1. Lễ Các Đẳng Linh hồn (Tgm. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn)
2. Lễ Các Đẳng Linh hồn- (Gm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản)
3. Nguồn nước mắt (Gm. Gioan B. Bùi Tuần)
4. Bông hồng cho mẹ cha (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Kính nhớ tổ tiên (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
6. Xin đừng quên tôi (Trầm Thiên Thu)
7. Nay anh mai tôi (Huệ Minh)
8. Tưởng nhớ người đã ra đi (Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
9. Mầu nhiệm các thánh cùng thông công (Lm. Đan Vinh – HHTM)
10. Buồn trong kỷ niệm (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
11. Suy niệm lễ các Đẳng Linh hồn (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
12. Sự thánh thiện của Tin mừng (Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB)
13. Lễ cầu cho các Đẳng Linh hồn (Lm. Đan Vinh)
14. Mầu nhiệm hiệp thông (JM. Lam Thy, ĐVD)
15. Gọi tình (Trầm Thiên Thu)
16. Nguồn yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
17. Cái chết (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
18. Khi thần chết lên tiếng (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
19. Hành trang vào đời sau (Jorathe Nắng Tím)
20. Người công giáo có kính nhớ tổ tiên không? (Lm.Jos Tạ Duy Tuyền)
21. Cát bụi phận người (Lm. Thái Nguyên)
22. Sống trọn đạo làm con (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
23. Tấm lòng thanh (Trầm Thiên Thu)
Tgm. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
.
Gm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
.
Gm. Gioan B. Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tháng 11, tháng của báo hiếu. Tháng của lòng tri ân tình cha, tình mẹ. Thế nên , khi nghe những ca từ của những bài hát về cha, về mẹ, ôi sao thật ngọt ngào, thắm thiết! Có lẽ nhiều người vẫn thầm hát bài “Bông Hồng cài áo” mỗi khi chạnh lòng nhớ về mẹ cha:
“Mẹ, Mẹ là dòng suối diệu hiền
Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên
Là bóng mát trên cao
Là mắt sáng trăm sâu
Là ánh đuốc trong đêm
Khi lạc lối.
Tình mẹ thật nhẹ nhàng như dòng suối làm mát cuộc đời từng người con. Thật ấm cúng nồng nàn như nắng ấm nương rau:
Mẹ, Mẹ là dòng suối ngọt ngào.
Mẹ, Mẹ là nải chuối, buồng cau
Là tiếng dế đêm thâu
Là nắng ấm nương rau
Là vốn liếng yêu thương
Cho cuộc đời.”
Thế nhưng, cho dù có thương cha, nhớ mẹ thì cũng có ngày con không còn mẹ cha, sẽ là những ngày tăm tối như lời bài hát so sánh:
“Như đóa hoa không mặt trời,
Như trẻ thơ không nụ cười,
Và đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm”
Ý của bài hát này tác giả đã lấy cảm hứng từ ngày Mother’s day được tổ chức vào Chúa nhật thứ 2 của Tháng Năm tại Châu Âu. Và năm 1962 được tổ chức tại Nhật với phong tục cài cho những ngươì con không còn mẹ một bông hồng trắng, và còn mẹ một bông hồng đỏ. Và nhà sư Nhất Hạnh đã đem về Việt Nam, cổ võ trong ngày Vu Lan. Thế nên, phong tục này không phải là truyền thống của Phật Giáo mà là của Tây Phương. Biểu tượng của Phật Giáo là hoa sen, còn bông hồng là biểu tượng tình yêu của Châu Âu, nhưng dù sao chúng ta cũng thấy việc cầm bông hồng trên tay hay cài lên áo để nhớ về tình thương của mẹ thật nồng ấm biết bao.
Nồng ấm bởi vì Mẹ là một dòng suối, là một kho tàng vô tận. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà Thiên Chúa đã tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Thế nên, đừng đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!”. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình mới có cảm nghĩ: “Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”
Thế nên, tôi nghĩ rằng bài hát muốn nói với chúng ta những người còn mẹ, ngay hôm nay hãy cầm tay mẹ mà hỏi: ” Mẹ ơi, mẹ có biết không ?”. Và chắc chắn Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và lúc này hãy nhìn vào mắt mẹ, mà nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ không ?”. Mẹ sẽ rất sung sướng, sẽ rất hạnh phúc vì được nghe những lời yêu thương từ con.
Không chỉ là mẹ mà cả những người cha tuy thầm lặng nhưng luôn hết lòng yêu thương ta. Tình cha không mặn mà như tình mẹ nhưng tình cha vẫn mãi là chỗ dựa cho con sự tự tin vào đời. Không có cha con cái sẽ cảm thấy mình hụt hẫng giữa chợ đời đầy mưu mô xảo quyệt mà không có chỗ tựa nương. Thế nên, hãy trân trọng tình cha, tình mẹ. Hãy dành cho các ngài sự quan tâm, tình yêu mến, đừng đợi đến khi không còn họ mới thảng thốt nói lên lời xót xa ân hận vì mình đã không sống tròn đạo hiếu làm người.
Hôm nay nhân ngày lễ các linh hồn, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy dành tình yêu cho ông bà cha mẹ qua việc cầu nguyện cho các ngài. Chúng ta hãy nài xin lòng thương xót của Chúa đón nhận các ngài và tha thứ những yếu đuối trong thân phận con người của các ngài. Vì nhân vô thập toàn, ai mà không có lỗi trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng chí thánh. Chúng ta hãy nhớ đến người quá cố để làm điều gì đó nhằm cứu vớt họ. Có thể là nhường cho các ngài những ơn toàn xá trong 8 ngày đầu tháng. Có thể là làm những việc lành phúc đức để đền bù cho những thiếu sót trong cuộc đời các ngài. Có thể là những lời kinh ta trao gởi họ cho lòng thương xót của Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tận dụng những ngày này như là mùa báo hiếu cha mẹ và tri ân anh em bè bạn những người đã giúp đỡ chúng ta mà nay đã không còn. Xin cho họ được nghỉ yên bên Chúa. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Hàng năm, cứ đến những ngày đầu tháng 11, khi tiết trời vào thu, hàng cây thay lá, Giáo hội lại nhắc chúng ta nhớ đến cùng đích đời đời của mỗi người là Nước Trời. Giáo hội cũng dành tháng 11 để dạy mỗi người bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn ông bà tổ tiên, đồng thời nhắc các tín hữu chuẩn bị cho ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Kính nhớ ông bà tổ tiên là nét đẹp trong văn hoá Việt Nam. Việc bày tỏ lòng thảo hiếu không chỉ là văn hoá mà còn là Đạo hiếu, Đạo làm người. Như thế, những ai không chu toàn đạo làm con, đạo làm người này, thì cũng không thể chu toàn đạo làm con Chúa được. Tuy nhiên, không phải mọi người Công Giáo đều ý thức được điều này, vì thế, đã xảy ra biết bao tình trạng ngược đãi đối với ông bà cha mẹ, bỏ bê việc hiếu thảo, khiến cho nhiều người ngoại giáo nghĩ rằng : Theo đạo Công Giáo là phải từ bỏ ông bà tổ tiên, không được giỗ chạp.
Chắc chắn là con người, ai cũng phải chết. Người ta tưởng rằng khoa học ngày nay có thể kéo dài tuổi thọ, xua đi cái chết của con người, nhưng thực tế lại không như vậy. Con người dường như chết trẻ hơn, các bệnh tật, nhất là ung thư, ngày càng phổ biến hơn. Có những người giàu có, cuộc sống không thiếu thốn, họ đủ tiền để đi chữa bệnh ở ngoại quốc, nhưng vẫn không thoát khỏi cái chết. Có những người mới ngày hôm qua còn gặp mặt cười nói, thì hôm sau đã nằm yên bất động. Nhắc lại một vài trường hợp như thế để mỗi người thấy rằng, cuộc sống này thật mong manh, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi. Vậy mà có nhiều người vẫn cố tình quên điều đó, họ bỏ qua Thiên Chúa để bám vào trần gian như cùng đích của cuộc đời mình.
Ông Gióp đã trải qua những quãng đời giàu có phong lưu, rồi mất trắng trở về tay không, từ một người khoẻ mạnh, bạn hữu tới lui, trở thành một người bệnh tật ghê tởm, mọi người xa tránh. Dù vậy, ông vẫn xác tín vào Thiên Chúa và hy vọng mạnh mẽ vào cuộc sống đời sau. Trong bài đọc một, ông Gióp đã nói lên niềm xác tín của mình : Tôi biết rằng, Đấng cứu chuộc tôi hằng sống, và sau hết, tôi sẽ từ bụi đất sống lại, và trong chính xác thịt tôi, tôi sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa của tôi. Lời tuyên xưng này cho thấy, ông đặt trọn niềm hy vọng cuộc đời của ông vào nơi Chúa. Điều ông chờ đợi duy nhất sau cuộc sống này là được nhìn thấy Thiên Chúa bằng chính con mắt của mình chứ không còn phải nhìn bằng đức tin nữa.
Niềm tin vào sự sống đời sau được củng cố nhờ vào lời mặc khải của Chúa Giêsu. Ngài đã quả quyết với chúng ta rằng : Ai đến với Tôi sẽ không bao giờ bị loại trừ, không bao giờ bị hư mất, nhưng Tôi sẽ ban cho họ sự sống đời đời. Thiên Chúa khi tạo dựng con người, Ngài muốn cho con người hạnh phúc. Tuy nhiên do tội nguyên tổ và tội của mỗi người, cũng như do sự lôi kéo của ma quỷ, xác thịt và thế gian đã khiến chúng ta xa Chúa và quên mục tiêu đời mình là tìm về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã được sai đến để chỉ cho con người con đường hạnh phúc, để đưa tất cả nhân loại về với Chúa Cha. Ngài đã chấp nhận cái chết để đem lại sự sống cho con người. Tuy nhiên, chỉ những ai tin Chúa Giêsu, lắng nghe và bước theo Ngài thì mới có thể đạt tới sự sống hạnh phúc được.
Tham dự ngày lễ Cầu hồn hôm nay, mỗi người hãy dừng lại để suy nghĩ và chỉnh sửa cuộc sống của mình, để sống làm sao cho trọn đạo với Chúa và với những bậc tiền nhân.
Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Chúng ta không thể kể hết, không thể đo đếm được công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Chúng ta có thể nhìn thấy những tấm gương hy sinh của các bậc cha mẹ : Có những người cha già tám mươi tuổi vẫn phải vất vả nuôi những đứa con tật nguyền, có những người mẹ hốc mắt thâm quầng vì nhiều đêm thức trắng trông con đau ốm. Ngược lại, có những người con ném cha mẹ ra đường để giành của cải, có những người cha phải nhắm mắt trong tủi nhục vì con cái ngỗ nghịch.
Ngày lễ Cầu hồn hôm nay nhắc chúng ta sống thảo hiếu, sống trọn tình với người còn sống cũng như những người đã khuất. Chắc chắn đứng bên phần mộ người thân đã ra đi, những hình ảnh, những ký ức của người thân sẽ lại trở về với mỗi người. Có thể là những ký ức, kỷ niệm thật vui và hạnh phúc, vì những năm tháng tròn đầy được sống cùng nhau, đã sống hết mình, hết tình với nhau ; nhưng cũng có nhiều ký ức khiến mỗi người tự xấu hổ và hối hận. Có những người khi cha mẹ người thân còn sống đã tỏ ra vô tình dửng dưng, thiếu yêu thương, thiếu chăm sóc. Có những người cứ nghĩ rằng mỗi tháng trả cho cha mẹ vài triệu là đã hết công sinh thành dưỡng dục, vì thế, khi cha mẹ đau yếu liệt lào, họ chưa được một lần tự tay chăm sóc cho cha mẹ. Nay khi cha mẹ qua đời, họ cố gắng xây mộ thật to để che mắt thế gian và để đánh lừa sự áy náy trong tâm hồn mình.
Không chỉ bổn phận thảo hiếu với cha mẹ, mỗi người còn mang trách nhiệm, bổn phận với vợ, chồng, con cái. Nhiều người khi vợ, chồng còn sống đã thiếu sót bổn phận, coi thường khinh rẻ nhau, chửi bới đánh đập nhau suốt ngày, thế nhưng, lúc người kia mất đi, họ khóc vật vã, kể lể để dối lòng mình. Có những người lúc sống không nhìn mặt nhau, thế nhưng lúc chết lại đòi cho được nằm cạnh nhau, việc làm đó chỉ là sự giả dối để che mắt thế gian. Điều quan trọng không phải nằm chỗ nào, sang hay hèn, mộ to hay nhỏ, những điều quan trọng là mình đã sống, đã đối xử với người thân thế nào khi họ còn sống. Điều quan trọng hơn nữa là phải sống làm sao để cùng nhau lên thiên đàng, để tránh rơi vào cảnh “Thiên đàng hoả ngục hai bên”.
Chúng ta hãy sống sao cho mỗi lần tháng 11 về, mỗi lần ra thăm mộ, mỗi người không phải áy náy hối hận, không còn những giọt nước mắt muộn màng. Muốn vậy thì ngay bây giờ, chúng ta hãy sống với nhau cho tròn đầy :
Với mẹ cha, hãy hết lòng yêu thương kính trọng, vâng lời. Hãy chia sẻ gánh nặng kinh tế và lo lắng với các ngài. Hãy làm vơi đi sự nhọc nhằn trên đôi vai của cha mẹ, hãy làm cho cha mẹ nở nụ cười hạnh phúc và tự hào vì con cháu. Lúc các Ngài tuổi cao sức yếu, hãy kiên nhẫn và kính trọng, vì ngày xưa các ngài đã từng hết sức kiên nhẫn với chúng ta. Đừng làm gì khiến cha mẹ tủi nhục, đừng đối xử với cha mẹ như con ăn đứa ở trong gia đình, cũng đừng kể công, tính sổ với các ngài, vì các ngài chưa bao giờ tính công sinh thành, nuôi dưỡng chúng ta. Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó, hôm nay chúng ta biết kính trọng, yêu mến mẹ cha của mình, thì sau này, con cháu cũng sẽ biết yêu mến, kính trọng chúng ta. Đừng bao giờ trở thành gương xấu cho con cháu trong việc thảo hiếu mẹ cha.
Với anh chị em, vợ chồng và những người chung quanh, hãy nhớ rằng, chúng ta sẽ không sống mãi trên cuộc đời này, sẽ có ngày chúng ta phải chia tay nhau. Vì thế, khi còn có cơ hội gần nhau, bên nhau, hãy yêu thương nhau cho thật tình, hãy yêu mến hết mình, đừng so đo tính toán thiệt hơn. Cuộc sống thật vắn vỏi, hãy loại trừ những tranh chấp hơn thua, nhỏ mọn để sống quảng đại với nhau ; hãy nói với nhau những lời lẽ chân tình, dễ nghe và cư xử với nhau với lòng nhân ái, để khi người thân mất đi, chúng ta sẽ không phải hối hận vì đã yêu quá ít.
Sau cùng hãy nhớ rằng, sau cánh cửa sự chết, chúng ta sẽ gặp lại nhau. Chúng ta sẽ muốn nhìn thấy nhau trong tình trạng nào, vui hay buồn, hạnh phúc hay bất hạnh ? Vì thế, đừng bao giờ nuôi hận thù đối với nhau, cũng đừng đem hận thù xuống nấm mồ, vì thù hận sẽ không thích hợp với Nước Trời là nơi hạnh phúc. Nếu cố tình nuôi dưỡng thù hận, chúng ta sẽ không vào Nước Trời và không thể gặp lại nhau được nữa.
Thiên đàng là nơi hạnh phúc, có Thiên Chúa là Cha đang chờ đợi mỗi chúng ta, nơi đó là quê hương đích thực và cùng đích của mọi người. Xin cho chúng ta trên hành trinh trần thế đừng bao giờ quên cùng đích cuộc đời của mình. Xin cho mỗi người luôn biết chuẩn bị sẵn sàng cho ngày trở về, để khi ngày ấy đến, chúng ta thanh thản ra đi mà không phải hối tiếc vì đã không làm gì cho Chúa, cho mình và cho những người chung quanh. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
“Xin đừng quên tôi!” là ý nghĩa theo tiếng Anh của một loài hoa: Forget-me-not. Tiếng Việt gọi là Lưu Ly Thảo. Hoa nhỏ và có màu tím buồn. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy trong tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, nó vẫn mang những ý nghĩa khác. Với người Công giáo, Lưu Ly Thảo cũng đang nhắc nhở về lời kêu cứu khẩn khoản của các linh hồn nơi luyện hình: “Xin đừng quên tôi!”.
Là những người thuộc Giáo hội Chiến đấu, Giáo hội Lữ hành, chúng ta vừa mừng kính chư thánh thuộc Giáo hội Khải hoàn, những người đã được hưởng Phúc Trường Sinh, chúng ta gọi họ là Thánh. Giáo hội muốn chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị-thánh-tương-lai, đặc biệt trong Tháng Cầu Hồn, vì chắc chắn họ sẽ được hưởng phúc trường sinh nay mai, trong đó có những người thân thiết của chúng ta. Họ được vào Thiên đàng sớm hay muộn là nhờ chúng ta, vì lúc này họ đành “bó tay”, chịu thúc thủ, không thể làm gì được.
Thánh Gioan Tông đồ cho biết thị kiến: “Tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. Biển trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa” (Kh 20:12-15). Các linh hồn nơi luyện hình đã được cấp Visa-Sự-Sống, chỉ còn chờ ngày “bay” về Thiên Đàng thôi.
Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Tuy nhiên, dù các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được “phân loại” là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26).
Thiên Chúa yêu thương mọi người, chỉ muốn mọi người được về sống chung với Ngài trên Thiên quốc, Ngài không phân biệt ai và không muốn ai phải mất Ngài. Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc Ben-gia-min. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước” (Rm 11,1-2a).
Thánh Phaolô nói thêm: “Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy!” (Rm 11:11-12).
Vô tri bất mộ – không biết không thích. Biết rồi thích. Thích rồi mến. Mến rồi yêu. Yêu rồi mê. Mê rồi say. Say rồi bạo (bạo dạn), tức là can đảm. Thánh Phaolô đã theo “chuỗi hệ lụy” đó, thế nên ngài phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ, như có lời chép: Từ núi Sion, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. Đó sẽ là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng” (Rm 11:25-27).
Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa thương xót, thế nên Ngài mới kêu gọi chúng ta theo Ngài. Để làm gì? Để Ngài trao ban hạnh phúc trường sinh. Ngài là Đấng trung tín tuyệt đối: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29). Thật là hạnh phúc cho những tội nhân khốn kiếp như chúng ta.
