LỄ CÁC THÁNH
Lời Chúa: Kh 7,2-4. 9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12
1. Nên thánh bằng tình mến (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Niềm hy vọng hạnh phúc (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Thế nào là thánh (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Giáo hội khải hoàn (Trầm Thiên Thu)
5. Anh em hãy nên hoàn thiện (Văn Hào, SDB)
6. Lễ Các Thánh Nam Nữ_B (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
7. Chúng ta có thể làm thánh không? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
8. Noi gương Các Thánh (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Lễ Các Thánh Nam Nữ (Lm. Nhân Tài)
10. Hãy là người tốt (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
11. Phúc thay (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
12. Niềm hy vọng hạnh phúc- (Dã Quỳ)
13. Hạnh phúc mai ngày bắt đầu từ hôm nay (Lm. Đan Vinh – HHTM)
14. Này là dòng dõi những người tìm Chúa (Huệ Minh)
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Khi đọc kinh Tin Kính, chúng ta long trọng tuyên xưng bốn đặc tính của Giáo Hội: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Thánh thiện vừa là ơn gọi của người tín hữu, vừa là một đặc tính nổi bật của cộng đoàn những người tin vào Chúa Ki-tô. Chính sự thánh thiện đã tô điểm hình ảnh của Giáo Hội và làm cho Giáo Hội trường tồn với thời gian.
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, những ai tin vào Chúa Giê-su đã được gọi là “các thánh” (x. Cv 9,13; 1 Cr 6,1), và các cộng đoàn Đức tin cũng được gọi là “cộng đoàn các thánh”. Đương nhiên, khi dùng khái niệm này để chỉ các tín hữu, các tác giả không có ý “phong thánh” cho mọi tín hữu, nhưng muốn nhắc tới một danh dự và bổn phận: danh dự vì họ được mang tên Đức Ki-tô; bổn phận, vì họ phải cố gắng mỗi ngày để nên giống Đức Ki-tô, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Giáo Hội thánh thiện, vì Giáo Hội là hiện thân của Chúa Giê-su. Nhờ Chúa Giê-su, Giáo Hội có khả năng thánh hoá mọi vật mọi loài. “Tất cả các công việc của Giáo Hội đều hướng về mục đích là thánh hoá con người trong Đức Ki-tô và tôn vinh Thiên Chúa” (Hiến chế Phụng vụ Thánh, Công đồng Va-ti-ca-nô II, số 10).
Thời xưa, khi nói đến các thánh, chúng ta chỉ nghĩ đến Đức Trinh nữ Maria, Thánh Giuse, Thánh Phê-rô và Phao-lô cùng với các vị thánh có tên trong Kinh cầu Các thánh hoặc trong Sổ bộ các thánh đã được Giáo Hội tuyên phong. Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hướng lòng lên trời cao chiêm ngưỡng cộng đoàn đông đảo các thánh nam nữ. Họ là những vị thánh đã được Giáo Hội tôn phong và đặt trên bàn thờ; nhưng họ cũng là những người, tuy chưa được tôn phong, đã được Chúa thưởng công vì suốt đời tận tuỵ hy sinh, mến Chúa yêu người. Trong cộng đoàn đông đảo các thánh, cũng có những người xưa đã là tội nhân, nhưng được ơn Chúa tác động và biến đổi cuộc đời, sám hối chân thành và quyết tâm nên thánh. Các thánh là “những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt và tẩy áo mình trong máu con chiên” (Bài I). Như vậy, hào quang thánh thiện là phần thưởng Chúa ban cho những ai đã kiên định trong Đức tin và trung thành trong gian nan thử thách.
Lễ Các thánh là niềm hy vọng và khích lệ cho chúng ta là những người đang bước đi trên con đường lữ thứ trần gian. Công đồng Va-ti-ca-nô II nhấn mạnh: “Được ban cho những phương tiện cứu độ dồi dào và cao cả như thế, tất cả các Ki-tô hữu, dù trong hoàn cảnh và bậc sống nào, mỗi người trong con đường của mình, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự thánh thiện trọn hảo như Chúa Cha là Đấng trọn hảo” (GH 11).
Nhiều người ngày nay cho rằng nên thánh là một lý tưởng cổ xưa xa vời, không liên quan đến đời sống hiện tại của các tín hữu. Khi cùng đọc và suy tư lời giảng dạy của Chúa về “Tám mối phúc thật”, Phụng vụ muốn khẳng định với chúng ta: ơn gọi nên thánh vô cùng cần thiết và gần gũi chúng ta, như hơi thở, như lương thực hằng ngày. Hơn nữa, chúng ta có thể nên thánh bằng những việc làm rất đơn sơ dung dị trong cuộc sống, tức là thực hiện các mối phúc mà Chúa Giê-su đã rao giảng. Những người được nên thánh không phải vì họ đã làm những việc ngoạn mục lớn lao, thay đổi thế giới, nhưng là những người có Đức tin chân thành, Đức cậy kiên vững và có Đức mến nồng nàn. Nhờ những nhân đức “đối thần” này, họ sẵn sàng có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, kiên định trong lúc sầu khổ, luôn ao ước được nên công chính, chuyên cần thực thi lòng nhân hậu, luôn sống trong sạch ngay thẳng, bền chí xây dựng hoà bình và vì Chúa, họ sẵn sàng chịu bách hại thiệt thòi để Danh Chúa cả sáng. Nên thánh là thực hiện một trong những mối phúc này, được soi sáng và thúc đẩy nhờ Tình Yêu. Thánh Tê-rê-sa đã khám phá ra điều đó và đã khẳng định: “Tình Yêu bao gồm nơi mình tất cả các ơn gọi, Tình Yêu là mọi sự và Tình Yêu bao trùm khắp không gian và thời gian… tắt một lời, Tình Yêu thì vĩnh cứu”.
“Mỗi vị thánh đều có một quá khứ; mỗi tội nhân đều có một tương lai“. Điều này khẳng định với chúng ta, dù tội lỗi thế nào đi nữa, chúng ta cũng không tuyệt vọng, vì Chúa luôn ban ơn dìu dắt chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến và can đảm nắm lấy bàn tay Ngài, Ngài sẽ giúp chúng ta trên con đường nên thánh.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
- TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12a
- TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ngày xưa khi còn nhỏ tôi thường nghe nói các thánh là những người được Chúa ban cho những ơn rất đặc biệt để có thể gìn giữ mình. Thế nên, có rất nhiều chuyện li kỳ mà các cụ thích kể về các ngài như chuyện vị thánh nọ mới sáu tháng tuổi, đã biết kiêng bú mẹ vào thứ sáu hàng tuần, hoặc 5, 6 tuổi đã sống “thanh khiết” đến nỗi không dám nhìn mặt mẹ mình (!). . . Chuyện kể về các thánh xem ra cũng ly kỳ như những truyện huyền thoại về thánh Gióng ăn cơm mãi không no, rồi vươn mình thành người phi thường . . .!
Thực ra, các thánh không phải là những người phi thường hay khác thường. Các thánh đều là những người cũng từng phải can đảm nỗ lực vượt qua cám dỗ của dòng xoáy danh lợi thú để trung kiên với giáo huấn của Chúa. Các thánh có khi cũng từng sa ngã nhưng quan yếu là các ngài dám đứng lên làm lại cuộc đời.
Sách khải huyền cho thấy các thánh hằng hà sa số luôn tô điểm cho vườn hoa Giáo Hội đủ mầu đủ sắc. Các Ngài là những người sống quanh ta, bên cạnh ta, có khi họ là những bà con thân thuộc trong gia đình ta. Các ngài đã biết dệt đời mình trong máu Con Chiên cứu chuộc để trở nên tinh tuyền hơn. Vì con đường nên thánh là con đường của mọi người con Chúa, là con đường mà Chúa Giê-su bảo rằng: “anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Thế nên, thánh Augustinô đã nói một câu để đời: “Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không?”. Chúa mời gọi mọi người nên thánh. Các thánh là những người đã đi trước chúng ta, đã dám gọt dũa, đục đẽo, loại bỏ những gì không cần thiết để càng lúc càng giống Chúa Kitô Giêsu. Các ngài đã đi con đường tám mối phúc để mong trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Và hôm nay, các ngài đã cùng với vô số thiên thần chúc tụng ngợi khen Chúa trên thiên đàng.
Hôm nay trong sự hiệp thông cùng các thánh chúng ta chúc tụng Chúa là Thiên Chúa đã thương tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Người. Chúa ban cho chúng ta hồn thiêng bất tử để ta được sống trong sự sống thần linh của Chúa, được hợp cùng các thánh để tôn vinh Thiên Chúa. Đồng thời cũng là dịp nhắc nhở chúng ta phải nên thánh. Người ky-tô hữu phải nên hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện.
Nhưng xem ra nên thánh không phải dễ, vì con người vốn thích chiều theo tính xác thịt. Con người thường tìm sự dễ dãi cho bản thân. Đó là lý do con người thường lầm lỗi, yếu đuối và hay sa đi ngã lại trong tội lỗi. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng khi sửa mình mãi mà không được.
Hãy yên tâm. Hãy tin tưởng. Vì Chúa Giê-su đã nói: đối với loài người thì không thể nhưng đối với Thiên Chúa lại dễ dàng. Chính Chúa sẽ ban ơn trợ giúp để chúng ta canh tân sửa đổi, vì ơn Chúa luôn đủ cho ta, và quyền năng Chúa sẽ hiển trị trên sự yếu hèn của ta.
Xin cho chúng ta luôn tin vào tình thương của Chúa để đứng dạy sau những lầm lỗi. Xin cho chúng ta luôn cậy trông vào ơn Chúa để hòan thiện mình nên thánh mỗi ngày. Amen
.
Trầm Thiên Thu
Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:5-6). Giáo hội duy nhất nhưng có ba thành phần: Giáo hội Khải hoàn (các thánh vinh hiển), Giáo hội Đau khổ (các linh hồn nơi luyện ngục), và Giáo hội Chiến đấu (những người trên đường lữ hành trần gian). Ba thành phần của Giáo hội được gọi là “các thánh cùng thông công”.
Ngày đầu tiên của Tháng Cầu Hồn là ngày mừng kính chư thánh hiển vinh, nói lên tính thông công đó.
Thánh Gioan Tông đồ kể lại thị kiến: “Tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, rằng: ‘Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta’. Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en” (Kh 7:2-4). Con số 144.000 nghĩa là rất nhiều, chứ không mang nghĩa “số đếm” như cách tính của loài người.
Thánh Gioan kể tiếp: “Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’. Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Kh 7:9-12).
Một trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi Thánh Gioan: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến?” (Kh 7:9-13). Thánh Gioan trả lời: “Thưa Ngài, Ngài biết đó”. Vị ấy bảo: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:13-14).
Các thánh là những người đã chịu trăm cay ngàn đắng lúc sinh thời, nhưng các ngài vẫn kiên tâm bền chí, đặc biệt là các ngài đã “giặt sạch” và “tẩy trắng” chiếc áo của mình trong chính Máu Cứu Độ của Đức Kitô. Thật tuyệt vời biết bao!
Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông’ (Tv 24:1-2). Thiên Chúa là Đấng tác sinh muôn loài, là Đấng toàn năng và cực thánh. Thiên Chúa như thế, vậy “ai được lên núi Chúa và ai được ở trong đền thánh của Người?”. Đơn giản thôi, Thánh Vịnh trả lời ngay: “Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối” (Tv 24:4). Những ai như vậy sẽ “được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng” (Tv 24:5). Quả thật, đây mới chính là “dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm Thánh Nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp” (Tv 24:6).
