SUY NIỆM Lời Chúa Các Bài suy niệm Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh

Các Bài suy niệm Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh

DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH

Lời Chúa: Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40

——

Mục lục

1. Bảo vệ ánh sáng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

2. Dâng con cho Chúa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Hiến dâng  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

4. Tròn lề luật  (Lm. Vũ Đình Tường)

5. Tuân hành ý Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Niềm hy vọng Đấng Cứu Độ đã được thực hiện (Lm.Đaminh Trần Đình Nhi)

7. Ánh sáng và vinh quang (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

8. Người nữ trung gian (Lm. Đaminh Nguyễn P. Long, CSsR)

9. Dâng Chúa trong Đền Thờ (Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến)

10. Chúa Giêsu là Ánh Sáng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

11. Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ  (Lm. Linh Tiến Khải)

12. Lễ Nến  (Lm. Nguyễn Ngọc Long)

13. Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ  (Lm. Micae Trần Minh Huy)

14. Mẫu gương của bậc cha mẹ (Lm. Gioan Trần Khả)

15. Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

16. Của Thánh  (Trầm Thiên Thu)

 

.

BẢO VỆ ÁNH SÁNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.

Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.

Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.

Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.

Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.

Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.

Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.

Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.

Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.

Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.

Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.

Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.

Về mục lục

.

DÂNG CON CHO CHÚA

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Theo luật Mô-sê thì : “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”. Người Do Thái tin rằng mọi sự của họ là do Thiên Chúa ban. Con cái cũng là ân lộc của Chúa. Trong biến cố Thiên Chúa cứu con trai đầu lòng khỏi tai ương bên Ai Cập thì người Do Thái càng xác tín hơn về sự lệ thuộc vào Đấng tạo thành, nên họ đã xem việc dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa như là một nghĩa vụ phải chu toàn.

Tin Mừng hôm nay nói đến việc Mẹ Maria và Thánh Giuse tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.Qua đây Ngài hoàn tất lề luật và dấn thân cả cuộc  sống để phụng sự Thiên Chúa. Khi lớn lên, Chúa Giê-su cũng sống trọn vẹn cho sự tiến dâng này suốt đời. Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn. Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói: “Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa.” (Dt 10, 9). Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ, mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49). Khi chịu phép rửa ở sông Giođan, Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha, được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).

Dầu trong suốt dọc dài cuộc sống của Chúa Giê-su luôn gặp biết bao cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ. Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình, và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi. Nhưng Chúa Giê-su đã từ khước mọi cám dỗ tách mình ra khỏi Thiên Chúa Cha để mãi mãi thuộc về Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài đến trần gian.

Hôm nay chúng ta quy tụ nhau nơi đây để cử hành nghi thức dâng con vào đền thờ. Hành vi dâng con vào đền thờ là hành vi thờ phượng để tạ ơn về hồng ân Chúa ban là con cái được sinh ra. Đồng thời cũng nhắc nhở cha mẹ về bổn phận giáo dục đức tin cho con cái, để con cái mãi mãi thuộc về Chúa và sống trong ánh sáng tin mừng của Chúa.

 Nhưng sống trong một hoàn cảnh xã hội đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những gương xấu và hình ảnh xấu khiến việc giáo dục các con theo ánh sáng tin mừng thật khó khăn. Nhìn vào số trẻ em phạm pháp ngày một gia tăng khiến ai cũng cảm thấy bất lực trước sự dữ bủa vây.

Trong ánh sáng mạc khải của kytô giáo, cho chúng ta thấy rằng: con cái là quà tặng của Thiên Chúa, chính Chúa đã ban cho các gia đình những người con như một quà tặng sự sống vô giá mà Chúa dành cho các gia đình. Giờ đây chúng ta dâng cho Chúa những hài nhi mà chúng ta đang bồng ẵm trên tay, nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria, xin Chúa chúc lành cho tuổi thơ các em được lớn lên trong tình thương của Chúa, của cha, của mẹ và mọi người. Xin Chúa gìn giữ các em khỏi mọi sự dữ, xin đừng để các em lây nhiễm bởi những thói hư tật xấu luôn rình rập xâm chiếm tâm hồn các em.

Đồng thời hôm nay cũng là ngày lễ nến, xin cho cuộc đời các em luôn được ánh sáng chân lý soi lối bước đường các em. Và xin cho các bậc làm cha mẹ luôn là ánh sáng dẫn dắt cho con cái, cho dù có bị tiêu hao như những ánh nến chấp nhận bị tiêu hao khi đem ánh sáng cho đời, nhưng niềm vui cha mẹ là được thấy con cái hiền ngoan, thành tài. Amen

Về mục lục

.

HIẾN DÂNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ngày lễ Dâng Chúa Vào Đền Thờ còn được gọi là Lễ Nến. Nghi thức phụng vụ trong Giáo Hội làm phép những cây nến và rước nến. Ánh sáng lan tỏa trong Đền Thờ. Từ cuối thế kỷ thứ 4, Giáo Hội ở Gieerrusalem đã mừng kính Lễ này. Hướng về việc Dâng Chúa Gieessu vào Đền Thờ và thánh tẩy Đức Trinh Nữ Maria theo Luật. Trong Thông Điệp về lòng tôn sung Đức Maria, Đức Giáo Hoàng Phaoloo VI đã trình bày: Ngày 2 tháng 2, được đổi tên thành Lễ Dâng Chúa trong Đền Thánh.

Theo Phúc Âm, Đức Maria, sau 40 ngày sinh hạ Chúa Giêsu, cùng thánh Giuse đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ ở Giêrusalem và Đức Maria được thánh tẩy sau khi sinh. Thánh Luca đã ghi lại gia đình Thánh Gia đã thực hiện những Lề Luật được ghi chép trong Cựu Ước. Theo Luật Môisen, phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày, họ đến Đền Thờ để dâng con đầu lòng và để được thanh tẩy. Họ mang theo một con chiên nếu nhà khá giả, hay hai con chim gáy hoặc một cặp bồ câu non là của lễ dâng. Thực hiện Luật đã ghi chép để tưởng nhớ dịp Vượt Qua của dâng Do-thái khi rời đất Ai-cập. Các con đầu lòng của con người hay loài vật, được dâng lên cho Thiên Chúa. Trung thành với luật định, thánh Giuse và Đức Maria khi đủ 40 ngày, đã đem Hài Nhi Giêsu lên Giêrusalem tiến dâng cho Thiên Chúa.

Nơi Đền Thánh, ông già Simeon, một người công chính và đạo đức đã đón nhận Hài Nhi trong vòng tay. Ở đó cũng có bà ngôn sứ Anna cư ngụ trong đền thờ ra đón Chúa. Với sự soi sáng của của Thần Khí, đã ngợi khen Chúa: “Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: Vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.

Lạy Chúa, xin cho ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên khắp thế gian và trong lòng mọi người. Ơn Cứu Độ giải thoát chúng con khỏi những mê lầm và đưa dẫn chúng con vào con đường chính trực. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.

Về mục lục

.

TRÒN LỀ LUẬT

Lm Vũđình Tường

Đức trinh nữ Maria và thánh Giuse dâng Đức Kitô vào Đền Thánh để làm tròn lề luật. Luật lệ thời đó sau khi sanh con, người con không cần thanh tẩy, nhưng người mẹ cần qua nghi thức thanh tẩy. Dù không cần thanh tẩy người con được dẫn đến Đền Thờ dâng hiến cho Thiên Chúa. Gia đình thánh gia giữ trọn lề luật, và đặc biệt tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Hai ông bà sẵn sàng dâng hiến những gì cao trọng, quí nhất cho Thiên Chúa. Việc dâng tiến Đức Kitô vào Đền Thánh nói lên tâm tình thầm kín đó. Hai ông bà không tiếc Thiên Chúa bất cứ điều gì. Bởi hai ông bà quan niệm những gì họ đang có chính là do Thiên Chúa trao ban. Trao lại Thiên Chúa những gì Ngài ban là đặt hết lòng tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Hai ông bà dâng hiến Đức Kitô cho Thiên Chúa. Chính Đức Kitô ở tuổi trưởng thành cũng tự dâng hiến, không phải một phần cuộc sống, mà dâng trọn cả tâm hồn, trọn cuộc sống, lẫn í nguyện riêng cho Thiên Chúa, Điều này thể hiện qua câu nói của chính Ngài.

Ta đến không phải làm theo í Ta, mà làm theo í Đấng đã sai Ta Gioan 5,30.

Đức Kitô không những vâng lời Thiên Chúa cách trọn vẹn những điều Ngài ưa thích, mà còn vâng lời Thiên Chúa, hiến trọn tâm hồn hoàn thành tốt đẹp ngay cả việc Ngài cảm thấy lo lắng, sợ sệt. Con đường khổ nạn, vác thập giá, bị đóng đanh trên thập tự chứng tỏ Đức Kitô vâng lời cách tuyệt đối, rõ ràng không thể chối cãi được. Đức Kitô, Đấng vô tội, luật tình yêu của Ngài cao cả hơn tất cả các luật trần thế. Ngài không cần phải giữ các luật trần thế, nhưng Ngài giữ trọn các luật trần thế để nêu gương sáng cho nhân loại. Ngài giữ trọn lề luật và Ngài cũng cho nhân loại biết luật trần thế không có khả năng ban ơn cứu độ trường sinh. Luật xã hội nào giúp bảo vệ mạng sống, đề cao sự sống, cổ võ sự sống là luật tốt, cần đề cao. Luật xã hội nào bảo vệ tiếng nói kẻ cô đơn, người nghèo khổ, mang lại công lí cho toàn dân, và giúp cuộc sống hài hoà là luật tốt, cần cổ võ. Ngoài luật tình yêu Chúa ban, mang lại sự sống ra; luật trần gian không có khả năng mang lại sự sống trường sinh. Đức Kitô chứng tỏ Ngài yêu nhân loại qua việc tự nguyện chịu chết trên thập tự để cứu độ chúng ta. Cái chết của Ngài trên thập tự còn diễn tả tình yêu Ngài vô bờ bến Ngài dành cho Chúa Cha (Luca 2,51). Cái chết của Ngài còn làm tròn điều Thiên Chúa hứa xưa là sẽ ban ơn cứu độ cho nhân loại.