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đặt giả thuyết: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? (Tv 130:3). May mà đó chỉ là giả thuyết, không là sự thật: “Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:4). Kiếp lữ hành quá khổ, ai cũng muốn được giải thoát, nhưng chẳng tìm đâu ra ngoài Thiên Chúa: “Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 130:5-6). Lính gác đêm hoặc ngày cũng đều mỏi mệt lắm, chỉ mong hết giờ gác. Nhưng niềm khao khát Chúa còn hơn vậy. Thật tốt lành cho người nào biết tìm kiếm Chúa như thế! Tìm được Ngài rồi thì hạnh phúc gấp bội, hoàn toàn an tâm: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1).
Tìm kiếm Chúa làm gì? Có ai thấy Chúa đâu mà tìm? Những người vô thần bảo “tôn giáo là thuốc phiện ra ngủ”, chính Karl Marx còn quyết tâm triệt tiêu niềm tin tôn giáo kia mà? Không thấy Chúa sao vẫn muốn triệt? Thiên Chúa là Sự Sống mà sao họ lại muốn giết chết sự sống? Phải chăng tự mâu thuẫn? Gương Saolê nhãn tiền còn đó! Cũng tương tự, người ta công khai nhận mình theo chủ nghĩa duy vật mà sao vẫn thắp nhang khấn vái người quá cố? Phải chăng duy vật chỉ là “cái hộp” đựng “duy tâm” hoặc “duy linh” bên trong? Lại tự mâu thuẫn!
Một hôm, tại hội đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).
Thế nên, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Nếu là chúng ta lúc đó thì chắc chắn cũng thế thôi!
Nhưng Đức Giêsu nói “dài hơi” và đầy tính quyết liệt: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:53-58). Tuy nhiên, đầu óc “bã đậu” của phàm nhân làm sao hiểu thấu!
Nghe nói vậy, không ai khác là chính các môn đệ còn nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Kiểu như phàm nhân nói: “Giòi trong xương giòi ra”. Các đệ tử ruột còn chưa nghe nổi thì ai nghe nổi? Chúa Giêsu biết các đệ tử xì xầm, nhưng Ngài làm ngơ, nói với đầu gối còn hơn!
Các linh hồn nơi luyện hình cũng đã từng ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa, rồi các ngài cũng sẽ được sống đời đời như lời Chúa Giêsu đã hứa, dù lúc này còn phải chịu thanh luyện trong “lửa”. Mà Chúa đã hứa thì chắc cú!
Thánh Faustina tâm sự: “Tôi bị thiêu đốt trong lòng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt. Tôi sẽ chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Lòng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Ký, số 754). Tình yêu của Thánh Faustina lớn lao quá!
Các linh hồn ngày đêm kêu than van vỉ: “Xin đừng quên tôi!”. Giáo hội Lữ hành hãy lắng nghe họ, xin cho họ hưởng nhờ những “giọt nước mát lạnh”.
Thiên Chúa là tất cả. Ước gì mọi người đều nói được như Thánh Thomas Aquino, Linh mục Dòng Đa-minh, Tiến sĩ Giáo hội, tác giả bộ Tổng luận Thần học “kếch sù”, rằng: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó là phần thưởng cao quý nhất và tuyệt vời nhất.
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót mà tha thứ hình phạt cho các linh hồn, cho họ được sớm mãn hạn tù tội, xin cho các linh hồn về hưởng phúc trường sinh bên Ngài muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
Huệ Minh
Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ. Đứng bên đây thánh đường ngó bên kia thánh đường là những người thân thương trong giáo xứ đã ra đi trước chúng tôi. Không chỉ có nghĩa trang nhỏ bé này nhưng đâu đó ở các nghĩa trang và thậm chí đâu đó và tro cốt của ông bà cha mẹ của chúng ta vì có thể có những người xưa đã khuất nhưng không tìm thấy dấu vết bởi chiến chinh.
Nhìn những nấm mộ đó, nơi những người thân của ta nằm đó, ta lại nhớ đến phận người. Phận người vẫn không thể nào thoát khỏi cái định mệnh của kiếp người : sinh – lão – bệnh – tử. Phận người là thế đó như theo kiểu cách nói của cố nhạc sĩ họ Trịnh :
Con chim ở đậu cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về trốn xa xăm cuối trời
Sương kia ở đậu miền xa
Con sáo ở trọ bao la đất trời
Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về trốn xa xôi cũng…gần
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Môi xinh nở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành
Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ơ hay là một vòng sinh
Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời
Phận người là thế, ở trọ để rồi cuộc đời khép lại sau cái chết.
Sau cái chết, tùy niềm tin của tôn giáo và gần hơn nữa là niềm tin của mỗi người khác nhau. Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết chỉ là khép lại cuộc sống trần gian để bước vào vương quốc vĩnh cửu.
Với Trịnh Công Sơn thì : “Người chết nối linh thiêng vào đời”.
Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp ta suy nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và: nay tôi, mai anh. Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.
Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng, trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.
“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như vậy. Nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ… Vì sợ người chết, sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.
Có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”. Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.
Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói : “Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói : “Người chết mở mắt cho người sống”, cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.
Ông Stephen Leacock nói : “Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.
Khi ta nhìn thấy những nấm mồ ở nghĩa trang như muốn nhắc nhở ta : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh. “Hôm nay” là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.
Nhưng còn chữ “Ngày mai” là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói : “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ). Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.
Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết). Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay
(Nguyễn Khuyến)
Dù cuộc sống cứ mãi trôi nhưng rồi thi thoảng ta phải dừng lại lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận định một cách khách quan :
Tại sao tôi sống ?
Sống để làm gì ?
Chết rồi, ra sao ?
Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.
Lẽ sống của người Ki tô hữu ngày hôm nay được làm rõ trong tất cả các bài đọc. Với tất cả lẽ sống đó, niềm tin đó ta lại hân hoan sống trong trần gian này với niềm vui, với niềm tin và hy vọng một ngày kia ta cũng sẽ đoàn tụ với cha ông chúng ta trên thiên đàng nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai mà Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.
Cuộc đời này rất ngắn và rất vội, Giáo Hội dành ra tháng 11 này cách đặc biệt để ta có dịp báo hiếu, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, những người đã khuất trước chúng ta. Và, cũng nhắc nhớ phận người của mỗi người chúng ta. Ngày nào đó, ta cũng phải trở về với tro bụi trong quy luật hạn hữu của con người nhưng chuyện cần thiết và quan trọng nhất là sống làm sao để mai ngày được ơn cứu độ.
Sống ở đời, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đại gia hay tiểu gia không phải là vấn đề. Không phải là vấn đề bởi lẽ ta thấy dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đó khi nhắm mắt lìa đời chỉ có vài mét đất như nhau mà thôi. Vì thế, chuyện cần và đủ cho cuộc đời của mỗi người đó là sau khi chết ta có được một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay không ?
Với phận con người mỏng dòn và yếu đuối để rồi ta lại cứ tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện cho những người đã khuất và cầu nguyện cho chính bản thân chúng ta để ngày mỗi ngày ta biết trút bỏ những gì không là cần thiết, những gì làm vướng víu không để ta thanh thoát về với Chúa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện và tín thác những người thân của ta trong tay Chúa cũng như cuộc đời của ta trong tay Chúa vậy.
.
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
– Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
– Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
– Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
.
MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG CẦU THÔNG
Lm. Đan Vinh
1- NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN
– Theo lịch sử Hội thánh: Thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức. Ngài luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Một hôm, một đan sĩ Dòng của ngài đi hành hương Đất thánh. Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ. Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn. Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn được ra khỏi hang lửa nói trên. Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ. Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận”. Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của ngài. Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã thiết lập lễ Cầu cho các linh hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rôma từ giữa thế kỷ 11.
– Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Đức Thánh cha Gioan Phaolo 2 ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:
Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng”.
Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580). Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).
Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).
– Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.
– Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).
2- GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG:
Chúa Giêsu thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành”, hai là Hội Thánh “Vinh Thắng”, ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:
– Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giêsu. Như Dân Ítraen xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Họ được Chúa ban cho 2 thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.
– Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Khi còn sống ở trần gian, các ngài đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giêsu, nên ngày nay các ngài đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa.
– Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giêsu, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ. Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
3- TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG:
Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giêsu dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giêsu và cầu nguyện cho nhau. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:
Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”. Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Bấy giờ các ngài sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.
Riêng khái niệm về Lâm-bô: Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội. Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội. Về sau khái niệm này ít được đề cập đến. Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội”. Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải. Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”. Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giêsu như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261).
4- PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”:
– Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết. Nhà tỷ phú Mỹ WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc. Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết! Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một toà lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ.
– “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà. Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ. Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng kia để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.
– Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết! Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ ! Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!” Nhưng đức tin Kitô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng. Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình. “Sinh ký tử quy”: Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta. Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).
– Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa không làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư. Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm. Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.
5- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức ! Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con: “Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,23).
– Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen. Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34).- Amen.
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tháng 11 lại về, bầu trời như có chút u buồn, cái buồn của trời lập đông mau tối nồng thêm cái không khí se lạnh làm cho người ta cảm thấy chạnh lòng khi nghĩ về cuộc đời, nghĩ về người cha, người mẹ đã không còn. Nghĩ về cuộc đời thật chóng qua như loài hoa sớm nở chiều tàn. Nghĩ về những người cha người mẹ mà công đức của họ quá cao vời khiến chúng ta ngậm ngùi tưởng nhớ và mong làm một chút việc gì đó có ích cho mẹ cha.
Thật chạnh lòng khi nhớ về những người đã khuất. Thật nuối tiếc về tình yêu mẹ cha dành cho ta nay đã không còn, chỉ đọng lại trong ta một nỗi buồn miên man.
Có một bạn trẻ hồi ức về tuổi thơ của mình. Một tuổi thơ mất mẹ khi còn quá nhỏ nên chẳng hiểu hết nỗi đau. Chỉ thấy vắng mẹ rồi đơn sơ hỏi cha rằng:
“Một ngày hỏi mẹ ta đâu?
Cha buồn cố nén giọt sầu hôn con
Bảo rằng mẹ đã lên non
Suối vàng ở đó nhặt xong mẹ về
Đứa trẻ ngày lại ngày ngóng trông mẹ về mà sao cứ hun hút bóng mẹ. Suối vàng ở đâu mà mẹ nhặt mãi không về. Con ngày đêm mong nhớ. Mẹ vẫn biền biệt. Con tưởng rằng vì ham nhặt suối vàng mà mẹ chẳng chịu về. Khiến lòng buồn và lệ cứ rơi.
“Sớm chiều trông ngóng mẹ quê
Ham chi giàu có mẹ ơi! con buồn
Mưa tuôn nước đổ trên nguồn
Lệ con tuôn mãi mỏi mòn tháng năm.
Rồi nỗi buồn lại nối tiếp nỗi buồn. Khi đứa trẻ mồ côi nhận ra nỗi đau vì mẹ đã về suối vàng là vĩnh viễn không về trần gian, thì cũng là lúc ngậm đắng nỗi đau của kẻ mồ côi cả mẹ lẫn cha.
“Nhớ nhung ngậm đắng âm thầm
Thế rồi cha cũng bạc phần ra đi
Lên non tìm mẹ làm chi?
Giật mình …. con hiểu biệt ly – vô thường.
Cuộc đời thì vô thường, nay còn mai mất. Dẫu biết vậy, nhưng mất cha mất mẹ là một mất mát mà không có gì bù đắp được. Vì mẹ cha là một tác phẩm tuyệt đẹp về tình yêu con người, đó chính là bông hoa đẹp nhất của tạo hóa, là những nốt nhạc trầm bổng, những cung thanh cung điệu của bản nhạc giữa cuộc đời này. Tình yêu mẹ cha đã làm nên niềm vui và hạnh phúc cho con. Tình yêu ấy đã làm nên biết bao hình ảnh đẹp về tình người cho con cái.
Hôm nay, trong không gian nghĩa trang đang ấm dần bởi những nén hương, những ngọn nến của biết bao người con đang thắp lên trên phần mộ của những bậc sinh thành. Chúng ta cũng trào dâng niềm cảm mến tri ân về biết bao nghĩa cử cao đẹp mà cha mẹ đã làm cho chúng ta khi còn sống. Họ đã lặng im nơi chín suối hay dưới nấm mồ hoang lạnh. Điều họ cần nơi chúng ta không chỉ là một nén hương tỏ lòng tri ân, mà quan yếu là nhớ đến họ để cầu nguyện cho họ, để làm việc hy sinh phúc đức cho họ. Đây là bổn phận đối với Thiên Chúa mà họ phải làm khi còn sống, thế nhưng trong thân phận bất toàn họ đã thiếu sót. Họ đã không chu toàn đủ vì còn phải lao nhọc vì chúng ta. Họ còn phải hy sinh vì chúng ta. Nay họ cần được thanh luyện để xứng với tình yêu của Chúa. Thế nhưng, “lực bất tòng tâm”. Họ lại không còn cơ hội hay khả năng để lập công cho mình.
Vì thế, trong đạo hiếu Việt Nam luôn mời gọi con cái hãy biết đền ơn đáp nghĩa mẹ cha qua những thánh lễ cầu nguyện cho tổ tiên, qua những hy sinh bác ái để lập công đền tội cho cha mẹ chúng ta. Sách giáo lý Công Giáo đã viết:
“Chúng ta hãy cứu giúp và tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Nếu con cái ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của ông, thì tạo sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy? Vậy chúng ta đừng ngần ngại giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ”.
Ước mong tháng 11 sẽ là cơ hội để chúng ta tỏ lòng tri ân với cha mẹ, ông bà, anh em bạn hữu không chỉ bằng nén hương thắp lên trước phần mộ mà bằng cả tấm lòng mong muốn làm điều gì đó để đền bù cho họ vì những thiếu sót trong thân phận con người. Xin cho các linh hồn sớm được nghỉ yên trong tình yêu Chúa qua những lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng ta trong tháng dành cho các đẳng linh hồn này. Amen
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có một mơ ước một khát vọng riêng cho mình, cho dù đó là mơ ước nhỏ hay to, cao xa hay thấp hèn. Nếu con người sống mà không có mơ ước thì chỉ như một cỗ máy. Khát vọng vươn lên đó chính là mục đích sống của con người. Niềm tin Kitô giáo dạy cho chúng biết, con người có xác có hồn, có đời này và đời sau. Vì thế, ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc ở đời tạm thế này, người tín hữu phải đạt được sự sống đời đời mai sau nữa. Nhưng đâu là bí quyết để sống trường sinh là một câu hỏi lớn ?
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương”, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể các, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x. Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : “Là Bánh Hằng Sống … ai ăn … sẽ được sống đời đời” (Ga 6,51).
Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời (x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56).
Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là trường sinh bất tử.
Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh.
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Có vẻ như ý nghĩa của hai ngày lễ, lễ Các Thánh Nam Nữ và lễ Cầu Hồn (thói quen vẫn gọi như thế), đã quá rõ ràng và đơn giản: một lễ mừng chung tất cả mọi vị thánh, nhất là các vị không có ngày kính riêng, và một dịp cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội, chưa được lên thiên đàng vui hưởng với các thánh. Một ngày mừng cho các vị đã thành công, ngày khác nhắc nhở hỗ trợ các vị chưa đạt tới đích. Cứ cho là như thế đi, tuy nhiên nếu dựa trên Lời Chúa hoặc nhìn từ khía cạnh ơn cứu độ, ta thấy vẫn cần phải khám phá lại ý nghĩa đích thực của hai ngày lễ này, đặc biệt ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn.
Trước hết cần khảng định: khái niệm về ‘Các Thánh’ như chúng ta có ngày nay (beatified, canonized, blessed, saint), tức là các vị được Hội Thánh tuyên phong, đã không hề tìm thấy trong Thánh Kinh, nhất là trong Tân Ước. Phao-lô đã gọi tập thể các tín hữu Cô-rin-tô là những người được hiến thánh, là dân thánh (1Cr 1:2-3), cho dầu ngay sau đó, trong cùng lá thư ấy, ngài đã thẳng thắn vạch ra tất cả các tội lỗi họ phạm, thậm chí cả tà dâm và loạn luân. Nói chung Phao-lô gán từ thánh hay các thánh cho toàn thể các Ki-tô hữu và từ Hội Thánh cho cộng đoàn qui tụ họ lại, bất luận đã hoàn thiện, tốt lành hay chưa. Điều kiện duy nhất để họ được gọi với danh xưng cao quí này là: họ có tin Đức Ki-tô Giê-su là Cứu Chúa hay không. Cũng vậy thị kiến của Gio-an về các thánh trên trời được ghi trong sách Khải Huyền cho thấy họ là ‘một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ’. Điểm chung nhất của họ là ‘đứng trước Con Chiên’ và ‘đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên’.
Trong nhãn quan đó, Các Thánh Nam Nữ mà chúng ta mừng kính hôm qua đâu phải chỉ là ‘các thánh’ đã được tuyên phong. Chúng ta mừng kính tất cả những ai đã đặt trọn niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su Cứu Chúa; đúng hơn chúng ta mừng chính sự bao quát của lòng từ ái Chúa đang tràn ngập nhân loại, một lòng thương xót vô biên đang chủ động len lỏi tới từng con người, kể cả những người tội lỗi nhất. Thánh Gio-an đã tóm lược điều này cách tài tình: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Do đó trong ngày lễ này, không phải các vị thánh là trọng tâm mà Con Chiên Cứu Độ mới đúng là tâm điểm chúng ta phải qui hướng về để tôn vinh và ca ngợi. Ki-tô hữu chúng ta tuyên dương: “phúc cho tất cả những ai đã biết đón lấy ơn cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa, nhờ tin vào Đức Ki-tô Giê-su!” Đây chính là mối phúc duy nhất và vĩ đại nhất cho toàn thể nhân loại, cho nên tất cả những gì đưa tới nó, hay đóng góp vào việc tiếp nhận nó, đều được coi là ‘phúc’. Trong bài giảng trên núi về các mối phúc, thực ra vế thứ nhất của bản liệt kê không thể gọi là phúc, đơn giản là vì chúng không thể mang bất cứ hạnh phúc nào cho con người. Chỉ riêng trong Tin Mừng mà Đức Giê-su rao giảng chúng mới được coi là ‘phúc’, lý do duy nhất vì chúng cống hiến phương thế hay qui tắc đưa con người tới đón nhận tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, để họ ‘giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên’. Do đó lễ Các Thánh Nam Nữ chính là ngày chúng ta dành ra để ca ngợi lòng thương xót cứu độ mà Chúa đã thành công trong việc cống hiến cho rất nhiều người.