Các thánh là những người đã quyết tâm thực hành Thánh Luật của Thiên Chúa, thực hiện tới cùng, thực hiện tới chết. Chắc chắn các ngài đã cảm nghiệm được sự ngọt ngào của tình yêu, của lòng Chúa thương xót.
Chúng ta đã biết Chúa, được tái sinh qua Bí tích Thánh Tẩy, tức là chúng ta đều là những “người trở về từ cõi chết”, được tắm gội trong suối Máu và Nước tuôn trào ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta phải cố gắng noi gương các thánh. Thánh Gioan nói: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (1 Ga 3:1). Chuyện ngỡ chỉ có trong mơ tưởng!
Thật khó mà tin được, và đôi khi người ta không muốn tin, nhưng Thánh Gioan xác định rằng “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Vô cùng lạ lùng, thật là mầu nhiệm, đúng là phép lạ! Chúng ta đang là tôi tớ, là nô lệ, là tội nhân, thậm chí là đang chết, thế mà lại được sống lại và được làm con cái Chúa. Những người không có niềm tin Kitô giáo thực sự đúng mức thì không thể nào tin được. Thảo nào người ta bảo các Kitô hữu là ảo tưởng!
Thánh Gioan nhắc lại và giải thích: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1 Ga 3:2-3). Sự thật minh nhiên, nhưng đầu óc “bã đậu” của phàm nhân chúng ta lúc này không thể hiểu hết, trí tưởng tượng “dỏm” của chúng ta cũng không thể hình dung ra được!
Thiên Đàng là cõi phúc, không phải là cõi thiên thai mà Lưu Nguyễn lạc vào xưa kia hoặc như những cõi bồng lai tiên cảnh trong truyện cổ tích, mà là Nước Trời, Vương Quốc Thiên Chúa. Trình thuật Mt 5:1-12 nói về Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật, Bài Giảng Trên Núi). Đây là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Thiên Quốc do Chúa Giêsu soạn thảo, là Đệ Nhất Tuyên Ngôn so với bất kỳ Bản Tuyên Ngôn nào của các quốc gia trên thế giới. Bản Tuyên Ngôn này ngắn nhất, ít điều khoản nhất, nhưng lại chính xác nhất và “độc đáo” nhất.
Bản Tuyên Ngôn Thiên Quốc này đã được chính Chúa Giêsu đọc công khai trước bàn dân thiên hạ. Có điều khác lạ là khi đó Chúa Giêsu ngồi chứ không đứng với dáng vẻ trịnh trọng như bất kỳ một vị nguyên thủ quốc gia nào, còn các môn đệ đứng gần bên. Chả giống ai. Thế mới thật, thế mới tự nhiên, thế mới thân thiện, không cần “ra vẻ” chi cho mệt! Chúa Giêsu “quá đã”! Ngài điềm đạm và dõng dạc tuyên bố:
- Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
- Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
- Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
- Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
- Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
- Phúc thay ai có TÂM HỒN TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
- Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
- Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Chúa Giêsu cũng chẳng văn hoa bóng bẩy, không cầu kỳ, dùng lời lẽ bình dị, ai cũng có thể hiểu. Nghe rất sướng lỗ tai! Cuối cùng, Ngài còn nói thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11-12).
Các thánh đã anh dũng chiến đấu không hề nao núng, ngoan cường tới cùng, mỗi người mỗi vẻ, nên đã đạt được mục đích: Ơn Cứu Độ.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết noi gương các thánh mà trung kiên làm chứng về Chúa cho tới cùng, dù phải thiệt thòi cách nào và với mức độ nào. Xin chư thánh cầu thay nguyện giúp chúng con, xin phù hộ chúng con để chúng con can đảm theo sát gót các ngài mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
Văn Hào, SDB
Nếu có dịp viếng thăm đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng một cảnh quan rất ngoạn mục với nhiều tượng ảnh các thánh do các nghệ nhân nổi tiếng điêu khắc. Đặc biệt ở các ô cửa kính phía trên cao, có rất nhiều hình các thánh được lắp ghép bằng những mảnh kính mầu trông rất ấn tượng. Khi mặt trời lên cao và được ánh sáng chiếu qua, chân dung các thánh được hiện lộ và tỏa sáng. Có một đứa bé khi được cha xứ hỏi trong giờ giáo lý: “ Các thánh là ai ?”, em đã đơn sơ trả lời: “ Thưa Cha, các thánh là những vị được ánh sáng mặt trời chiếu qua”. Câu trả lời của đứa bé gợi nhắc chúng ta về ý nghĩa của ngày lễ hôm nay khi Giáo hội mừng kính các thánh nam nữ. Đúng như em bé nói, các thánh chính là những con người được ánh sáng Đức Kitô soi dọi và chiếu sáng. Ngài chính là mặt trời công chính, chiếu dọi ánh quang vào tâm hồn mọi người. Các vị thánh là những con người vốn mỏng dòn yếu đuối, nhưng đã đạt đến sự hoàn thiện, vì các Ngài đã để ánh sáng Đức Kitô thẩm thấu và ngấm sâu vào trong cuộc đời mình.
Có bao nhiêu vị thánh trên trời?
Không khó để trả lời câu hỏi này. Trong cái nhìn thần học của Thánh Gioan, con số đó nhiều vô kể. Sách Khải Huyền đã ghi lại thị kiến : “Tôi thấy một đoàn người đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ (Kh 7, 9). Con số 144 ngàn (Kh 7, 4), bội số của 12 chi tộc Israel nhân lên 12 và nhân lên gấp ngàn lần nữa, chỉ mang tính biểu tượng ám thị một con số khổng lồ. Bởi lẽ ơn cứu độ của Đức Giêsu bao trùm toàn thể vũ trụ, và phủ bóng trên tất cả mọi người không loại trừ ai. Không chỉ những ai được Giáo hội tuyên phong mới là thánh, nhưng tất cả những người được ân sủng Đức Kitô biến đổi nên công chính, đều là những vị thánh. Trong thư gởi các giáo đoàn như thư Rôma, 2 lá thư Côrinthô, thư Êphêsô, thư Côlossê, Thánh Phaolô vẫn thường gọi các tín hữu là những vị thánh. Hằng tuần chúng ta tuyên tín khi đọc kinh tin kính: ‘Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền’. Giáo hội tự bản chất là thánh thiện, vì thế những ai sống hiệp thông trong Hội thánh đều được thông phần vào sự thánh thiện của giáo hội phát nguồn từ chính Kitô, đấng Thánh của Thiên Chúa. Bởi vì Giáo hội chính là thân thể mầu nhiệm của Ngài.
Ơn gọi nên thánh
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta :“ Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Việc nên thánh không phải là một ơn gọi biệt loại chỉ dành riêng cho một số người, nhưng đó là ơn gọi phổ quát mà Chúa Giêsu ngỏ trao cho tất cả chúng ta. Giáo hội đã tuyên thánh (canonize) rất nhiều vị thuộc đủ thành phần, từ các Giáo Hoàng, các Giám mục, các linh mục, tu sĩ và cả giáo dân. Ngày 18 tháng Mười vừa qua, giữa lúc Thượng hội đồng Giám mục thế giới đang nhóm họp bàn về gia đình, Đức Thánh Cha Phanxicô với quyền bất khả ngộ đã tuyên bố ông bà Martin Guérin, song thân của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux được ghi tên vào sổ bộ các thánh. Cả hai vị cũng là giáo dân giống như nhiều người trong chúng ta, với biết bao lo toan trong cuộc sống đời thường giữa một gia đình khá đông con cái. Bí quyết việc nên thánh của hai Ngài rất giản đơn, đó là hoàn thiện ơn gọi tình yêu trong những bổn phận hằng ngày với niềm đam mê cháy bỏng dành cho Thiên Chúa. Cho dù trong cuộc sống các Ngài có những khiếm khuyết, nhưng tình yêu Thiên Chúa đã lấp đầy những lỗ hổng của thiếu sót và biến trở cuộc đời các Ngài nên hoàn thiện.
Trong các dịp lễ Giáng sinh, Thánh Gioan Bosco có thói quen cho các em học sinh mỗi người một món quà, tùy sở thích mỗi người. Đaminh Saviô đã viết trên một mảnh giấy nhỏ ước muốn đơn sơ của mình và trao cho DonBosco: ‘ Con xin Cha hãy giúp con nên thánh’. Ước muốn này đã được thực hiện và DonBosco không những là một vị thánh, Ngài còn là một nhà giáo dục, là thầy dạy đường nên thánh cho các con cái Ngài. Không ai trong chúng ta lên thiên đàng một mình cũng như không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh cũng bằng cách giúp người khác vươn đạt đến sự thánh thiện.
Đức Giêsu, mẫu gương trọn hảo về sự thánh thiện
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan tông đồ mời gọi chúng ta quy chiếu về Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa. “Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người” (1Ga 3, 2 ). “Ai đặt hy vọng vào Đức Kitô, thì làm cho mình nên thanh sạch” (1Ga 3,3). Đức Kitô Đấng thanh sạch, là con chiên tinh tuyền, chính là chuẩn mẫu về sự thánh thiện để chúng ta noi theo. Ngài đã sống tận căn mầu nhiệm yêu thương để quảng diễn sự thánh thiện nơi Ngài. Vì thế Đức Giêsu mời gọi các môn sinh phải sao chép lại tình yêu mà Ngài đã diễn bày. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga 15,12) . Thập giá và cái chết của Đức Giêsu là nguyên mẫu về sự thánh thiện mà chúng ta luôn phải học hỏi, phải đào sâu, phải khám phá không ngừng nhằm tìm ra con đường thánh thiện để dấn bước. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta bản Hiến chương Nước Trời: đó là tám mối phúc Đức Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi. Đây chính là nẻo đường dẫn chúng ta đi dần vào mầu nhiệm Thập giá. Sống tinh thần khó nghèo, sống hiền lành khiêm tốn, sống nhẫn nhục trong lao nhọc, sống quảng đại với tấm lòng xót thương, sống như là những sứ giả hòa bình… Tất cả đều là những sắc nét của mầu nhiệm Thập giá, con đường dẫn đưa chúng ta đến sự trọn lành.
Tuy nhiên, chúng ta thường hay nghĩ rằng tôi chỉ là một con người tầm thường với biết bao tội lỗi và yếu đuối, làm sao tôi có thể nên thánh được. Chúng ta đừng quên rằng, vị thánh đầu tiên được Chúa Giêsu ‘tấn phong’ và mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào, không ai khác chính là một tên trộm khét tiếng. Một nhà tu đức đã dí dỏm nói rằng: Đây là một tay trộm cắp chuyên nghiệp vì cánh cửa nào anh ta cũng có thể mở ra được. Anh ta dùng một chìa khóa vạn năng để mở các loại cửa, kể cả cửa Thiên Đàng. Chiếc chìa khóa vạn năng đó chính là tín thác vào lòng thương xót của Chúa. Mức độ trộm cắp chuyên nghiệp của anh ta đạt đến đỉnh điểm, vì trước khi chết anh ta còn ăn trộm được cả Thiên Đàng. Trong bộ sách Confessio, Thánh Augustinô cũng viết một câu chuyện tưởng tượng. Ngài gặp tên trộm và hỏi anh ta: “ Thưa anh, anh không phải là người công giáo, anh chưa từng bước chân vào nhà thờ, anh cũng chưa hề học giáo lý và cũng chưa biết Đức Giêsu là ai, vậy tại sao anh lại đựơc Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng cho vào?”. Người trộm trả lời “ Ông nói đúng, tôi chỉ là một tên cướp với cuộc sống đầy kín tội ác. Tôi chưa từng học giáo lý, chưa được rửa tội, cũng chưa biết Đức Giêsu là ai. Nhưng trên thập giá, tôi đã nhìn vào Ngài. Cặp mắt Đức Giêsu đã hắt dọi vào tâm hồn tôi một luồng sáng kỳ diệu, đó là ánh sáng của lòng thương xót. Tâm hồn tôi đã bị khuất phục hoàn toàn trước ánh mắt đầy trìu mến và thân thương ấy. Cuối cùng, tôi đã tin. Tôi đã vào Thiên Đàng không phải do công cán của tôi, nhưng tất cả là hồng ân của lòng thương xót Chúa.
