vua Kitô là Đức Chúa. Tước vị Đức Chúa, trước kia chỉ dành cho Thiên Chúa, nay áp dụng cho Vua Kitô để tuyên phong Người.
Đức Chúa hiện ra trong vinh quang phục sinh để trao ban bình an cho các môn đệ, thì ngay trong lúc trao ban bình an, lại cho các ông xem tay và cạnh sườn. Tại sao? Tại vì dấu của thập giá vẫn hằn sâu trên tay và trên cạnh sườn.
Trên thập giá, Chúa kitô được giương cao, cho nên trên thập giá, vương quyền của Chúa Kitô tuyệt đối. Trên thập giá, Chúa Kitô là Vua, Vua vũ trụ. Trên thập giá Chúa Kitô là Chúa, Chúa mọi loài.
Tất cả những hình ảnh ấy là gì nếu không phải là tình yêu? Dấu của thập giá càng khắc sâu bao nhiêu, thì gương mặt của Vua Tình yêu càng rực rỡ bấy nhiêu. Chỉ khi yêu như thế, Vua Kitô mới là Vua đúng nghĩa.
Chỉ có Vua Kitô mới làm vua “ngược đời” như thế, nhưng lại rất tuyệt vời!
Vì là Vua Tình yêu, cho nên Chúa dạy anh chị em và tôi hãy yêu như Người đã yêu. Chỉ có yêu như Chúa, ta mới xứng đáng là thần dân của Chúa.
Tôi nghĩ hình ảnh anh chị em lo cho con cái, hiến thân nuôi nấng, dạy dỗ con nên người là lúc ta sống tình yêu của Chúa Kitô. Tôi thấy có nhiều cha mẹ quên mình, nhận hết mọi cực nhọc, suốt ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất; hết buôn gánh lại bán bưng. Nhưng hình ảnh đó rất đẹp để diễn tả Tình yêu Chúa Kitô.
Ngược lại con cái cũng hãy yêu thương cha mẹ mình. Từ lời ăn tiếng nói, sao cho nhẹ nhàng, không gắt gỏng, cải vả, không trả treo, không lời một tiếng hai với cha mẹ; đến hành động và suy nghĩ, sao cho xứng là con thảo, con ngoan.
Sống trên thuận dưới hòa như thế, sẽ là gia đình sống tình yêu của Chúa Kitô.
Anh chị em hãy yêu đi, tình yêu sẽ cho ta biết phải làm gì để tận hiến cho người mình yêu.
.
JM. Lam Thy
Nói đến vua thì không thể không liên tường đến những ông vua phong kiến, đó là những ông vua thường để lại những ấn tượng không được đẹp (nào cung tần mỹ nữ nhung nhúc, nào cung đình sơn son thếp vàng choáng lộn, nào ngai vàng ỷ ngọc chói lọi; rồi thì hét ra lửa, mửa ra khói, chỉ một cái phất tay khó chịu là ít ra cũng một sinh mạng đi tong, mà gầm lên một tiếng thì … ôi chao, không dám kể nữa!). Dám viết ra những lời lẽ này, có lẽ cũng là nhờ đang sống trong thế kỷ XXI, chớ cứ giả thử như đang sống vào “hồi xửa hồi xưa” thì coi chừng cái chỗ đội nón không còn. Vâng, quả thực thời đại phong kiến thì một ông vua là một cái gì không nên nhắc tới, nói tới, kẻo mắc tội “khi quân, phạm thượng” là toi đời.
Thực tình thì kẻ viết bài này đang muốn nói tới một ông vua sống trong thời đại phong kiến và cũng rất trẻ – một ông vua lạ lùng – lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi. Đó chính là ông vua Giê-su. Vua Giê-su đến thế gian đã được tiên báo từ hơn 5 thế kỷ trước Công nguyên (thời kỳ Israel bị lưu đầy: 587-538), qua ngôn sứ Isaia: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7, 14); “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.” (Is 9, 5). Đến khi Người chào đời tại Bê-lem, thì có 3 nhà đạo sĩ chiêm tinh gia ở phương Đông, đã nương theo vì sao dẫn lối tìm đến Giê-ru-sa-lem hỏi thăm: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 1-2). Đức Vua giáng trần trong một đêm đông giá lạnh không phải tại nơi cung điện nguy nga, mà tại một hang bò lừa ở một vùng quê hẻo lánh, nghèo nàn; không bạc vàng, không nhung lụa, không lò sưởi, mà được đặt trên máng cỏ, và sưởi ấm bằng hơi thở bò, lừa. Thế đó!