Thế còn ngày lễ Cầu Cho Các Tín hữu đã Qua Đời, hay là lễ Các Đẳng Linh Hồn nơi Luyện Tội hôm nay thì sao, nó có ý nghĩa gì? – Nếu lấy ơn cứu độ của Chúa làm trọng tâm thì ngày này chính là để mời gọi ta nhìn vào sự đón nhận của mỗi chúng ta. Nếu đã mừng lòng từ ái Chúa trải rộng bao la tới hết mọi người và từng người không trừ một ai, thời ta càng có lý do để thôi thúc, để mong mỏi mỗi người và mọi người nhận biết và đón lấy tình yêu thương xót này với tất cả cõi lòng mình. Than ôi, thực tế đã không được như vậy! Ngay cả trong số những con người được coi là tốt lành thánh thiện nhất (kể cả nhiều vị chức sắc trong Giáo hội), đã mấy người biết ném mình trọn vẹn trong vòng tay nhân ái của Cha? Chúa không đòi chúng ta phải hoàn toàn sạch mọi tội… để được vào thiên quốc như nhiều người vẫn lầm tưởng, điều duy nhất Người mong đợi là hãy hết lòng đón nhận ơn tha thứ vô điều kiện của Người, như trường hợp tên cướp cùng bị đóng đinh trên thập giá. Ấy vậy mà mấy người trong chúng ta đã biết làm điều này cách nghiêm túc và triệt để? Ta vẫn chẳng mơ ước được sạch tội hơn là đón lấy lòng thương xót hài hà của Chúa là gì! Do đó ta vẫn nghĩ là luyện ngục sẽ là nơi các ‘tín hữu’ đã qua đời phải chịu thanh luyện, hơn là chốn niềm khao khát lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa được nung nấu. Đền tội, xóa tội hay đón nhận cách triệt để ơn cứu độ thứ tha, điều nào quan trọng hơn? Do đó không thể có việc cầu nguyện cho các đẳng linh hồn bằng công nghiệp của riêng mình hay của Hội Thánh đi nữa, nhưng chỉ có thể bằng gia tăng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa với thái độ khiêm nhu. Thánh Lễ chính là giờ phút tốt nhất để chúng ta cùng nhau cử hành việc đón nhận này, chúng ta – những tín hữu còn sống cùng với các đẳng linh hồn đã qua đời, đồng cử hành ơn cứu độ của Thập Giá Đức Ki-tô.
Lạy Chúa, con tin vào sức mạnh phi thường của tình yêu thương xót Chúa qua việc mừng kính các thánh. Con ca ngợi Con Chiên Sát Tế đã mở ấn niêm phong để mọi người có thể tới giặt và tẩy áo mình trong máu Chiên. Con cậy trông lòng từ ái Chúa sẽ mạnh hơn cả sự cứng cỏi của con và của nhiều tín hữu đã qua đời, và do đó con khiêm tốn phó thác các linh hồn ấy cho lòng thương xót vô bờ của Chúa. A-men.
.
Lm. Đan Vinh
- LỜI CHÚA: Thánh Phaolô đã xác tín về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như sau: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,8-9).
- CÂU CHUYỆN:
1) MỘT NGƯỜI KHÔNG DÁM ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT:
Một chân lý mà mọi người chúng ta ai cũng biết rõ là: Con người có ngày sinh ra thì cũng có ngày phải chết để vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên hầu như ai cũng sợ chết. Một nhà tỷ phú người Mỹ là WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Ho-ly-wood hồi trước thế chiến thứ hai, tuy rất giàu có và thành đạt nhưng ông lại rất sợ chết. Ông ra lệnh cho các nhân viên dưới quyền không ai được nhắc đến chữ “chết” trước mặt ông. Ai lỡ miệng nói ra sẽ lập tức bị đuổi việc. Ông là người thông minh tài giỏi và luôn thành công trong mọi việc làm, nhưng lại không dám đối mặt với sự thật phũ phàng là sự chết ! Quả thật, dù không muốn nhắc đến cái chết, nhưng cuối cùng cái chết lại vẫn tìm đến với ông: Ngày nọ ông đang hăng say làm việc thì tự nhiên lăn đùng ra chết “bất đắc kỳ tử” do đứt mạch máu não. Ông chết đi để lại cho hậu thế một toà lâu đài to lớn, được dùng làm điểm du lịch nổi tiếng ở bang Ca-li-for-ni-a Hoa Kỳ.
2) NỘI DUNG NHỮNG LỜI TRĂN TRỐI TRƯỚC KHI CHẾT:
Trong tai nạn máy bay boeing 747 của hãng hàng không Nhật bản vào ngày 12-8-1985 đã khiến 520 người thiệt mạng. Điều đáng nói là phi hành đoàn cũng như hành khách trên chiếc Boeing 747 này đã biết máy bay của họ gặp phải sự cố: Phi công không thể điều khiển được hướng đi và mọi người chỉ còn một ít thời gian trước khi máy bay bị rớt. Khi hay biết điều này, có mấy người hành khách đã vội lấy giấy bút ra ghi lời trăn trối của họ trước lúc chết.
– Người thứ nhất là ông KAWAGUCHI, đã viết nguệch ngoạc được mấy lời trăn trối trên cuốn lịch nhỏ bỏ túi. Ông viết cho vợ như sau: “Thôi, vĩnh biệt người vợ thân yêu! Em hãy thay anh chăm sóc cho các con em nhé !”.
Tiếp đến ông khuyên 3 đứa con, hai gái một trai rằng: “Các con hãy sống hòa thuận yêu thương nhau, hãy chăm chỉ làm việc để giúp mẹ lo cho gia đình mình nhé”.
Riêng với cậu con trai út tên TSUYOSHI, ông viết: “Ba đặt nhiều hy vọng nơi con. Hỡi con trai yêu quý của ba !”.
– Người thứ hai viết lời trối là kiến trúc sư KAZUO YOSHIMURA: Ông chỉ viết được mấy chữ trên một tờ giấy vở: “Tôi muốn cả gia đình mình luôn bình an mạnh khỏe”.
– Người thứ ba là một nhà kinh doanh tên là MASAKAZU TAMGUCHI đã viết cho vợ như sau: “Vĩnh biết em yêu. Em hãy thay anh nuôi dưỡng chăm sóc mấy đứa con của chúng ta, em nhé”.
Như vậy, điều mà mọi người đều quan tâm trước khi chết là lo cho những người thân đang còn sống như cha mẹ, vợ con… Những con người mà họ đang có bổn phận phải che chở giữ gìn mà nay khi cái chết đến gần, họ không thể tiếp tục lo nữa, nhưng họ vẫn mong cho những người đó được hạnh phúc. Có những người chết đã không thể nhắm mắt được khi còn quá nhiều những việc bổn phận chưa thể lo chu toàn.
3) MỌI SỰ RỒI SẼ QUA ĐI:
Một ông vua kia muốn làm cho viên quan cận thần nổi tiếng là thông minh tài trí phải xấu hổ. Nhân dịp sắp tới một lễ hội, vua ra lệnh cho viên quan này phải mang về cho vua một vật mà kẻ đang vui nhìn thấy sẽ buồn sầu, và người đang buồn khi nhìn thấy sẽ lại vui tươi. Khi ngày hội gần đến, viên quan rất buồn vì vẫn chưa tìm ra một vật giống như ý vua. Ông liền quyết định đi đến một nơi nghèo nhất kinh thành, khi đi qua một ông lão bán hàng rong, viên quan dừng lại hỏi ông lão có vật có tác dụng như thế không. Nghe xong, ông lão bèn đưa cho viên quan ấy một cái vòng. Vị quan nhìn vào thấy có một dòng chữ hiện ra khiến ông mỉm cười vui sướng. Lễ hội đến, nhà vua chắc rằng viên quan kia sẽ bị một vố bẽ mặt. Thế nhưng khi được gọi, viên quan thông thái kia đã ung dung bước vào chầu vua, tay cầm theo một cái vòng và dâng lên cho nhà vua, trước sự ngơ ngác của triều thần hiện diện. Nhà vua cầm cái vòng lên với nụ cười trên môi, nhưng khi thấy dòng chữ trong chiếc vòng hiện ra thì nụ cười lập tức biến mất. Dòng chữ trong chiếc vòng ấy như sau: “Mọi sự rồi sẽ qua đi”. Điều này nhắc nhở cho vua và mọi người về giới hạn của mọi sự: Vinh hoa phú quý sắc đẹp mọi sự đều có ngày sẽ biến mất theo quy luật ngàn đời: “Phù hoa nối tiếp phù hoa. Trần gian tất cả chỉ là phù hoa”.
4) “FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”:
Có một loài hoa tên là Lưu Ly có mấy màu là tím, trắng, xanh hoặc vàng hòa quyện cùng nhau rất đẹp, và người ta hay hái hoa này để tặng nhau. Các đôi trai gái gọi tên loài hoa này là ” FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”.
Ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Vào một sáng mùa xuân, hai người dắt nhau đi dạo chơi bên bờ một con suối, có nhiều hoa Lưu Ly mọc dày. Trong khi chàng trai đang đứng ngắm nhìn dòng thác đổ, thì cô gái lai say sưa đi hái những nhánh hoa Lưu Ly. Cô không ngại nhoài người bên bờ suối để cố hái được mấy nhành hoa đẹp. Chẳng may cô bị trượt chân té ngã xuống dòng suối và bị nước cuốn trôi đi. Khi bị té, cô vẫn đang nắm những nhành hoa Lưu Ly trong tay và đã vừa ném những hoa đó lên bờ vừa nói to lên rằng: “Xin đừng quên em”.
5) AI MỚI THẬT KHỜ DẠI:
Một trong những câu chuyện hay dạy đời là câu chuyện “Ông vua giầu có với chú hề” như sau:
“Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như không hề biết đến tương lai của mình. Ông cũng chẳng màng đến có thế giới mai sau hay không? Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho vua mỗi khi ông muốn giải sầu. Theo vua nghĩ thì tên hề này là một rất ngu đần. Ngày nọ, nhà vua cho gọi anh hề tới trao cho anh ta một cây quyền trượng và nói: “Ngươi hãy đi tìm một kẻ ngu dại hơn ngươi – trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.” Từ lúc đó chú hề nhận cây gậy vua trao và cố gắng đi tìm kẻ ngu hơn mình, nhưng sau nhiều ngày tìm kiếm mà vẫn không thể tìm ra.
Thời gian qua mau và tuổi già đến với nhà vua lúc nào không biết. Đến khi sức cùng lực kiệt, vua cho gọi chú hề đến gần và nói như sau:
– Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật là xa.
– Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu ạ ?
– Ta cũng không hay biết nữa.
– Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua mới trở về?
– Không bao giờ , không bao giờ con ạ.
Anh hề tuy là một người ngu, nhưng trong trường hợp này anh lại phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy vào ngay bàn tay Đức Vua mà trước kia nhà vua đã trao vào tay anh ta rồi im lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui sướng vì đã khám phá ra một người còn ngu hơn mình, mà người đó không ai khác hơn là chính ông vua đã từng tự hào thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần.
- SUY NIỆM:
1) LỜI KÊU XIN CỦA CÁC LINH HỒN:
Có một loài hoa nhỏ: Forget-me-not, Việt ngữ gọi là Lưu Ly Thảo. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy của tình yêu đôi lứa. Nhưng với người Công giáo, nó mang một ý nghĩa khác, đặc biệt trong tháng cầu cho các linh hồn này. Vâng, Lưu Ly Thảo nhắc nhở chúng ta lời kêu cứu tha thiết của các linh hồn nơi Luyện Hình: “Forget-me-not – Xin đừng quên tôi!”.
Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được phân loại là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11,25-26).
Chúa Giê-su an ủi những ai còn sống trên trần gian rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,1-3)
Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người con Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời cùng với các triều thần thánh trên trời.
2) MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG:
Giáo lý Công Giáo dạy : Những người đã được hưởng hạnh phúc bên Thiên Chúa gọi là các thánh. Những kẻ còn ở trần gian và các linh hồn trong chốn luyện hình cũng là những thánh nhân trong khả thể. Ba lớp người này được hiệp thông với nhau về ơn sủng do Chúa Giê-su ban cho. Mỗi thành phần nói trên đều có thể liên đới với nhau bằng lời cầu nguyện, bằng sự chia sẻ, sự hy sinh và ân sủng: Các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho những người còn sống, những người còn sống làm nhiều việc lành cầu nguyện cho các linh hồn, và các linh hồn dù đang được thanh luyện cũng có thể cầu xin cùng Chúa cho chúng ta ở trần gian. Niềm tin này được đặt trong niềm tin vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như Người đã nói : « Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, thì sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, thì sẽ không bị loại ra ngoài… và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết ».
3) HÃY THỂ HIỆN LÒNG HIẾU THẢO BIẾT ƠN VỚI ÔNG BÀ TỔ TIÊN:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ để báo đáp.
Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, cũng thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục…
Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là Ngày Của Mẹ (Mother’s. Day) vào ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm và Ngày Của Cha (Father’s. Day) vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng sáu.
Hàng năm, Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để nhắc nhở các tín hữu tưởng nhớ đến những người quá cố, thể hiện đạo làm con trong gia đình. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành đi viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày Tết, Giáo Hội Việt Nam cũng dành ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ.
4) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Trong tháng này, mỗi tín hữu chúng ta có thể làm một số việc cụ thể biểu lộ lòng hiếu thào biết ơn với ông bà tổ tiên như sau :
+ Năng đến nhà thờ dâng lễ cầu nguyện và lãnh các ơn đại xá cầu cho ông bà cha mẹ và người thân đã qua đời.
+ Làm nhiều việc bác ái như chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, phục vụ các bệnh nhân và các người già cả cô đơn bất hạnh… để cầu cho các linh hồn đã qua đời.
+ Xây mồ yên mả đẹp cho người thân đã qua đời. Mỗi dịp Giỗ Tết con cháu hãy họp nhau để xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn ông bà cha mẹ, cùng nhau đi viếng mộ phần và dùng cơm chung với nhau để thể hiện tình thân trong cùng một gia tộc.
+ Điều quan trọng là phải sống hiếu thảo với ông bà cha mẹ ngay khi cha mẹ đang còn sống. Mọi người trong gia đình cần yêu thương đùm bọc nhau để cha mẹ ở trên thiên đàng được vui. Hãy năng nhắc nhở con cháu phải biết ơn cầu nguyện cho ông bà cha mẹ mỗi giờ kinh tối gia đình.
- LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã lên trời bằng con đường qua đau khổ vào vinh quang. Chúa hứa sẽ dọn chỗ cho chúng con và mai ngày sẽ trở lại đưa chúng con lên trời với Chúa. Xin cho các tín hữu chúng con, những người đang sống và những ai đã ly trần trong tình thương của Chúa cũng được ơn thanh luyện nên tốt lành thánh thiện để sớm được về quê trời hưởng hạnh phúc với Chúa Ba Ngôi và các thần thánh đến muôn đời. Amen.
.
JM. Lam Thy
Trong buổi triều kiến chung sáng thứ tư 30-10-2013 tại quảng trường thánh Phê-rô, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói về hiệp thông: “Sự hiệp thông của các thánh nảy sinh từ sự hiệp thông với Thiên Chúa và niềm tin nơi Chúa Ki-tô. Nó nối kết giữa các tín hữu còn lữ hành trên trần gian này với các tín hữu đang được thanh luyện trong Luyện ngục và các thánh trên Thiên Đàng trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội, trong sự thật sâu thẳm nhất của nó, là hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông của tình yêu với Chúa Ki-tô và với Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, kéo dài trong sự hiệp thông huynh đệ. Tương quan này giữa Đức Giê-su và Thiên Chúa Cha là “khuôn mẫu” của sự gắn bó giữa các Ki-tô hữu chúng ta: nếu chúng ta được tháp nhập một cách thân tình vào “khuôn mẫu” này, vào lò lửa tình yêu nồng cháy là Thiên Chúa Ba Ngôi, thì khi đó chúng ta có thể thực sự trở thành một con tim, một linh hồn giữa chúng ta, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa thiêu rụi các ích kỷ, đốt cháy các thành kiến và các chia rẽ bên trong và bên ngoài của chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa cũng thiêu rụi cả các tội lỗi của chúng ta nữa.” (nguồn: Vatican.net).
Hiệp thông vốn là tính chất căn bản của Giáo hội Ki-tô Giáo như Thánh GH Gio-an Phao-lô II đã khẳng định: “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông … Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới”, sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người.” (Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân “Christi Fideles Laici”, số 32). Đó là lý do giải thích tại sao tháng 11 là tháng Giáo hội dành riêng cầu cho các linh hồn nơi luyện hình. Đây chính là dịp thể hiện sự hiệp thông – hiệp thông giữa thế giới hữu hình (Giáo hội lữ hành) với thế giới vô hình (Giáo hội thanh luyện, Giáo hội Khải hoàn). Xin cùng tìm hiểu:
I. KHÁI NIỆM VỀ HIỆP THÔNG:
Giáo hội không phải là một thực thể khép kín lại nơi chính mình, nhưng đúng hơn là thường xuyên mở ra cho công cuộc rao giảng Tin Mừng và đại kết đầy năng động, bởi vì Giáo hội được khai sinh nhằm mục đích loan truyền và làm chứng, hiện tại hoá và truyền bá mầu nhiệm hiệp thông là mầu nhiệm tạo thành Giáo hội: quy tụ mọi sự và mọi người trong Đức Ki-tô; là bí tích hợp nhất bền vững cho tất cả mọi người. Thông điệp về đại kết “Ut Unum Sint” (số 4) giải thích: “Khi tới giờ chịu khổ nạn, Đức Giê-su đã cầu nguyện: “Xin cho tất cả nên một” (Ga 17, 21). Sự hợp nhất Chúa đã ban cho Giáo hội của Người và trong đó Người muốn tất cả được quy tụ lại, không phải là điều thứ yếu, nhưng giữ vị trí trọng tâm trong công trình của Người. Và sự hợp nhất ấy cũng không phải là một đặc tính phụ thuộc của cộng đoàn môn đệ của Người; trái lại, đó là thuộc bản chất của cộng đoàn ấy. Thiên Chúa muốn có Giáo hội bởi vì Người muốn có sự hợp nhất, và cũng bởi vì tình yêu sâu thẳm của Người được biểu lộ trong sự hợp nhất ấy. Quả thật, sự hợp nhất này được Chúa Thánh Thần ban tặng không chỉ là việc tập hợp các cá nhân bên cạnh nhau. Nhưng là một sự hợp nhất được tạo nên bởi những liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, việc lãnh nhận các bí tích và sự hiệp thông phẩm trật.”