Kết luận
Ngày 05 tháng Chín năm 1997, ông Kofi Anan lúc bấy giờ là Tổng thư ký liên hiệp quốc đã viết một bản cáo phó gửi đi khắp thế giới với nội dung: ‘ Một người giàu quyền lực nhất vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Nhưng người giầu quyền lực đó là ai? Thưa, đó chỉ là một phụ nữ già nua ốm yếu, 87 tuổi, trong tay không có lấy một tấc sắt làm vũ khí để bảo vệ mình. Người giàu quyền lực đó gia sản không có một xu dính túi, đã từng phải ngửa tay xin từng cái giường cũ của những người nhà giàu đem phân chia cho người nghèo. Người giàu quyền lực đó đã can đảm vượt qua mọi rào cản của các luồng ý thức hệ để đến tận Liên Xô, Cuba, Trung Quốc hầu giang rộng vòng tay ôm đón những con người khốn khổ nhất bị vất ra bên lề xã hội. Người giầu quyền lực đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho Mẹ, chỉ 6 năm sau khi Mẹ qua đời, và rất có thể Mẹ sẽ được phong hiển thánh vào năm tới, năm thánh Lòng Thương xót. Đó là một vị thánh của đời thường, sống rất dung dị, một con người rất con người nhưng cũng là một vị thánh rất là thánh. Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “ Ta khát”. Lời gào thét đó vẫn đang vang vọng nơi khuôn mặt những con người khốn khổ của xã hội ngày hôm nay. Mẹ đã nên thánh bằng việc cảm nghiệm sâu xa tình yêu Chúa và đã trải rộng tình yêu đó đến những người cùng khổ một cách cụ thể. Đó là một dung mạo rất gần gũi và thân quen trong muôn vàn vị thánh, để chúng ta suy nghiệm và chiêm ngắm trong ngày lễ mừng kính các thánh hôm nay.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta mừng kính lễ Các Thánh Nam Nữ trên trời. Chúng ta dâng lời ca tụng, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa vì những kỳ công, vì những việc lạ lùng mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đã sống tại trần gian này trước chúng ta, trong đó có tổ tiên, cha ông của chúng ta. Họ là những người đã tin theo và sống chứng nhân, trở nên đồng dạng với Chúa Giê-su Kitô nơi trần gian. Chính Chúa Giê-su Ki-tô đã mở ra cho họ một con đường trở nên giống Ngài, con đường của sự sống, con đường sự thật đưa đến sự thánh thiện, và cũng là con đường hạnh phúc. Và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang với chính Chúa Giêsu Ki-tô trên Nước Trời. Chúng ta hân hoan vui mừng, vì hôm nay chúng ta cũng được Chúa dẫn dắt, hướng dẫn đang đi trên con đường đến sự thánh thiện, hạnh phúc và vinh quang như của các Thánh.
Lễ kính các Thánh kêu gọi mỗi người Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào đời sống, xét mình soi gương xem chúng ta có thật sự đang trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa và các Thánh không. Các bài đọc lời Chúa hôm nay nhắc nhở và giúp chúng ta tự xét mình. Bài đọc I cho chúng ta biết các Thánh là những người trung thành với Thiên Chúa sau khi đã trải qua những cơn thử thách lớn lao. Cuộc sống của họ đã được giặt sạch và tẩy trắng trong máu Con Chiên. Các Thánh là những người đã sống một cuộc đời như Chúa Giê-su đã dạy. Họ đã từ bỏ lối sống ích kỷ của bản thân, hy sinh chấp nhận mọi gian khổ ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa. Bài đọc II nhắc nhở chúng ta ơn gọi làm con Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Chúng ta có bổn phận và trách nhiệm làm vinh danh Thiên Chúa, để chúng ta được vinh danh trên Nước Trời. Chúng ta làm vinh danh Thiên Chúa như thế nào trong cuộc sống?
Như chúng ta biết, có những vị thánh không có tên trong sách các Thánh hay trong lịch phụng vụ của Giáo hội, nhưng tất cả các Thánh đều được gần Chúa và hưởng vinh quang hạnh phúc Nước Trời như nhau. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, làm lụng vất vả và có cuộc sống âm thầm. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ. Có những vị thánh có tấm lòng yêu thương và quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh hy sinh phục vụ và can đảm dùng mạng sống mình làm chứng cho đức tin, cho Chúa. Có những vị thánh là nam nữ tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những người có gia đình, vợ chồng, con cái.
Các Thánh trên trời không phải là những con người hoàn toàn hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm, thiếu sót hay tật xấu nào trong cuộc sống nơi trần gian này. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, hay những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người chúng ta, nhưng các ngài đã “sống những điều tầm thường một cách phi thường.”
Ông bà anh chị em thân mến. Con người trần gian chúng ta không thể tự mình làm cho mình nên thánh được, vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người chúng ta được mời gọi trở nên Thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Do đó ai trở nên đồng dạng, trở nên giống Chúa Giê-su Kitô, người ấy mới trở nên thánh thiện. Ai chân thành sống những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống con người rất bình thường. Chúng ta biết có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực. Vì vậy, chúng ta có thể nhận ra bí quyết nên thánh của các Thánh là các ngài đã có tâm hồn khiêm nhường, thành tâm và can đảm vâng theo thánh ý Chúa, và sống Tám Mối Phúc Thật, theo lời Chúa dạy bảo để luyện tập nhân đức, trở nên giống hình ảnh của Chúa Giê-su Ki-tô. Các Thánh là những người đã có tinh thần nghèo khó và có cuộc sống hiền lành. Các Thánh là những đã người chịu những sự đau buồn và đói khát. Các Thánh là những người đã có lòng thương xót và trong sạch. Các Thánh là những người đã ăn ở thuận hoà. Các Thánh là những người đã bị bách hại và bị ghen ghét.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta, và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ. Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho con người nhân loại ân sủng kêu gọi trở nên thánh, và đã ban cho chúng ta mẫu gương thánh thiện là Chúa Giê-su Ki-tô để chúng ta noi theo. Chúng ta cũng hân hoan chúc tụng các Thánh là những người bạn của chúng ta, và xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi trở nên thánh như các ngài, và cố gắng vươn lên giống như các ngài. Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng ta tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
.
CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM THÁNH KHÔNG?
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày nay, các bạn trẻ rất làm dụng từ ngữ, có những từ ngữ rất tốt và tích cực đã bị các bạn trẻ sử dụng cách tiêu cực. Một trong những chữ đó là chữ “thánh”. Trên Facebook, nhiều bạn trẻ dùng chữ thánh theo kiểu : thánh troll, thánh tướng, thánh quậy. Hôm nay, chúng ta không nói về các kiểu thánh phàm tục mà giới trẻ gọi nhau, nhưng chúng ta nói về chữ thánh thiện.
Ảnh hưởng quan niệm từ thời Trung cổ, khi nói đến thánh thiện, nhiều người cảm thấy đó là những gì xa vời, thuộc về những con người siêu phàm mà mình có cố gắng cũng không thể đạt tới được. Nhiều người khác thì cho rằng, sống thánh thiện là phải suốt ngày đọc kinh cầu nguyện, hãm mình ép xác, đi đứng nghiêm trang, sống như một người trốn đời không biết gì với thế giới bên ngoài. Những quan niệm sống thánh thiện như thế đã lỗi thời và không thể thực hiện được trong thời đại hôm nay.
Ngày nay, Giáo hội tôn phong những con người rất đỗi bình thường làm mẫu gương thánh thiện. Dịp kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới vừa qua, Giáo hội tôn phong bố mẹ của Thánh nữ Têrêsa lên bậc hiển thánh, hoặc những lần tôn phong gần đây, Giáo hội tôn vinh những con người hết sức trẻ trung hiện đại nên những vị thánh. Việc này cho thấy rằng ở thời đại nào, môi trường nào, chúng ta cũng có thể trở nên thánh thiện khi chúng ta sống hết mình với Chúa và với anh chị em, biến từng giây phút trong cuộc đời mình trở nên thánh thiện, thì cả cuộc đời sẽ được dệt bằng sự thánh thiện.
Sống thánh thiện và trở nên con người thánh thiện không phải là đặc quyền của riêng ai, nhưng là dành cho tất cả mọi người. “Tất cả họ mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế” cho thấy dù họ là ai, dù sống trong hoàn cảnh nào, miễn họ vẫn giữ được tâm hồn trung thành với Chúa, giữ cho tấm áo trắng của ngày rửa tội được tinh tuyền, thì họ được kể là các thánh.
Bài Tin Mừng cho chúng ta một hướng dẫn cụ thể hơn về những con đường đưa chúng ta đến sự thánh thiện mà Các Thánh được đã sống và đã thành công. Đó là con đường của Tám Mối Phúc. Để sống những con đường này, chắc chắn Các Thánh đã không chấp nhận buông mình theo dòng chảy của xã hội, những lôi kéo thế gian và ma quỉ, nhưng dám lội ngược dòng. Trong khi người đời tìm kiếm sự giàu sang, của cải vất chất, lấy của cải làm cùng đích cuộc đời, dùng sự giàu sang để đánh giá nhau, thì Các Thánh đã chọn sống tinh thần nghèo khó. Sống tinh thần nghèo khó Tin Mừng là sống khiêm tốn trước mặt Chúa và anh em, luôn tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, luôn xác tín rằng mọi của cải tài sản đều là của Chúa ban cho ta quản lý, vì thế, ta cần sử dụng sao cho đẹp lòng Chúa.
Trong thế giới mạnh được yếu thua, phô trương quyền lực và sức mạnh, cám dỗ chạy theo quyền lực, đối xử với nhau bằng bạo lực, thì Các Thánh đã chọn sống mối phúc hiền lành để được Đất Hứa làm gia nghiệp. Điểm khác nhau giữa Các Thánh và người phàm là Các Thánh đã nhận ra được đâu là giá trị đích thực của cuộc đời, đâu là hạnh phúc bền vững muôn đời. Các Thánh đã dám chọn hạnh phúc Nước Trời, dù trước mặt người đời, có thể bị coi là dại khờ, thiệt thòi, nhưng chọn lựa đó lại là chọn lựa khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Trong xã hội ngày nay, thật thà hiền lành thường thua thiệt, nhiều người đã đối xử với nhau bằng bạo lực, sống với nhau như dã thú, họ sẵn sàng trả thù bào oán. Các Thánh đã lấy hiền lành để đáp lại sự hung ác, lấy điều tốt để đáp trả lại điều xấu, lấy cách cư xử hoà nhã đế đáp lại sự oán thù.