Khi Đức Vua trưởng thành, Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng” đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Cũng chính trong khi Người thu nhận môn đệ thì những người được thu nhận đã nhận ra đó chính là Đức Vua mà họ hằng mong đợi (Ông Na-tha-na-en hỏi Người: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” Ông Na-tha-na-en nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” Đức Giê-su đáp: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” Người lại nói : “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” – Ga 1, 48-51).
Ngay đến cả Tổng trấn Phi-la-tô khi xét hỏi, cũng gọi Người là vua (“Ông Phi-la-tô cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giê-su trả lời : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi : “Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” – Ga 18, 33-37). Và rồi cái bản án tử treo trên đầu Người (“Người này là Giê-su, vua dân Do-thái” – Mt 27, 37) được viết ra với ý mỉa mai, nhưng không ai ngờ rằng đó cũng lại là một “sấm ngôn” (“Bản đề án tử vừa mỉa mai nhưng cũng vừa là một lời sấm” – xc “Kinh Thánh Trọn Bộ”, trang 2404 – phần chú thich Ga 19, số 19). Rõ ràng người Do-thái đã đóng đinh chính vị vua của họ – vị vua mà đến Tổng trấn Phi-la-tô (quan xử án) cũng không tìm ra được một lỗi lầm nhỏ nào!
Lạ lắm! Kẻ viết bài này chưa hề được đọc (chớ đừng nói là được thấy) một ông vua lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34).
Không bút mục nào có thể ghi lại cho hết được những điều mà Đức Vua Giê-su đã nói, đã dạy và đã làm, thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Đúng là một ông vua lạ lùng, quá lạ lùng, mở ra một trang sử “không tiền khoáng hậu”: Chỉ cần 3 ngày là xây xong một đền thờ Giê-ru-sa-lem mà dân Do-thái phải làm trong 46 năm. Và quả thật không sai, sau khi tử nạn, chỉ mới đến ngày thứ ba, Người đã khánh thành một Giê-ru-sa-lem mới trên Vương quốc Thiên đình. Từ Vương quốc đó, Người đã kéo mọi người lên sống một cuộc sống chan hoà Tình Yêu. Trong Vương quốc ấy, không còn chỗ cho thờ ơ lãnh đạm, đố kỵ bon chen, nhỏ nhen ích kỷ, chia rẽ hận thù. Lãnh đạo Vương quốc ấy là một vị Vương giả rất đỗi lạ lùng, lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi, và đó chính là Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô.
Quả là một ông vua lạ đời, nếu không muốn nói là ngược đời! Không cần nói đến những lời tiên tri của các ngôn sứ, kể cả 3 vua phương Đông đến bái lạy (khi Đức Giê-su mới sinh tại Bê-lem) cũng xưng tụng Người là vua; mà chỉ cần nói tới thời gian Người đã trưởng thành cũng đủ thấy Đức Giê-su quả lả ngược đời: Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Người làm vua thì Người không muốn. Người phản đối bằng cách lánh mặt (“Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.” – Ga 6, 15). Cũng như hôm vinh quang vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất cao đón chào (“Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 38). Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi, vậy mà Người lại phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt.
Nhưng khi là phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thì Người lại hiên ngang nhận mình là vua (Khi nghe Phi-la-tô hỏi “Vậy ông là vua sao? Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” – Ga 18, 35-36). Sau đó, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã hứa với cac môn đệ: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.” (Lc 22, 28-30). Nói đến vương quốc thì người đứng đầu vương quốc ấy tất nhiên là vua rồi. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý khi đối diện với quyền lực, đối diện với sự hận thù và đối diện với cái chết, Đức Vua Giê-su muốn tỏ mình ra (xưng vương) trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật. Quả thật Đức Ki-tô “là Thiên Chúa thật và là người thật”, đã “làm chứng cho sự thật” bằng chính sinh mạng của mình để cứu độ nhân loại; vậy nên Người chính là “Vua Sự Thật – Vua Chân Lý”.
Cũng bởi vì “Khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ.” (Pl 2, 10), nên vào ngày 11/12/1925, Đức Giáo hoàng Pi-ô XI đã chính thức thiết lập Lễ mừng kính “CHÚA KI-TÔ VUA”. Sau đó, tại Công Đồng Va-ti-ca-nô II, khi canh tân Phụng vụ, Giáo Hội đưa thêm vào một ý nghĩa mới: “ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ” (Giáo Hội thừa nhận đặc tính vũ trụ và cánh chung được thể hiện cụ thể và đầy đủ nhất nơi mầu nhiệm Giê-su Ki-tô, vì thế nên Lễ này được đặt vào đúng vị trí của nó: Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, thay vì như trước đó, Đức Pi-ô XI để vào CN trước ngày Lễ Các Thánh 1/11).