Quả thực, sự đoàn kết thương yêu nhau chính là đặc trưng của đời sống hiệp thông trong Giáo hội. Như vậy, hiệp thông là sự liên kết chặt chẽ với nhau, lưu chuyển và chan hoà cùng một tính chất giữa các phần tử riêng lẻ trong một tổng thể duy nhất, sống động (Hiệp: gom lại, tập hợp lại nhiều phần tử cá biệt thành một thực thể; Thông: suốt, liên tục, luôn luôn không ngừng). Phạm trù hiệp thông rất rộng, khởi đi từ mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi (“Cầu chúc toàn thể anh chị em được tràn đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, tình yêu của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” – 2Cr 13, 13), sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với loài người, giữa thế giới hữu hình với thế giới vô hình, rồi đến sự hiệp thông giữa loài người với nhau, sự hiệp thông trong Giáo hội, trong mỗi gia đình Ki-tô hữu … Xin giới hạn vấn đề trong phạm vi Giáo hội phổ quát.
II. SỰ HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI PHỔ QUÁT:
Đức Giê-su Ki-tô thường cầu nguyện: “Xin cho tất cả nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ cũng được ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.” (Ga 17, 21). Tông Huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân “Christi Fideles Laici” (số 18-20) cũng khẳng định: “Sự hiệp thông này là chính mầu nhiệm Giáo hội như Công Đồng nhắc lại, qua từ ngữ nổi tiếng của Thánh Cypriano: Giáo hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần….. Các hình ảnh Kinh Thánh được Công Đồng Va-ti-ca-nô II sử dụng nhằm giúp chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Giáo hội, đã làm nổi bật thực tại Giáo hội hiệp thông, trong chiều kích là sự hiệp thông của các Ki-tô hữu với Đức Ki-tô liên kết chặt chẽ với sự hiệp thông giữa các Ki-tô hữu với nhau. Các hình ảnh đó là: chuồng chiên, đàn chiên, cây nho, toà nhà thiêng liêng, đền thánh.”
Hiệp thông, tự căn bản, là sự nối kết mật thiết với Thiên Chúa, qua trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, và trong Chúa Thánh Thần. Con người đạt được sự hiệp thông nhờ Lời Chúa và các Bí tích. Bí tích Thánh Tẩy là cửa ngõ và là nền tảng của việc hiệp thông trong Giáo hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là cao điểm của đời sống Ki-tô Giáo. Sau khi bế mạc Công đồng Va-ti-ca-bô II, Đức Chân phước GH Phao-lô VI nói với các tín hữu: “Giáo hội là một sự hiệp thông. Từ ngữ hiệp thông ở đây có nghĩa là gì? Tôi muốn nhắc lại với anh chị em đoạn giáo lý nói về sự hiệp thông các Thánh. Giáo hội có nghĩa là hiệp thông các Thánh. Và hiệp thông các Thánh biểu thị hai cách tham dự vào sự sống: tháp nhập các Ki-tô hữu vào đời sống của Đức Ki-tô, và lưu chuyển cùng một đức ái trong toàn thể cộng đồng tín hữu thuộc thế giới này cũng như thế giới bên kia. Hiệp nhất với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô; và hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu trong Giáo hội.”
Hiệp thông là sự toàn vẹn, hay nói đúng hơn, thực tại ấy diễn tả nội dung cốt yếu của mầu nhiệm, tức là của chương trình Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Sự hiệp thông trong Giáo hội là sự hiệp thông hữu cơ, tương tự như sự hiệp thông của một thân thể sống và hoạt động, bao hàm sự khác biệt và bổ túc cho nhau giữa các ơn gọi và hoàn cảnh sống, các tác vụ, các đặc sủng và trách nhiệm. Nhờ sự khác biệt và bổ túc cho nhau đó, một người giáo dân nhận thấy mình có tương quan với toàn thân thể và đóng góp phần riêng của mình vào thân thể đó (“Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn … Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo ; người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” – Ga 15, 1-6).
Như vậy, sự hiệp thông trong Giáo hội tự bản chất là một mầu nhiệm khởi từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, là một ân sủng của Chúa Thánh Thần. Cũng bởi vì: Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (1Cr 3, 16; 6, 19). Người dẫn đưa Giáo hội vào trong chân lý toàn vẹn (Ga 16, 13) và bảo đảm cho Giáo hội được hiệp nhất trong sự hiệp thông và phục vụ. Người huấn luyện và dẫn dắt Giáo hội bằng muôn ơn theo phẩm chức và đoàn sủng, trang điểm Giáo hội bằng hoa quả của Người (Ep 4, 11-12 ; 1Cr 12, 4 ; Gl 5, 22).
III. TRIỂN KHAI VẤN ĐỀ HIỆP THÔNG:
- Hiệp thông nơi Giáo hội Lữ hành: Theo thiển ý, khi tìm hiểu, trao đổi hay thảo luận – thậm chí tranh cãi – về một vấn đề nào đó (vấn đề “hiệp thông”, chẳng hạn), thường thì cũng còn thấy tương đối dễ dàng. Nhưng đến khi thực sự áp dụng vào đời sống những điều đã được thống nhất, mới thấy quả thực là khó khăn. Đọc + nghe + tìm hiểu + suy niệm Lời Chúa, tuy cũng có những khó khăn nhất định, nhưng vẫn có thể vượt qua được; nhưng khi đem Lời Chúa ra thực hành, áp dụng vào đời sống bản thân, thì mới thấy quả thực là thiên nan vạn nan. Cũng thế, khi triển khai vấn đề hiệp thông vào đời sống cộng đoàn Ki-tô hữu, chắc chắn chúng ta sẽ gặp những phản động lực rất mạnh, mà những phản động lưc ấy không hẳn chỉ là ngoại tại (từ bên ngoài tới – tức là từ khách thể), nó còn là những phản động lực nội tại (tự bản thân – tức là từ chủ thể). Những thông tin nhan nhản trên các phương tiện truyền thông (báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình …) đã cho thấy: vợ chồng lục đục, ly hôn, cha mẹ hất hủi con cái, con cái bất hiếu với cha me, ông bà; rồi anh em xâu xé lẫn nhau, gia đình ly tán … Trong phạm vi gia đình mà còn như vậy, đừng nói chi đến những phạm vi rộng hơn như khu xóm, hàng xứ hàng tổng, hay những đoàn thể xã hội, hội đoàn tôn giáo …
Nói, thì lúc nào cũng nói rất trơn tru về một tinh thần hiệp thông huynh đệ rất đáng trân trọng; nhưng khi áp dụng vào đời sống, sao cứ thấy đầy rẫy những mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, lúc nào cũng chỉ thấy ngôn hành bất nhất (lời nói không đi đôi với việc làm)! Không dám vơ đũa cả nắm, cũng không bi thảm hoá vấn đề, nhưng phải thẳng thắn nhận chân một điều là chúng ta vẫn nói nhiều hơn làm – kêu gọi người khác sống hiệp thông thì được, nhưng đến chính bản thân thì lại … bị, tại, bởi, vì … trăm thứ lý do, không thực hiện được! Để triển khai vấn đề một cách cụ thể thiết thực, xin đi từ đơn vị nhỏ nhất, cơ bản nhất của xã hội, của Giáo hội, đó là gia đình.
Muốn cho gia đình được hiệp thông, thì tiên vàn mỗi cá nhân, mỗi thành viên trong gia đình phải biết dẹp bỏ những tự ái riêng tư, phải biết quên đi “cái tôi” để sống với nhau bằng một Tình Yêu đích thực. Cứ tự hỏi khi Thiên Chúa dựng nên loài người, thì tại sao Người không dựng nên chỉ một giống (nam hoặc nữ) cho đỡ phiền toái, mà lại là “có nam có nữ”? Tại sao sự đối kháng giới tính không nhằm để tiêu diệt lẫn nhau mà là bổ sung cho nhau để trở nên hoàn thiện? Rõ ràng cái gia đình đầu tiên của loài người được khai sinh từ Tình Yêu, nên sẽ triển nở và tồn tại mãi trên nền tảng Tình Yêu đó. Và khi không còn Tình Yêu trên trái đất này, loài người sẽ bị huỷ diệt, đó là hệ quả tất yếu.
Phải chăng những dục vọng thấp hèn không xuất phát từ Tình Yêu đã làm nảy sinh những ghen ghét tị hiềm, những đố kỵ nhỏ nhen, những oán giận thù hằn, để đi tới những khủng bố đẫm máu, những chiến tranh tương tàn? Cho nên, câu cách ngôn “Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ” vẫn luôn luôn đúng với con người, đặc biệt là với con-người-Kitô-hữu muốn “nên thánh giữa đời”. Sống trên đời điều kiện tiên quyết là phải tu sửa bản thân nên người tốt (Tu thân). Có như thế mới có thể điều hành công việc gia đình cách tốt đẹp (Tề gia), để có thể làm việc nước (Trị quốc); và cuối cùng đi tới đóng góp sức mình vào công cuộc đem lại hòa bình cho xã hội (Bình thiên hạ). Người Ki-tô hữu muốn “tu thân” để nên thánh, để thành “những người lớn nhất Nước Trời”, điều kiện ắt có và đủ là phải “trở nên như những trẻ nhỏ” (Mt 18, 1-4), hay nói khác hơn là phải quay về với đời sống “nhân bản”, quay về với cái gốc của con người (“nhân chi sơ tính bản thiện”: người mới sinh tính vốn lành), với chính sự thánh thiện ban đầu mà Thiên Chúa đã trao ban. Mà cái gốc của con người – nền tảng của nhân sinh quan Thiên Chúa Giáo – lại chính là Tình Yêu, vì thế nên xin hãy sống và làm việc bởi Tình Yêu, vì Tình Yêu, cho Tình Yêu đích thực là chính Thiên-Chúa-Tình-Yêu.
- Hiệp thông với Giáo hội Thanh luyện: Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là lòng thương yêu: không những chỉ là “Lá lành đùm lá rách”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”, mà còn là “Uống nước nhớ nguồn”, nên đã dành cả tháng bảy (Âm lịch) để tưởng nhớ công ơn những người đã khuất (“Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”). Với Ki-tô Giáo thì phạm trù hiệp thông không dừng lại ở Giáo hội lữ hành, mà còn xuyên suốt sang Giáo hội thanh luyện, Giáo hội khải hoàn nữa, để tất cả quy tụ trong Mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, nên Giáo hội đã dành cả tháng 11 hàng năm để tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố mà còn đang trong thời gian thanh luyện, để được Thiên Chúa đoái thương, ân ban phần thưởng Nước Trời. Như vậy thì giữa truyền thống dân tộc với truyền thống Ki-tô Giáo đã cùng chung một mục đích, tuy sự thể hiện có khác nhau. Phải chăng đây cũng là ưu điểm nổi trội trong công cuộc “Hội nhập văn hoá”, hỗ trợ đắc lực cho sứ vụ Truyền giáo của Giáo hội?
- Hiệp thông cùng Giáo hội Khải hoàn: Trong kinh Tin Kính, khi xác tín về Giáo hội có câu “Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công, tôi tin phép tha tội…” (Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Đồ). Cụm từ “các thánh thông công” mang ý nghĩa gì? Một cách nôm na dễ hiểu là: Các Thánh trên Thiên Quốc vẫn hiệp thông với công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội nơi trần thế. Cụ thể hơn là Giáo hội lữ hành đang trên đường lữ thứ trần gian luôn cầu nguyện để đạt được mục đich chiếm hữu Nước Trời. Sự cầu nguyện ấy không chỉ dành riêng cho những tín hữu tại thế, mà còn rhể hiện tính hiệp thông cầu nguyện cho Giáo hội thanh luyện. Đến khi các linh hồn đã hoàn tất cuộc thanh luyện, gia nhập Giáo hội khải hoàn và lúc đó, chính các ngài – ở trước nhan Thiên Chúa – lại hiệp lời cầu nguyện cho Giáo hội lữ hành. Tính hiệp thông xuyên suốt 3 Giáo hội (1 Giáo hội nơi thế giới hữu hình: Giáo hội lữ hành, và 2 Giáo hội trong thế giới vô hình, siêu nhiên: Giáo hội thanh luyện + Giáo hội khải hoàn) để liên kết nên một trong Mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiển nghĩ, nét đặc trựng nhất của Giáo hội Hiệp thông chính là ở điểm này.
KẾT LUẬN:
Trong mỗi Thánh Lễ – một cuộc tái hiện Hy tế Thập Giá của Chúa Giê-su Ki-tô – thì việc cử hành Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm. Mầu nhiệm Thánh Thể cũng là trung tâm của đời sống Giáo hội. Mà Giáo hội là một cộng đồng hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa Ba Ngôi. Toàn thể Giáo hội đều cùng uống chung một chén, cùng ăn chung một tấm bánh, để cùng thi hành chung một sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Biểu tượng tuyệt vời của tính hiệp thông trong Hội Thánh Chúa là hình ảnh một tấm bánh trên bàn tiệc cộng đồng dân Chúa, một thân cây nho sum suê cành lá hoa quả tốt tươi. Mỗi Ki-tô hữu là một chi thể đều được hút nhựa từ thân cây nho, đều được chia phần từ tấm bánh Giê-su Ki-tô. Vậy hãy làm sao cho mọi người – cả trong và ngoài Giáo hội – đều cùng được chung hưởng như chính bản thân mình. Đó không những là trách vụ, mà còn là quyền lợi của mỗi thành phần dân Chúa. Và đó cũng chính là một phương thế thi hành sứ vụ truyền giáo cách cụ thể và đắc lực nhất, bởi vì “trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống”. Hãy rao giảng Tin Mừng bằng chính đời sống hiệp thông trong Mầu nhiệm Thánh Thể.
Tóm lại, “sự hợp nhất này được Chúa Thánh Thần ban tặng không chỉ là việc tập hợp các cá nhân bên cạnh nhau. Nhưng là một sự hơp nhất được tạo nên bởi những liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, việc lãnh nhận các bí tích và sự hiệp thông phẩm trật.” (Thông điệp về Đại Kết “Ut Unum Sint”, số 9). Chính sự hiệp thông thể hiện Đức Ái Ki-tô Giáo, là sự thông hiệp 3 Giáo hội (GH lữ hành + GH thanh luyện + GH khải hoàn) trong Mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ mệnh duy nhất của Giáo hội là Truyền Giáo, mà muốn truyền giáo, thì điều kiện tiên quyết là phải sống tình “Bác ái trong chân lý”, cậy nhờ vào sự hoạt động của Chúa Thánh Thần (“Giáo hội biết sự hiệp thông là ơn Chúa, nó có sứ mệnh đốí với mọi người. Như thế Giáo hội cảm thấy mắc nợ đã nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban tràn đức ái của Chúa Cha trong lòng các kẻ tin tưởng, là sức mạnh nốí kết bên trong và cũng là sức mạnh bành trướng bên ngoài. Sứ mệnh của Giáo hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Ki-tô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên “dấu chỉ và phương thế làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất”. Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới”; sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người.” – T/H “Christi Fideles Laici”, số 32).
Người Ki-tô hữu cần phải thể hiện rõ tinh thần hiệp thông huynh đệ trong cuộc sống của mình. Ôi! Lạy Chúa! “Xin hiệp nhất chúng con nên một trong Tình Yêu Chúa. Xin hiệp nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất hoà chia rẽ. Xin kết liên muôn người trong lòng mến Chúa Cha muôn đời.” (Lm. Thành Tâm – “Bài ca hiệp nhất” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhận lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông vậy vững vàng: chính Ðức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời).
.
Trầm Thiên Thu
Chắc chắn không ai muốn đau khổ, nhưng đau khổ lại là một phần tất yếu của cuộc sống. Đau khổ đúng là… KHỔ thật, và chỉ những ai đã trải qua đau khổ mới hiểu được nỗi khổ của người đau khổ! Ông Gióp đã từng than thở: “Nỗi đau, nỗi sầu của tôi lại nặng hơn cát biển; chính vì thế mà tôi phải nghẹn ngào, nói năng lúng túng” (G 6:3). Chỉ mới là niềm đau nỗi khổ ở trần gian mà còn khổ đến thế, huống chi đau khổ ở Luyện Hình, chắc chắn không thể diễn tả btrọn vẹn bằng phàm ngôn. Tiếng than của ông Gióp cũng là tiếng than của mỗi chúng ta – những người đang trên đường lữ hành trần gian.
Đau khổ không vô ích mà có giá trị cao, nếu không thì Chúa Giêsu đã chẳng động viên chúng ta chịu đau khổ – tức là “vác thập giá” theo Ngài (Mt 10:38; Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23; Lc 14:27). Đau khổ không chỉ trong vài ngày, vác thập giá không chỉ trong vài tháng, vài năm hoặc một thời gian nào đó, mà PHẢI vác hàng ngày, bất kể ngày hay đêm. Thật là “căng” chứ chẳng thoải mái chút nào ráo trọi.
Tháng Cầu Hồn lại về, đâu đó vẫn vang vọng tiếng kêu thảm thiết: “Xin đừng quên tôi!”. Các linh hồn nơi Luyện Hình chẳng ai xa lạ, họ là thân nhân của chúng ta, họ rất cần lời cầu nguyện của chúng ta, và họ tha thiết van xin chúng ta giúp đỡ họ. Forget-Me-Not (Don’t Forget Me) là tên một loài hoa, theo Anh ngữ là “Xin đừng quên tôi”, Việt ngữ gọi Lưu Ly Thảo. Loại hoa này nhỏ và có màu tím buồn. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy trong tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, nó vẫn mang những ý nghĩa khác. Với người Công giáo, Lưu Ly Thảo cũng đang nhắc nhở về lời kêu cứu khẩn khoản của các linh hồn nơi luyện hình, xin chúng ta hãy NHỚ tới họ, chứ ĐỪNG QUÊN họ.