Sự phát triển của công nghệ và kỹ thuật hiện đại đã làm cho nhiều người trở nên vô tâm vô cảm. Họ lạnh lùng, dửng dưng trước những đau khổ của anh em đồng loại. Các Thánh đã sống chạnh thương, thông cảm và chia sẻ những nỗi bất hạnh của anh em. Để sống mối phúc này, mỗi người phải có một đôi mắt thật sáng, một trái tim thật nhạy bén và một đôi tay không biết ngại ngùng để sẵn sàng giúp đỡ. Chính vì Các Ngài đã biết tỏ lòng thương xót những mảnh đời bất hạnh là anh em của Chúa nên Thiên Chúa cũng đã tỏ lòng thương xót đối với các Ngài, cho các Ngài được chia sẻ vào hạnh phúc với Chúa. Chúng ta có thể thấy tấm gương rất gần chúng ta, đó là Me thánh Têrêsa thành Calcutta. Mẹ dám ôm những người bất hạnh bị bỏ rơi vào lòng mình, nên Thiên Chúa đã rộng tay ôm mẹ vào vòng tay của Ngài.
Đặc biệt ngày nay, nhiều người đang lao vào cuộc sống buông thả dễ dãi, sống để thoả mãn bản năng tính dục hơn là hướng thượng, thì Các Thánh là những người chọn con đường sống trong sạch. Xã hội ngày nay cổ võ lối sống tự do tính dục, coi thường việc sống trong sạch ; người ta đưa ra sách báo phim ảnh đen để đầu độc, làm hoen ố tâm hồn con người, khiến nhiều người rơi vào cơn bão đen ấy. Các Thánh đã thà chết để bảo vệ sự trong sạch của tâm hồn và thân xác là đền thờ của Thiên Chúa, không để cho tình dục và tội lỗi làm chủ tâm hồn mình. Vì thế, họ được Thiên Chúa ban thưởng hồng ân được nhìn thấy Thiên Chúa, chiêm ngắm sự toàn mỹ của Ngài.
Cuộc sống luôn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và thế gian, giữa giới răn lề luật của Chúa với cách ứng xử của người đời. Các Thánh là những người biết dành cho Chúa sự ưu tiên tuyệt đối trong việc thờ phượng và tuân giữ giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các Ngài cũng có cuộc sống bình thường như tất cả chúng ta, là ông bà, cha mẹ trong gia đình ; Các Ngài cũng phải đối diện với vấn đề cơm áo gạo tiền và những nhu cầu xã hội, nhưng Các Ngài đã biết thánh hoá cuộc sống thường ngày của mình, sống cuộc sống bình thường một cách phi thường, biết biến cuộc sống tầm thường trở thành cao cả. Các Thánh đã đi trọn hành trình trần thế với lòng yêu mến, gắn bó với Chúa hơn là gắn bó với thế gian, biết cậy dựa vào Chúa để giải quyết những khó khăn của cuộc sống, nên khi kết thúc hành trình trần thế, Các Ngài đã đạt được Nước Trời, đã gặp được Thiên Chúa là Đấng Các Ngài yêu mến và gắn bó suốt đời.
Thưa quý OBACE, nên thánh là lời mời gọi Chúa dành cho tất cả chúng ta : Các con hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh. Trong ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được thánh hoá để trở nên thánh, nên chi thể của Chúa Kitô, do đó, tất cả chúng ta đều mang trong mình “gen” thánh và lời mời gọi nên thánh. Vì thế, cuộc đời của mỗi người sẽ phải là hành trình để nên thánh.
Có thể chúng ta sẽ không là những vị thánh nổi tiếng giỏi giang, nhưng chúng ta vẫn có thể là những vị thánh bình thường gữa đời. Chúng ta sẽ phải là những ông bà thánh, cha mẹ thánh trong gia đình bằng cách chu toàn thật tốt đẹp nhiệm vụ làm ông bà cha mẹ một cách thánh thiện. Các con đường của Tám Mối Phúc đã giúp Các Thánh thành công và nên thánh. Bước theo những con đường ấy, chúng ta cũng sẽ thành công. Thiên Chúa ban cho chúng ta những phương tiện để chúng ta có thể thánh hoá chính bản thân và gia đình, đó là Thánh Lễ và các Bí tích. Siêng năng đến với Thánh Lễ mỗi ngày, chúng ta sẽ được Lời Chúa chỉ cho cách sống, được Thánh Thể Chúa bổ dưỡng và ban sức mạnh giúp ta đi trọn con đường nên thánh. Đem Chúa Giêsu về trong gia đình, trao tặng Chúa Giêsu cho con cháu, dùng Lời Chúa để điều chỉnh xây dựng gia đình, chúng ta có thể biến cả gia đình thành gia đình thánh.
Con đường nên thánh cũng không quá khó với các bạn trẻ. Nên thánh không buộc các bạn phải từ bỏ bạn bè, học hành thăng tiến. Con đường nên thánh cũng không buộc các bạn phải suốt ngày đọc kinh, phải ăn mặc quê mùa cổ điển. Bạn vẫn có thể trở thành những vị thánh hợp thời trang, những vị thánh giữa đời thường khi các bạn sống trọn tuổi trẻ của mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đừng sợ phải sống thánh thiện, đừng ngại ngần khi đến với Chúa mỗi ngày, đừng sợ đón rước Chúa Giêsu vào lòng, vì có Chúa trong tâm hồn, không những Thiên Chúa không cản trở tuổi trẻ của các bạn mà Ngài sẽ làm cho tuổi trẻ của các bạn nên phong phú, sung mãn và nhất là Ngài sẽ làm cho các bạn nên những vị thánh trong tuổi trẻ của mình.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhớ ơn gọi của chúng ta là nên thánh, để trọn cuộc đời chúng ta theo đuổi và đạt được mục tiêu này. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II có lòng tôn kính đặc biệt đối với các Thánh, nhất là các Thánh tử đạo. Ngài là vị Giáo hoàng đạt kỷ lục trong việc tôn phong các Thánh và Chân phước. Ngài tôn phong 1.322 Chân phước và 457 vị Hiển thánh, trong đó có 117 vị Thánh tử đạo Việt Nam và 120 vị thánh tử đạo Trung Hoa. Con số vị Thánh và Chân phước được Ngài tôn phong hơn tổng số các vị mà các Giáo hoàng tiền nhiệm của Ngài tôn phong trong vòng 400 năm trước đó.
Trong dọc dài lịch sử, Giáo hội đã tôn phong rất nhiều vị Thánh.Thế nhưng, so với vô vàn các thánh trên trời, thì những người được Giáo Hội tuyên phong Chân phước và hiển Thánh chỉ là con số rất nhỏ. Theo lời Sách Khải Huyền, các thánh trên trời là “một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi”, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ. Các Ngài đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa.
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Các Thánh. Đây là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô : “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”. Lời Kinh Tiền Tụng trong sách lễ Rôma cầu nguyện như sau:Vinh quang Cha rạng ngời nơi cộng đoàn các thánh. Và khi tuyên dương công trạng các ngài là Cha biểu dương chính hồng ân Cha ban. Cha dùng đời sống các ngài làm gương cho chúng con học đòi, bắt chước; Cha cho chúng con được chung phần gia nghiệp nhờ hiệp thông với các ngài; Cha phù trợ chúng con nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp.
Như thế việc tuyên phong các thánh có mục đích:
– Tôn vinh Thiên Chúa: nếu các thánh là “thánh thiện”, “quyền năng” … thì Thiên Chúa càng quyền năng thánh thiện hơn biết chừng nào! Ðời sống các ngài phản ánh đời sống của chính Chúa, cho dù chỉ là một cách mờ nhạt.
– Nêu gương mẫu mực cho người Kitô hữu.
– Củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Nếu các thánh là những con người cũng đầu đen máu đỏ như ta và cũng yếu đuối như bất cứ ai, nhưng nhờ biết cộng tác với ơn Chúa mà đã được hưởng một gia nghiệp vinh quang như thế, thì tại sao ta lại không thể được?
– Ðể các thánh cầu bầu cho ta trước mặt Chúa,và chắc chắn lời cầu bầu đó là rất hiệu nghiệm.
Lễ Các Thánh hằng năm nhắc nhở chúng ta rằng, lý tưởng làm thánh không dành riêng cho thành phần nào trong dân Chúa, nhưng hết thảy mọi người Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh như nhau.Nhiều người quen nghĩ rằng làm thánh là việc dành riêng cho các nhà tu hành, còn giáo dân thì làm sao có thể mơ tới lý tưởng cao cả ấy được? Quả thực, có một thời người ta đã lấy các vị đan sĩ, tu sĩ làm mẫu mực cho lý tưởng Kitô giáo, và ai ai trong Giáo hội, từ các giáo sĩ đến giáo dân cũng phải gắng sức xích lại gần mẫu mực ấy được chừng nào hay chừng ấy.Công đồng Vatican II đã nhắc lại rằng tất cả mọi thành phần Giáo Hội đều được mời gọi nên thánh, nhưng mỗi người tùy theo đấng bậc, tùy theo khả năng và hoàn cảnh riêng mà mang một vẻ thánh thiện riêng, khiến cho Giáo Hội được trau dồi bằng những vẻ đẹp muôn màu muôn sắc. Mẫu mực thánh thiện chỉ có một nhưng cách “hoạ lại” mẫu mực ấy thì thiên hình vạn trạng.Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói một câu rất đẹp theo ý ấy: “Bất kỳ Chúa trồng bạn ở đâu, bạn hãy trổ những bông hoa đẹp nhất cho Người ở đó”.
Mỗi nơi có những điều kiện riêng, nơi ẩm nơi khô, nơi phì nhiêu nơi sỏi đá, nơi thấp nơi cao… mỗi đấng bậc, mỗi hoàn cảnh, mỗi tính tình cũng tương tự như thế. Chúa chỉ đòi hỏi ta ở chỗ nào thì tuỳ theo điều kiện cụ thể chỗ ấy mà trổ bông đẹp tức là nên thánh (Cố Lm Nguyễn Hồng Giáo ofm).
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Lễ Các Thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những người thân yêu của chúng ta đã được hưởng nhan thánh Chúa. Lễ Các Thánh là lễ của niềm hy vọng. Các Thánh là những con người bình thường như chúng ta nhưng các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật. Có thể quy tất cả tám đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, không ăn thua hơn thiệt đời này; chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa. Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của người kitô hữu là từ bỏ hết những gì mình có để được lấp đầy bằng chính Chúa. Một cuộc sống khó nghèo đến tận cùng của Thánh Phanxicô Assisi đã làm cho thế giới hiểu được thế nào là phúc cho những người nghèo khó. Một cái chết thay cho người bạn tù mà Thánh Kolbe đã tự nguyện đón nhận đã trở thành một chứng từ hùng hồn về giới răn yêu thương của Đức Giêsu. Nhân loại mãi mãi trân trọng Mẹ Têrêxa Calcutta cũng như những ai sống nhiệt thành phục vụ, dấn thân sống Tin Mừng, bao dung hy sinh, xây dựng tình thương cho tha thân nhất là người cùng khổ.