Tóm lại, khi xác tín Đức Giê-su Thiên Chúa là “Vua Sự Thật” chính là đã nói đến một “chân lý” bất biến: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2, 6-9). Danh hiệu đó chính là VUA CHÂN LÝ vậy. Ấy cũng bởi vì theo từ nguyên, “Chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian, giúp con người thoát khổ và bất tử khi áp dụng thực hành nó. Chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới của con người.” Các tôn giáo (cách riêng Ki-tô giáo) đã đưa ra khái niệm siêu hình về “Chân lý tối thượng” (hay chân lý tối cao, chân lý toàn thể, chân lý của mọi chân lý), là muốn nói đến chân lý thần thánh và thiêng liêng, thuộc tính cao quý của Đấng tối cao toàn năng, Đấng thực hiện mọi phán xét thiêng liêng, toàn thể về sự sống và cái chết.
Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Vua Chân Lý – Vua Vũ Trụ! Xin ban Thánh Linh soi sáng cho chúng con để chúng con không đui mù trước những thảm cảnh nơi trần thế, khỏi câm điếc trước những bất công đày đoạ con người, và nhất là xin cho chúng con được mở rộng trái tim hèn yếu của chúng con, hằng ngày kín múc Tình Yêu chan chứa nơi Ngài, để chúng con biết đến với anh em của chúng con bằng cách san sẻ nguồn Tình Yêu vô tận đó. Ôi! Lạy Đức Vua Tình Yêu! Xin cho chúng con luôn được sống trong cuộc sống “vui với người vui và khóc với kẻ u sầu”. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
.
Lm Giacobe Tạ Chúc
Cuộc chạy đua vào nhà Trắng đã đến hồi khép lại. Ông Donald Trump thuộc Đảng Cộng hòa đã đánh bại đối thủ của mình là bà Hillary Clinton thuộc Đảng Dân chủ. Tổng thống thứ 45 của Hoa kỳ, một con người có thể nói đầy quyền uy, và mọi đường lối, lãnh đạo có tầm ảnh hưởng rất lớn không chỉ ở Mỹ, mà còn trên toàn thế giới. Người ta biết nhiều đến vị tân tổng thống của Hoa kỳ, qua các phương tiện truyền thông. Nếu không còn gì trở ngại, thì ngày nhận chức chắc là linh đình và nguy nga, hoành tráng và trang trọng biết là dường nào. Chẳng khác nào một vị vua chúa trong các cung điện hoàng gia. Trong chúa nhật cuối của năm phụng vụ, chúng ta được Giáo hội giới thiệu cho toàn thể nhân loại chân dung của một vị Vua, người ta gọi Ngài là: VUA GIÊ-SU.
Khác hẳn với những ông hoàng trần thế. Vị vua này không giống ai cả. Vua không có nơi gối đầu, không vương quốc, lãnh thổ, quân đội. Không đấu tranh, bạo động, không tranh giành quyền lực, chỉ sống và yêu như chính cuộc đời của Ngài. Chịu đóng đinh trên Thập Giá, giữa những người gian phi, tấm bảng trên đầu Ngài khẳng định đây là Vua dân Do thái. Vị vua đã đến trần gian và chịu nộp mình vì tội lỗi của con người. Vua Giê-su đã trở nên người phục vụ, và yêu nhân loại cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài đã bỏ cung điện là trời cao, để đến với đất thấp là con người. Chuyến vi hành vỏn vẹn có hơn 30 năm, kể từ lúc sinh ra, nhưng đã để lại nhiều dấu ấn, trong dòng chảy của ơn cứu độ. Làm vua mà không có ngai vàng, đến nỗi các vị vua Hê-rô-đê, Phi-la-tô hết sức ngỡ ngàng khi đối diện với Chúa Giê-su. “Ông là Vua sao”. Vua mà để cho người ta đến bắt và đem đi hành hình, rồi đóng đinh vào cây gỗ giá. Chẳng ai có thể hiểu được, vương quốc của Ngài ở đâu, thần dân của Ngài ở đâu. Người ta lạnh lùng với hình ảnh một Đức Vua đang quặn mình tắt thở trên cây Thánh Giá. Họ đâu biết rằng, Đấng bị treo trên cao là Vua vũ trụ, Vua đất trời. Nước Ngài không thuộc về thế gian, vì thế gian sẽ qua đi. Còn vương của Chúa Giê-su mới trường tồn vĩnh cửu. Người trộm lành không biết xuất phát từ đâu, khi anh nhận ra nơi Đức Giê-su, là Đấng cứu độ: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” Và Đức Giê-su đã chập nhận ngay đều thỉnh cầu của kẻ cùng chung số phận với mình. Kẻ trên Thánh Giá, và người ở bên dưới, hận thù sục sôi khi con người ra tay giết chết Đấng đã rất mực yêu thương mình. Thay vì trả thù cho những đối xử độc ác của con người, thì Chúa Giê-su đã xin Chúa Cha tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình.
Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phao-lô đã viết rằng: “Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang” (Pl 2, 6-11).
Lạy Chúa Giê-su Vua muôn loài, xin Ngài ngự đến trong cõi lòng mỗi chúng con, để chúng con thuộc về Ngài và là thần dân của Ngài trong nước vinh hiển hằng sống. Amen.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 23,35-43
(35) Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lanh thì buông lời chế nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn”. (36) Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống, (37) và nói: “Nếu ông là vua dân Do thái, thì cứu lấy mình đi! (38) Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là Vua người Do thái”. (39) Một trong hai tên gian phi bị treo trên thap giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. (40) Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà có Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! (41) Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. (42) Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (43) Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
- Ý CHÍNH: Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu trên thập giá như một ông Vua ngự trên ngai vàng của mình. Hầu hết những kẻ hiện diện vì đã quen với hình ảnh một ông vua trần tục nên không nhận ra Đức Giêsu là Vua Mêsia: Dân chúng thì im lặng đứng nhìn. Các đầu mục Do thái thì lên tiếng cười nhạo. Lính tráng cũng chế giễu Người. Trên đầu Người có bản án viết như sau: “Đây là Vua người Do thái”. Hai tên gian phi thì một tên không tin đã nhục mạ Người, còn kẻ tin thì bênh vực và cầu xin Người thương xót nên cuối cùng anh là người đầu tiên đã nhận được ơn cứu độ của Người.
- CHÚ THÍCH:
– C 35-38: + Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo: Khi đối diện với thập giá của Đức Giêsu, dân chúng thì ngỡ ngàng đứng nhìn hậu quả của việc mình đã về hùa với kẻ mạnh mà lên án bất công cho người công chính. Còn các đầu mục Do thái thì hả hê vì đã hạ gục được một kẻ dám chống lại họ. + Là Đấng Kitô: Kitô (Christos) là tiếng Hy Lạp, tương đương với từ Mêsia trong tiếng A-ram hay Do thái. Cả hai từ Mêsia và Kitô đều có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Xức dầu là một nghi thức tấn phong, giống như Sa-mu-en đã xức dầu phong cho Đa-vít làm Vua (x. 1 Sm 16,13) ; như Môsê đã xức dầu phong A-a-ron làm Tư tế (x. 1 V 19,16) ; như Êlia được lệnh xức dầu phong Ê-li-sê làm Ngôn sứ thay thế mình (x. 1 V 19,16; Is 61,1). + Là người được tuyển chọn: Đây là tước hiệu đã được Chúa Cha xác nhận trước mặt ba môn đệ khi Người hiển dung (x. Lc 9,35), phù hợp với lời tuyên sấm của Isaia về Đức Giêsu là người Tôi Trung, được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện công trình cứu độ, nhưng lại bị người đời khinh dể (x. Is 42,1). + Lính tráng cũng chế giễu Người: Lính tráng ở đây là binh sĩ Rôma. Chúng thi hành án lệnh của quan Tổng trấn Philatô đóng đinh Đức Giêsu. Bọn lính này cũng vào hùa với các đầu mục Do thái chế giễu nhục mạ Người. + Chúng lại gần đưa giấm cho Người uống: Giấm là một thứ nước có pha giấm chua gọi là Pos-ca mà lính Rôma hay dùng. + Đây là Vua người Do thái: Câu này do quan Philatô truyền viết gắn lên thập giá như một bản án. Ngày nay trên cây Thánh Giá, ta thấy có chữ INRI, là chữ viết tắt của câu tiếng La tinh: “JESUS NAZARETH REX JUDEORUM”, nghĩa là: “Giêsu Na-da-rét Vua dân Do thái” (x. Ga 19,19).
– C 39-41: + “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”: Tên gian phi này đã nghĩ Đức Giêsu chỉ là một ông Vua Thiên Sai giả, không thể làm được những điều kỳ diệu, nên đã lên tiếng chế giễu Người. Đây cũng là cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa, yêu cầu Người làm phép lạ phục vụ cho mình, giống như ma quỷ đã cám dỗ Người lúc Người bắt đầu rao giảng Tin mừng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy”… (Lc 4,3). Dân làng Na-da-rét cũng có lần đã cám dỗ Người như thế (x. Lc 4,23). + Nhưng tên kia mắng nó…: Chỉ Tin mừng Luca mới nhắc đến thái độ khác biệt của người gian phi có lòng sám hối này.