Chúng ta là những lữ khách trần gian đang trên đường tiến về Quê Trời, là những người thuộc Giáo hội Chiến đấu, Giáo hội Lữ hành. Thật vui mừng và trần trề hy vọng khi chúng ta vừa mừng kính chư thánh thuộc Giáo hội Khải hoàn, những người đã được hưởng Phúc Trường Sinh, và chúng ta gọi họ là Thánh. Giáo hội muốn chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị-thánh-tương-lai, đặc biệt trong Tháng Cầu Hồn, vì chắc chắn họ sẽ được hưởng phúc trường sinh nay mai, trong đó có những người thân thiết của chúng ta. Họ được vào Thiên đàng sớm hay muộn là nhờ chúng ta, vì lúc này họ đành “bó tay”, chịu thúc thủ, không thể làm gì được cho chính họ.
Ngày xưa, người-môn-đệ-Chúa-yêu Gioan đã được thị kiến liên quan Luyện Hình: “Tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. Biển trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa” (Kh 20:12-15). Các linh hồn nơi luyện hình đã được cấp Visa-Trường-Sinh, chỉ còn chờ “chuyến bay” trực chỉ tới Thiên Đàng thôi.
Mỗi khi cầu nguyện cho họ cũng chính là cầu nguyện cho mình. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Tuy nhiên, dù các linh hồn không tự “cải thiện” để được giảm án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta, cầu nguyện với các linh hồn cũng rất hiệu quả. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được “phân loại” là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26).
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Ngài là tình yêu nên Ngài luôn yêu thương mọi người và tình yêu đó bất biến, Ngài chỉ muốn mọi người được về sống chung với Ngài trên Thiên quốc, Ngài không phân biệt ai và không muốn ai phải mất Ngài. Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc Ben-gia-min. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước” (Rm 11:1-2a).
Để chúng ta hiểu biết thêm, Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy!” (Rm 11:11-12).Thật kỳ diệu biết bao!
Người ta nói: “Vô tri bất mộ” – không biết thì không thích. Biết rồi thích. Thích rồi mến. Mến rồi yêu. Yêu rồi mê. Mê rồi say. Say rồi bạo (bạo dạn – chỉ hiểu theo nghĩa tốt là sự can đảm). Thánh Phaolô đã theo “chuỗi hệ lụy” đó, thế nên ngài phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ, như có lời chép: Từ núi Sion, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. Đó sẽ là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng” (Rm 11:25-27).
Chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa luôn thể hiện lòng yêu thương, lòng thương xót, thế nên Ngài mới kêu gọi chúng ta theo Ngài. Theo Ngài để làm gì? Để Ngài trao ban hạnh phúc trường sinh. Ngài là Đấng trung tín tuyệt đối: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29). Thật là hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta, mặc dù chúng ta chỉ là những tội nhân khốn nạn mà thôi.
Hoàn toàn không sai, thật đúng như vậy, và Thánh Vịnh gia đặt giả thuyết: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). May mà đó chỉ là giả thuyết, không là sự thật. Bằng chứng minh nhiên là “Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:4). Kiếp lữ hành quá khổ, ai cũng muốn được giải thoát, nhưng chẳng tìm đâu ra ngoài Thiên Chúa: “Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 130:5-6). Lính gác đêm hoặc ngày cũng đều mỏi mệt lắm, chỉ mong hết giờ gác. Nhưng niềm khao khát Chúa còn hơn vậy. Thật tốt lành cho người nào biết tìm kiếm Chúa như thế! Tìm được Ngài rồi thì hạnh phúc gấp bội, hoàn toàn an tâm: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1).
Chúng ta không ngừng tìm kiếm Chúa, nhưng để làm gì? Có ai thấy Chúa đâu mà tìm kiếm? Những người vô thần bảo “tôn giáo là thuốc phiện ra ngủ”, chính Karl Marx còn quyết tâm triệt tiêu niềm tin tôn giáo kia mà? Không thấy Chúa sao vẫn sợ và muốn triệt? Thiên Chúa là Sự Sống mà sao họ lại muốn giết chết sự sống? Thật là tự mâu thuẫn quá! Gương Saolê nhãn tiền còn đó. Cũng tương tự, người ta công khai nhận mình theo chủ nghĩa duy vật mà sao vẫn thắp nhang khấn vái người quá cố? Phải chăng duy vật chỉ là “cái hộp” đựng “duy tâm” hoặc “duy linh” bên trong? Lại tiếp tục tự mâu thuẫn nữa!
Kinh Thánh cho biết rằng, một ngày nọ, tại hội đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).
Nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ thắc mắc: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Nếu lúc đó chúng ta nghe Chúa Giêsu nói vậy, có lẽ chúng ta cũng phản ứng như vậy thôi!
Chúa Giêsu biết họ nghĩ gì và bàn tán điều gì, nhưng Ngài vẫn mạnh mẽ nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:53-58). Tuy nhiên, trí tuệ nông cạn của phàm nhân không thể hiểu được!
Cũng chẳng ai xa lạ, ngay cả các môn đệ nghe Thầy mình nói vậy mà còn lùng bùng lỗ tai: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các đệ tử ruột còn chưa nghe nổi thì ai nghe nổi chứ? Chúa Giêsu biết các đệ tử xì xầm, nhưng Ngài làm ngơ, không cần nói chi thêm!
Khi sinh thời, các linh hồn đang được thanh luyện nơi Luyện Hình cũng đã vâng lời Chúa Giêsu mà ăn Thịt và uống Máu Ngài, rồi các ngài cũng sẽ được sống đời đời như lời Chúa Giêsu đã hứa, dù lúc này còn phải chịu thanh luyện trong “lửa” một thời gian (loại “lửa” ở Luyện Hình không như lửa bình thường trên thế gian, bởi vì lửa chúng ta sử dụng hàng ngày chỉ là “gió thoảng” nếu so với “lửa” ở Luyện Ngục – mà “lửa” ở Luyện Ngục cũng không khác “lửa” ở Hỏa Ngục, chỉ khác nhau về mức độ: có hạn và vô hạn). Bất cứ điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn trở thành hiện thực.
Đã từng được thị kiến Hỏa Ngục và Luyện Hình, Thánh Faustina chân thành tâm sự: “Tôi bị thiêu đốt trong lòng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt. Tôi sẽ chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Lòng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Ký, số 754). Tình yêu của Thánh Faustina lớn lao quá!
Không chỉ trong Tháng Cầu Hồn mà mọi lúc, các linh hồn vẫn ngày đêm kêu than van vỉ: “Xin đừng quên tôi!”. Giáo hội Lữ hành hãy lắng nghe họ, xin cho họ hưởng nhờ những “giọt nước mát lạnh”. Giúp đỡ họ là cứu thoát chính mình.
Có Thiên Chúa là có tất cả. Ước gì mỗi chúng ta đều có thể xác định như Thánh Thomas Aquino, Linh mục Dòng Đa-minh, Tiến sĩ Giáo hội và tác giả bộ Tổng luận Thần học, rằng: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó là phần thưởng cao quý nhất và tuyệt vời nhất.
Lạy Thiên Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương và cuộc tử nạn của Đức Giêsu Kitô, xin tha thứ cho các linh hồn để họ được sớm được hưởng Thánh Nhan Ngài theo lòng thương xót bao la của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Có những sự thật khá nhạy cảm: không phải cứ ra nghĩa trang, nghĩa địa, mới thấy có sự chết, không phải cứ khóc to, khóc lớn, khóc nhiều ngày, mới là thương người đã khuất, cũng chẳng phải ông bà, bố mẹ, cứ có mồ yên mả đẹp là ta đã chu toàn bổn phận thảo hiếu. Đâu phải 02.11 hàng năm, người công giáo mới có dịp nhớ tới tổ tiên ông bà, truyền thống uống nước nhớ nguồn, tất cả đều được nghe biết từ thuở nhỏ. Có mặt ở nghĩa trang, xin lễ cầu nguyện, thắp nén hương lòng, hẳn người Kitô hữu không ai làm vì hình thức, đúng hơn là từ chữ tình, chữ hiếu, Thiên Chúa cội nguồn yêu thương Ngài đã khéo đặt để nơi tâm hồn con người.
Hai anh trộm cướp năm xưa bị treo trên thập giá vì thiếu sự chăm sóc của gia đình, hay vì lúc đó xã hội chưa có chế độ ưu đãi với người nghèo, hoặc vì công bằng yêu thương chưa được thực thi ? Đức Giêsu bị đóng đinh thập giá như phạm nhân, chẳng biết có khi nào chúng ta suy xét vì sao như thế không ? Tin mừng cho biết trước khi trút hơi thở, Chúa Giêsu cầu nguyện, và xin Chúa Cha tha thứ vì chúng không biết việc chúng làm. Nếu không phải yêu thương, điều gì sẻ xảy ra đối với những kẻ đóng đinh, những kẻ nhục mạ Con Thiên Chúa ? Có một số người thắc mắc vui vui, tại sao anh trộm bên hữu chuyên gia cướp bóc, tội lỗi, thế mà trước khi tắt thở anh ta lừa được cả Chúa, chỉ với câu ngăn gọn vu vơ, thế mà Chúa Giêsu lại hứa thiên đàng cho anh ta ?
Khởi đi từ yêu thương, Chúa Giêsu hôm nay cũng rất mong có nhiều người biết sám hối thật lòng, để được hạnh phúc nước Thiên Chúa, được hiểu rõ hơn tại sao Đức Giêsu dám chết cho tội lỗi nhân loại. Suy gẫm về tình yêu, liệu có khi nào vì cơm áo gạo tiền, lo cho gia đình, vì yêu thương con cháu, các ngài bị tai nạn, hoặc phát bệnh mà chết không ? Có khi nào vì không nỡ để con cháu thua chị kém em, đấng bậc sinh thành đã liều lỗi đức công bằng để rồi đang phải chịu thanh luyện không ? Chúa Giêsu cứu độ nhân loại trong đó có người tội lỗi, người thánh thiện, đấng bậc sinh thành yêu thương con cháu, dù số con cháu còn có những tâm hồn mê muội chưa nhận ra !
Tổ tiên dòng tộc thì ai cũng có, sống đạo làm con thế nào để thể hiện rõ tâm tư hiếu kính: cha là núi mẹ là sông, dù ở đâu, mẹ cha vẫn che chở đời con. Tin tưởng Chúa Giêsu quyền năng, nhân hậu, hiểu yêu thương tha thứ, và sám hối cậy trông, luôn là những cụm từ không thể mang lại ý nghĩa gì, khi chúng bị tách rời nhau. Anh trộm lành nhờ có lòng sám hối cậy trông vào Đức Giêsu nên anh ta được cứu. Chúa Giêsu vì yêu thương và tấm lòng bao dung tha thứ, Ngài không thể im lặng trước thái độ thật tình nơi anh trộm bên hữu. Chúa Giêsu lúc này vẫn là Chúa quyền năng và hay thương xót, Ngài sẵn lòng tha thứ cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi chúng ta ý thức dâng hy sinh cầu nguyện, hiệp lòng cậy trông vào Đấng từ bi nhân hậu.
Xin thương cứu các linh hồn sẽ không chỉ là khẩu hiệu, các ngài là ông bà tổ tiên, hoặc là các linh hồn ta không quen biết ; lễ dâng chân thành hôm nay, ơn toàn xá lúc này, sẽ là phúc lộc Nước Trời được ban cho các ngài vì công nghiệp Chúa chịu chết và sống lại. Chúa Giêsu lúc trên thập giá đã cảm hoá được anh trộm lành sám hối ăn năn, ông bà tổ tiên cả một đời đã sống vì con vì cháu, nhất định mỗi người chúng ta không thể nào quên. Anh trộm lành không bày tỏ niềm tin vào Chúa Giêsu bằng việc làm, nhưng qua hành động sám hối: “phần chúng ta, chúng ta chịu như thế này là đích đáng, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu….?”.
Không phải tại nghĩa trang này, hay 02.11 là ngày Giáo hội nhắc chúng ta cầu nguyện cho kẻ chết được sống, người tội lỗi biết ăn năn trở lại, đúng hơn vì Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết đang minh chứng tình yêu của Ngài cho nhân loại chúng ta. Ở nơi đây và lúc này, chúng ta không bình luận đúng sai, được cứu rồi hay còn phải chịu thanh luyện, nhưng kính nhớ tổ tiên, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài là điều các linh hồn hằng chờ mong. Chia sẻ, cầu nguyện, ý thức sống đạo, sống bài học yêu thương là bổn phận của con cháu nhớ đến cội nguồn. Chớ gì chúng ta nghe được lời nhắn gởi của các linh hồn nơi luyện ngục: nói đi các bạn, đâu là việc làm yêu thương, đâu là tình hiệp thông cao quý. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chết về thân xác, ai rồi cũng đến, nhưng những cái chết đáng sợ là những cái chết về tâm hồn, cái chết về tinh thần, cái chết về tâm linh, ngay khi còn sống.
Cái chết về tâm hồn.
Không đâu còn là những thắng cảnh thiên nhiên của những khu rừng tự nhiên, những con suối chảy hoang sơ, những động vật hoang dã. Ở bất cứ nơi đâu, người ta thấy có thể kiếm ra tiền, kiếm ra những lợi ích cá nhân hay nhóm, người ta có thể lấy nhiều lý do phá rừng lấy gỗ, lấy đất. Những con suối chảy giữa khe núi có thể bị chặn lại để bắt nó sản sinh những nguồn lợi thu về cá nhân. Không còn vẻ đẹp của tự nhiên cũng chẳng còn vẻ đẹp tâm hồn.
“Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao ?” (Lc 23, 31).
Con người với nhau, cũng vì lợi ích cá nhân, phe nhóm, đuổi những người thấp cổ bé miệng ra khỏi nơi họ đang sống để chiếm đoạt. Tiếng kêu của họ bị nghẹn lại với những oan ức nhưng lại chẳng được nghe. Đối với người ngoài thì nhu nhược, đối với người trong nhà thì bạo lực, khủng bố. Vì lợi ích cá nhân sẵn sàng hạ bệ, loại trừ người khác. Chết về tâm hồn nên không còn đối thoại để hiểu nhau và cảm thông, chia sẻ. Chết về tâm hồn nên dửng dưng và đôi khi còn mừng vui trước những sự dữ đến với những ai mình không ưa thích, cho là đáng đời. Chết về tâm hồn nên còn lên án ngay cả khi những người anh chị em gặp lúc nghiệt ngã, đau thương.
Cái chết về tinh thần.
Chỉ có một tư tưởng chung dẫn lối, chỉ có một đường lối phải theo, làm chết tinh thần tự do của mỗi người. Đời sống tinh thần cần có đa dạng, đa diện, đa chiều để bồi bổ. Đụng đâu trái ngược với hướng chung đều dẫn đến sợ hãi, rụt rè, không dám tỏ bày chính kiến. Cái chết về tinh thần chịu chết trong “Sự thinh lặng của bầy cừu”, cam chịu để bị xén lông.
Chết về tinh thần nên không có nhiều sáng tạo, hầu như chỉ làm theo máy móc, bó buộc trong khuôn khổ, cơ chế. Cái chết về tinh thần không đáng có, để mãi một dân tộc không chịu lớn lên, lấy điều không chính yếu làm kiêu hãnh, tôn vinh sự giả tạo, lấy cái hào nhoáng bên ngoài che đậy sự trống rỗng, tệ hại bên trong.
Chết về tinh thần nên không có nhiều những cộng đồng cùng sống, cùng chia sẻ. Ở đâu cũng thấy những ích kỷ, nhỏ nhen, hơn thua, ganh ghét. Mỗi người là một thế giới riêng, không cùng nhau làm việc chung được. Nếu có cộng đồng, nhóm, một thời gian sau là phát sinh mầm mống chia rẽ.
Lòng trắc ẩn không còn thấy nhiều, thay vào đó những trò ném đá nhau, câu view với cảnh tang thương, lợi dụng để kiếm thêm tài chánh, lợi lộc…
Đôi khi dừng lại hỏi tại sao đã mất rồi cảnh xóm làng xưa kia, người trong làng xóm, biết nhau, thân nhau, chẳng nhà nào có tường rào, cửa đóng. Tình làng nghĩa xóm đã mất bởi những ngôi nhà cao, cửa rộng, nhưng đóng kín. Không còn những tự do qua lại giữa xóm làng mà chỉ có những phân cách giàu nghèo ngày càng rõ ràng xa cách. Tinh thần chung đã chết, giờ mạnh ai nấy sống, liên minh nhóm lợi ích, những liên kết làm ăn.
Cái chết về tâm linh
Cái chết về tâm linh có lẽ bắt đầu từ những xu thế tục hoá. Từ những lễ hội trở thành những show trình diễn, câu khách. Không còn tính cách trang trọng đời sống tâm linh. Ở đâu cũng thấy những hoành tráng ngày lễ, nơi này cử hành lớn hơn nơi kia. Sự cạnh tranh ngày càng thấy rõ nơi thờ tự, hành hương, lễ hội.
Chết về tâm linh nên cũng mất đi cảm thức về tội lỗi. Một nguy cơ hiện rõ khi Thánh Phao lô cảnh báo: “Không ai còn có lương tri, không ai tìm kiếm Thiên Chúa! Hết thảy đều lầm lạc, hư đốn cả lũ. Hành thiện, không có ai, một người cũng không!” (Rm 3, 11 – 12).
Tương đối hoá sự thiện. Thuyết tương đối hoá đã hình thành từ cổ xưa và càng ngày càng tinh vi trong các hoạt động. Đức Thánh Cha Benedicto XVI cảnh báo về những tương đối sự thiện: Không tin, không xác tín, huấn quyền xem nhẹ,cử hành phụng vụ vụng về, trang hoàng màu mè. Xem nhẹ tội lỗi, không cố gắng vượt qua những cám dỗ, yếu nhược tâm linh. Cậy dựa vào Lòng Thương Xót của Chúa mà bỏ qua những cố gắng tự sửa chữa lỗi lầm, bù đắp thiếu sót…
Suy nghĩ về những cái chết đáng sợ. Chúng con hầu như cái chết nào cũng có, ít hay nhiều. Xin cho chúng con biết Chúa nhiều hơn bằng những học hỏi chân lý, để tránh những sai lầm, tương đối hoá. Xin ban cho chúng con thêm nghị lực để chiến thắng được cái tôi ích kỷ, tìm về sống với anh chị em, nối lại những tình thân không đáng mất, tránh xa những dục vọng, đam mê.
Xin cho chúng con được sống và sống dồi dào!
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Cử hành lễ các Đẳng Linh Hồn là dịp rất thuận tiện để chúng ta suy tư về cái chết.
Trong Kinh Thánh, chúng ta tìm thấy những lời quả quyết khá rõ ràng trong sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian (Kn 1,13.24).