Ngày Chúa nhật 18-10-2015, Giáo hội có thêm 4 vị hiển thánh mới. Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong đầu thánh lễ trọng thể tại Quảng trường thánh Phêrô, trong khuôn khổ Thượng HĐGM thế giới về gia đình.Đứng đầu danh sách là cha Vincenzo Grossi, người Italia, vị sáng lập dòng các nữ tử Oratorio, tiếp đến là Thánh Nữ Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm, người Tây Ban Nha, mẫu gương bác ái; sau cùng là Ông Bà Louis Martin và Zélie Guérin, song thân của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (vi.radiovaticana.va). Trong bài giảng lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô nêu lên mẫu gương của các vị tân hiển thánh: “Những người nam và người nữ được tuyên thánh hôm nay không ngừng phục vụ anh chị em mình với với lòng khiêm hạ và bác ái trỗi vượt khi theo gương Thầy Chí Thánh. Thánh Vincent Grossi là một linh mục chánh xứ nhiệt thành, luôn chú ý tới nhu cầu giáo dân của ngài, nhất là những người trẻ. Đối với tất cả mọi người, ngài quan tâm đến việc bẻ bánh Lời Chúa, và do đó đã trở thành một người Samaritano nhân lành cho những người túng thiết nhất.Thánh Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm đã tận hiến cuộc đời mình, bằng sự khiêm hạ tuyệt vời, để phục vụ cho những người bé mọn nhất trong chúng ta, nhất là các trẻ em nghèo và các bệnh nhân.Đôi vợ chồng Louis Martin và Marie-Azélie Guérin đã thực hành việc phục vụ Kitô giáo trong gia đình, “ngày qua ngày tạo ra môi trường của đức tin và tình yêu vốn nuôi dưỡng ơn gọi của những người con gái họ, trong đó có Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu… Các chứng tá rạng ngời của các vị tân hiển thánh truyền cảm hứng cho chúng ta kiên trì phục vụ anh chị em mình trong vui tươi, tin tưởng vào sự nâng đỡ của Thiên Chúa và sự bảo vệ từ mẫu của Mẹ Maria. Từ Thiên Đàng, giờ đây xin các ngài đoái xem và nâng đỡ chúng ta bằng lời chuyển cầu mạnh mẽ của họ”.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng các Thánh hạnh phúc trên Thiên đàng và xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta nhận biết mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các ngài, và cố gắng vươn lên giống như các ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu : các con hãy nên thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh. Amen.
.
Lm. Nhân Tài
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Jos. DĐH
Biết đứng, biết đi rồi biết chạy, biết phân biệt phải trái, tốt xấu, như thế đúng là dấu hiệu một tiến trình phát triển bình thường. Không làm điều xấu, gia tăng làm việc nghĩa việc thiện, hẳn ai cũng được nhắc nhớ chỉ bảo từ thuở nhỏ. Trèo cao ngã đau, câu tục ngữ ấy mời gọi người ta đừng mơ ước viển vông, đừng tham vọng lớn quá để rồi vỡ mộng, tan hàng, khổ đau, vì nói trước bước không tới. Bài học lý thuyết bao giờ cũng khô khan, tính nghiêm khắc nào cũng đáng sợ, việc làm tốt dù bé nhỏ đến đâu cũng gây được thiện cảm với những người xung quanh.
Khao khát của nhân loại là mọi nước mọi dân được chung sống trong hòa bình, ý tưởng của các vận động viên thi đấu, luôn nghĩ đến thành tích cao nhất. Giáo huấn của Chúa Giêsu trải rộng trong 33 năm tại trần thế, được qui về cụm từ “mến Chúa, yêu người”. Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu thật rõ ràng và minh bạch, nhưng để “phúc” đến, ai cũng phải biết khao khát trở nên người tốt. Các Thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay, chắc chắn không phải các ngài sinh ra là thánh, đúng hơn các ngài chính là những vận động viên đã đạt thành tích sau những năm tháng tập luyện.
Mừng lễ hôm nay, không phải là lúc chúng ta suy tôn công trạng của các ngài, vì Chúa mới là Đấng thánh, Chúa chính là Đấng cứu độ trần gian, tất cả các thánh dù thánh thiện đến đâu cũng chỉ phản ánh đời sống thánh thiện của Chúa. Ai thực hiện bài giảng trên núi, hoặc biết sống giá trị của Tin mừng, người ấy sẽ nên giống Chúa Kitô và đáng được gọi là con Thiên Chúa. Khi đưa ra các mối phúc, Chúa Giêsu không nhằm đặt để chúng ta vào một khuôn mẫu nhất định, nhưng là kêu gọi mỗi người hãy để Chúa biến đổi nên xứng hợp với tình yêu thương của Chúa.
Người xưa nói rằng : tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu. Đúng là tu sửa, là học cái biết nơi cha mẹ tuy chưa hẳn là kho tàng kiến thức, nhưng cũng là một khối nặng kinh nghiệm. Mơ ước của bậc sinh thành là nhìn thấy con cháu có phần có phúc, phận làm con, ai chẳng muốn đáp đền công đức mẹ cha. Khi phác họa ra bước đường “tám mối phúc”, Chúa Giêsu không hứa hẹn suông, mà Chúa đã cho thấy phần thưởng trọng đại ở trên trời là có thật, đúng như câu tục ngữ : làm phúc được phúc, làm ơn được ơn.
Đức Khổng Tử khi dạy các học trò về con đường tới thành công : muốn sự nghiệp vững chắc đừng mong bằng phẳng dễ đi, vì không gặp phải chông gai, chí nguyện không thể kiên cường. Có danh có phận đâu phải chỉ là có chức tước bổng lộc, mà phải là một con người hoàn thiện, nếu tâm tính chưa được gọt giũa, sao dám gọi là thiện toàn. Để có được chữ “phúc” theo Chúa Giêsu là có Nước Trời, vì thế ai cũng phải là người tốt, biết sống, biết sử dụng điều kiện và năng lực của mình. Vẻ đẹp cuốn hút đâu phải do tài sắc, do lời nói mùi mẫm; “phúc thật” làm sao đến được với tâm hồn chưa có Chúa. “Nước Trời” chính là phần thưởng dành cho những ai đã sống giáo huấn về chữ “phúc” của Chúa Giêsu.
Nỗi ưu tư của đám đông dân chúng xưa kia là tìm kiếm Chúa Giêsu, có thể họ có mục đích khác nhau; Chúa Giêsu thì cho họ “tám mối phúc” dẫn đến “Nước Trời”, nơi con người hằng khao khát. Thánh ý của Chúa là ơn gọi nên thánh, là mỗi ngày mỗi lúc ta khám phá ra tình yêu của Chúa thôi thúc nơi lời nói việc làm, hầu được biến đổi nên giống Đức Kitô. Dù nghèo khó, hiền lành, dù đói khát sự công chính, hoặc có tâm hồn thanh sạch, có sẵn lòng chịu chết vì Chúa, chúng ta vẫn phải sống tình yêu thương trong ơn gọi của mình, ta mới hiểu thế nào là “phúc thật”.
Khi kêu gọi đám đông sống “các mối phúc”, hẳn Chúa không ca tụng đói nghèo, không tuyên dương các phần tử hiền như “cục đất” bảo sao cũng gật, nhưng mỗi người phải cải thiện dưới ánh sáng Tin mừng. Hãy là người tốt trong thinh lặng cảm thông, lắng nghe và cư xử với nhau trong tình yêu Chúa. Hãy là người tốt trong ý tưởng nên thánh, dù tâm hồn ta còn đầy bất xứng.
Hãy năng động với những lợi thế ta đang có : người nghèo ở quanh ta, người đau khổ ở gần ta, người ù lì, bất mãn đang đối nghịch với ta, nhưng ít ra họ vẫn là con Chúa, là đối tượng Thiên Chúa yêu thương. Từ xa xưa người ta vẫn công nhận : chim hay được xét đoán qua tiếng hót, người tốt được biết đến qua lời nói, việc làm. Hãy cứ chân thành với lời nói việc làm bổn phận của mình, còn bao nhiêu Chúa sẽ thực hiện. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta cử hành trọng thể Thánh Lễ tôn kính các Thánh Nam Nữ, các thánh đã được Giáo Hội tôn phong và tất cả những người đang được phúc chia sẻ sự sống viên mãn của Thiên Chúa, cùng với Đức Ki-tô, trong đó, chắc chắn có ông bà tổ tiên và những người thân yêu của chúng ta trong đức tin, trong gia đình và trong đời sống dâng hiến. Bởi vì sách Khải Huyền nói về các thánh là:
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. (Kh 7, 9)
Vì thế, chúng ta xác tín rằng, các ngài hằng ngày vẫn đang cầu bầu và đồng hành với chúng ta trên con đường hành hương tiến về nơi hằng phúc, để cùng xum họp với các ngài và những người thân yêu của chúng ta trong cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Và thật là ý nghĩa, khi trong Thánh Lễ mừng kính trọng thể các Thánh Nam Nữ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại Lời Chúa công bố Các Mối Phúc. Bởi vì đó là con đường nên thánh, nghĩa là trở nên một với Đức Ki-tô, mà các thánh đã đi và chúng ta được mời gọi bước đi trên cùng một con đường hôm nay.
1. Khung cảnh (c. 1-2)
“Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần. Người mở miệng dạy họ”. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh đầy ý nghĩa này:
– Xưa kia trên núi Sinai, Thiên Chúa ban Lời của Ngài qua trung gian Mô-se; và nhờ Lời của Ngài, một đám đông ô hợp, vô danh và nhỏ bé, trở thành dân riêng của Chúa: Thiên Chúa trở thành Đức Chúa của dân, dân trở thành dân tộc được tuyển chọn của Đức Chúa.
– Còn ở đây, Thiên Chúa ban Lời của Ngài qua Đức Giê-su, hiện thân của Lời Chúa, bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Và Lời của Người được ban cho tất cả mọi người, để qui tụ thành Dân Mới của Thiên Chúa, được tuyển chọn nhờ, với và trong Người.
Chúng ta hãy so sánh, khám phá và cảm nếm sự khác biệt: Mô-sê ban lời đến từ Đức Chúa, còn Đức Giê-suban lời nhân danh chính ngôi vị của mình. Trong những lời này của Tám Mối Phúc và của cả Bài Giảng Trên Núi (Mt 5-7), Đức Giêsu đặt chủ thể của mình vào chủ thể của Đấng ban Lời ở núi Sinai, Người bảy tỏ căn tính thần linh của mình. Như thế, từ núi này đến núi kia, biến cố mà Đức Giêsu tạo ra thật là lớn lao. Vì thế, chúng ta được mời gọi chú ý cách đặc biệt đến hành vi nói của Chúa: “Người mở miệng dạy họ, Ngài nói”. Hãy để cho đôi mắt và đôi tai của chúng ta dừng lại chiêm ngắm và đi vào chiều sâu của biến cố trung tâm này: “Ngài mở miệng dạy họ, Ngài nói”.
Biến cố này hoàn toàn khớp với dụ ngôn Người Gieo Giống: Người gieo giống đi ra gieo giống. Xin được hiểu và kinh nghiệm được trong tôi biến cố: nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa ra khỏi mình để thông truyền chính Ngài cho tôi qua lời nói. Bằng Lời, Ngài đã sáng tạo nên con người chúng ta có khả năng thông truyền bằng lời, và bây giờ, Ngài khởi đi từ cái chúng là, một tạo vật biết nói biết nghe, để đến gặp gỡ chúng ta. Chúng ta cũng được mời gọi đi cùng con đường lời nói để đi đến với Ngài: trong cầu nguyện và nhất là trong thời gian tĩnh tâm, chúng ta được mời gọi dành nhiều thời gian để lắng nghe Lời Chúa và sau đó tâm sự với Ngài, như một ngôi vị sống động và gần gũi.
Nơi Đức Giê-su Ngôi Lời của Thiên Chúa, lời và hiện hữu là một: Ngài nói điều Ngài là và Chúa là điều Ngài nói trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Xin cho điều chúng ta nói với Chúa và với nhau là chính chúng ta.
2. Tám mối phúc (c. 3-10)
a. Thân phận con người
Trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, lời giảng dạy của Đức Giê-su được tổng hợp thành 5 bài giảng lớn, và bài giảng đầu tiên là Bài Giảng Trên Núi. Và lời đầu tiên của bài giảng đầu tiên, Đức Giê-su ngỏ với đám đông và các môn đệ là “Phúc thay…”, thay vì là lời cấm đoán , một mệnh lệnh, một lời lên án, hay một lời chúc dữ “khốn thay”. Trong cầu nguyện, chúng ta không cần suy niệm hết các mối phúc, chúng ta hãy dừng lại mối phúc nào chúng ta thích nhất, ấn tượng nhất, mời gọi nhất, chất vấn nhất, bởi vì đó chính là dấu chỉ của biến cố: hạt giống rơi vào chỗ đất tốt.