Gia đình Thánh Gia trong ngày dâng hiến Đức Kitô vào Đền Thánh, theo luật định, dâng cặp bồ câu non. Điều này nói lên đời sống đơn sơ, nghèo nàn của gia đình. Họ nghèo vật chất nhưng rất giầu tình yêu Chúa. Đức Maria giữ những lời Thiên Thần nói về con mình để suy nghĩ trong lòng; thánh Giuse luôn trung tín điều Thiên Thần hướng dẫn để coi sóc, bảo vệ gia đình; Đức Kitô sống không cho chính mình mà sống cho Chúa Cha.

Tiên tri Anna và tiên tri Simeon đến Đền Thờ theo hướng dẫn của Thánh Thần. Cả hai gặp Đức Kitô và đều nói về Ngài. Họ được Thánh Thần hướng dẫn đến Đền Thờ, thì những gì họ nói về Đấng Cứu Thế, không phải do í riêng, mà chính là do hướng dẫn của Thánh Thần, hướng dẫn chỉ bảo điều họ nói về Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống, hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng, và như vậy những í nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà cc34-35.

Hai ông bà không hiểu rõ những lời tiên tri đó. Nhiều người Do Thái bị lưu đầy nghe biết Đức Kitô và đã tin theo để nhận ơn cứu độ, số khác không tin và chống lại bởi họ tin họ tự cứu được mình. Đức Kitô ban ánh sáng cho trần gian; nhưng trần gian chọn bước đi trong bóng tối, từ chối đón nhận ánh sáng Đức Kitô mang lại. Để tiêu diệt ánh sáng Kitô, sức mạnh của tối tăm kịch liệt chống đối. Điều này phần nào giúp giải thích vì sao tâm hồn Đức Trinh Nữ bị lưỡi gươm đâu thâu qua.

Chúng ta xin ơn khôn ngoan và biết sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa.

Về mục lục

.

TUÂN HÀNH Ý CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ bao gồm hai sự kiện khác nhau: một là Đức Mẹ dâng con trai cho Thiên Chúa, và hai là Đức Mẹ 40 ngày sau khi sinh được thanh tẩy. Mỗi sự kiện đều có ý nghĩa riêng, nhưng từ thuở nào đến giờ, trong phụng vụ, cả hai đã được nối kết thành một. Đây là lễ “vừa tôn vinh Chúa vừa mừng kính Đức Maria”.

Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu được 40 ngày, Mẹ Maria và Thánh Giuse đưa Hài Nhi lên đền thánh Giêrusalem và hiến dâng lên Thiên Chúa đúng theo Lề luật của Môisen. Mẹ Maria cũng được làm phép thanh tẩy như tập tục của người Do thái sau khi sinh con.

Lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ cũng gọi là Lễ Nến, vì cây nến cháy tượng trưng Chúa Kitô là “Ánh Sáng muôn dân”. Cha chủ tế làm phép nến và cùng cộng đoàn rước nến vào Nhà thờ. Giáo dân dùng nến đã làm phép để thắp sáng trên bàn thờ gia đình và trong những trường hợp khó khăn hay bệnh tật.

Hôm nay chỉ đơn sơ chiêm ngưỡng như trong mầu nhiệm Mân Côi thứ bốn Mùa Vui “Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy”. Trong lễ dâng đặc biệt này, ta gặp thấy những góc cạnh khác nhau của sự “tuân phục”.

  1. Tuân giữ luật lệ

Biết rõ Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người, nhưng hai ông bà xem trọng việc tuân giữ luật lệ, vốn được quy định trong truyền thống tôn giáo Do Thái. Hai ông bà chu toàn việc lên đền thờ như luật Môsê truyền dạy (Xh 13): dâng con trai đầu lòng lên Thiên Chúa để nhớ về ơn giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Chuyện dâng con chỉ có vậy, nhưng được liên kết với việc Đức Maria được thanh tẩy sau khi sinh, theo quy định từ sách Lêvi, khiến cho ngày lễ bừng lên ánh sáng mới. Nếu theo nhãn giới của Thánh Vịnh, người ta chỉ dám dâng của lễ thanh khiết với tay sạch lòng thanh, thì với Đức Maria, được nên tinh sạch sau việc sinh nở chính là việc cần làm trước khi có thể xuất hiện trước tôn nhan mà trình dâng người con của mình cũng là Con Thiên Chúa làm người. Thành thử, trong cùng một bước lên đền thờ, thánh Giuse và Mẹ Maria đã nêu cao tấm gương tuân giữ khít khao lề luật.

  1. Tuân hành ý Chúa

Hai nhân vật lớn tuổi quen thuộc với đền thờ bỗng dưng được Thánh Thần thúc đẩy đến đúng lúc nghi thức được cử hành cho trẻ Giêsu. Niềm vui của bậc lão thành sau nhiều năm chờ đợi ơn cứu độ cho Israel, giờ đây đã mãn nguyện, không chỉ nghe kể lại như trong lịch sử, mà chính mắt trần đã mở rộng thấy tường, chính đôi tay đã bồng ẵm nâng niu, chính miệng lưỡi đã hát lên ca tụng và công bố cho mọi người biết trẻ Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Người”. Và còn có niềm vui của chính thánh gia, dù âm thầm không thành lời nhưng thật đậm đà thằm sâu, đầy vinh quang thánh thiện trong thái độ tuân hành.

Nhưng ơn Chúa thường đi kèm với ý Chúa. Giữa lưng chừng niềm vui đang độ tràn trề, cụ Simêon đã hướng đến Đức Maria bằng lời tiên đoán vận mệnh “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Như sét đánh ngang tai. Nhưng Đức Maria đã hết dạ tuân hành, cho dẫu trái tim có phải rườm máu. Và đó cũng là bóng thập giá của ngày dâng Con trong đền thờ. Thế mới biết thánh ý cũng gần gũi với thánh giá, và tiến dâng cũng đồng nghĩa với hiến dâng, một lễ dâng sẽ còn phải lập lại dài dài trong đời của Đức Maria và của cả thánh gia.

  1. Tuân theo nề nếp gia phong

Kết thúc lễ dâng, thánh gia trở lại quê nhà và trẻ Giêsu lớn lên cả về tinh thần và thể chất, trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Phúc Âm chỉ kế lại vắn gọn như thế, nhưng chừng đó thôi cũng đủ để hình dung hiệu quả tích cực nối dài của dịp lên đền. “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Trẻ Giêsu cũng thế, phó thác đời mình trong tay cha mẹ, thể hiện từng ngày sự tuân phục, vừa theo định luật tăng trưởng tự nhiên, vừa theo nếp sống tôn giáo giữa mái ấm gia đình. Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay.

Nếu khi được ẵm bồng trên tay, trong Thánh Thần, trẻ Giêsu đã được cụ Simêon ca tụng là “Thiên Chúa viếng thăm dân Người và trở nên Ánh sáng muôn dân”, thì cả quãng đời ẩn danh khiêm tốn, thánh gia đã là khuôn nôi hạnh phúc, thành điểm sáng cho mọi gia đình soi chung. Không có những phép lạ ngoạn mục kiểu Phúc Âm ngụy tác, như lấy đất nặn thành chim rồi thổi hơi vào là biến thành chim thật bay xa; nhưng chắc chắn luôn có những ơn lạ đậm đà bình an dành cho những ai sống tuân theo nề nếp gia phong và yêu thương vâng phục. Không có những công trình hoành tráng được thực hiện hay những việc vĩ đại người người biết đến, nhưng luôn có những việc không tên được làm với trái tim rộng mở cho tình yêu mỗi ngày mỗi thêm lớn mãi.

Ngày Mẹ dâng Con trong đền thánh cũng là ngày trẻ Giêsu trở thành người con hiếu thảo nơi mái ấm Nadaret, trở nên thành viên tốt nơi môi trường xã hội và rất đẹp lòng Thiên Chúa: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).

Theo truyền thống Giáo hội, vào dịp lễ này, người mẹ đem con nhỏ đến Nhà thờ để dâng cho Chúa. Cha chủ tế đặt tay chúc lành và tặng quà cho các cháu nhỏ.

Trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng”. Từ năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặt ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ làm ngày của Đời Sống Thánh Hiến. Chúa Giêsu được dâng hiến cho Chúa Cha nên trọn vẹn thuộc về Cha. Suốt đời, Ngài sống cho Cha, thi hành thánh ý Cha, vâng lời Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết thập giá. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha“, đây là một hiến dâng trọn vẹn nhất. Những người sống đời thánh hiến muốn noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa.Theo lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ tự nguyện sống đời trong sạch, nghèo khó và vâng lời.

Huấn thị “Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô” của ĐTC Gioan Phaolô II viết cho các Tu sĩ, được đúc kết lại trong ba chữ S: Say mê Đức Kitô, Sống hiệp thông và Sẵn sàng lên đường cho sứ vụ.