Từ trích đoạn này, chúng ta hiểu tại sao khi thần chết đến, mọi sự phải kết thúc, mọi sự bị hủy diệt. Theo đó, sự chết xem ra không phải là một điều “tự nhiên” đối với chúng ta. Bởi vì, nó không đến từ Thiên Chúa, nó không nằm trong trật tự tạo thành. Cái chết là kết quả “sự ganh tị của quỷ dữ.” Bởi đó, chúng ta phải chiến đấu chống lại cái chết với tất cả sức mạnh của mình. Khát vọng triền miên của con người là “tham sống sợ chết.” Đó là bằng chứng hùng hồn nhất về chân lý con người không được tạo dựng để diệt vong, nhưng để được sống. Chết không phải là hạn từ cuối cùng của cuộc sống. Bài đọc I của thánh lễ này khẳng định lại với chúng ta điều đó: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và chẳng cực hình nào đụng tới được nữa” (Kn 3,1).
Tham sống sợ chết là bản năng sinh tồn được khắc sâu trong xương tủy mỗi con người. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng mọi hoạt động của con người đều chịu ảnh hưởng và tác động bởi bản năng tính dục. Từ đó, họ giải thích mọi sự theo cái nhìn này, cả trong nghệ thuật và tôn giáo. Nhưng nỗi lo sợ chết còn mạnh hơn cả bản năng tính dục. Chết là điều xảy ra sau cùng, nhưng nó lại tác động trên mọi việc ta làm trước đó. Tất cả mọi người đều kêu lên rằng: “Tôi không muốn chết.”
Như thế, tại sao chúng ta lại được mời gọi hãy suy nghĩ về cái chết khi biết rằng ai cũng phải chết? Câu trả lời rất đơn giản: Bởi vì chúng ta thường trốn tránh nó, không muốn nghĩ về nó, vì mỗi lần như thế làm chúng ta sợ. Chúng ta cũng thường cho rằng chắc mình chưa chết đâu, cái chết chỉ đến với người khác, chứ không đến với mình.
Nhưng việc suy nghĩ về sự chết không cho phép chúng ta gạt nó sang một bên cách dễ dàng. Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để ngăn cản nó hoặc là chấp nhận nó. Con người không ngừng tìm kiếm những biện pháp, những phương thuốc để được trường sinh. Một trong số những bài thuốc này được gọi là sinh sản con cái: một người tiếp tục kéo dài sự sống mình bằng cách sinh ra một đứa con. Người khác thì tìm kiếm sự nổi tiếng, để được lưu danh hậu thế. Trong thời đại chúng ta, nhiều người hôm nay lại chạy theo thuyết luân hồi.
Chúng ta phải nói rằng thuyết luân hồi là không thể phù hợp với Đức tin Kitô giáo. Nó cho rằng người chết tiếp tục đầu thai và sống một kiếp mới trong một con vật nào đó để tu luyện chờ được giải thoát. Theo niềm tin Kitô giáo, được Kinh Thánh mạc khải: “Phận con người chỉ chết một lần rồi sau đó chịu phán xét” (Hr 9,27). Thuyết luân hồi cũng dạy rằng hình thức đầu thai luân hồi là kết quả của một sự sai lầm. Xét cho cùng, luân hồi không thêm gì cho sự sống, nhưng thêm đau khổ; nó không phải là nguồn mang lại sự an ủi, nhưng mang lại sợ hãi. Thuyết luân hồi như một cảnh báo cho mọi người: “Hãy cẩn trọng không làm điều dữ, bởi vì bạn sẽ phải đầu thai để đền tội!” Điều này giống như nói người nào đó trong tù đang gần hoàn tất thời gian giam cầm của mình rằng hình phạt của anh đã được nới rộng, anh phải vượt qua tất cả.
Kitô giáo có cái gì đó rất khác để trình bày liên quan đến vấn đề sự chết. Người Kitô hữu tuyên xưng rằng “một Người đã chết vì mọi người,” nhờ đó cái chết đã bị tiêu diệt; nó không có là một vách tường mà từ đó mọi sự phải lao xuống, nhưng đúng hơn là một chiếc cầu để đi sang bến bờ bên kia – là sự trường tồn, là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Tuy nhiên, suy niệm về cái chết là điều rất có ích cho các tín hữu. Bởi vì đặc biệt nó giúp chúng ta sống tốt hơn.
Bạn có bị lo lắng bởi những vấn đề, những khó khăn và những xung đột khi nghĩ về cái chết không? Hãy nghĩ rằng những điều này sẽ xuất hiện lúc chết, nhưng với cái nhìn của đức tin, bạn sẽ thấy chúng có một ý nghĩa khác như thế nào? Chúng ta không phải là cam chịu và thụ động chờ chết. Ngược lại, chúng ta sẽ làm nhiều điều hơn và làm tốt hơn bởi vì chúng ta bình tâm hơn và thanh thoát hơn trước cái chết. Như Thánh Vịnh nói: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 89,12). Chúng ta hãy nhớ đến các linh hồn là những người thân của chúng ta và cầu nguyện cho họ để họ sớm hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng. Amen!
.
Jorathe Nắng Tím
Tháng Mười Một gợi nhớ nhiều về sự chết, người chết, và cũng nhắc nhở sẽ đến phiên mình chết một ngày : xa gần không biết, ở đâu không hay, cách nào không rõ, nên mỗi năm khi tháng cầu cho các linh hồn về, nghe lòng như chùng lại, tim se thắt, xót xa, và cổ họng đắng chát phận buồn « con người biết mình phải chết ».
Phải chết một ngày vì là con người, bởi đã là người thì phải chết như án lệnh từ đời đời cho cả loài người, và cứ thế, người trước kẻ sau, bất phân mầu da, tiếng nói, tuổi tác, giai cấp, trình độ… , người người nối đuôi nhau, tiếp theo nhau nhận lệnh lên đường « đoàn tụ với tổ tiên, ông bà » bỏ lại cuộc sống, giã từ trần gian, đi vào cõi chết, mà không thể trì hoãn, gia hạn hay khiếu nại, thắc mắc, cũng không kéo được ai theo mình, hay mang theo được sự gì dù cỏn con, bé bỏng, nhẹ nhõm, ngay cả như hơi thở trước ngưỡng cửa vào thế giới hoàn toàn xa lạ, bí mật, chưa một lần tham quan, khảo sát …
Nhìn người chết vô hồn, bất động, cứng đơ, lạnh lẽo, ai cũng hiểu chết là chấm hết mọi chức vụ, dù người ấy có đang tại chức Giáo Hoàng, Giám Mục chính toà, nguyên thủ quốc gia, chủ tịch, giám đốc ; chết là chấm dứt mọi uy quyền, dù người ấy đang nắm giữ quyền sinh sát toàn thế giới, hay là nhà độc tài « hét ra lửa, thở ra khói » làm mọi người phải rụng rời, kinh sợ ; chết là kết thúc mọi chiến dịch vận động tìm kiếm của cải, thành công, vinh quang, huy chương, bằng tưởng thưởng ; là đóng lại mọi ước mơ, kế hoạch, đồ án, chương trình, dù là những kế hoạch « kinh thiên động địa », hay những chương trình « chuyển núi rời non ». Nhưng đồng thời chết cũng là trả hết nợ đời, trút bỏ gánh sầu buồn, tủi nhục của một đời nghèo đói, thất học, không gia thế, địa vị, bị người đời khinh khi, vùi dập, khai thác, bóc lột, lợi dụng ; chết cũng là giã từ những uất nghẹn khi bị người đời chụp mũ oan sai, vu khống hồ đồ, lên án oan uổng, và chết cũng là gửi lại đời những đẳng cấp, số má, bon chen, đấu đá, thị phi, tranh giành.
Nhưng nếu chết là hết, là dấu chấm hết to đùng làm « đứng hình, tắt phim » tất cả và thực sự không còn gì sau dấu chấm hết này nữa thì coi như đã xong, đã hoàn tất mọi việc, mọi sự, và không còn gì lấn cấn, vướng víu : người giầu có, uy quyền, khỏe mạnh đã may mắn hưởng một đời hạnh phúc, còn người nghèo khổ, hèn hạ, tật nguyền thì đành chịu đã không may mắn trải qua một đời làm người bất hạnh, để chết rồi người may mắn, kẻ xui xẻo cũng như nhau ở kiếp tro bụi hư vô, không còn là bất cứ sự gì nữa, và cũng chẳng phải bận tâm lo nghĩ nhân qủa, thưởng phạt.
Trái lại, có nhiều dấu hiệu, nhiều điềm lạ, nhiều biến cố cho thấy : chết không hết, xác có tan rữa đấy, nhưng hồn vẫn còn đây. Trong giấc ngủ nửa mơ nửa tỉnh, người thân tuy đã chết nhưng vẫn thênh thang về gặp ; trong lời kinh tưởng nhớ, vẫn thấy gắn bó, gần gũi như ngày xưa những bóng hình đã khuất ; khói nhang quyện « hương lòng » trước bàn thờ, di ảnh người quá cố vẫn nghe xôn xao, se thắt nỗi nhung nhớ, niềm tiếc thương… Phải rồi, người chết vẫn sống, vì linh hồn con người bất tử, người chết vẫn còn quanh đây, vì cuộc sống dương thế đã không chỉ toàn là bụi tro, nhưng còn là những « thiêng liêng, đời đời, tuyệt đối ».
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã khẳng định chân lý này :
- « Nếu người ta được cả thế gian, mà mất sự sống đời đời thì nào có ích lợi gì ? » (Mt 9,26)
- « Qủa thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao ? Người phán : Ta là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác và Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống » (Mt 22,30-32).
- « Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ… Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao » (Mt 5,3.12).
- « Anh em chớ mừng vì qủy thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời » (Lc 10,20).
Đức Giêsu nói cho chúng ta, những người biết mình sẽ phải chết, nhưng không biết chết là gì, và chết rồi đi đâu điều này, đó là tất cả mọi người sẽ sống lại sau khi đã chết, có một sự sống vĩnh cửu, không bao giờ bị gián đọan sau sự sống này, có một vương quốc thuộc về Thiên Chúa sau cuộc sống dương thế, có một phần thưởng lớn lao, có một danh sách ghi tên những người được ở trên trời, và Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa của người sống.
Nhưng vấn đề quan trọng ở đây là phải có điều kiện nào để được hưởng những điều Đức Giêsu vừa kể, sau khi chết. Đây chính là « bí mật cứu độ » của Thiên Chúa đã được Đức Giêsu mặc khải cho những người bé mọn, vì trong thế giới của những kiêu căng, quyền lực, hưởng thụ, xa hoa, bí mật này dù có được công bố trên mái nhà, người ta cũng không mấy quan tâm, như Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng : « Vậy, tôi phải ví người của thế hệ này với ai ? Họ giống ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói : « Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa ; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than ». Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : « Ông ta bị qủy ám ». Con Người đến cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : « Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi » (Lc 7,31-34). « Ai có tai nghe thì nghe » (Lc 8,8).
- Điều kiện thứ nhất : tin nhận Thiên Chúa là Tình Yêu không đổi dời, vô cùng và đến cùng :
Như người con thứ hoang đàng trong dụ ngôn « Người cha nhân hậu » đã có thể đứng dậy, lên đường trở về, vì anh đã tin Cha lúc nào cũng một mực yêu thương : yêu thương khi con ngoan ngoãn, vâng lời, yêu thương cả khi con ngang ngược, bất hiếu đòi chia gia tài khi cha còn sống ; vì anh đã tin tình Cha vô cùng bao la, hải hà, để yêu anh đến tận bước chân cuối cùng ở đường cùng « thân tàn ma dại », sau khi đã ăn tiêu hết sạch tiền bạc, và lâm cảnh túng thiếu, phải đi ở đợ và chỉ dám ao ước lấy cám heo mà nhét cho đầy bụng (x. Lc 15,11-20).
Một khi tin tình yêu Thiên Chúa không đổi dời như tình con người dành cho nhau nay còn mai mất, hôm nay nồng nàn, ngày mai hờ hững, sớm mai sôi nổi, chiều về đã lạnh tạnh, hay khi vui thì đam mê, tha thiết, lúc buồn thì ngao ngán, dửng dưng, con người mới an tâm đi vào đời sau, mới tin tưởng bước vào đời đời, mà không hoang mang, sợ hãi bóng đêm sự chết; có tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn trung tín với tình yêu bao dung dành cho con cái mình, con người mới bình an nhắm mắt, xuôi tay từ bỏ thân xác tro bụi để đi vào lòng Đấng đã tạo dựng nên mình vì yêu thương ; có tín thác ở Thiên Chúa, Đấng chỉ muốn băng bó, chữa lành, giải thoát và cứu độ ; Đấng « không đành bẻ gẫy cây lau bị giập, chẳng nỡ tắt đi tim đèn còn leo lét » (Mt 12,20), con người yếu đuối, tội lỗi ở giờ chết mới dám ngước mắt thân thưa trước Thiên Chúa như người con trở về: « Lậy Cha, con đã đắc tội với Trời và với Cha » (Lc 15,18).
- Điều kiện thứ hai : yêu thương anh em như chính mình đã được Thiên Chúa yêu thương:
Có một điều không thể chối cãi, đó là ai cũng có khả năng yêu thương, mà không ai có thể tị nạnh : người khác có khả năng yêu thương hơn tôi, hoặc tôi không biết yêu thương, không yêu thương « giỏi » như người khác. Trái lại, quà tặng đồng đều của Thiên Chúa cho mọi người là khả năng yêu thương, nên bất cứ ai, ở thời nào và ở đâu, trẻ già lớn bé, giầu nghèo, sang hèn, bất kỳ chỗ đứng nào trong gia đình, xã hội cũng đều có khả năng yêu thương như nhau và được Thiên Chúa mời gọi yêu thương như Ngài.
Vì thế, Đức Giêsu đã không đề ra một danh sách những hành trang con người phải mang theo đến trước Nhan Thiên Chúa khi chết, hay những tặng vật con người phải chuẩn bị để biếu xén, mua chuộc Thiên Chúa như con người thường làm đối với người có quyền, có chức, có ảnh hưởng ở thế gian , nhưng Ngài đã chỉ đưa ra một hành trang duy nhất mà con người phải mang theo khi chết, nếu muốn được vào Nước Trời, được sự sống đời đời, đó là Tình Yêu dành cho đồng loại.
Vì tất cả đã nhận đồng đều tình yêu để yêu, nên ai nấy, dù quyền cao chức trọng đến đâu, cũng phải đệ trình Thiên Chúa việc làm yêu thương của mình ; vì tất cả đã nhận cùng một vốn liếng Tình Yêu như nhau, nên không ai, dù thuộc phẩm trật cao cả đến cỡ nào, cũng không được miễn trừ trả lời việc làm sinh sôi nẩy nở nén bạc tình yêu ; vì tất cả đã được đồng đều trao ban tình yêu để yêu như ơn gọi, sứ vụ, nên không ai tránh được câu hỏi về quá trình yêu thương của mình trước Thiên Chúa ; vì tất cả khi chết đều phải bỏ lại mọi người, mọi sự, mọi vương trượng, mũ mão, quyền lực, tiền của, danh vọng, nên ai cũng sẽ chỉ trơ trọi một mình với Tình Yêu là hành trang duy nhất; vì tất cả đã phải như nhau trở về tro bụi, khi tất cả những gì thuộc vật chất đã tiêu tan, nên ai nấy chỉ còn lại linh hồn thiêng liêng với tình yêu bất tử là hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống, đời đời.
Như thế, con người hoàn toàn như nhau trước Toà Thiên Chúa, khi ai cũng như ai : không mang được gì, cho dù cả thế giới là của mình ; không thể mua chuộc, mánh mung, đút lót, vì tất cả những gì đã có đều trở thành hư vô, và ai nấy chỉ còn lại Tình Yêu là hành trang để đi vào cõi hằng sống ; chỉ còn Tình Yêu là gia sản có giá trị, được phép mang theo ; chỉ còn Tình Yêu là thông hành phải xuất trình để được nhận vào Nước Trời ; chỉ còn Tình Yêu là dấu hiệu để được nhận ra là Con Thiên Chúa ; chỉ còn Tình Yêu là « gien ADN » để được khai sinh trong gia đình Thiên Đàng, và chỉ còn Tình Yêu để được nghe chính Đức Giêsu từ Toà vinh quang phán:
« Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát,các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, ; các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han ».. « Và Ta bảo thật : « mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho ta vậy » (Mt 25,34-36.40).
Qủa thực, niềm an ủi và hy vọng duy nhất của con người biết mình phải chết là sẽ được chết trong Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót, như người đầy tớ mắc nợ vua kia mười ngàn yến vàng, bị đòi đến trước mặt Vua, nhưng không có gì để trả, đã sấp mình xuống bái lậy xin Vua rộng lòng hoãn lại kỳ hạn. Vua « chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ » (Mt 18,27). Tha hết món nợ kếch xù cho anh, Đức Vua chỉ mong anh cũng biết xót thương anh em như vậy. Nhưng rất tiếc cho anh, thay vì tha cho người bạn chỉ mắc nợ một trăm quan tiền, món tiền không là gì so với mười ngàn yến vàng anh vừa được Đức Vua xóa nợ , anh đã « mê muội, ích kỷ, ki bo, tàn ác, nhẫn tâm » đến độ cứ tống anh bạn mắc nợ kia « vào ngục cho đến khi trả xong nợ », dù anh bạn khốn khổ, túng quẫn ấy đã sấp mình xuống và hết lời van xin. Và cái kết không ngờ đã đến với anh, khi Đức Vua biết chuyện đã « cho đòi y đến và bảo : « Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ? ». Rồi Đức Vua nổi giận, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho Vua » (Mt 18,32-34). Và Đức Giêsu đã kết luận : « Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình » (Mt 18, 35).
Lậy Đức Giêsu, Đấng từ bi, nhân hậu, con biết con sẽ chết, nhưng không biết bao giờ chết và chết cách nào. Vì nhiều tội, lắm lầm lỗi, đầy thiếu sót, ngập khuyết điểm, nên con sợ giờ chết, sợ Chúa thịnh nộ từ chối con, không cho con đứng về phiá bên phải của những người lành được chúc phúc vì họ đã sống một đời yêu thương, thực hành lòng thương xót.
Vì sợ nên con run rẩy sấp mình van xin Chúa thương xót, tha cho con món nợ Tình Yêu khổng lồ mà con biết sẽ không sao trả nổi. Và để được Chúa chạnh lòng thương, tha thứ, con hứa sẽ không « độc ác » như người đầy tớ không có lòng thương xót trong Tin Mừng mà chính Chúa đã kể, nhưng còn ngày nào được sống trên dương thế này, con sẽ cố gắng thực hiện từng bước Yêu Thương, Tha Thứ trên đường về đời sau.