Chúng ta thường hiểu các mối phúc mà Đức Giê-su công bố là lý tưởng vừa cao vừa khó, mà mỗi người chúng ta phải đạt được để trở nên thánh, giống như các thánh nam nữ chúng ta mừng kính hôm nay. Tuy nhiên, các mối phúc không ở bên ngoài chúng ta và cũng ở cách xa chúng ta, nhưng các mối phúc mà Đức Giê-su công bố lại diễn tả chính căn tính đích thật của chúng ta, chính niềm khát khao sâu thẳm của chúng ta, chính niềm hạnh phúc bền vững của chúng ta.
– Thật vậy, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”. Trong thân phận của con người, không ai trong chúng ta cảm thấy tự đủ trong cõi lòng mình; con người đến một lúc nào đó, đều cảm thấy mình nhỏ bé, mỏng manh, chóng qua, nghèo nàn tận căn về mọi phương diện, nhất là lúc mới sinh ra và sắp sửa lìa đời, trả lại sự sống cho Chúa.
– Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai hiền lành”. Con người chúng ta vốn là hiền lành, chứ không phải là bạo lực hay thú tính; và sự hiền lành này đã được gieo nơi bản tính sâu xa của con người chúng ta; đó là điều mà chúng ta gọi là nhân tính. Bởi vì, con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa; mà Thiên Chúa thì hiền lành, vì Ngài là tình yêu.
– Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai sầu khổ”. Ai trong chúng ta đã không một lần khóc lóc sầu khổ: khóc lóc sầu khổ cho thân phận sinh lão bệnh tử của mình, khóc cho số phận đầy thử thách, tai ương và bất hạnh, khóc và sầu khổ cho người khác, nhất là cho những người thân yêu, cho những người chịu thiệt thòi, bệnh tật, kém may mắn.
– Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai khao khát nên người công chính”. Và ở trong sâu thẳm của tâm hồn, tất cả chúng ta đều khao khát nên công chính, thay vì ở trong sự bất chính, để có thể đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban. Nhưng rốt cuộc thì chính Thập Giá Đức Ki-tô làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, bởi vì chúng ta không thể tự mình làm cho mình trên nên công chính được.
Và cũng như thế đối với các mối phúc còn lại. Như vậy, chính thân phận con người của chúng ta, không thêm và cũng không bớt là một mối phúc, chứ không phải là mối họa, hay hình phạt, cho dù chúng ta có một thân phận như thế nào, bất hạnh như thế nào; thân phận của chúng ta là con đường dẫn chúng ta đến điều Chúa hứa ban trong các mối phúc, đó là: Nước Trời, Đất Hứa, ơn an ủi, ơn công chính, lòng thương xót và chính ngôi vị Thiên Chúa. Và để cho chúng ta tin tưởng và xác tín như thế, Đức Giê-su đã sống đến cùng thân phận con người, là chịu đóng đinh trên Thập Giá, để qua đó đi vào sự sống mới, sự sống Phục Sinh của Thiên Chúa Cha.
Và để hiểu thật đúng và thật sâu những lời này của Chúa, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm chính cách hiện hữu của Chúa: Chúa nghèo thế nào trong tinh thần? Chúa hiền lành như thế nào? Chúa khóc lóc như thế nào: “Thiên Chúa của con, Thiên Chúa của con, Tại sao Ngài đã bỏ rơi con ? (Mt 27, 46); “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Dt 5, 7). Và Đức Giê-su đói và khát sự công bình như thế nào? Vì Ngài đem sự công chính của Thiên Chúa đến cho con người, và Ngài mong mọi người đón nhận; và Ngài là sự công chính của Thiên Chúa.
Qua các mối phúc, Đức Giê-su qua lời nói và hành vi của Ngài, qua cách Ngài sống với Thiên Chúa và với con người, qua cách Ngài tương quan với thực tại, Ngài dẫn chúng ta về cái chúng ta là. Và cái chúng ta là, chính là một mối phúc. Ngược hẳn với điều loài người chúng ta vẫn nghĩ: điều chúng ta là, là một hình phạt. Và những gì Chúa hứa, chúng ta được mời gọi cảm nghiệm ngay hôm nay rồi.
b. Niềm vui và hạnh phúc
Khi sống các mối phúc, chúng ta được hứa ban Nước Trời, Đất hứa, ơn an ủi, lòng thương xót, được thấy Thiên Chúa và làm con Thiên Chúa. Nhưng vì các mối phúc không phải là những điều xa vời, cao siêu mà chúng ta phải cố vươn tới, nhưng diễn tả bản chất đích thật của con người, Vì thế, khi sống các mối phúc, chúng ta đã có kinh nghiệm ngay bây giờ niềm vui và hạnh phúc rồi. Thật vậy:
– Hạnh phúc biết bao, người nghèo khó trong tim, thay vì đầy những quyến luyến.
– Hạnh phúc biết bao người hiền lành, thay vì dữ tợn.
– Hạnh phúc biết bao người khóc thương, vì đồng cảm với người khác, thay vì dửng dưng vô cảm.
– Hạnh phúc biết bao người xót thương và bao dung, thay vì không lên án và không khoan nhượng.
– Hạnh phúc biết bao người có lòng trong sạch, thay đầy những điều nhơ uế.
– Hạnh phúc thay người phục vụ cho công bình và hòa giải, thay vì chuyên làm những điều bất chính và gây hấn.
– Hạnh phúc thay người đi theo Đức Ki-tô vì lòng mến, bất chấp khó khăn và bách hại, thay vì coi mình là trung tâm và chỉ biết sống cho mình.
Như thế, các mối phúc không chỉ nói cho chúng ta về hạnh phúc và phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban ở đời sau, nhưng còn trình bày cho chúng ta một cách cách sống mang lại cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc ngay bây giờ, vì đó là lối sống phù hợp cách sâu xa với nhân tính của chúng ta.
3. Mối phúc đặc biệt (c. 11-12)
Ngoài Tám Mối Phúc, còn có một mối phúc đặc biệt ; đặc biệt, vì là mối phúc cuối cùng và được nói ở ngôi thứ hai “anh em”, diễn tả tương quan trực tiếp giữa Đức Giê-su và những người nghe, hôm qua cũng như hôm nay. Nhưng đặc biệt nhất là nguyên nhân của mối phúc: đó là “vì Thầy”. Chúng ta cần tự hỏi, “vì Thầy” có nghĩa là gì? Tại sao lại « vì Thầy » ? “Vì Thầy”, chúng ta thường chỉ hiểu ở mức độ thi hành sứ mạng, hay thực hiện một công việc mà chúng ta được giao phó, hoặc thực hiện một lựa chọn mà chúng ta xác tín là của Đức Kitô, hay xác tín là phù hợp với Tin Mừng của Ngài. Tuy nhiên, tại sao chúng ta lại thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu, tại sao chúng ta lại tìm thi hành ý Chúa ? Kinh nghiệm của các thánh nam nữ sẽ giúp chúng ta tại sao lại « vì Thầy ».
Đó chính là kinh nghiệm hiểu biết, yêu mến, và không chỉ ước ao đi theo, nhưng còn muốn trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, là kinh nghiệm chiêm ngắm ngôi vị của Ngài, và khi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài như các Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chúng ta không thể không yêu mến Ngài và ước ao trở nên một với Ngài như các Thánh Nam Nữ. Như thế, đây chính là mối phúc được trở nên giống Đức Giêsu cách trọn vẹn, cả trong cách sống lẫn trong thân phận bị loại trừ, và cả ở trong niềm vui nữa: “anh em hãy vui mừng hớn hở”.
* * *
Đặt mối phúc đặc biệt này trong tương quan với tám mối phúc khác và trong tương quan với cả Bài Giảng Trên núi, chúng ta cũng nhận ra rằng Đức Giê-su công bố điều Ngài là: Ngài có tâm hồn nghèo khó, Ngài hiền lành, Ngài sầu khổ… Vì thế, để hiểu và sống lời của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài, và khi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài như các Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chúng ta không thể không yêu mến Ngài và ước ao trở nên một với Ngài như các Thánh Nam Nữ.
.
Dã Quỳ
Tám Mối Phúc hay còn được gọi là Hiến Chương Nước Trời – là bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trong hành trình rao giảng. Với chủ đề ” Hạnh Phúc”, nghịch lý với những gì con người thường nghĩ nhưng lại là niềm hy vọng và cùng đích của mỗi Kitô hữu.
Trong ý định tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và để con người được hạnh phúc. Thế nhưng, vì sa ngã và phản bội, con người đã đánh mất nơi hạnh phúc mà Thiên Chúa đã tiền định cho nhân loại. Kiêu ngạo và bất tuân đã làm cho con người chỉ còn đau khổ và nước mắt. Từ đó, con người sẽ phải trải qua nhiều gian khó mới đạt được Hạnh phúc Thiên đàng này.
Nhìn xung quanh ta và nhìn vào sâu thẳm lòng mình, ta nhận ra rằng tất cả con người đều đang khát khao hạnh phúc. Nhưng cuộc sống trần gian lại đầy khổ đau đến nỗi ta gọi là “Chốn khách đày” hay “Thung lũng nước mắt”. Thế nên Hạnh phúc luôn là niềm mơ ước của từng người, nhưng dường như nó ở ngoài tầm tay và ta loay hoay không biết làm thế nào để đạt được!
Thế rồi, mải mê với thế trần…và bị đủ thứ cản trở, quyến rũ, ta quên mất địa vị của mình được gọi là ” con Thiên Chúa”(1Ga 3,1), và quên rằng “Quê hương chúng ta ở trên Nước Trời”( Pl 3,20). Nơi ấy, Cha của chúng ta là Thiên Chúa hạnh phúc! Thiên Chúa ở trong niềm vui. Thiên Chúa sống trong hạnh phúc đang chờ ta. Đó là nơi mà ta cần hướng về và tiến bước trong hy vọng.
Tình yêu của Thiên Chúa vẫn dõi theo nhân loại. Trong kế hoạch yêu thương, Thiên Chúa đã ban Con Một của Người cho thế gian. Đức Giêsu Kitô đến, Ngài mở ra những Con Đường dẫn tới Hạnh Phúc khi công bố cho ta Tám Mối Phúc ” Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó…Hiền lành…Sầu khổ…Khao khát sự công chính….Có lòng thương xót…Tâm hồn trong sạch…Xây dựng hòa bình…Bị bách hại”, như là Luật để có thể đạt được hạnh phúc và cũng là lời hứa ban Hạnh Phúc Vĩnh Cửu cho nhân loại. Đó là những mối phúc anh dũng, can trường và đầy hy sinh. Thế mà thực tế, nhìn vào chính mình, qua những cảm xúc, ta nhận biết rõ là ta không thích lắm sự “Nghèo khó”, “Sầu khổ”, “Bách hại”…Và Chúa biết rất rõ ta ít ” Trong sạch”, cũng chả ” Xây dựng hòa bình” hay “Thương xót” lắm! Nhưng Chúa chỉ cho ta phương cách chính yếu đó là sự phấn đấu và cố gắng của ta. Phần còn lại chính Chúa ban ơn giúp sức và Giá Máu của Chúa Cứu Chuộc ta. Nhờ đó ta nhận biết được hạnh phúc của Chúa là hạnh phúc thật, không ở đời này nhưng đó là “Nước Trời là của họ…Họ sẽ được Đất Hứa …Họ sẽ được an ủi….Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa…”. Và đây là một sự biến đổi tuyệt vời, một sự đảo ngược những giá trị thông thường và là hạnh phúc viên mãn mà không gì sánh được. Hạnh phúc này là ta được chính Chúa làm gia nghiệp, Chúa là hạnh phúc của đời ta, Chúa là sự sống và là tình yêu của ta. Thiên Chúa là Cha của ta.