Tu sĩ là người cảm nhận tình yêu sâu xa của Thiên Chúa và muốn đáp trả lại. Đó là tình yêu hy sinh, quên mình, phục vụ, tình yêu thể hiện bằng việc làm, bằng chính bản thân. Tu sĩ dâng hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Chính tình yêu đã khiến các Tu sĩ muốn nên giống Chúa Giêsu. Ba lời khấn chỉ có giá trị với tình yêu trọn vẹn. Ba lời khấn chính là ba khía cạnh biểu lộ một tình yêu. Thiếu tình yêu, những lời khấn trở thành hình thức, nặng nề, trói buộc.

Khi trung thành với lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ trở nên ánh sáng của Thiên Chúa giữa trần gian. Ánh sáng siêu thoát trên của cải vật chất. Ánh sáng trao ban quảng đại. Ánh sáng tự chế ngự bản thân. Ánh sáng quên mình vì hạnh phúc của người khác. Ánh sáng lý tưởng, nâng tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Ánh sáng của một tình yêu dâng hiến.

Hiệp thông cầu nguyện đặc biệt cho các Tu Sĩ Nam Nữ luôn là người say mê Đức Kitô trong đời sống tâm linh, sống hiệp thông trong tình huynh đệ và luôn sẵn sàng lên đường thực thi sứ vụ để trở nên ánh sáng giữa cuộc đời hôm nay.

Về mục lục

.

NIỀM HY VỌNG ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi  

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Ml 3:1-4;  Dt 2:14-18;  Lc 2:22-40)

          Chúng ta có những cuộc giới thiệu về Chúa Giê-su khi Người bắt đầu thi hành sứ vụ, thí dụ khi Chúa chịu phép rửa của Gio-an hoặc khi Người đến hội đường Na-da-rét.  Tuy nhiên chúng ta đã có cuộc giới thiệu về Người rất sớm trong dịp Người là một hài nhi được dâng vào Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo luật Mô-sê (Lv 12).  Vậy Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta điều gì về sứ mệnh của Hài Nhi Giê-su khi Người được cha mẹ đem dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thánh?  Mượn lời tiên tri của ngôn sứ Ma-la-khi, Phụng vụ ám chỉ việc Hài Nhi được đem lên Đền Thánh giống như “Đức Chúa đi vào Thánh Điện” của Người (bài đọc 1).  Đoạn trích thư Do-thái thì giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng mang lấy huyết nhục chúng ta, “trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín, để đền tội cho dân” (bài đọc 2).  Sau hết là bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca thuật lại tỉ mỉ cuộc dâng hiến ấy, nhưng đặc biệt lại có sự xuất hiện của ông già Si-mê-ôn và nữ ngôn sứ An-na là những biểu tượng cho niềm mong đợi lời Thiên Chúa hứa với nhân loại từ lâu đến nay được thể hiện.

a)  Hài Nhi Giê-su được dâng vào Đền Thánh chính là“Chúa Thượng đi vào Thánh Điện”.  Càng gần tới thời Tân Ước, những điều các ngôn sứ nói về Đấng Cứu Độ càng rõ ràng hơn.  Một trong những điều ấy đã được ngôn sứ Ma-la-khi ghi lại như chúng ta nghe đọc trong bài đọc 1 hôm nay:  “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:  ‘Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta.  Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người’”.  Không dám chắc chắn, nhưng chúng ta có thể hiểu Lời Chúa phán đây ám chỉ thánh Gio-an Tiền Hô và Hài Nhi Giê-su.  Như chúng ta biết, tám ngày sau khi ra đời, Hài Nhi chịu phép cắt bì và được đặt tên là Giê-su;  theo luật thanh tẩy, Mẹ Ma-ri-a phải đợi ba mươi ba ngày nữa rồi mới đem con dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thánh.  Đoạn sách ngôn sứ Ma-la-khi giới thiệu Hài Nhi là Chúa Thượng hoặc Đức Chúa đi vào Thánh Điện.  Nhưng Chúa Thượng đi vào Thánh Điện để làm gì?  Nói khác đi, “sứ mệnh” Chúa Thượng sẽ thi hành là gì?  Ngôn sứ mô tả công việc của Chúa Thượng là thanh tẩy, tựa như lửa của thợ luyện kim hoặc thuốc tẩy của thợ giặt.  Hình ảnh này tương tự hình ảnh con chiên được hiến tế trong Thánh Điện để xóa bỏ tội lỗi dân chúng.  Hôm nay Hài Nhi Giê-su được dâng hiến trong Đền Thánh theo lề luật, nhưng mai kia Người sẽ tự hiến tế trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi trần gian.

b)  Ngày xưa, mỗi ngày vị thượng tế phải vào Đền Thờ dâng lễ tế hy sinh đền tội cho dân chúng.  Ngày nay, Chúa Giê-su xuống thế làm người giống như chúng ta, để thi hành sứ mệnh cao cả là làm “một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân”.  Nhưng sự khác biệt là Chúa Giê-su chỉ hiến tế thân mình trên thập giá một lần thì đã đủ để đền tội cho toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi cho đến ngày tận thế.  Hình ảnh Chúa Giê-su, vị Thượng Tế nhân từ và trung tín, quả thực nói lên hình ảnh Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội lỗi trẩn gian.  Người nhân từ và hiền lành như con chiên bị đem đi giết.  Người trung tín vì Người vâng lời và chấp nhận cái chết trên thập giá.  Chúa Giê-su đã hoàn tất “việc thờ phượng Thiên Chúa” khi Người hiến thân trên thập giá một lần là đủ.  Trong khi đó, các thượng tế có bổn phận làm việc “thờ phượng Thiên Chúa” bằng cách mỗi ngày họ phải vào Đền Thờ dâng lễ tế đền tội cho mình và cho dân.

c)  Mục đích Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se đem Hài Nhi Giê-su lên Đền Thờ là để tuân thủ luật thanh tẩy và dâng hiến con đầu lòng cho Thiên Chúa.  Các ngài là những người đạo đức và rất mực tôn trọng Lề Luật.  Nhưng các ngài cũng có những tâm tình giữ kín trong lòng.  Đây là dịp các ngài cảm tạ Thiên Chúa và xin vâng theo thánh ý Người.  Tuy nhiên đây cũng là dịp Chúa Thánh Thần giới thiệu Đấng Cứu Độ cho nhân loại qua ông Si-mê-ôn và bà An-na.  Lời Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ đến trần gian đã được tiên báo trong Tin Mừng nguyên thủy (Sáng Thế 3:15) và tiếp tục được nhiều vị ngôn sứ nói đến.  Hôm nay tại Đền Thờ, việc thể hiện lời hứa ấy đã được ông Si-mê-ôn công bố khi ông ẵm ấy Hài Nhi trong tay và chúc tụng Thiên Chúa rằng:  “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.  Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.  Ông Si-mê-ôn đã thay mặt cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ.  Cùng phụ họa với ông để cảm tạ Thiên Chúa, lại có sự hiện diện của bà An-na nữa.  Khung cảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến cảnh tượng trái ngược với cảnh tượng ông A-đam và bà E-va bị Thiên Chúa lên án trong vườn địa đàng!  Một đàng là xấu hổ cúi đầu lãnh nhận án phạt, một đàng là cất tiếng cảm tạ lòng Chúa thương xót.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Hiểu biết sứ mệnh của Chúa Giê-su là cứu độ chúng ta, ta hãy mau mắn tiếp đón Người.  Như “Chúa Thượng đi vào Thánh Điện”, Chúa Giê-su cũng muốn bước vào tâm hồn chúng ta là Đền Thánh của Người.  Vậy chúng ta có thể làm như ông Si-mê-ôn và bà An-na, thay vì được ẵm Chúa trên tay thì ta hãy rước Chúa vào lòng và thưa với Người:  Lạy Chúa, chính mắt được nhìn thấy ơn cứu độ!

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG VÀ VINH QUANG

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu

Suy niệm :

“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)

Về mục lục

.

NGƯỜI NỮ TRUNG GIAN

Lm. Đaminh M. Nguyễn P. Long

Hôm nay, mùng 2 tháng 2, chúng ta đang cùng với Giáo Hội long trọng cử hành Lễ Đức Mẹ Dâng Con Vào Đền Thờ. Thánh Kinh nói rất rõ rằng Trẻ Giêsu đã được chính bàn tay của Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse đưa vào Đền Thờ để dâng hiến cho Thiên Chúa, như đã được ghi chép trong luật Môisen. Qua biến cố này, ta nhận thấy sự trung gian cần thiết của Mẹ Maria trong kế đồ cuộc chuộc của Thiên Chúa, bởi khi Chúa Giêsu từ thế giới của TC mà xuống với con người, Ngài phải cần đến sự trung gian cộng tác của Mẹ Maria; và hôm nay, khi cần được dâng hiến trở lại cho TC, thì con người Giêsu ấy cũng một lần nữa cần đến bàn tay của người Mẹ mình. Từ đó, ta xác tín hơn về vai trò thiết yếu của Đức Mẹ không thể thiếu được trong cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng như cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Thế nên, Giáo Hội muốn dành Lễ này để cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi, nhất là ơn gọi tận hiến. Nhưng không phải chỉ có ơn gọi tận hiến mới cần đến sự trợ giúp và bàn tay của Mẹ Maria, mà hầu như ơn gọi nào cũng vậy. Tất cả chúng ta dù muốn dù không thì cũng đã trở nên con cái của Đức Mẹ; mà đã là con, thì chắc chắn ta phải cần đến sự hiện diện của một người Mẹ. Người Mẹ ấy không ai khác chính là Mẹ Maria. Vì thế, cho phép chúng tôi hôm nay được suy gẫm và chia sẻ đôi điều về vai trò và chỗ đứng rất quan trọng của Mẹ Maria trong cả hai ơn gọi rất quý báu, đó là: ơn gọi tận hiến và đời sống gia đình.