– C 42-43: + Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!: Trong hoàn cảnh đau thương như vậy thì lời bênh vực và kêu xin của người gian phi, dù có yếu ớt, nhưng cũng an ủi Người rất nhiều. Người đã lập tức tha tội và hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho anh. Thật đúng như lời Người đã nói: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). + “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”: Đối với một số người Do thái thì Thiên Đàng là nơi những người công chính ở, chờ ngày sống lại (x. Lc 16,22-31). Còn đối với chúng ta thì Thiên Đàng là “Trời cao” như lời thánh Phaolô: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Thiên Đàng còn là “Trời Mới, Đất Mới” thay cho “trời cũ đất cũ” bị biết mất (x. Kh 21,1). Nơi đó sẽ “không có sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (x. Kh 21,4).
- CÂU HỎI: 1) Tin mừng Luca ghi nhận những thái độ của dân chúng. đầu mục Do thái, lính canh, hai tên gian phi trước cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu như thế nào ? 2) Kitô hay Mêsia nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Trong Thánh kinh, ba chức vụ nào được xức dầu tấn phong ? 3) Chữ INRI được gắn trên cây Thánh Giá có ý nghĩa thế nào ? 4) Cơn cám dỗ cuối cùng Đức Giêsu phải đương đầu trên cây Thánh Giá là gì ? 5) Câu nào của Đức Giêsu trên cây Thánh Giá cho thấy Người tỏ ra ưu ái đặc biệt đối với tội nhân có lòng sám hối ăn năn ? 6) Theo Thánh kinh thì Thiên Đàng là gì ? 7) Tại sao lại gọi thập giá Đức Giêsu là cây Thánh Giá ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là Vua người Do thái” (Lc 23,38).
- CÂU CHUYỆN:
1) ANH KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ CHO EM HƠN THẾ NỮA:
Gần đây, các thợ lặn đã tìm được một con tàu đã bị đắm ở ngoài khơi biển Bắc Ái nhĩ lan cách đây 400 năm. Trong số các báu vật tìm được trên con tàu này, có một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Sau khi được lau chùi sạch sẽ, trên mặt nhẫn hiện ra một hàng chữ kèm theo hình một bàn tay đang cầm một quả tim đưa ra. Người ta đọc được câu ấy như sau: “Anh không còn gì để cho em hơn thế này nữa”. Trong tất cả những báu vật tìm thấy trên con tàu, không vật nào khiến cho các tay thợ lặn cảm động cho bằng chiếc nhẫn với hàng chữ khắc ghi trên đó.
2) TÌNH YÊU ĐƯỢC BIỂU LỘ BẰNG HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ:
Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Khi biết mình sắp chết, đã mở một cuộc tuyển chọn hoàng tử để truyền ngôi. Cuộc thi nêu ra điều kiện duy nhất là hoàng tử phải có lòng nhân ái. Đến ngày thi, rất đông các con nhà quý tộc ăn mặc sang trọng đã đến dự thi và nói năng hoạt bát để định nghĩa thế nào là một ông vua nhân ái. Tuy nhiên tất cả lời nói của bọn họ đều không có sức thuyết phục được nhà vua. Sau cùng, một chàng thanh niên đã đến trình diện trong bộ đồ cũ rách nát. Vừa nhìn thấy anh với bộ dạng nghèo hèn, mọi người đều cười nhạo tỏ vẻ khinh dể, nhưng riêng nhà vua lại vui vẻ bước xuống ngai vàng đến đón tiếp và sau đó đã chính thức chọn anh làm hoàng tử lên nối ngôi vua sau này. Tại sao vậy?
Số là vào chiều hôm trước, khi ban giám khảo ra lệnh tập trung kiểm tra các thí sinh, thì nhà vua đã cải trang thành một người hành khất đứng ngay ở lối đi vào hoàng cung để thử lòng các vị hoàng tử tương lai. Nhiều thí sinh con nhà quyền quý giàu có khi đi ngang qua người ăn xin đã tỏ thái độ khinh thường quay mặt đi chỗ khác. Duy chỉ có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú nhưng thuộc giới bình dân là dừng lại. Anh đã chủ động hỏi thăm về hoàn cảnh của người ăn xin, rồi sẵn sàng chia sẻ tất cả số tiền mang theo giúp đỡ. Thấy người ăn xin mặc áo cũ rách, anh còn cởi chiếc áo lành lặn đang mặc cho người ăn xin này. Hôm nay trong buổi thi chính thức, do không còn chiếc áo nào khác nên anh đành mặc chiếc áo cũ rách của người ăn xin hôm trước để vào trình diện nhà vua. Vừa thấy anh, nhà vua đã nhận ra chàng thanh niên hôm trước và đã chọn anh làm hoàng thái tử nối ngôi. Từ đó anh được vào sống trong triều đình nhà vua để được học tập và ít lâu sau khi nhà vua băng hà anh đã được lên nối ngôi vua.