Chính các Thánh cũng đã từng kinh qua những gian khổ của kiếp người, can trường bước theo Chúa trên con đường các Mối Phúc. Các ngài “đã trải qua những cơn thử thách lớn lao và đã giặt sạch, tẩy áo mình trong Máu Con Chiên”( Kh 7,14) và nay đang được hưởng Hạnh Phúc Nước Trời.
Có lẽ ta thường nghĩ lý tưởng ” Nên Thánh” sao cao vời quá và của ai đó chứ không phải của tôi! Không, “Nên Thánh” phải là ước mơ của riêng từng người chúng ta. Như Thánh nhỏ Saviô đã nói “Ông nọ bà kia làm thánh được. Tôi cũng làm thánh”. Và chúng ta còn là “người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa“(Ep 2,19). Các Thánh gần gũi và thân thuộc với chúng ta, các ngài cũng đầy giới hạn và yếu hèn, như một Phêrô nhiệt thành và xác tín vào Chúa đấy nhưng rồi lại yếu lòng chối Chúa; như Maria Mađalêna nửa đời hương phấn; như Augustinô lầm lạc, trác táng…nhưng sau khi đã hoán cải, các ngài một lòng tin yêu phục vụ Chúa. Các Thánh là những người làm mẹ, làm vợ trong đời sống gia đình như Monica, cả đời đau khổ vất vả chu toàn bổn phận, yêu thương cầu nguyện cho chồng con…; như thánh Annê Thành, một bà mẹ quê Việt Nam chân lấm tay bùn đã can trường giữ vững đức tin; như một Têrêsa Hài Đồng, chẳng làm gì to tát trong cuộc đời ngắn ngủi, chỉ quét nhà, rửa chén bát…với tất cả lòng mến Chúa; và như Mẹ chân phước Têrêsa Calcutta mà Giáo Hội sẽ tuyên phong hiển thánh vào năm tới, cả đời mẹ sống âm thầm chăm sóc và xót thương những người nghèo khổ… Và các Thánh cũng còn là những người thân của ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em bạn hữu của ta, là “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ”(Kh7,9). Các ngài đã một lòng tin yêu Chúa, phấn đấu vượt qua những cám dỗ của trần gian, đón nhận đau khổ, sống yêu thương hòa thuận và nhiệt tâm xây dựng Nước Trời ngay trần thế này.
Là con cháu của các Thánh, chúng ta được mời gọi noi theo gương sống của các ngài “Đừng sợ nên Thánh”, hãy thanh luyện bản thân và sống theo tinh thần Tám Mối Phúc, hãy “Sống thánh thiện trong cách ăn nết ở để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”( 1Pr 1.15) để rồi chúng ta cũng tràn đầy hy vọng sẽ được hưởng Hạnh phúc Nước Trời như các ngài và hơn nữa được chính Chúa là gia nghiệp và hạnh phúc của ta.
Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng hướng dẫn chúng ta biết việc phải làm và sống xứng đáng với tước hiệu là con Thiên Chúa. Xin Mẹ Maria và các Thánh cầu bầu cho chúng ta trước tòa Chúa để chúng ta cũng được hưởng hạnh phúc và cùng các ngài chiêm ngưỡng nhan Chúa. Amen.
.
HẠNH PHÚC MAI NGÀY BẮT ĐẦU TỪ HÔM NAY
Lm. Đan Vinh
1- LỜI CHÚA: Tám mối Phúc (Mt 5,1-12)
1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.2 Người mở miệng dạy họ rằng: 3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. 4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. 5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. 6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. 7 Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. 8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. 10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. 11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. 12 Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.
2- THẢO LUẬN:
1/ Mỗi người chúng ta có thể trở thành một vị thánh không ? Tại sao ?
2/ Ngày nay muốn được nên thánh, chúng ta phải làm gì ?
3- SUY NIỆM:
Hầu như mọi người sông trên trần gian đều mong và đi tìm cho mình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc thật sự thì người ta lại không đồng quan điểm với nhau: Phải chăng giàu có phú quý sẽ mang lại hạnh phúc ? Nhưng thực tế lại cho thấy không hẳn như vậy như trong phim ảnh cũng có bộ phim tựa đề là: “Người giàu cũng khóc”. Phải chăng quyền cao chức trọng sẽ mang lại hạnh phúc ? Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại như câu ca dao Việt Nam: “Càng cao càng cả gió lay. Càng cao danh vọng càng dày gian truân”… Tin mừng ngày lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay đã dạy chúng ta bài học của Đức Giê-su về Tám Mối Phúc Thật. Các thánh là những đấng đã lắng nghe Lời Chúa và sống theo các mối phúc nên đã được Hội Thánh đặt lên bàn thờ làm gương mẫu cho chúng ta noi theo.
1/ Hiến Chương Nước Trời:
Có lẽ không người Công giáo đạo đức nào lại không thuộc kinh “Phúc Thật Tám Mối” hay Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su rao giảng. Nếu đối với người tín hữu chúng ta: Tám Mối Phúc Thật là một bản liệt kê lối sống cao thượng vị tha, thì đối với một số người khác: Tám Mối Phúc Thật chỉ là các tính nết của loài vật như triết gia Nietzsche. Theo ông này, chỉ có loài vật mới nhẫn nhịn chịu đựng sự chà đạp của những kẻ quyền thế bóc lột. Đối với một số người khác như triết gia Karl Marx: Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời đường mật và hứa hẹn về một thiên đàng xa xôi không tưởng, là thuốc phiện ru ngủ giai cấp công nhân hãy im lặng chịu đựng những sự áp bức bất công do giai cấp thống trị gây ra ! Vậy đâu là ý nghĩa và giá trị đích thực của Tám Mối Phúc Thật trong Tin Mừng hôm nay ?
2/ Ý nghĩa tích cực của Tám Mối Phúc:
Đức Giê-su chỉ công bố một Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật, tóm lại trong mối phúc thứ nhất. Mối phúc này được Tin Mừng của Mátthêu và Luca thuật lại dưới hai góc độ tuy khác nhau và bổ túc cho nhau.
a- Về sự nghèo khó vật chất và tinh thần:
Sứ vụ cứu thế của Đức Giê-su không những để cứu rỗi linh hồn người ta ở đời sau, mà còn cứu giúp bênh vực những người nghèo khổ vật chất ngay đời này, khi ưu tiên cho người nghèo đói được gia nhập vào Nước Thiên Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thực tế cho thấy Hội Thánh sơ khai gồm đại đa số người nghèo khó vì thiếu cơm ăn áo mặc và bị bệnh tật nhưng không tiền thuốc thang chữa trị. Họ được vào Hội Thánh để được chia sẻ tình thương và không còn bị nghèo khổ như trước.
Còn Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến khía cạnh luân lý là nghèo khó trong tâm hồn: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Qua đó cho thấy: Không phải mọi người đang bị nghèo đói đều có phúc và đều được gia nhập vào trong Nước Trời, nhưng phải là những người ý thức về tội lỗi của mình để “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, để từ nay không còn tham lam ích kỷ nhưng biết sống siêu thoát, thể hiện qua việc chọn lối sống đơn giản ít tốn kém về nhà ở, vật dụng, xe cộ, ăn xài… để dùng tiền bạc dư ra đó chia sẻ và phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Đức Giê-su.
b- Về sự đói khát cơm áo và sự công chính:
Tin Mừng Lu-ca nói đến những nạn nhân của các bất công xã hội là những người đói cơm ăn thiếu áo mặc. Họ sẽ được Thiên Chúa bù đắp sự thiệt thòi như lời Chúa Giê-su: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21).
Còn Tin mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến sự đói khát công lý và sự khao khát muốn nên hoàn thiện: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6). Cả hai loại người đói khát này đều được hạnh phúc vì được Chúa thương cho no thỏa tình thương trong Hội Thánh đời này là dấu chỉ sẽ được hạnh phúc Thiên Đàng đời sau.
3/ Thực hành Tám Mối Phúc ngay từ hôm nay:
+ Một trong những nguyên nhân khiến người tín hữu bị người đời bách hại là bởi vì người đời không hiểu, không tin và không đón nhận Tin Mừng Nước Trời của Đức Giê-su như Người đã nói: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18). Ðây cũng chính là số phận của các tín hữu trong các thời đại. Nhưng dù có bị cấm cách bách hại nhưng chúng ta vẫn kiên trì tin yêu Chúa, và yêu thương tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình, noi gương Đức Giê-su đã xin Chúa Cha tha thứ khi bị hành hình trên cây thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34), hay như phó tế Tê-pha-nô đang lúc bị người Do thái thù ghét ném đá, đã nhìn lên trời và nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”… Sách Công Vụ đã ghi lại: Bấy giờ họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi ông an nghỉ (Cv 7,55-56.59-60).
+ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa không chỉ là nước thiên đàng đời sau, nhưng đã bắt đầu hình thành ngay trong cuộc sống hiện tại của người tín hữu, qua lối sống công bình vị tha bác ái, thái độ cảm thông huynh đệ, biết quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất và đáp ứng các nhu cầu của những người nghéo bất hạnh ở bên cạnh mình. Người tín hữu chúng ta là những người “sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về trần gian” (x. Ga 17,14-16), và “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (x. Pl 3,20). Dù tin vào một cuộc sống hạnh phúc mai hậu nhưng niềm tin ấy cũng không làm chúng ta xao lãng những bổn phận phải xây dựng quê hương trần thế đời này, là điều kiện để chúng ta được hưởng hạnh phúc trên Nước Trời là Thiên đàng mai sau.
4/ Sống thánh giữa đời:
+ Khi phong thánh cho ai là Hội Thánh xác nhận người đó đã có một cuộc sống hoàn thiện ở trần gian noi gương Thiên Chúa Cha trên trời như lời Đức Giê-su dạy: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); Hoặc các ngài đã sống “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29), hiếu thảo với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su như Người đã được Chúa Cha xác nhận sau khi Người chịu phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả tại sông Gio-đan: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Hội Thánh đã tôn vinh một số tín hữu lên bậc hiển thánh nghĩa là chính thức công bố danh tánh của các ngài trong nghi lễ tuyên phong để công nhận các ngài đã sống đẹp lòng Thiên Chúa ở trần gian và giờ đây các ngài đang được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Cụ thể là các ngài đã sống Tám Mối Phúc Thật của Đức Giêsu trong Tin Mừng. Từ đây các ngài được các tín hữu tôn kính, noi gương bắt chước nhân đức và xin các ngài chuyển cầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho chúng ta. Ngoài một số ít vị hiển thánh, còn rất đông các tín hữu đã được Thiên Chúa ban thưởng hạnh phúc trên trời, nhưng không được nêu rõ danh tính. Trong số hằng hà sa số các thánh nam nữ này (x. Kh 7,9-10), có nhiều người là ông bà cha mẹ anh chị em của chúng ta. Hội thánh mừng kính chung các thánh nam nữ vào ngày 1/11 và gọi là lễ Các Thánh Nam Nữ.