Xin Chúa thương xót và nhớ đến chúng con trong Nước Chúa, nếu hành trang của chúng con ở giờ chết còn nhẹ tênh, chưa xứng đáng, Chúa nhé !
.
NGƯỜI CÔNG GIÁO CÓ KÍNH NHỚ TỔ TIÊN KHÔNG?
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Hồi còn nhỏ có mấy bạn hay hỏi tôi rằng: “Chúng mày theo Chúa, thờ mỗi Chúa, thế là khi Bố Mẹ Ông Bà người thân chết đi là quên họ luôn à ?”
Tôi cười và đáp: không đâu bạn, trong 10 điều răn Chúa dạy chúng tôi, có 1 điều đó là “Thảo Kính Cha Mẹ”. Còn với Đức Giêsu, Ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính Cha Mẹ; kẻ nào nguyền rủa Cha Mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).
Và hằng ngày trong các Thánh lễ chúng tôi vẫn cầu cho ông bà cha mẹ, và thân bằng quyến thuộc đã qua đời.
Người Công Giáo chúng tôi còn có dành riêng tháng 11 còn gọi là tháng các linh hồn, để kính nhớ đến ông bà tổ tiên cùng những người đã khuất, và đặc biệt còn dành ngày Mùng 2 tết âm lịch để nhớ về cội nguồn của mình.
Chúng tôi cũng có ngày lễ giỗ. Trong ngày giỗ thay vì mâm cao cỗ đầy mời người đã khuất ăn, rồi sau đó người sống mới ăn, theo quan niệm bên các bạn, chúng tôi quây quần bên bàn thờ được thắp nến chưng hoa quả, tỏ lòng tri ân và để đọc kinh dâng lời nguyện cầu cho linh hồn các ngài được đến nơi vĩnh hằng là Thiên Đàng. Quan niệm của chúng tôi là hãy đối xử tốt với những người thân bên cạnh bạn khi còn sống, còn khi đã khuất mâm cao cỗ đầy cũng để làm gì?
Điều các bạn tin và mong muốn là sống tốt và kiếp sau sẽ được luân hồi tiếp tục trở thành con người… Khác với các bạn niềm tin của chúng tôi, vì chúng tôi tin là không có cuộc trở lại kiếp sau mà con người sau khi chết là về với Chúa, nếu còn thiếu sót thì cần được thanh luyện trong lửa luyện ngục, còn nếu sống đẹp lòng Chúa thì họ vĩnh viễn hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nơi đó không còn khổ đau nữa.
Tháng 11 lại về như là lời nhắc nhở chúng ta về một thế giới không phải là âm hồn mà là thế giới thần linh. Một thế giới không còn oán hận, ganh ghét và cũng là một thế giới trả lại công bằng cho cuộc sống trần gian của con người. Kẻ làm điều ác sẽ bị trầm luân trong hoả ngục. Kẻ sống chưa hoàn thiện đủ, hay còn thiếu sót trong cuộc sống dương gian thì sẽ phải đền trả trong luyện tội và kẻ sống trong ơn nghĩa Chúa sẽ ở bên cung lòng Chúa mãi mãi.
Thế nên, tháng 11 phải hiểu là tháng báo hiếu, tháng lập công cho ông bà tổ tiên và thân nhân. Vì người chết thì hết lập công đền tội. Họ cần người sống làm việc thiện và cầu nguyện thay cho họ. Để nhờ công đức và nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, Thiên Chúa sẽ tha thứ và ban ơn cứu độ cho các ngài.
Thực ra trong thân phận con người ai mà không thiếu sót. Người thiếu sót công bình. Kẻ thiếu sót bổn phận. Người thiếu sót việc làm. Kẻ thiếu sót lời nói. Vì nhân vô thập toàn nên ai cũng cần những người còn sống hãy nhớ tới họ mà lập công đền bù cho họ.
Trong cuốn sách của Maria Simma, nói về “Các Linh hồn Luyện ngục” bà đã viết rằng: “Những linh hồn khốn khó nói rằng, nước mắt khóc thương không ích gì cho họ, chỉ có lời cầu nguyện mới giúp họ. Họ phàn nàn rằng, nhiều người đi dự đám tang mà không cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho họ, trong khi lại khóc lóc than van, điều này là vô ích!”
Điều mà các linh hồn cần chúng ta quan tâm chính là các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện cho họ, đặc biệt là thánh lễ misa để nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su sẽ ban cho họ hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Cha thánh Gioan Vianney đã kể về lợi ích của thánh lễ như sau:
“Các con ơi, có một linh mục tốt lành đã mất một người bạn mà ông rất quí mến, vì vậy ông đã cầu nguyện rất nhiều cho linh hồn người bạn ấy được nghỉ yên.
Một hôm, Chúa cho ông biết rằng, người bạn của ông đang ở trong luyện tội và phải chịu đau đớn khủng khiếp. Linh mục thánh thiện ấy tin rằng ông không thể làm gì tốt hơn là dâng lễ cầu cho người bạn thân của mình trong Luyện ngục.
Vào lúc truyền phép, ông cầm Mình Thánh giữa hai tay và thưa: “Lạy Chúa Cha Hằng hữu, con xin đánh đổi: Cha giữ linh hồn người bạn con đang ở trong Luyện ngục, con giữ Mình Thánh Con Cha trong tay con. Lạy Cha đầy lòng thương xót, xin giải thoát người bạn con, còn con xin dâng lên Cha Con của Cha với mọi công phúc của cái chết và cuộc khổ nạn của Người”.
Điều xin đã được chấp nhận, vào lúc dâng Mình Thánh lên, cha thấy linh hồn của bạn mình, sáng láng trong vinh quang, tiến về Thiên đàng.
“Các con ơi, khi chúng ta muốn giải cứu một linh hồn thân yêu của ta khỏi Luyện ngục, ta hãy làm như vậy, hãy dâng lên Thiên Chúa Thánh lễ Misa, Con Yêu Dấu của Ngài với tất cả các công nghiệp sự chết và khổ nạn của Người, Ngài sẽ không từ chối chúng ta bất cứ điều gì. ”
Mỗi người chúng ta đều có người thân đã ra đi về với Chúa. Hãy dành cho họ một chút hy sinh, một chút quà chia sẻ bác ái, và một thánh lễ cầu nguyện cho họ. Đây là cách chúng ta sống tâm tình tri ân những ông bà cha mẹ và những người đã sống chia sẻ cuộc sống với chúng ta. Hãy dành cho họ cũng là chúng ta dành cho Chúa. Vì chưng Chúa Giê-su từng nói: khi anh em cho người đói, người khát, người yếu đau là chúng ta đang làm cho chính Thầy, và Thầy sẽ ban phần thuởng Nước Trời cho ai giúp đỡ Thầy. Amen
.
Lm. Thái Nguyên
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…”. Không chỉ nhận ra cát bụi phận người mà Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn nói lên sự thoáng qua của kiếp người: “Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi…”.
Lý Bạch thi tiên Đời Đường cũng ngậm ngùi than thở trong bài thơ Tương tiến tửu: “Triêu như thanh ty mộ thành tuyết” (Buổi sớm tóc còn xanh, chiều về đầu đã bạc như tuyết).
Trang Tử cho thấy cuộc đời như “bóng câu qua cửa sổ”. Thoát từ ý này Nguyễn Gia Thiều cũng đã viết trong “Cung oán ngâm khúc”, diễn tả đời người qua mau như: “Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi”.
Tác giả Thánh vịnh cũng đã dùng từ ngữ đó: “Ấy con người khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (Tv 144,4).
Chúng ta được dạy để thành thật nhìn ra những mong manh và tạm bợ trong cuộc sống con người. Bài Vịnh nhân sinh của Nguyễn Công Trứ cũng thở than như vậy:
“Ôi, nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.
Quả thật, đời người quá ngắn ngủi. Có những em bé vừa sinh ra đã phút chốc lìa đời. Có những người tuổi đời còn rất trẻ nhưng lại vội vàng vĩnh viễn ra đi. Cả khi đến lúc tuổi già khi nhìn lại cũng thấy “thời gian thấm thoát tựa thoi đưa”.
Thời gian cứ vùn vụt trôi nhanh khi ta chưa kịp làm gì cả, dù có thành công hay thất bại cũng thế thôi:
Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng,
được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không.
Phúc cho ai sớm nhận ra:
Phú quý vinh hoa như mộng ảo,
Sắc tài danh lợi tựa phù du.
Có những người cứ mải mê lo cho sự nghiệp đời này, có khi phải mất gần cả cuộc đời mới chợt nhận ra:
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ.
Tác giả Thánh Vịnh đã nhắc nhở cho ta nhớ phận mình:
Mạng người dù giá cao mấy nữa,
thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời.
Nào phàm nhân sống mãi được sao
mà chẳng phải đến ngày tận số?
Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết,
kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong,
bỏ lại tài sản mình cho người khác.
Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ,
nhưng ba tấc đất mới thật là nhà,
nơi họ ở muôn đời muôn kiếp. (TV 49, 9-12)
Những điều trên đây gợi lên trong chúng ta nhiều suy tư và trăn trở. Tuy nhiên, tất cả những suy tưởng về thân phận con người chỉ được coi là nghiêm túc và sâu lắng khi đằng sau nó thấp thoáng tia sáng của niềm hy vọng. Điều đó làm nên thái độ sống sâu xa của người Kitô hữu.
Trước những đớn đau dằn vặt của con người, Thiên Chúa cho chúng ta một giải đáp. Giải đáp ấy nằm chính nơi cuộc đời của con người Giêsu. Ngài không đến để đưa ra một thiên khảo luận về con người, cũng không giải quyết tất cả những gay go và bi đát về thân phận con người. Ngài đến để sống thân phận con người với tất cả hệ lụy của nó. Ba mươi năm ở làng Nagiareth, Giêsu lặng lẽ sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu con người khác. Vì sao thế?
Phải chăng vì cuộc sống con người với những cái bình lặng thường ngày của nó luôn có một giá trị nhất định. Chỉ cặp mắt biết chiêm niệm và con tim biết yêu thương mới có thể nhận ra cuộc đời này ý nghĩa dường bao. Dù phận người là cát bụi, dù cuộc đời là thoáng chốc, nhưng sự hiện diện của mỗi người chúng ta hôm nay lại có một giá trị thật cao cả, nếu biết sống cuộc đời mình thật cao đẹp. Đó là chưa nói đến giá trị siêu việt mang tính vĩnh cửu, vì mạc khải Kitô giáo cho biết cách thế hiện diện của ta hôm nay định hình cho sự sống muôn đời.
Tuy nhiên, trước khi bàn về sự sống muôn đời, ta hãy nói với nhau về cuộc sống tạm thời, một cuộc sống tuy ngắn ngủi, mong manh nhưng lại rất đẹp, rất tuyệt vời cho ai biết sống với tất cả trái tim mình.
Trước hết ta cần sự yên tịnh, trầm lắng, để nhìn ngắm vũ trụ bao la, vạn vật xanh tươi, bát ngát, muôn mầu, muôn vẻ, muôn hương, muôn sắc, muôn hình, muôn tượng… Tất cả đều đẹp đẽ, tinh tế và hoàn hảo lạ lùng, từ cây xanh đến hoa trái thơm lành; từ dòng sông con suối đến đồi núi chập chùng; từ cánh đồng bao la đến đại dương mênh mông; từ bầu trời xanh thắm đến trăng sao rạng rời… Đó là một tuyệt tác thiên nhiên và gần như một tài nguyên vô tận mà Thiên Chúa đã tặng ban cho con người. Ngài đã làm ra tất cả để chúng ta thưởng thức và tận hưởng. Đứng trước kỳ công tuyệt mỹ của Thiên Chúa đã làm nên, tác giả Thánh Vịnh đã hân hoan reo vang:
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân…” (Tv 8, 4-7).
Quả thật, nếu có một trái tim biết rung động sâu xa, chắc chắn chúng ta phải choáng ngộp và cảm mến vô vàn trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người. Điều này khẩn thiết mời gọi chúng ta đáp trả lại tình yêu Chúa bằng tất cả tâm trí và khả năng của mình, để tiếp tục sáng tạo từ những gì Thiên Chúa đã sáng tạo cho chúng ta. Những gì Thiên Chúa đã làm nên là nhằm đưa đến niềm vui và hạnh phúc cho con người, nên điều Thiên Chúa muốn là những gì chúng ta làm nên cũng phải đưa tới niềm vui và hạnh phúc cho nhau.
Cũng như thiên nhiên đã hình thành và phát triển theo qui luật của tạo hóa, nên nó đã trở nên một tài nguyên vĩ đại để đem lại sự sống cho con người. Thì con người cũng thế, được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, nên có đầy đủ khả năng và tự do sáng tạo để đem lại những gì tươi mới hơn cho thế giới hôm nay. Hãy nhìn ngắm thiên nhiên để có những ước mơ, kế hoạch và những thực hiện cụ thể cho đời. Trong viễn ảnh đó, nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn đã diễn đạt thật tuyệt vời qua ca khúc “Khát Vọng” như sau:
Hãy sống như đời sống, để biết yêu nguồn cội.
Hãy sống như đồi núi, vươn tới những tầm cao.
Hãy sống như biển trào, để thấy bờ bến rộng.
Hãy sống và ước vọng, để thấy đời mênh mông.
Và sao không là gió, là mây, để thấy trời bao la.
Và sao không là phù sa, dâng mỡ màu cho hoa.
Sao không là bài ca, của tình yêu đôi lứa.
Sao không là mặt trời, gieo hạt nắng vô tư.
Và sao không là bão, là giông, là ánh lửa đêm đông.
Và sao không là hạt giống, xanh đất mẹ bao dung.
Sao không là đàn chim, gọi bình minh thức giấc.
Sao không là mặt trời, gieo hạt nắng vô tư.
Nội dung bài hát khích lệ con người một mô hình sống dấn thân. Trong đó, tinh thần tích cực sáng tạo, rộng lượng, bao dung, xả kỷ, vị tha, được xem là những chất liệu để tô đẹp cuộc sống này. “Khát vọng” phản ánh ước nguyện thiện hảo của con người, không muốn sống nhỏ nhoi tầm thường, hoặc sống không mục đích, không lý tưởng. Biết rằng, giữa ước mơ và thực tế luôn là một khoảng cách, nhưng khoảng cách sẽ được nối kết dần dần: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”. (ĐHV 978).
Mỗi người chỉ cần thể hiện một trong những vai trò mà bài ca “khát vọng” gợi lên, thì chắc chắn cuộc đời đẹp biết bao. Đó là sống như đồi núi, sống như biển rộng, sống như gió mây, sống như đàn chim ríu rít gọi bình minh, sống như hạt giống tươi tốt, sống như phù sa dâng màu mỡ cho hoa, sống như mặt trời gieo hạt nắng vô tư…
Đã có biết bao con người đã sống và đang như thế cho cuộc đời này, để chúng ta có được cuộc sống hôm nay. Đến phiên chúng ta cũng cũng nối tiếp như thế, âu cũng là sự công bằng. Chỉ những gì cho đi mới không mất đi, và làm nên ý nghĩa của đời mình. Dù mai đây mình không còn nữa, nhưng những gì góp phần cho sự thiện hảo của con người vẫn còn tồn tại mãi, vì là những giá trị vượt không gian và thời gian.
Như vậy, cho dù là cát bụi phận người, nay còn mai mất, nhưng điều quan trọng không phải là lo chết mà là lo sống, và sống hết mình, dù chỉ còn một ngày để sống. Cuộc đời có biết đến ta hay không, không cần thiết. Điều cần thiết là ta hãy tích cực hành động và dấn thân vô vị lợi, nhằm đem lại cho cuộc sống một cái gì tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn. Đó không còn là “khát vọng” mà là chính sự hiện thực, làm nên sự tươi mới cho cuộc đời hôm nay.
Chính Chúa đang trợ lực cho những nỗ lực của chúng ta trong từng ngày sống, nên chúng ta hãy sống như mình phải sống, như Chúa muốn cho mình sống. Chính Ngài đang mong chờ cây đời chúng ta trổ sinh hoa trái nhiều hơn, đang mong đợi thành quả của chúng ta là đem lại bình an và phúc lợi cho đời, để chính từ đó mà Thiên Chúa biến chúng thành hạnh phúc đời đời cho những ai tin tưởng và hy vọng vào Người.
Xét trên mặt hiện tượng, xem ra con người là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, nhưng cùng đích của con người không phải là cát bụi, vì con người được dựng nên cho Thiên Chúa, Đấng hằng sống. Trong quyền năng Thiên Chúa, con người sẽ được giải thoát, không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, trở nên một tạo vật hoàn toàn mới, có khả năng hưởng kiến Thiên Chúa, và được chung hưởng vinh quang với Người trong sự sống muôn đời. (x. Rm 5, 2; 8, 30)
Cuộc đời như vậy đẹp biết bao, ý nghĩa biết mấy, vì nó không chỉ là sự thành tựu từ những ước mơ và khát vọng của ta, mà còn chính là mơ ước và kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời ta. Trong ý nghĩa cao cả đó, chúng ta biến cuộc đời mình thành bài ca chúc tụng và cảm tạ Chúa đến muôn đời.
.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
“Mẹ ơi, con thương bố mẹ nhiều; Con chết vì không thở được; Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi; Con đường đi nước ngoài không thành”
Đó là những dòng tin nhắn cuối cùng của một cô gái trẻ tên Trà My gửi cho gia đình trong lúc tuyệt vọng. Cô là một trong 39 nạn nhân di cư nhập cảnh vào Anh đã bị chết cóng trong một thùng xe container, được cảnh sát Anh phát hiện vào tuần qua. Cho đến nay, cảnh sát Anh cho biết hầu hết các nạn nhân đều là người Việt Nam. Cả thế giới bàng hoàng trước thông tin này, các tờ báo lớn trên thế giới đều đưa tin động trời này. Tại Anh Quốc và nhiều nơi, nhiều người đã thắp nến cầu nguyện cho 39 nạn nhân xấu số, mặc dù họ không biết các nạn nhân là ai. Tòa Đại Sứ Anh cũng ra thông cáo và gửi lời chia buồn đến gia đình các nạn nhân. Riêng chính phủ và báo chí Việt Nam hầu như không mấy quan tâm. Ở đây không bàn về sự kiện đúng, sai hoặc lý do nào khiến cho 39 người này đã phải đánh đổi cả cuộc đời để đi tìm một chân trời mới, nhưng muốn nói đến tâm trạng của cô gái trẻ đã để lại qua những dòng tin nhắn cuối cùng.