Câu chuyện trên cho thấy lòng nhân ái không hệ tại ở lời nói, nhưng ở việc làm cụ thể, sẵn sàng hy sinh nhường cơm sẻ áo cho những người bất hạnh gặp phải giữa đời thường.
- SUY NIỆM:
Sau Thế Chiến lần thứ nhất (1914-1918), cuộc chiến đã làm gần 9 triệu người bị chết, ngày 11.12.1925, Đức Piô XI đã truyền thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, để cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia đừng nuôi mộng bá chủ địa cầu để gây ra chiến tranh tàn sát lẫn nhau, nhưng mọi dân tộc hãy chấp nhận nhau là anh em trong cùng một Vương Quốc dưới quyền Vua Giêsu.
1) Vương quyền của Đức Giê-su:
Trong Thánh Kinh có nhiều chỗ đề cập đến vương quyền của Đức Giêsu: Bài đọc Một trích sách Samuen, ghi lại sự kiện cậu bé Đavít đã được Samuen xức dầu tấn phong làm vua Itraen. Vua Đavít nói đây chính là hình bóng của Vua Giêsu trong thời Tân Ước sau này. Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu được Thánh Thần xức dầu tấn phong là Vua Thiên Sai để đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,18-19). Trong cuộc khổ nạn, khi đứng trước tòa Philatô, Đức Giêsu đã khẳng định: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
2) Đặc điểm của Vua Giêsu:
– Đức Giê su là Vua, nhưng không giống các ông vua trần thế “Hành quyền trên dân và bắt dân hầu hạ mình”. Đức Giêsu là Vua nhưng là Vua Mục Tử. Người đã rửa chân hầu hạ môn đồ, sẵn sàng chịu chết để bảo vệ đàn chiên, luôn chăm lo cho chiên “được sống và sống dồi dào”. Người là Vua Hòa Bình khi ngồi trên lưng lừa thay vì mình ngựa khải hoàn vào thành Giêrusalem. Người còn là Vua Nhân Ái, dành trọn tình yêu thương thần dân đến nỗi sẵn sàng bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn, để máu và nước từ trái tim chảy ra hầu thanh tẩy tội lỗi của nhiều người. Tình yêu ấy đã được Tin Mừng Gioan ghi nhận: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).
– Khi chịu chết trên thập giá, phía trên đầu Đức Giêsu, quan Philatô truyền gắn bản án: “INRI” viết tắt của câu bằng tiếng La tinh: “Giêsu Nadarét Vua dân Do thái”. Đức Giêsu là Vua, nhưng vương miện của Người lại là vòng gai nhọn cuốn trên đầu, cẩm bào của Người là sự trần trụi ô nhục. Khi ấy không có những lời tung hô vạn tuế, mà chỉ có những lời đả đảo nhạo báng khinh chê của các đầu mục dân Do thái, của đám đông cuồng nộ, của bọn lính canh thờ ơ và lời nhạo báng của tên trộm gian ác bị treo trên thập giá bên trái Đức Giêsu.
3) Tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô là Vua”:
– Ngày nay mỗi lần nhìn lên cây Thánh giá, thay vì vô cảm đứng nhìn, chúng ta hãy thành tín dâng lời cầu nguyện như người kẻ trộm bên phải có lòng sám hối: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Nhờ đó chúng ta cũng sẽ nhận được lời Chúa hứa như Người đã nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,42-43).
– Các bà mẹ Công giáo nên theo gương của một bà mẹ đạo đức kia chỉ tay vào cây Thánh Giá của Chúa để khuyên đứa con của mình: “Con ơi! Hãy nhìn cho kỹ. Chính Chúa Giêsu đã chết đau thương trên cây Thánh giá như vậy để đền tội của con đó”.
– Ngày nay, dù có tin nhận Chúa Giêsu là Vua hay không, nhưng mọi dân nước trên thế giới đều nhận lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu (25/12) làm cột mốc đánh dấu thời gian năm tháng chung cho nhân loại, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ được Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Quả thật, Chúa Giêsu lôi kéo mọi người lên với Người như Người đã nói: “Khi nào tôi bị treo lên, tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng tôi” (Ga 12,32).
4) Để Vương quyền của Vua Giêsu ngày một lan rộng:
– Để tin nhận Chúa Giêsu là Vua và trở thành công dân trong Nước Thiên Chúa, người tín hữu phải sẵn sàng từ bỏ mọi thứ vua giả dối như: Các loại thần tượng, danh vọng, chức quyền, của cải vật chất… để luôn sống chan hòa yêu thương, khiêm tốn phục vụ tha nhân, sẵn sàng hy sinh tất cả để giúp mọi người ngày một ấm no, an vui hạnh phúc hơn. Tin nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua là phải kết hiệp với Người xây dựng một “Trời Mới, Đất Mới”, Vương quốc huynh đệ, yêu thương, công lý và hòa bình bắt đầu từ trần gian hôm nay và kết thúc vào ngày tận thế.
– Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tư tưởng, lời nói và hành động của mình. Từ nay chúng ta không còn được sống theo thói thế gian, không được sống theo ma quỷ và các đam mê tội lỗi… nhưng cần sống theo Chúa Giêsu như lời thánh Phaolô : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
– Mỗi buổi tối chúng ta hãy xét mình để biết Vua của tâm hồn chúng ta hiện giờ là ai? Là Vua Giêsu hay một ai khác…? Mỗi ngày hãy năng cầu nguyện noi gương người trộm lành xưa: “Lạy Chúa Giêsu là Vua lòng con. Xin thương con hôm nay và nhất là trong giờ chết”.
- THẢO LUẬN: 1) Bạn có đồng ý câu: “Yêu thương là cho đi. Cho nhiều là dấu yêu thương nhiều. Cho cả mạng sống của mình là dấu chứng tỏ tình yêu tột đỉnh”? 2) Trong những ngày này bạn sẽ dâng cho Chúa Giêsu những gì để biểu lộ tình yêu của bạn?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU VUA VŨ TRỤ. Nếu Chúa thực sự là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, của hơn tám trăm ngàn nữ tu, của trên một tỉ người công giáo… thì thế giới này chắc đã đổi mới từ lâu rồi. Quả thật, men đức tin của các tín hữu chúng con tuy không ít, nhưng sở dĩ khối bột thế giới chưa dậy lên men tình yêu của Chúa, là do men của chúng con đã bị mất phẩm chất. Ngày nay sự dữ vẫn đang tràn lan trên thế giới, mà trong đó không ít điều dữ lại do chính các tín hữu là chúng con gây ra. Nhiều người trong chúng con mới chỉ tôn vinh vương quyền Chúa trong nhà thờ, nên ngoài xã hội vẫn đang vắng bóng tình yêu của Chúa. Ước gì mọi người Công giáo đều quyết tâm thực hiện lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ và giới thiệu Chúa là Tình Thương cho mọi người, thì chắc chắn Vương quyền của Chúa sẽ mau hiển trị trên toàn thế giới.
– LẠY VUA GIÊSU. Xin cho mỗi tín hữu chúng con biết chọn lối sống hy sinh quên mình và vác thập giá mình hằng ngày, là những bệnh tật, những người trái tính trái nết đang sống chung quanh, là những tai ương rủi ro chúng con gặp phải trong cuộc sống hằng ngày… để bước theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên những môn đệ trung tín và khôn ngoan, sẽ được Chúa tha tội, và được nghe Chúa ưu ái nói với chúng con trong giờ chết như đã nói với người trộm lành trong Tin mừng hôm nay: “Ta bảo thật, hôm nay, con sẽ được ở với Ta trên Thiên đàng”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ Năm C. Tuần tới là Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng, khởi đầu cho năm phụng vụ mới Năm A. Chúa nhật này, cùng với Giáo hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua. Nghe bài Tin mừng nhiều người có thể thắc mắc tại sao Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin mừng về sự kiện Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, bị dân chúng nhạo cười và chết tủi nhục trong ngày lễ kính Chúa Ki-tô Vua hôm nay? Không biết có lầm không? Thật khó hiểu! Khó hiểu bởi vì tâm trí chúng ta thường liên tưởng tới một ông vua theo kiểu trần gian, sống cuộc sống giàu sang và được trọng vọng. Trong khi Chúa Giê-su đã cho biết trong Tin mừng thánh Gioan “Nước tôi không thuộc trần gian này.” Vậy thì vương quốc của Chúa là gì? Hay mang tính cách gì? Xin được chia sẻ 3 tính cách vương quyền của Chúa Giê-su Ki-tô sau đây.
Thứ nhất, vương quốc của Chúa Giê-su là của sự trung thành. Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã thiết lập vương quốc này, nhưng ma quỉ phá hoại bằng cách xúi dục con người phạm tội không vâng lời Ngài. Vì thế, Chúa Giê-su đã vâng lời Thiên Chúa Cha, khiêm nhường sinh xuống trần và mặc lấy bản tính con người. Người đã không sống cho riêng mình, nhưng luôn trung thành sống theo ý Chúa Cha và chu toàn sứ vụ cứu độ nhân loại qua cái chết trên thập giá. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa, qui tụ những người tin và trung thành vào trong nhà Cha trên trời.