Với tất cả niềm xác tín, tôi dám khẳng định rằng: ai không yêu mến Mẹ Maria, người ấy không thể bền đỗ trong ơn gọi. Ngược lại, ai nhận Maria làm Mẹ mình, người ấy sẽ vượt qua được tất cả gian nguy.

Ở đây, tôi không hề có ý đề cao và nâng Mẹ Maria lên ngang hàng với Thiên Chúa, vì mọi sự vẫn đến từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, nhưng chỉ muốn nhấn mạnh về “chiều kích Maria” không thể thiếu được trong đời sống của một ơn gọi, nhất là ơn gọi tận hiến.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường gọi Maria là “Mẹ của ơn gọi”, vì hơn ai hết, Mẹ là người đã thực sự sống một cách trọn vẹn ơn gọi của mình. Mẹ thấu hiểu và Mẹ cảm thông. Đức Cố Giáo Hoàng quả là “con yêu của Mẹ Maria”. Có lẽ nhiều người chúng ta phải đồng ý một điểm là sở dĩ người đã thành công trong mọi việc mình làm và sống như một chứng nhân hy vọng là vì người đã đặt tất cả trong bàn tay yêu thương của Đức Trinh Nữ Maria . Khẩu hiệu của ngài cũng đủ cho ta thấy lòng yêu mến thiết tha dành cho Mẹ: “Totus Tuus” (Tất cả cho Mẹ). Trong các văn kiện viết gởi cho hàng giáo sĩ, tu sĩ, không một lần nào mà người không mời gọi họ hãy đặt lòng tin tưởng và phó thác ơn gọi trong bàn tay dịu hiền của người Mẹ Thiên Quốc.

Hơn ai hết, Mẹ là người biết cảm thông với những đớn đau nhức nhối trong đời ta, vì chính Mẹ cũng đã từng trải qua giai đoạn ấy. Từ ngày Mẹ nhận ra ơn gọi của mình với vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, có giây phút nào mà Mẹ không phải ưu tư, lo lắng, buồn phiền, đau khổ? Ai nào hiểu được nỗi lòng đau đớn của một người Mẹ luôn âm thầm “ghi nhớ và suy niệm mọi điều trong lòng”? Ơn gọi của Mẹ là những chuỗi ngày vác thập giá cùng Con bước lên đồi Can-vê. Rồi khi Con về trời, Mẹ lại tiếp tục lắng lo cho những bày con thơ dại sợ sệt vì chưa có Thần Khí ban tặng. Lời trăn chối của Chúa Giêsu trên thập giá chẳng khác gì những lời van xin cùng Mẹ rằng: “Mẹ ơi, như Mẹ đã trung thành lo cho Con thế nào, thì xin Mẹ cũng hãy tiếp tục lo lắng cho những người con mới của Mẹ đây”. Và trong tiếng thều thào nói cùng Gioan, tôi nghe như thể Ngài nói: “Con ơi, đây là Mẹ của con. Hãy đưa Mẹ về nhà và bám lấy Mẹ trên hành trình theo Cha, vì Mẹ đã sống và biết thế nào là những khó khăn trên đường theo Cha”. Thánh Kinh nói rất rõ rằng kể từ giây phút ấy, môn đệ đã đem Mẹ “về nhà mình”. Nhờ có Mẹ hiện diện trong đời, các tông đồ đã cảm thấy một sự ủi an vỗ về và hăng say trên bước đường chứng nhân. Mẹ đã trở nên Nữ Vương các Thánh Tông Đồ và là Mẹ Ơn Gọi của mỗi chúng ta.

Những ai trung thành chạy đến khẩn cầu cùng Mẹ, họ sẽ được bền tâm vững chí. Cho dù thử thách gian nguy có xảy đến, họ vẫn cảm thấy bình an, vì Mẹ là nơi nương náu của họ. Nếu người mẹ trần gian còn biết luôn lo lắng và ao ước mọi sự tốt lành cho con mình, thì huống chi người Mẹ Thiên Quốc. Mẹ thấu hiểu mọi ước muốn, cảm nghĩ, và tâm tư sâu thẳm nhất của ta. Trước khi ta ngỏ lời xin, Mẹ đã biết rồi. Thiết tưởng, Mẹ chỉ trông mong nơi ta một điều duy nhất, đó là tâm hồn cởi mở luôn biết chạy đến với Mẹ và “cho phép” Mẹ hành động trong cuộc đời ta. Sự rộng mở và tình thân yêu ấy phải được cụ thể hóa bằng những hành động ta dành cho Mẹ. Ở đây, tôi muốn nói đến việc lần chuỗi Mân Côi, là kho tàng châu báu của mọi ân sủng Mẹ ban. Chuỗi Mân Côi là biểu tượng cho mối tình liên hệ giữa ta và Mẹ. Bao lâu ta còn trung thành nắm lấy xâu chuỗi, thì bấy lâu ta còn bám lấy tay Mẹ. Và bao lâu ta còn bám lấy tay Mẹ, thì bấy lâu ta còn được Mẹ gìn giữ chở che.

Những gì ta chia sẻ về ơn gọi tận hiến cũng rất đúng khi áp dụng vào các ơn gọi khác, cách riêng ơn gọi hôn nhân gia đình. Đời sống gia đình không thể thiếu bóng Mẹ hiền được. Vợ chồng không thể trung thành với nhau, con cái không thể trở nên những người con ngoan, nếu ta không mời Mẹ vào trong gia đình để nối kết tình thân giữa vợ chồng, và giữa cha mẹ con cái với nhau. Vì thế, việc đọc kinh chung và lần chuỗi Mân Côi trong gia đình là điều tối cần thiết, không thể thiếu được. Nó đóng một vai trò hết sức quan trọng mà ta không thể hững hờ và coi nhẹ được. Chỉ một vài lời kinh chung đơn sơ giữa cha mẹ và con cái với nhau cũng đủ làm cho người Mẹ Thiên Quốc chạnh lòng thương và ra tay cứu giúp. Thật đáng tiếc và buồn thay cho nhiều đôi bạn trẻ ngày nay khi thấy họ không còn tin tưởng vào giá trị tuyệt vời của Kinh Mân Côi. Hình ảnh rất đẹp khi ta thấy những đôi tân hôn trong ngày lễ cưới cùng nhau tay trong tay tiến đến ngai tòa Mẹ và dâng cho Mẹ cuộc sống gia đình tương lai. Nhưng liệu trong thực tế và với thời gian, chúng ta còn tha thiết để thực sự mời và “đem Mẹ về nhà mình” không? Hay đó chỉ là một nghi thức chiếu lệ để giống như mọi người khác? Điều ấy, chỉ có Chúa và riêng bạn biết.

Tuy nhiên, ta biết được một thực tại trong cuộc sống là rất nhiều gia đình đã và đang đổ vỡ. Tại sao? Có nhiều lý do. Nhưng nếu nhìn thẳng và đi sâu vào vấn đề, có lẽ căn nguyên vẫn là thiếu sự hiện diện của Chúa và của Mẹ. Đôi bạn tân hôn tại Cana đã được Mẹ can thiệp và ra tay cứu giúp vì họ đã mời Mẹ cùng đến với gia đình. Nhờ có Mẹ mà họ cũng có được Chúa Giêsu. Phần lớn cha mẹ và vợ chồng gặp khó khăn, vấn nạn, đổ vỡ, trong gia đình là vì đã coi thường và bỏ đọc kinh kệ chung trong gia đình thời gian khá lâu. Lẽ dĩ nhiên là gia đình và ơn gọi nào cũng có những khó khăn, thử thách riêng của nó. Nhưng nếu có Mẹ trong đời, thì có lẽ vấn đề không đến nỗi trầm trọng như xảy ra trong thực tế. Như vậy, câu hỏi ta tự đặt ra cho chính mình là: nếu không mời Mẹ vào trong cuộc sống, thì ta đã mời ai vào? Hay nói cách khác, ai đã chiếm chỗ trong gia đình và trong trái tim ta đến nỗi ta không còn “chỗ” để cho Mẹ bước vào?

Nếu phải kể tên hết các “thần ngoại bang” đang “cư ngụ” trong cuộc sống và trong gia đình chúng ta thì có lẽ chẳng bao giờ hết. Hơn nữa, chỉ chính chúng ta mới biết rõ ai hoặc cái gì đang xâm chiếm tâm hồn và gia đình mình. Phải chăng là sự nghi kỵ, gièm pha? Hay là sự dối trá, bất trung? Hoặc là những đam mê xác thịt, hình ảnh đồi trụy mà ta không dứt bỏ được? Rất có thể. Nhiều vợ chồng đã thành thật chia sẻ rằng họ đã mướn những phim ảnh xấu về nhà coi để như một cách giúp giải quyết vấn đề. Nhưng thực chất thì họ càng bị sa lầy và đổ vỡ hơn. Ngày nay, những phim và hình ảnh xấu đang là một thách đố rất lớn cho nhiều gia đình. Sự tai hại của nó không ai có thể lường được. Hạnh phúc của bao nhiêu gia đình đã bị phá hủy chỉ vì có sự hiện diện của những “thần ngoại bang” này. Chắc chắn Chúa và Mẹ sẽ không có chỗ đứng nếu ta không xua đuổi chúng ra khỏi cuộc đời và gia đình mình. Thiên Chúa không thể trà trộn với những thứ ngoại bang ấy. Ánh sáng và bóng tối không thể đồng hiện hữu. Nếu muốn có Chúa hiện diện và cùng đồng hành, hãy tiểu trừ những cái thế gian không cần thiết, và hãy tha thiết mời Mẹ vào trong nhà mình. Có Mẹ, mọi sự sẽ được giải quyết, mọi vấn nạn sẽ được cứu nguy.