Các tờ báo nước ngoài có đăng đoạn tin nhắn này, nhưng có lẽ nhiều người nước ngoài sẽ không thể hiểu tại sao lúc cận kề với cái chết, cô gái này lại nói lời: “Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi. Con đường đi nước ngoài không thành.” Người Việt khi đọc đoạn tin nhắn này sẽ hiểu ngay đó là lời xin lỗi của một người con đối với cha mẹ vì chữ hiếu chưa trọn, đạo làm con chưa thành, chưa kịp làm gì để báo ân mà nay lại còn để lại nỗi đau cho cha mẹ.
Đạo Hiếu của người Việt Nam và giới răn Thứ Bốn của Thiên Chúa nhắc nhở và đòi buộc con cái phải biết kính trọng yêu mến mẹ cha. Sự hiếu thảo được thể hiện bằng sự ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Cãi lại cha mẹ hoặc không vâng lời bị coi là bất hiếu. Sự hiếu thảo con được thể hiện qua việc giúp đỡ cha mẹ khi tuổi già, làm mọi việc để cha mẹ già vui lòng. Khi cha mẹ đau yếu bệnh tật, phận làm con phải hết lòng chăm sóc chạy chữa. Khi các Ngài qua đời phải lo tang lễ, chôn cất, xây mồ và cúng giỗ hàng năm. Nhắc lại một vài điểm trong đạo hiếu của người Việt chúng ta sẽ hiểu tại sao trong giờ phút cận kề với cái chết, cô gái trẻ Trà My kia đã mấy lần lặp lại lời xin lỗi cha mẹ. Cô xin lỗi vì với lứa tuổi đôi mươi chưa kịp làm gì để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Cô đánh đổi mạng sống của mình với hy vọng khi đến được vùng đất mới, cô có điều kiện làm việc, kiếm tiền giúp đỡ trả ơn cho cha mẹ. Cô mơ ước một ngày nào đó cha mẹ và gia đình cô sẽ bớt khổ. Vậy mà ý trời không muốn, cô chỉ kịp đặt chân đến xứ sơ mơ ước trong một chiếc xe cùng với 38 người khác trong tình trạng đã chết dưới cái lạnh âm 37 độ của chiếc xe đông lạnh. Cô hối tiếc và xin lỗi vì giấc mơ đi nước ngoài không thành, vì chưa kịp làm gì cho cha mẹ bớt khổ, mà nay còn để lại cho cha mẹ thêm món nợ và thêm nỗi sầu.
Cử hành lễ cầu cho tổ tiên ông bà và cho các linh hồn hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy niệm về mầu nhiệm của sự chết, đồng thời nhắc cho chúng ta bổn phận chu toàn Đạo Hiếu và những đòi buộc của giới răn thứ bốn: “Thảo kính cha mẹ.” Chúng ta phải sống thế nào để khi phải rời xa nhau ta không phải sợ hãi và không hối tiếc vì chưa sống trọn đạo với những người đã khuất.
Đối với niềm tin Kitô Giáo, cái chết không còn là điều kinh sợ nữa, vì cái chết của mỗi người đã được Đức Kitô biến đổi nhờ cái chết trên thập giá của Ngài và biến cái chết của mỗi người thành niềm hy vọng lớn lao. Thuở ban đầu, cái chết chỉ là một qui luật của tự nhiên, có sinh ắt có tử, có bắt đầu sẽ có kết thúc. Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, cái chết đã mang một ý nghĩa kinh khủng hơn, nó trở thành một án phạt cho sự chối từ Thiên Chúa. Đức Giêsu là một vị Thiên Chúa, đã chấp nhận vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha, đến trần gian và sống trọn vẹn đạo hiếu với Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn tìm mọi cách để làm vui lòng Cha, vâng theo sự hướng dẫn và ý muốn của Cha, cuối cùng, Ngài chấp nhận hy sinh cả mạng sống vì vâng phục Chúa Cha và vì muốn đem lại sự sống mới cho các anh em của Ngài là nhân loại. Thiên Chúa Cha đã đón nhận sự hy sinh vâng phục của Chúa Giêsu và đã dùng quyền năng Thiên Chúa để làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Thiên Chúa đã tha thứ tất cả tội lỗi cho nhân loại cùng ban cho nhân loại sự sống mới của Chúa Giêsu. Từ đây, nhờ cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của nhân loại không còn là điều ghê sợ nữa, mà đã trở thành một ngưỡng cửa mà mọi người phải bước qua để được vào chung hưởng sự sống với Chúa Kitô.
Tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ và sống theo giáo lý Tin Mừng của Ngài, thì sẽ được sống và không phải chết đời đời nữa. Đây chính là điều kiện tiên quyết cho tất cả những ai muốn được chung hưởng hạnh phúc và được sống đời đời với Chúa: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người con và tin vào Người con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện hai người trộm cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Một tên không tin Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, anh ta còn nặng lời mỉa mai, thách thức Đấng đang cùng chịu đóng đinh bên cạnh mình: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.” Trái lại, tên bên kia đã tin rằng, người đang bị đóng đinh bên cạnh mình là một Đấng quyền năng. Mặc dù đức tin của anh còn rất mỏng manh, nhưng anh đã bênh vực Chúa và trách tên trộm đồng nghiệp kia, anh thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” Chúa Giêsu đã cho anh điều vượt sức mong đợi của anh khi Ngài trả lời: “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Trong câu chuyện Chúa cho Lazarô chết bốn ngày được sống lại, Ngài cũng đã giúp cho cô Matta tin vào Ngài và tuyên xưng: “Thưa Thầy! Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Phép lạ đã xảy ra, Lazarô được gọi từ trong mồ bước ra.
Như vậy, khi đặt niềm tin chắc chắn vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, chúng ta sẽ được sống, được sống lại sau cái chết và được chia sẻ vào sự sống của Chúa. Cử hành lễ cầu cho các linh hồn tổ tiên ông bà, chúng ta một lần nữa cùng nhau tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa và tuyên xưng niềm tin, niềm hy vọng của chúng ta: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại; Tôi tin cuộc sống đời đời mai sau.”
Cử hành ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta đặc biệt nhớ đến ông bà tổ tiên, cha mẹ và những người thân đã ra đi trước chúng ta. Các Ngài đã trải qua sự chết và ta tin rằng có những người đã hoàn tất giai đoạn thanh luyện, đang được chung hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên chúa. Có nhiều người khác vì còn thiếu sót cách nào đó trước mặt Chúa, còn đang phải trải qua thanh luyện đền bù, chúng ta dâng những thánh lễ, lời kinh và những việc lành hy sinh để cầu nguyện cho các Ngài. Xin Chúa cho các Ngài mau được về hưởng tôn nhan Thiên Chúa.
Đứng bên nấm mồ của những người thân, có nhiều người trong chúng ta đang bị lương tâm dày vò vì mình đã chưa chu toàn bổn phận Đạo Hiếu đối với các ngài khi các ngài còn sống. Có những người con đã không làm cho cha mẹ vui lòng, ngỗ nghịch quậy phá. Có những người con đã khiến cha mẹ mất ăn mất ngủ vì phải lo lắng cho mình. Nhiều người khác đã thiếu kính trọng, không vâng lời, nhất là đã thiếu sót hoặc đã cố tình cư xử tệ bạc, bất hiếu với cha mẹ và người thân khi các Ngài còn sống. Đứng bên cạnh mộ của vợ, của chồng, nhiều người hối hận vì đã tỏ ra coi thường, không chu toàn bổn phận, không tôn trọng, yêu thương đối với vợ, với chồng khi họ còn sống dưới một mái nhà. Còn nhiều người khác đang bị dằn vặt, hối tiếc vì chưa bao giờ nói được một lời yêu thương, chưa kịp làm gì cho người thân khi họ còn sống.
Cử hành thánh lễ cầu cho các linh hồn, nhắc cho tất cả chúng ta ngay từ bây giờ cần phải sống trọn đạo đối với Thiên Chúa, sống trọn đạo với cha mẹ ông bà và sống trọn tình nghĩa vợ, chồng, anh chị em. Một điều chắc chắn là chúng ta không thể sống mãi trên trần gian này. Vì thế, cần biết tận dụng mọi cơ hội để chu toàn đạo làm con đối với Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ không ở bên nhau mãi mãi, sẽ đến ngày cha mẹ, người thân, hoặc chính chúng ta sẽ phải ra đi, bỏ lại tất cả mọi mối liên hệ. Vì thế, hãy sống với nhau cho trọn đạo, trọn tình; sống với nhau cho hết mình, trọn nghĩa để khi cha mẹ, vợ chồng, người thân hay chính mình phải ra đi, chúng ta sẽ không hối tiếc vì chưa làm được gì cho người thân.
Dù có muộn màng cũng mạnh dạn nói với cha mẹ như cô gái Trà My: “Mẹ ơi, con thương bố mẹ nhiều; Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi; Con đường làm người và làm con của con đã chưa trọn”
.
Trầm Thiên Thu
Mừng Chư Thánh Hiển Vinh Nơi Thiên Quốc
Xót Các Hồn Thanh Luyện Chốn Ngục Hình
Theo lẽ thường thì “xa mặt, cách lòng.” Hầu như các mối quan hệ đều có “điểm chung” như vậy. Chẳng hạn, họ hàng cùng cấp độ, nhưng với người ở gần thì mức độ tình cảm khác với người ở xa. Tuy nhiên, về phương diện tâm linh không như vậy, đặc biệt là tâm linh Kitô giáo.
Thật vậy, Tháng Mười Một xác định cái “lý lẽ” đó: Các thánh và những người đã qua đời là những người ở rất xa, thế mà họ vẫn rất gần chúng ta – thậm chí còn gần hơn khi họ còn sống trên thế gian này.
Họ ở hai nơi khác nhau như họ đều là các thánh nhân, chỉ khác tình trạng một chút: ĐÃ sạch và CHƯA sạch, ĐÃ là thánh và chắc chắn SẼ là thánh. Cầu nguyện với các thánh là điều rõ ràng rồi, nhưng chúng ta vẫn có thể cầu xin các linh hồn giúp đỡ chúng ta, mặc dù họ không thể tự giúp chính họ được nữa. Cầu nguyện với các linh hồn hiệu quả lắm – nhất là trong Mùa Cầu Hồn này.
- THANH SẠCH
Các thánh trên Thiên Đàng là những người đã thanh sạch. Chắc chắn như vậy, bởi vì không thanh sạch thì không thể chiêm ngưỡng Thiên Chúa và không được đến gần Ngài.
Tv 24:3-6 cho biết: “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ TAY SẠCH LÒNG THANH, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối. Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.” Người sống thanh sạch là người được công chính hóa, và còn thêm ích lợi khác: “Kẻ tay sạch lòng thanh sẽ được thêm sức mạnh.” (G 17:9b)
Nói đến lòng thanh sạch, chúng ta có thể nhớ ngay tới người trưởng thu thuế là ông Da-kêu mà trình thuật Lc 19:1-10 đề cập. Ông là một người lạ lùng lắm. Tên Da-kêu là Zacchaeus, Hy ngữ là Ζακχαῖος hoặc Zakchaios, có nghĩa là TRONG SẠCH và CÔNG CHÍNH. Cái tên rất đặc biệt, rất ý nghĩa. Nhưng không chỉ là cái tên suông, mà chính ông đã thực hiện ngay lập tức. Ông nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Câu nói của ông cho thấy rằng ông làm một lúc hai việc: Bác Ái và Đền Tội. Ông bác ái bằng cách dùng phân nửa tài sản để giúp người nghèo, và đền tội bằng cách đền gấp bốn những gì ông đã tham lam bằng cách nào đó.
Các thánh cũng đã một thời là phàm nhân, nghĩa là cũng có thể phạm tội, nhưng các ngài đã mau mắn sám hối và đền tội. Ngày xưa người ta có cách “đánh tội” khá phổ biến, tức là lấy dây và tự đánh mình, có khi rỉ máu ra, đã có nhiều vị thánh áp dụng “biện pháp” này. Chịu đau khổ là cách đền tội ở đời này và hiệu quả, chịu đau khổ như vậy để mong không phải vào Luyện Hình – tức là “lên thẳng” và vào Thiên Đàng ngay.
Là phàm nhân đồng nghĩa với là tội nhân. Là tội nhân nghĩa là “dơ bẩn” lắm. Nếu dơ bẩn thì phải giặt cho sạch, tốt nhất là “giặt” bằng Bửu Huyết của Đức Giêsu Kitô. Các thánh là những người “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.” (Kh 7:14) Và đó là điều diễm phúc: “Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành!” (Kh 22:14)
Đền tội là điều tự nguyện, nhưng vẫn phải nhờ ơn Chúa giúp sức: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.” (Tv 51:12) Đền tội là hoàn thiện theo ý Chúa, không cần bề ngoài, mà cần tự đáy lòng: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.” (Tv 51:19) Thế là hết bẩn, thế là được sạch, được sạch thì thoát “ngưỡng” Luyện Hình. Thật tuyệt vời biết bao!
- THANH LUYỆN
Các linh hồn nơi Luyện Hình là những người chưa thanh sạch, vì thế mà cần thanh luyện một thời gian để có thể xứng đáng bước vào Thiên Đàng. Luyện Hình như “phòng chờ” đến lượt nhận phần thưởng đời đời. Ở “phòng chờ” lâu hay mau tùy mức độ “dơ bẩn” nhiều hay ít. Vào Luyện Hình là chắc chắn được vào Thiên Đàng.
Luyện Hình còn gọi là Luyện Ngục – nơi thanh tẩy linh hồn trở nên sạch sẽ, thanh luyện tới mức tinh tuyền. Chính cái tên gọi cho thấy đó là nơi đau khổ. Nên nhớ rằng hình phạt ở Luyện Hình cũng đau khổ như ở Hỏa Ngục, không hề “nhẹ nhàng” hơn. Có điều khác nhau là đau khổ ở Luyện Hình có giới hạn, linh hồn chịu thanh luyện đủ mức thì được lên Thiên Đàng; còn đau khổ ở Hỏa Ngục vô hạn, “mất trắng” đời đời, phải “khóc lóc và nghiến răng” vĩnh viễn. Lửa ở hai nơi đó không như lửa ở thế gian; so với lửa ở hai nơi đó thì lửa ở thế gian chỉ như “gió nhẹ hiu hiu” mà thôi. Thật đáng sợ! Thế nên Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy biết RUN SỢ mà GẮNG SỨC lo sao cho mình được cứu độ.” (Pl 2:12)
Gọi là hình phạt nhưng không phải là Thiên Chúa không nhân từ, mà đó là hồng ân thương xót của Ngài. Chính hình phạt đó là sự công bằng của Thiên Chúa, bởi vì tại chúng ta chiều chuộng mình, thích dễ dãi, khoái ung dung, sợ khó, sợ khổ, không chịu “tu thân” ở đời này, thế nên phải chịu thanh luyện ở Luyện Hình. Phải vào Luyện Hình cũng là diễm phúc rồi. Không phải vào đó thì quá tuyệt vời rồi. nhưng làm sao có thể “lên thẳng” chứ? Cố gắng thanh luyện mình ở đời này, tức là sống đền tội ở thế gian. Nhưng “phương pháp” tự thanh luyện ở đời này là gì? Thánh Phêrô cho biết: “Nhờ VÂNG PHỤC sự thật, anh em đã THANH LUYỆN tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành.” (1 Pr 1:22a)
Chấp nhận sự hèn yếu của mình cũng là cách tự thanh luyện – đền tội liên lỉ, đền tội bền bỉ, đền tội không nghỉ. Thánh Phaolô nói: “Trong một ngôi nhà lớn, không phải chỉ có những đồ vật bằng vàng bằng bạc, nhưng cũng có những đồ vật bằng gỗ bằng sành; thứ thì dùng vào việc cao quý, thứ thì dùng vào việc thấp hèn. Vậy ai THANH TẨY mình cho sạch những điều xấu nói trên, người đó sẽ là một đồ vật dùng vào việc cao quý, một đồ vật được thánh hiến, có ích cho chủ, sẵn sàng làm mọi việc lành.” (2 Tm 2:20-21)
Không phải vào Luyện Hình có thể là phúc hoặc khốn. Có thể “vào thẳng” nơi nào đó: Không phải vào Luyện Hình là PHÚC nếu vào thẳng Thiên Đàng, không phải vào Luyện Hình là KHỐN nếu vào thẳng Hỏa Ngục. Những kẻ khốn là ai? Thánh Phaolô nói: “Anh em phải biết rõ điều này: KHÔNG một kẻ gian dâm, ô uế hay tham lam nào – mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng – được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Kitô và của Thiên Chúa. Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ KHÔNG VÂNG PHỤC.” (Ep 5:5-6)
Thánh Antôn Padua, tiến sĩ Phúc Âm, có lời khuyên cấp bách: “Ngay hôm nay, anh em hãy làm một việc tốt cho người mà anh em không ưa.” Đó là thiện cử rất phù hợp với khuyến cáo của Chúa Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, và làm ơn cho kẻ ghét anh em.” (Mt 5:44; Lc 6:27) Đó không chỉ là sống yêu thương, thi hành luật bác ái, mà còn là cách tự thanh luyện ở đời này để hy vọng không phải vào Luyện Hình – dù chỉ một thoáng.
Chúa Giêsu yêu thương mọi người, muốn ai cũng được ở với Ngài đời đời kiếp kiếp. Thật vậy, chính Ngài đã cầu xin với Thánh Phụ: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17:24)
Tháng Mười Một – Tháng Cầu Hồn, và các ngày Thứ Hai trong tuần, là cơ hội tốt để chúng ta nhớ đến những người đã khuất bóng trần gian. Cầu nguyện cho họ cũng là cầu nguyện cho chính mình. Khi hiện ra tại Fátima năm 1917, Đức Mẹ dạy cầu nguyện cho các linh hồn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hoả ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.” (Lời Nguyện Mân Côi sau mỗi chục Kinh Kính Mừng) Không có linh hồn nào mồ côi đâu!
Lạy Thiên Chúa công bình như giàu lòng thương xót, con đã phạm bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết. (G 13:23) Xin thêm các nhân đức đối thần và đối nhân để con có thể tôn vinh Ngài trong cuộc sống đời thường, mặc dù con hèn hạ với thân tro kiếp bụi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.