Thứ hai, vương quốc của Chúa Giê-su là vương quốc của sự tự do. Khi con người phản bội không vâng lời và rời xa Chúa thì rơi vào bàn tay của ma quỉ và làm nô lệ cho nó. Ma quỉ trói buộc con người lại bằng những sợi dây ích kỷ và kiêu căng, bằng sợi dây tham lam vật chất và tiền bạc, và bằng những thứ đam mê và nghiện ngập. Chúa Giê-su xuống thế làm người mục đích là để giải thoát con người khỏi ách nô lệ của ma quỉ, cứu con người khỏi mọi sự sợ hãi, thoát khỏi áp lực của những sự cám dỗ, và dẫn đưa con người sống trong bóng tối của tội lỗi và sự chết ra ánh sáng ân sủng, chân lý và an bình. Trọn cuộc đời, Chúa Giê-su sống trong tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ một áp lực nào để phục vụ và hy sinh. Ngay từ giờ phút đầu tiên trước khi rao giảng công khai, Người đã chống lại và đánh tan những cơn cám dỗ của ma quỉ về vật chất, danh vọng và thế lực trong sa mạc, cho đến giờ phút cuối cùng khi bị treo trên cây thập giá bị những sự thách thức của dân chúng: “Nếu ông là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.” Nhưng Chúa Giê-su đã đi vào cái chết một cách rất tự do, phá tung những xiềng xích nô lệ, và khởi đầu cho một triều đại mới cho những ai muốn sống tự do là con cái Chúa.
Vương quốc thứ ba của Chúa Giê-su là vương quốc của tình yêu. Chúa Giê-su xuống trần là để làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa Cha. Người rao giảng về ân sủng Nước Trời, cứu chữa những người đau khổ và tha thứ cho những người tội lỗi. Người tha thứ cho những kẻ vu khống, đánh đập và đóng đinh Người vào thập giá. Tình yêu lên đến cực điểm khi Người giang tay trên thập giá như Người đã nói “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng chết cho người mình yêu.” Chúa Giê-su đã biến thập giá trở thành Thánh giá tình yêu. Thánh giá diễn tả tình yêu của Chúa Giê-su dành cho Thiên Chúa Cha và cho con người nhân loại mọi thời đại. Chúa Giê-su là sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha cho con người nhân loại, và tình yêu cao cả này đã lan tỏa ra tới mọi góc biển chân trời.
Ông bà anh chị em thân mến. Các thánh tử đạo Việt Nam cha ông của chúng ta mà chúng ta mừng kính hôm nay đã nhận ra vương quyền và tình yêu của Chúa Giê-su. Các ngài hân hoan vui mừng minh chứng vương quốc của Chúa Ki-tô bằng sự trung thành, bằng những sự đau khổ và bằng cái chết vì đức tin của các ngài. Để làm chứng cho vương quốc của Chúa Giê-su và làm sáng danh Người, các thánh tử đạo Việt Nam đã phải có những quyết định và chọn lựa can đảm. Có khi thật khó khăn như tuân theo hay không lệnh của vua quan, nhưng có khi rất đơn giản như bước qua hay không bước qua Thánh giá. Bước qua thì có ngay danh vọng và tiền bạc, nếu không bước qua thì lập tức lãnh lấy những cực hình và cái chết. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá Chúa Ki-tô tôi kính thờ, tôi bước qua sao được.” Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã dứt khoát trả lời cho viên quan ra lệnh cho ngài phải bước qua thập giá rằng: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!” Đây là những quyết định, chọn lựa thật can đảm và hùng hồn, minh chứng lòng xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô và vương quốc của Người.
Ông bà anh chị em thân mến. Mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua và kính các thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, mời gọi mỗi người chúng ta, là con cháu của các ngài, nhìn lại cuộc sống đức tin của chúng ta ngày hôm nay như thế nào. Cuộc sống và những quyết định về lòng xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô Vua của chúng ta hôm nay không đòi chúng ta phải chịu nhiều đau khổ hay cực hình, nhưng cũng không kém phần khó khăn, thử thách và cần nhiều sự hy sinh cũng như quảng đại. Thật vậy, chúng ta đang phải đối diện với những sự lôi cuốn tham lam tiền bạc và vật chất, đứng trước sự cám dỗ của đời sống ích kỷ cá nhân, sự kiêu căng, tự cao và hờ hững với Lời Chúa, làm chúng ta xa Chúa. Xin Chúa Giê-su Ki-tô Vua, qua lời cầu bầu của các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, phá tan những xiềng xích trói buộc chúng ta, để chúng ta được sống trong tự do là con cái Chúa, giúp chúng ta biết noi gương các thánh, sống chứng nhân trung thành với Chúa Giê-su Ki-tô Vua và làm sáng danh Người đời này, để chúng ta được chung hưởng vinh phúc Vương Quốc của Chúa đời sau.
.