Thánh Anphong đã nói: “Con Đức Bà là con nhà thiên quốc, con Đức Mẹ là con Nước Thiên Đàng”! Với tất cả niềm xác tín, chúng ta hãy cùng nhau chạy đến với Đức Trinh Nữ Maria, và nhờ chính bàn tay dịu hiền của Mẹ để dâng đời sống và sứ mạng của chúng ta cho Thiên Chúa.

Lạy Mẹ, như xưa chính Mẹ đã dâng Người Con yêu quí trong Đền Thờ cho Chúa Cha như thế nào, thì ngày nay xin Mẹ cũng giúp cho đời con được trở nên của lễ đẹp lòng Chúa Cha như vậy. Amen.

Về mục lục

.

DÂNG CHÚA TRONG ĐỀN THỜ

Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến

Một bà lão gặp vị linh mục và nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời”.

Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa. (x. Phút Lắng Đọng Mỗi Ngày – tháng 12).

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.

Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:

– Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.

Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.

– Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.

Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8). Ông Symêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là ” Ánh Sáng muôn dân ” (Lc 2, 32).

Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người “(x. Phụng vụ Byzantine).

Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?

Theo thánh Dimitri de Rostov: “Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ”.

Thánh Phaolô nói: “Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ” (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: ” Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham…Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,16-17).

Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.

Hy Tế Cứu Chuộc

Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là “cặp bồ câu non”! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là “bản lề”chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để (Cứu chuộc) chúng ta.

Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?

Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.

Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.

Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ

Lm.  Linh Tiến Khải

Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ trong lịch phụng vụ cũ gọi là lễ ”Thanh tẩy của Đức Maria”, hay theo thói quen bình dân gọi là ”Lễ nến”, cử hành 40 ngày sau lễ Giáng Sinh.

Thật ra đây là lễ của Chúa Kitô chứ không phải lễ của Đức Mẹ. Biến cố này đã được thánh sử Luca thuật lại trong chương 2 như sau: ”Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môshê, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: ”Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (Lc 2,22-24).

Là những người trung thành tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse thực thi điều Luật Thiên Chúa đã truyền cho ông Môshê như ghi trong chương 13 sách Xuất Hành: ”Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”; ”Vậy khi Giavê đã đưa ngươi vào đất Canaan như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi, thì ngươi phải nhượng lại cho Giavê mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Giavê. Mọi con đầu lòng của giống lừa ngươi sẽ lấy con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: Điều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: ”Giavê đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Bởi vì Pharaô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên Giavê đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng Giavê mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại” (Xh 13,11-15).

Cũng trong dịp này người mẹ làm lễ thanh tẩy cho chính mình như ghi trong chương 12 sách Lêvi: ”Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh nguyệt. Đến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu. Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của mình. Nếu sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh; rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy.

Khi mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư tế ở cửa Lều Hội Ngộ, một chiên con một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay một con chim gáy làm lễ tạ ơn. Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước nhan Giavê và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã xuất huyết. Đó là luật về người đàn bà sinh con trai hay con gái. Nếu không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạch” (Lv 13,6-8).

Việc dâng con trai đầu lòng trước Nhà tạm có ý nghĩa chuộc con, vì nó thuộc Thiên Chúa như viết trong chương 18 sách Dân Số: Đức Chúa phán với ông Aharon: ”ngươi phải cho chuộc lại con đầu lòng của người ta, và con đầu lòng của súc vật không sạch, ngươi cũng cho chuộc lại. Ngươi sẽ cho chuộc khi nó được một tháng; tiền chuộc ngươi sẽ ấn định là mười lăm chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. Nhưng bò, chiên và dê đầu lòng, ngươi sẽ không cho chuộc lại. Chúng là vật thánh, nên máu chúng, ngươi sẽ đổ trên bàn thờ, còn mỡ thì sẽ đốt làm hỏa tế thành hương thơm làm đẹp lòng Đức Chúa, và thịt thì để cho ngươi dùng, cũng như thịt sườn đã được tiến dâng theo nghi thức và thịt đùi bên phải đều thuộc về ngươi.” (Ds 18,15-18).

Chúng ta có tin liên quan tới lễ Dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thánh tại Giêrusalem từ bà Eteria, một tín hữu hành hương nổi tiếng nhất của thời cổ Kitô. Bà đã viếng thăm các nơi thánh bên Palestina vào giữa thế kỷ thứ VI. Nhưng lễ này đã được cử hành một thế kỷ trước đó, chẳng hạn tại Alessandria bên Ai Cập, nơi thánh Cirillo cũng làm chứng cho cuộc rước với ánh sáng và đuốc. Tại Constantinopoli vào năm 534 lễ này được hoàng đế Giustiniano dời từ ngày 14 sang ngày mùng 2 tháng Hai, trong khi nó được Đức Giáo Hoàng Sergio người Siri du nhập vào Giáo Hội Roma vào cuối thế thỷ thứ VII.

Đề tài Chúa Kitô Ánh Sáng định tính cho toàn chu kỳ các ngày lễ Giáng Sinh và đạt tột đỉnh với lễ Hiển Linh, tức biến cố Chúa tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ đại diện cho các dân tộc không do thái, được kéo dài cho tới ngày lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Cử chỉ của Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse chu toàn Lề Luật trong kiểu dấu ẩn khiêm tốn định tính việc Nhập thể của Con Thiên Chúa, nhận được sự tiếp đón từ cụ già Simeon và nữ ngôn sứ Anna. Được Thiên Chúa linh hứng, họ vào Đền Thờ và nhận biết Đấng Cứu Thế nơi Hài Nhi Giêsu. Trong cuộc gặp gỡ giữa cụ già Simeon và Đức Maria người mẹ trẻ, Cựu Ước và Tân Ước nối kết với nhau một cách tuyệt vời trong việc tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban Đức Giêsu Kitô Hài Nhi Cứu Thế là Ánh Sáng chiếu soi toàn nhân loại và là vinh quang của Israel.

Thánh sử Luca miêu tả lại cảnh này như sau: ”Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simeon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm vui của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc Mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: ”Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là Ánh Sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài”. Cha và Mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simeon nói về Người. Ông Simeon chúc phúc cho hai Ông Bà và nói với Bà Maria, Mẹ của Hài Nhi: ”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Chúa còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà”.

Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Penuel thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá bà đã sống với chồng được bẩy năm, rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa và nói về Hài Nhi cho hết mọi người mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2,25-38).

Trình thuật Dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa Cha trong Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh hiến dâng chính mạng sống mình cho Thiên Chúa và cho chương trình tình yêu cứu rỗi của Chúa. Này con đến để làm theo thánh ý Cha. Ý nghĩa hiến dâng toàn cuộc sống cho Thiên Chúa đã khiến cho Đức Gioan Phaolô II trực giác được mục đích của những người sống đời thánh hiến và năm 1997 cử hành Ngày cho đời thánh hiến lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Nó bao gồm nhiều mục đích. Trước hết là chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa vì ơn gọi đời thánh hiến, thuộc sự thánh thiện của Giáo Hội. Trong ngày này toàn cộng đoàn dân Chúa khắp năm châu hiệp nhau cảm tạ Thiên Chúa Cha vì ơn gọi đời thánh hiến và cầu nguyện cho những người sống đời thánh hiến. Tiếp đến ngày này nhằm mục đích ngày càng đánh giá cao chứng tá của những người chọn theo Chúa Kitô qua việc sống các lời khuyên phúc âm, bằng cách thăng tiến sự hiểu biết và lòng qúy chuộng cuộc sống thánh hiến trong lòng Dân Chúa. Sau cùng Ngày cho đời thánh hiến là dịp qúy báu để những người sống đời thánh hiến lập lại và canh tân các thề hứa dấn thân của mình và làm sống dậy các tâm tình đã và đang linh hứng cho họ tận hiến cuộc đời cho Chúa.

Đó là lý do giải thích tại sao trong ngày lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh lại có nghi thức rước nến, và nghi thức các tu sĩ nam nữ lập lại các lời khấn sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Tại Roma chính Đức Giáo Hoàng hay Đức Hồng Y Tổng Trưởng bộ Tu Sĩ và các Hiệp hội tông đồ chủ sự Thánh Lễ trong đền thờ thánh Phêrô với sự tham dự của hàng ngàn tu sĩ nam nữ thuộc các dòng và hiệp hội tông đồ khác nhau.