+ Ngày nay, nếu muốn được hưởng hạnh phúc Nước Trời trên Thiên đàng đời sau, mỗi tín hữu chúng ta cần vững tin vào Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, và thể hiện đức tin bằng việc thực thi đức cậy và đức mến. Mỗi ngày trong giờ kinh tối gia đình hay trước khi nghỉ đêm, chúng ta hãy dành một phút xét mình rồi ăn năn sám hối các tội lỗi thiếu sót và cầu nguyện quyết tâm noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su, tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh. Để nên thánh, chúng ta cần năng xin ơn Chúa Thánh Thần trước mỗi công việc, năng xưng tội hằng tháng và rước lễ mỗi ngày cách sốt sắng. Ngoài ra, còn năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần tại nhà thờ hoặc suy niêm Lời Chúa trong giờ Kinh Tối Gia Đình hằng ngày, chu toàn các việc bổn phận thực thi bác ái phục vụ tha nhân trong tâm tình kết hiệp với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
4- LỜI CẦU:
Mỗi ngày mỗi người chúng ta hãy làm một vài việc bác ái như lắng nghe và nói lời cảm thông chia sẻ với người đau khổ, khiêm nhường phục vụ tha nhân kèm theo một lời nguyện tắt: “Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con yêu mến Chúa”- “Lạy Chúa Giê-su, con làm việc này để xin Chúa cho một tội nhân sớm được trở về với Chúa; một người bạn hay một gia đình ngoại giáo sớm nhận biết Chúa để cũng được chia sẻ hạnh phúc Thiên Đàng đời đời với con”.
.
NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA
Huệ Minh
Ta vừa nghe tác giả sách Khải Huyền (được cho là Gioan) viết về viễn cảnh của ngày cánh chung như thế này : Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: “Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta”. Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”.
Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: “Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen”. Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: “Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?” Tôi đáp lại rằng: “Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ”. Và người bảo tôi rằng: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. Viễn cảnh mà Gioan nhìn thấy đó chính là Nước Thiên Chúa – nơi mà những người được tẩy áo trắng trong máu Con Chiên và từ đau khổ lớn lao mà đến. Những người đó, như Gioan nói đó chính là những con người đi trong đau khổ, đi qua đau khổ đời mình và nói cách khác là vác thập giá đời mình để đi theo Con Chiên và được Con Chiên cứu độ để hưởng vinh quang Thiên Quốc.
Những người đau khổ nhuốm áo mình trong máu Con Chiên đó chính là các thánh nam nữ của Thiên Chúa mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Họ, là những vị thánh tử đạo, ẩn tu, hiển tu, khổ tu … Và, trong đời sống thường này, họ là những người bình thường và hết sức bình thường và có khi tàm thường nữa. Thế nhưng, chỉ có điều khác chúng ta để được trở thành Thánh đó là vì họ đã kết hiệp là một sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, một sự bén rễ trong ân sủng phép rửa và trong mầu nhiệm vượt qua.
Việc nên thánh trước tiên không phải là hoa trái của các nỗ lực của chúng ta mà do chính Thiên Chúa thánh hóa xuyên qua hoạt động của Thánh Thần của Ngài và xuyên qua việc trao ban sự sống của Chúa Kitô phục sinh.
Các thánh không phải là « những anh hùng », nhưng là những con người đã hành động « cách nhân từ và yêu thương ». Đức ái là linh hồn của sự thánh thiện ! Nó tăng trưởng và sản sinh những hoa trái nơi các tín hữu, nhờ việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, tham dự vào các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, vào việc cầu nguyện liên lỉ, sự từ bỏ, phục vụ huynh đệ và thực hành các nhân đức.
Sự thánh thiện không gì khác hơn là đức ái được sống cách trọn vẹn.
Ta bắt gặp tâm tình ở Thánh Vịnh 23 mà chúng ta hát đáp ca hôm nay sao hay quá :
Này là dòng dõi những người tìm Chúa,
đây là những người mong bệ kiến Ngài,
một đời lòng ngay không hề gian dối,
giữa bao hận thù luôn sống mến yêu
Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài
làm chủ địa cầu cùng toàn thể dân cư
còn nền trái trất Ngài dựng trên biển cả
và đặt vững vàng trên mặt nước bao la …
Ai sẽ được trèo lên núi Chúa?
Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện?
Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch,
không để lòng xuôi theo sự giả trá.
– Đáp.
Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa,
Đấng giải thoát họ. Đấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người,
những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp.
Họ là những người như thế, họ là những người giữa bao hận thù vẫn sống mến yêu, họ tay sạch lòng thanh, họ không để lòng xuôi theo sự giả trá.
Và, Thánh là những người mà ta bắt gặp trong hình ảnh của những người mà được Chúa nói đến trong trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu. Những người chấp nhận đau khổ, thiệt thòi, bách hại vì Tin Mừng nghĩa là vì Chúa sẽ có phúc ở Nước Thiên Chúa và sẽ là công dân Nước Thiên Chúa. Nói chấp nhận cũng không đúng, phải nói là đón nhận, đón nhận tất cả những đau khổ, những trái ý trong cuộc sống thường ngày.
Người thường vẫn nghĩ rằng thánh là những người xuất chúng siêu phàm nhưng thật sự có những vị thánh xuất thân từ những người bình thường và rất bình thường.
Chúng ta vừa chứng kiến Đức Thánh Cha Phanxicô đã phong thánh cho cho đôi vợ chồng chân phước hết sức bình thường đó chính là cha mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Thánh Louis Martin (1823-1894):
Louis Martin sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 tại Bordeaux, nước Pháp. Thân phụ là Đại Úy trong đoàn quân pháo thủ bình giặc ở Tây Ban Nha. Năm 19 tuổi thanh niên Martin học nghề chữa đồng hồ. Năm 22 tuổi, xin đi tu, nhưng vì không theo nổi môn Latin, nên phải bỏ cuộc. Về nhà, Marin ra sức học Latin thêm 2 năm nữa, nhưng sau đó không thấy tiến bộ nên quyết định bỏ cuộc. Giấc mơ làm linh mục không thành, Martin đã mở một tiệm đồng hồ tại thị trấn Alencon miền Bắc nước Pháp, và thuộc phía Tây thành Paris.
Năm 35 tuổi, Louis Martin gặp Zélie Guérin, một thiếu nữ trẻ hơn chàng 8 tuổi làm nghề sản xuất dây giày. Lễ thành hôn Louis-Zélie được cử hành đơn giản ngày 13 tháng 7 năm 1858 tại nhà thờ Đức Bà Alencon. Một chi tiết nhỏ nhưng nói lên sự thánh thiện của cặp vợ chồng trẻ này là mấy tháng đầu họ đã sống với nhau như anh em. Nhưng sau hiểu được ý Chúa, thì cả hai lại sẵn sàng đón nhận những người con mà Chúa ban cho trong đời sống hôn nhân. Trong số 9 người con có 2 trai và 7 gái. Hai người con trai và hai người con gái đầu đã qua đời khi còn rất trẻ. Còn lại 5 người con gái, tất cả đều dâng mình làm nữ tu:
– Marie-Louise: Nữ tu Dòng Kín Lisieux.
– Marie-Pauline: Bề trên Dòng Kín Lisieux.
– Marie-Léonie: Nữ tu Dòng Thăm Viếng.(Án phong chân phước cho Léonie, cũng đã được mở ở cấp giáo phận vào ngày 24 tháng Giêng năm 2015 tại Lisieux).
– Marie-Céline: Nữ tu Dòng Kín Lisieux.
– Marie-Thérèse: Nữ tu Dòng Kín Lisieux. (Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)
Sau khi người vợ trẻ qua đời vào năm 1877, ông Marin lãnh lấy trách nhiệm dạy dỗ con cái. Trong số 5 người con gái, ba cô còn ở tuổi thiếu niên, riêng Céline lúc đó mới 8 tuổi, và gái út là Têrêsa mới lên 4.
Sau khi Bà Zélie qua đời, và theo lời khuyên của bà trước lúc lâm chung, ông Marin đã đem gia đình về Lisieux sống gần gia đình người em trai của bà trong trang trại Buissonnets với hy vọng các con nhận được sự giúp đỡ và an ủi của những người thân yêu. Ông nghỉ không làm nghề sửa chữa đồng hồ và dành trọn thời giờ chăm lo và giáo dục các con.
Trong sinh hoạt tông đồ, Ông tham gia hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn và là một hội viên rất nhiệt thành. Năm 1887, Ông đưa hai con gái út là Céline và Têrêsa đi du lịch một vòng Âu Châu, và trong dịp này, do sự khuyến khích của Ông, Têrêsa đã mạnh dạn xin với Đức Lêô XIII cho phép mình được vào tu dòng kín Camêlô khi mới được 15 tuổi.
Sau khi các con Ông lần lượt theo nhau vào tu Dòng Kín, Ông còn lại một mình sống âm thầm để chia sẻ con đường Thánh Giá của Chúa Cứu Thế. Năm 1887, Ông bị đột quỵ và chấn thương thần kinh. Ngày 12 tháng 12 năm 1889, Ông nghỉ bệnh tại Bon Sauveur, Caen. Ông phải điều trị 3 năm trong nhà dưỡng lão. Ngày 10 tháng 5 năm 1892, Ông đã được gia đình người em vợ đem về nhà chăm sóc cẩn thận. Thời gian này, Céline ngày đêm săn sóc ba cho đến khi Ông từ trần ngày 29 tháng 7 năm 1894. Sau khi Ông từ trần, cô cũng đã vào tu Dòng Kín Camêlô.
Thánh Zélie Guérin (1831-1877):
Sinh ngày 23 tháng 12 năm 1831, là người con thứ hai trong số 3 người con của một cựu chiến binh ở Alencon. Mẹ của Zélie Guérin nổi tiếng là người đàn bà khắc khổ và cứng rắn trong việc giáo dục con cái. Chị cả của cô dâng mình vào nhà tu và trở thành nữ tu. Cô muốn noi gương chị, xin vào dòng Chị Em Bác Ái Thánh Vinh Sơn, nhưng bị từ chối.
Sau khi biết mình không có ơn kêu gọi trong bậc tu trì, Zélie cầu xin Chúa cho mình một người chồng tốt, đạo đức để tâm giáo dục con cái nên người hữu ích cho Giáo Hội và xã hội. Bà cũng cầu xin Chúa ban cho mình có con, nhất là con trai để sau này dâng cho Chúa làm linh mục thừa sai rao giảng Tin Mừng. Lời cầu xin đã được Chúa nhận lời, và cuộc hôn nhân của Bà đã đem lại 9 người con, nhưng bốn người con đầu trong đó 2 trai và 2 gái đã qua đời trong tuổi thơ. Têrêsa là con út trong số 9 người con sau này được tôn phong Hiển Thánh, làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo và làm Tiến Sỹ Hội Thánh. Một vị tiến sĩ trẻ nhất trong 33 vị Tiến Sĩ của Giáo Hội, và là 1 trong 3 vị Nữ Tiến Sĩ.
Bà Zélie qua đời ngày 28 tháng 8 năm 1877 khi vừa tròn 45 tuổi sau 5 năm chịu đựng do chứng bệnh ung thư.
Cha mẹ thánh nữ Têrêsa là những người hết sức bình thường nhưng đã nên thánh một cách phi thường bằng đời sống yêu thương, đón nhận thập giá giữa đời.
Ngày hôm nay, chúng ta mừng các Thánh, chúng ta vui và tin tưởng vì lẽ ta cũng sẽ được trở nên thánh nếu như ta đi trọn vẹn con đường bác ái, yêu thương và gắn kết đời ta mật thiết với Chúa như các thánh đã từng sống. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày ta sống, ta diễn tả tình yêu thương đó với những người xung quanh, những người ta gặp gỡ.
.