Tuy nhiên, ý nghĩa của lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh cũng liên quan tới mọi Kitô hữu. Trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội linh mục đã xức dầu thánh hiến họ cho Thiên Chúa để họ trở thành thành phần của Giáo Hội, chi thể mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Cùng với áo trắng biểu tượng cho linh hồn trong sạch khỏi tội tổ tông và cuộc sống mới trong ơn thánh, Linh mục cũng trao cho họ nến sáng thắp từ Cây Nến Phục Sinh, biểu tượng cho Chúa Giêsu Kitô, ánh sáng cứu độ chiếu soi nhân loại và toàn thế giới, chiếu soi cuộc sống của tín hữu mọi ngày. Và đến phiên họ, Kitô hữu cũng phải sống thế nào để chứng tá cuộc sống của họ chiếu soi cho mọi người, đặc biệt cho các anh chị em chưa biết Chúa Kitô và Tin Mừng yêu thương cứu độ, giúp họ nhận biết Chúa và đưa họ đến với Chúa để được ơn cứu độ. Năm Đức Tin sắp khai mở vào tháng 10 tới đây là dịp rất tốt để Kitô hữu là ánh sáng và muối men của trần gian.

(Thánh Mẫu Học bài 328)

Về mục lục

.

LỄ NẾN

Lm. Nguyễn Ngọc Long.

I. Lịch sử

Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:

  1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
  2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
  3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.

Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là “ánh sáng cho mọi dân tộc” ( Lc 2,22-40).

Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.

Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.

Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.

II. Ý nghĩa ngày lễ mừng.

Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.

Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.

Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.

Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.

Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.

Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.

Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.

Về mục lục

.

LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THỜ

Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy

Mẹ Maria và thánh cả Giuse biết rằng mọi sự đều từ Chúa mà đến và mọi sự đều phải trở về với Chúa. Trẻ Giêsu là một quà tặng bởi Chúa mà đến, và do đó hai ngài lên Giêrusalem để dâng lại cho Chúa. Các gia đình, nhất là các bà mẹ, hôm nay cũng mang con đến nhà thờ dâng cho Chúa, cảm tạ Chúa, vì sự sống Chúa đã ban cho nơi con cái.

Chúng ta hết lòng quí trọng quà tặng sự sống này. Không bao giờ đối xử với sự sống như một sở hữu hay như một cái gì chúng ta chế tạo ra, để rồi tưởng mình có quyền muốn giữ thì giữ, muốn bỏ thì bỏ. Chúa là Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho chúng ta và đang nâng đỡ cho mọi sự được tồn tại. Ngài ban quà tặng sự sống ấy cho chúng ta, chúng ta phải làm cho nó được phát triển và kiện toàn. Trẻ Giêsu mà Mẹ Maria ẳm trong lòng và Simêon bồng trên đôi cánh tay già nua, tuy bé bỏng nhưng là Đấng Cứu độ muôn loài.

Như Mẹ Maria ẳm trẻ Giêsu trong lòng, và như Simêon bồng Người trong đôi cánh tay già nua, là Chúa cả trời đất. Chúng ta cũng hãy trân trọng và chăm lo cho những đứa con bé bỏng của chúng ta. Biết đâu những đứa trẻ bé bỏng hôm nay mai kia sẽ thành những người lãnh đạo Giáo Hội và đất nước.

Ngoài ra, chúng ta phải làm hết sức mình có thể để Chúa Kitô trở nên sự sống của chúng ta, và qua chúng ta, Chúa cũng trở nên sự sống cho mọi người chung quanh chúng ta, nhờ các hoạt động từ thiện truyền giáo của chúng ta.

Chúng ta nghe ông Simêon nói với Đức Mẹ rằng Chúa Kitô là dấu hiệu cho người ta chống đối: có những người nhờ Ngài mà đứng lên, có những kẻ vì Ngài mà phải ngã xuống, có những người hân hoan đón nhận sự sống Chúa mang lại, có những người lại tìm cách tiêu diệt sự sống ấy từ trong trứng nước.

Trẻ Giêsu được dâng trong đền thờ khiến chúng ta nghĩ đến bao nhiêu em bé sinh ra đời. Chúng ta nức lòng nghĩ đến những em bé được chờ đợi và chào đón, nhưng cũng đau lòng nghĩ đến những trẻ sơ sinh không được đón nhận, những trẻ em bị bỏ rơi không thể sống sót vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ và người thân. Nhìn thánh gia thất, chúng ta nôn nao nghĩ đến những gia đình sum vầy cha mẹ con cái đầm ấm hạnh phúc, nhưng cũng nặng lòng nghĩ đến những đôi vợ chồng khao khát niềm vui có con cái mà hy vọng ấy dường như mỗi lúc một vô vọng và chúng ta thành tâm cầu nguyện cho họ.

Nhìn Chúa Hài Đồng được dâng lên, chúng ta cũng nghĩ đến bao nhiêu thai nhi không được phép đón nhận ngày sinh, cuộc sống và ánh sáng mà Thiên Chúa làm người mang đến cho mọi người, vì sự yếu đuối của con người, vì những toan tính và kế hoạch ích kỷ của những con người khác, cũng như của các cơ cấu xã hội, ngay cả bởi những cha mẹ vô trách nhiệm và gia đình của các thai nhi ấy.

Nghĩ đến những trẻ em bị giết chết ngay trong lòng mẹ không được sống đến lúc mở mắt chào đời, chúng ta cũng nghĩ đến những bà mẹ phải bị ám ảnh dằn vặt vì phá thai, dưới bất cứ lý do gì (vì yếu đuối, bị lừa gạt, bị lạm dụng hay vì khó khăn kinh tế, vì công ăn việc làm). Ý nghĩ phá thai là giết người, và giết chính con mình sẽ làm cho những người mẹ ấy phải đau khổ tâm lý trong suốt cả cuộc sống. Quả thế, một số các mẹ và các chị đã ấm ức khóc hay nước mắt lưng tròng khi liên tưởng đến nỗi khổ tâm của mình hay con cái của mình vì hoàn cảnh đã phá thai. Nhiều nghiên cứu tâm lý và xã hội kết luận rằng đa số người phá thai có nguy cơ mắc bệnh tâm thần và ung thư cao vì những nỗi ân hận ray rứt kéo dài triền miên trong cuộc sống.

Chúng ta cũng đau thương nghĩ đến nhiều trẻ nít và vị thành niên bị lạm dụng tình dục và hãm hiếp, hay sống thử phóng túng buông thả luân lý để rồi phải phá thai hay phải làm mẹ khi tuổi đời còn quá non nớt, không đủ khả năng hay không thể nuôi con, đành phải bỏ rơi con trong thùng rác, trên vỉa hè bệnh viện hay xó chợ, cho ruồi bâu, kiến rúc… Một số em được may mắn sống sót và lớn lên trong các cô nhi viện, một số khác gặp hoàn cảnh tệ hơn sống lây lất bụi đời, gánh chịu không biết bao nhiêu cơ cực cay đắng trên tâm hồn và trên thân xác, vì không có được một mái ấm gia đình, không biết cha mình là ai, mẹ mình là ai và đang ở nơi đâu!

Nghĩ tới những em bé bất hạnh bị bỏ rơi vô thừa nhận ấy, chúng ta tuy thông cảm và tôn trọng, nhưng cũng bất bình chua xót nghĩ đến những đôi vợ chồng ích kỷ chỉ nghĩ đến tự ái, đau khổ hay vui sướng của bản thân mà không nghĩ đến những hậu quả đau thương cho con cái, làm cho gia đình đổ vỡ, ly dị khiến các em trở nên mồ côi cha mẹ, dù cha mẹ các em đang còn sống cả đó, và nhiều em bị đẩy ra đường tự kiếm sống, làm cho bao nhiêu em bị hành hạ và giết chết hằng ngày trên khắp nẻo đường đời, dưới đủ mọi hình thức nghèo đói, bệnh tật, mại dâm, ma túy, HIV. Các em không chỉ bị giết chết về thân xác, mà còn bị giết chết dần mòn về tâm hồn và đức tin: những lạm dụng và tội lỗi đã giết chết lòng trong trắng của các em, đã đánh mất tình thương, niềm tin và hy vọng của các em vào con người, vào cuộc đời, lắm khi cả vào Thiên Chúa nữa.

Ngôi Lời nhập thể và được tiến dâng hôm nay nâng đỡ chúng ta. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy thịt xương máu huyết để trở nên con người và để ở với chúng ta, chia sẻ thân phận con người chúng ta, đau khổ với chúng ta, đau khổ vì chúng ta và đau khổ cho chúng ta, cho đến chết và chết tất tưởi trên thập giá. Ngài hiến ban mạng sống của Ngài để cho chúng ta được sống, được cứu độ. Đó là sứ điệp thúc đẩy chúng ta tìm lại những giá trị của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúa không đến cất đi đau khổ. Ngài cũng không đến để giải thích đau khổ. Ngài đến để chia sẻ đau khổ với con người, nâng đỡ con người và mời gọi con người chia sẻ phận người với những con người khác, vốn là đồng bào, đồng loại và anh chị em của mình.

Chúng ta nghiêng mình cảm phục và ca ngợi những tấm lòng từ thiện, những đôi vợ chồng son sẻ đã mở rộng lòng nhân ái đón nhận các trẻ em mồ côi hay bị bỏ rơi, tàn tật để cho các em có cha có mẹ và một mái ấm gia đình. Nhưng chúng ta cũng nghiêm khắc thức tỉnh lương tâm và kêu gọi những con người đã gây ra những mảnh đời đau khổ cho đồng loại qua việc lạm dụng tình dục, sở khanh, cưỡng hiếp…, hãy thôi đi các việc thất đức đó, hãy kính trọng Thiên Chúa, tự trọng, tôn trọng phẩm giá và tình yêu con người. Chúng ta hãy cùng nhau kiến tạo cộng đồng xã hội và gia đình thành thiên đường mà hưởng, đừng biến chúng thành địa ngục mà phải chịu đựng.

Lễ dâng Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta những cái nhìn mới, những con đường mới để suy tư và hành động, để cảm nghĩ và nói năng, để sống và yêu thương, để trao ban và lãnh nhận. Chúng ta tin, chúng ta hy vọng và chúng ta quyết tâm làm một cái gì cho những người kém may mắn hơn chúng ta: cô nhi, quả phụ, khuyết tật, nghiện ngập, HIV… Chúng ta cố gắng hết sức mình để mang hy vọng và tình thương cho kẻ khác, để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn và cuộc đời của những người chưa biết Chúa, cũng như để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra lại và lớn lên trong tâm hồn và cuộc đời của những ai đã từ khước Chúa vì tội lỗi của họ.

Nhưng thưa quí ông bà và anh chị em, Mình Máu Thánh Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy, quyền năng của Chúa đã biến thể từ bánh rượu là lương thực hằng ngày của con người chúng ta. Vậy nếu chúng ta dâng lên Ngài bản thân chúng ta, cuộc đời đời chúng ta, giáo xứ chúng ta, gia đình chúng ta, mọi người chúng ta thương mến, công việc làm ăn, học hành, kinh nguyện của chúng ta, những niềm vui và hạnh phúc, những nỗi buồn phiền và gánh nặng vất vả của chúng ta; cả những kẻ thù nghịch, những người chúng ta không thương hoặc những người ghét bỏ chúng ta, cả những tính xấu và tội lỗi của chúng ta… thì quyền năng của Chúa cũng sẽ biến đổi thành cái gì tốt đẹp hơn cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng điều đó, vì tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất cả.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn luôn dùng gương sáng hướng dẫn chúng con, và hôm nay Chúa được dâng lên cho Chúa Cha. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn chân thành dâng chính mình chúng con cho Chúa mỗi ngày. Mỗi buổi mai khi vừa thức dậy, chúng con sẽ dâng mình lại cho Chúa. Chúng con nài xin Chúa ơn luôn có Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng con, luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần dạy bảo, thúc giục, để tất cả chúng con sống hiệp nhất yêu thương hầu làm chứng tá cho Nước Chúa ở giữa trần gian. Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được Chúa yêu thương chúng ta và giúp chúng ta làm cho người khác cũng cảm nhận được Chúa yêu thương họ, ban bình an và niềm vui cho họ, bất chấp tất cả những gì có thể xảy ra. Amen.

Về mục lục

.

MẪU GƯƠNG CỦA BẬC CHA MẸ

Lm. Gioan Trần Khả

Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: “Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”

Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, “Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống” (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).

Vai trò của cha mẹ

Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao… và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, “Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái.”

Những tấm gương

Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.

Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, “Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh.” Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.

Nhận ra Đấng Cứu Thế

Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, “Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân.” Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.

Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?

Về mục lục

.

DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH

Lm Giuse Đinh Lập Liễm

I. LỊCH SỬ NGÀY LỄ.

Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma. Nội dung Thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc âm thánh Luca 2,22-40.

Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu ước qua ông Simêon và bà tiên tri Anna; Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do thái (Lv 12).

Khi du nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế, từ thế kỷ thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.

Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh.

(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh, tập 1, tr 68).

II. Ý NGHĨA NGÀY LỄ

  1. Theo tập tục của luật Maisen.

Bài Tin mừng cho thấy Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Maisen liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu. Luật Maisen qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21).

Khi được một tháng tuổi, trẻ phải được đưa tới Đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Người, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13, 2.12-13; Ds 18,15-16).

Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7; 12,8).

Mặc dù biết Đức Giêsu con của mình, là Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.

Sách Xuất hành qui định: “Giavê phán cùng Maisen rằng: Hãy hiến thánh cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi thông dạ mẹ, thì thuộc về Ta”. Điều luật này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa và phải dành riêng cho Người. Tuy nhiên, sau khi việc phụng tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi, thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc khác không phải lo việc phụng tự nữa.

Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu của Thiên Chúa, nên người ta thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách luật qui định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng để chuộc lại con trai.

  1. Đức Maria dâng con theo lề luật.

Theo luật Maisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế.

Vậy sau khi Chúa Giêsu sinh ra được 40 ngày, Đức Maria đem con lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Do thái. Mẹ Ngài hoàn toàn thanh sạch, không cần phải giữ luật ấy, nhưng Mẹ cũng thi hành đầy đủ lễ nghi, trước là vâng theo ý Chúa, sau là để người ta khỏi sai lầm mắc phải.

Hôm ấy, ông già Simêon là người hằng mong đợi được trông thấy Đấng Cứu Thế, lên Đền thờ cũng là ngày cha mẹ dâng Hài Nhi Giêsu trong Đền thờ. Vừa trông thấy Hài Nhi, được ơn trên soi sáng chỉ dẫn, ông rất vui mừng, vội đưa tay ẵm kính Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa:”Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,29-32).

Hai Ông Bà thấy và nghe như thế thì lấy làm lạ, chưa kịp hỏi han gì thì cụ già Simêon nhìn lên Đức Mẹ mà thưa:”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người ta chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”(Lc 2,34-35).

Đồng thời, nữ tiên tri Anna trông thấy Chúa Hài Nhi, bà cũng nói lên lời chúc tụng Thiên Chúa và nói lại cho người ta biết rằng chính Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân đang chờ đợi.

Mặc dầu biết Đức Giêsu, con mình, là Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Và sau cùng, để chuộc lại con mình, hai Ông Bà vì nghèo nàn chỉ dâng lên Thiên Chúa một đôi chim gáy với tất cả tấm lòng thành.

  1. Lễ hôm nay cũng là Lễ Nến

Khi lễ này được du nhập vào phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I lại thêm vào nghi thức rước nến, vì vậy lễ dâng Chúa Giêsu vào Dền thờ hôm nay cũng được gọi là Lễ Nến, vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.

Chính cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Thánh Xôprôniô, Giám mục Giêrusalem đã nói:”Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là Ánh Sáng thật đã đến, Ánh Sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy tỏa sáng” (Kinh Sách, các bài đọc ngày 02.02).

Cuộc rước trong phụng vụ hôm nay nói lên đời sống của mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. “Ánh Sáng” là một từ thường được dùng để chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng là cô đơn, nghi nan và lầm lạc. Chúa Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi người, Là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân Lý giải thoát, Là tình Yêu viên mãn… Mỗi khi cầm nên đi trong đoàn kiệu, chúng ta thông phần vào ánh sáng của Chúa Kitô.

III. BƯỚC THEO MẸ MARIA.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết theo gương Mẹ để biết khiêm nhường phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.

Trước hết, Lễ này dạy chúng ta bài học khiêm nhường vâng giữ luật Chúa và Hội thánh. Thật ra luật Cựu ước không buộc Đức Maria và Chúa Giêsu, vì Đức Maria không thụ thai cách bình thường như người đời. Ngài mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, nên Ngài không bị ô uế theo luật Maisen và không buộc phải thanh tẩy.

Đức Giêsu cũng không buộc phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật dạy, vì rồi đây chính Ngài sẽ bị sát tế và dâng hiến lên Chúa Cha trên thánh giá để làm của lễ chuộc tội loài người. Việc hiến dâng các trẻ em Do thái theo luật Maisen chỉ là hình bóng việc tự hiến của Ngài mà thôi. Thế nhưng chỉ vì khiêm tốn vâng phục mà Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn luật Cựu ước cho Chúa Giêsu để nêu gương cho chúng ta.

Thứ đến, Đức Maria sẵn lòng dâng hiến Con mình cho Thiên Chúa. Qua đó, Mẹ lặp lại lời Fiat, và một lần nữa, trao phó trọn đời mình cho Thiên Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa Cha trên tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền thờ, và không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa Giêsu đã dâng chính thân Người, nhưng ngoài thành, ở trên đồi Calvê.

Mẹ Maria đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.

Truyện: Ngụ ngôn về cây bút chì.

Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: “Có 5 điều mày cần phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?

Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.

Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để làm cho mày đẹp hơn mà thôi.

Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.

Và một điều nữa, hãy biết phần quan trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không phải là lớp vỏ ngoài.

Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?

Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.

Qua câu truyện ngụ nôn về cây bút chì, bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì xem. Lúc nào bạn cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại cho mà xem.

Bạn hãy cố thực hành:

Thứ nhất, bạn có thể làm nên những chuyện vĩ đại, nhưng chỉ khi nào bạn biết đặt mình vào trong vòng tay của Thiên Chúa, hãy để cho mọi người được sử dụng những món quà mà Thiên Chúa ban cho bạn.

Thứ hai, bạn sẽ phải liên tục nếm trải những đau đớn và thất bại trong cuộc sống, nhưng có trải qua ngần ấy đau khổ, bạn mới có thể mạnh mẽ hơn được.

Cũng cần phải nhớ lúc nào bạn cũng có thể khắc phục những sai lầm trong quá khứ.

Tiếp theo đó, bạn phải biết phần quan trọng nhất của cơ thể bạn không phải là ngoại hình mà là tấm lòng bên trong của bạn

Còn điều cuối cùng, trên mọi nẻo đường mà bạn đi qua, bạn hãy để lại những dấu ấn riêng của bạn và trong bất cứ trường hợp nào, bạn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của minh.

Hãy làm theo ngụ ngôn về bút chì, nó sẽ giúp cho bạn cảm thấy bạn đúng là một con người đặc biệt và chỉ có bạn mới có thể hoàn thành được những trách nhiệm mà ngay từ khi sinh ra, bạn đã được giao phó.

Đừng bao giờ để mình bi quan và cũng đừng bao giờ cho rằng cuộc đời bạn thật tầm thường và rằng bạn không thể thay đổi bất cứ thứ già cả.

Trong Thánh Lễ hôm nay, cùng với lễ dâng trọn hảo là chính Chúa Giêsu, được Đức Maria và thánh Giuse tiến dâng trong Đền thờ, chúng ta cũng xin hiến dâng tuổi xuân và cả cuộc sống của chúng ta làm lễ dâng lên Thiên Chúa. Xin Ngài chúc phúc và hướng dẫn đường đời chúng ta trong thánh ý Ngài, hầu cả cuộc sống chúng ta trở nên lễ dâng tình yêu trong Tình Yêu Thiên Chúa.

Về mục lục

.

CỦA THÁNH

Trầm Thiên Thu

Luật Môsê truyền dạy: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là CỦA THÁNH, dành cho Chúa.” (Lc 2:23) Vì thế, khi đã đến ngày lễ thanh tẩy theo luật, Đức Maria và Đức Giuse đem Con Trẻ Giêsu lên Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa.

Cũng theo Luật truyền, lễ dâng là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn gọi là Lễ Nến, Lễ Thanh Tẩy hoặc Tẩy Trần, và còn gọi là Lễ Gặp Chúa – từ Hy ngữ là Ὑπαπαντή (Hypapante). Giáo Hội kính mừng lễ này sau khi Chúa Giêsu giáng sinh được 40 ngày, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê: phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là ô uế trong 40 ngày nếu sinh con trai, hoặc 60 ngày nếu sinh con gái. (Lv 12:5)

Đặc biệt là cũng ngày hôm đó, có một người tên là Simêôn là người công chính và sùng đạo, ở Giêrusalem, vẫn mong chờ niềm an ủi của Israel, ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Và ông đã được thỏa lòng mong ước.

Theo nguyên tắc thời Cựu Ước, đó là việc dâng “của lễ đầu mùa” theo luật truyền: “Chúng tôi BUỘC mình hằng năm phải đem dâng vào Nhà Đức Chúa những thổ sản đầu mùa của chúng tôi và TẤT CẢ HOA TRÁI ĐẦU MÙA mọi thứ cây, cũng như CÁC CON TRAI ĐẦU LÒNG của chúng tôi và của thú vật, như đã chép trong Lề Luật. Các con đầu lòng của bò, ngựa, chiên, dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành cho các tư tế đang phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. PHẦN TỐT NHẤT trong số bột xay, trong những của trích dâng, hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, rượu mới và dầu tươi, chúng tôi sẽ đem dâng các tư tế tại các phòng trong Nhà Thiên Chúa chúng tôi.” (Nkm 10:36-37) Tất cả đều là của Chúa, thế nên những gì là sản phẩm đầu tiên – người và vật – đều phải kính dâng Ngài trước để bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn.

Sự kiện quan trọng dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Thánh sử Luca ghi lại trong trình thuật Lc 2:22-40. Sự kiện này là động thái tuân phục, nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu Ước – cụ thể là trong Lv 12:6-8.

Theo sử sách, lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Giáo Hội tại Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của ĐGH Gelasianô (thế kỷ VII). Từ cuối thế kỷ IV, Giáo Hội tại Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo Hội tại Hy Lạp và Milanô kính mừng lễ này là một trong các lễ trọng kính Chúa Giêsu, dạng nghi lễ chính thức trong năm. Giáo Hội tại Rôma kính mừng lễ này là một trong số các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria.

Trong tông huấn “Marialis Cultus” (năm 1974, nói về việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria), Thánh GH Phaolô VI cho biết: “Lễ ngày 2 tháng 2 được cải tên là Lễ Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Đức Mẹ Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu Ước, vừa là hình ảnh của Dân Chúa của Tân Ước luôn bị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy.” (số 7b) Thời nào cũng có bách hại với các dạng và mức độ khác nhau, đó là tôi luyện đức tin chân chính, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần đề cập. Và người ta cũng nói: “Ngọc bất trác bất thành khí.”

Theo thói quen tốt lành, nến được làm phép trong Thánh Lễ hôm nay để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon đã xác định Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại.” (Lc 2:32) Tại các giáo xứ thường có rước kiệu nến trong nhà thờ để nhớ đến việc Đức Giêsu tiến vào Đền Thờ Giêrusalem, đồng thời cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ dâng con cái cho Thiên Chúa, vì con cái là tặng phẩm vô giá, và cũng nhắc nhở mọi người phải bảo vệ sự sống bằng mọi giá.

Từ ngàn xưa, chính Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.” (Ml 3:1) Vị Chúa Thượng đó chính là Thiên Chúa, Đấng “như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt” và “sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc, sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.” (Ml 3:2-3a) Chắc chắn chẳng ai có thể chịu nổi nếu không nghiêm túc sống công minh chính trực và tuân thủ Luật Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8) Và chỉ những ai đón nhận lời nghiêm huấn mới khả dĩ nên khôn. (Cn 15:5 và Cn 19:20)

Những người đã được thanh tẩy, được tinh luyện thì thật hạnh phúc vô cùng. Thật vậy, ngôn sứ Malakhi chứng minh: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Giuđa và của Giêrusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.” (Ml 3:3b-4) Cái cũ được bỏ qua, và cái mới lại bắt đầu. Tuyệt biết bao!

Quả thật, niềm hạnh phúc cứ dâng trào, khôn tả. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào.” (Tv 24:7 & 9) Đức Vua đó không ai khác chính là “Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng, Đức Chúa oai hùng khi xuất trận.” (Tv 24:8 và 10) Niềm vui không thể giấu được, chắc chắn phải lên tiếng, cùng nhau hô vang tán dương Chúa suốt cả cuộc đời chúng ta: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.” (Lc 19:38) Chúng ta chân thành ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài, không chỉ Ngài xứng đáng được tôn vinh mà chính chúng ta lại được ban ơn cứu độ. Thật là quá đỗi kỳ diệu!

Cái gì ra cái nấy, không thể lẫn lộn. Rất rạch ròi. Tông đồ Phaolô giải thích: “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng MANG LẤY HUYẾT NHỤC đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.” (Dt 2:14-15) Tại sao? Lý do thế này: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. Bởi thế, Người đã phải NÊN GIỐNG anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và TRUNG TÍN trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” (Dt 2:16-17)

Có một lý do đặc biệt hơn: “Vì bản thân Người đã TRẢI QUA THỬ THÁCH và ĐAU KHỔ, nên Người có thể CỨU GIÚP những ai bị thử thách.” (Dt 2:18) Đó là một thực tế minh nhiên. Vì về phương diện nhân loại, người ta chỉ có thể CHO những gì mình CÓ, không có thì không thể cho; hoặc người ta càng dày dạn kinh nghiệm thì người ta càng khôn ngoan, càng có thể tư vấn cho người khác. Thật vậy, chí sĩ Phan Bội Châu đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả – Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”

Ngay hôm song thân đưa Hài Nhi Giêsu đến Đền Thờ để dâng cho Thiên Chúa theo Luật truyền, ông Simêôn được Thần Khí thúc đẩy nên ông cũng lên Đền Thờ lúc đó. Ông vui mừng ẵm Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca “Nunc Dimittis” (An Bình Ra Đi – Lc 2:29-32): “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ. Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, Là vinh quang của Israel Dân Ngài.” Ông thực sự mãn nguyện vì đã tận mắt nhìn thấy Đấng Cứu Thế mà ông hằng mong đợi. Và ông không còn muốn gì hơn nữa.

Thật bất ngờ, cả Đức Maria và Đức Giuse đều ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về Con Trẻ. Sự việc xảy ra lạ lùng quá chừng! Sau đó, ông Simêôn chúc phúc cho hai Ông Bà, và nói với Thân Mẫu của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà.” (Lc 2:34-35) Ôi chao, một lời tiên tri rất đáng “quan ngại”. Thế nhưng Đức Maria tỏ ra bình tĩnh, không bàng hoàng, chỉ thầm lặng ghi nhớ và suy niệm hằng ngày. Sự im lặng đôi khi còn nói nhiều hơn chính những lời nói.

Tuy nhiên, cuộc sống luôn phức tạp hơn chúng ta tưởng, và người ta thường cho rằng tin vào số mệnh là mê tín dị đoan. Thế nhưng lại không phải như vậy. Thật vậy ư? Tại sao thế? Bởi vì, xét theo tâm linh, mỗi người trong chúng ta đã được Thiên Chúa QUAN PHÒNG và TIỀN ĐỊNH từ đời đời, nghĩa là ai cũng có một “số mệnh” riêng – thế nhân gọi là định mệnh, nhưng về tâm linh thì không như thế, và mang ý nghĩa tích cực hơn.

Từ xưa, chính ngôn sứ Isaia đã xác định: “Đức Chúa là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.” (Is 49:5) Thánh Phaolô cũng nói: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10) Đó là định mệnh của các tín nhân, bởi vì “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.” (Is 49:1)

Thánh sử Luca cho biết một sự lạ khác: Ngày hôm đó cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase, đã tám mươi tư tuổi. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá. Bà không rời bỏ Đền Thờ, luôn ăn chay, cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Ngài cứu chuộc Giêrusalem.

Có vẻ bình thường đối với mọi diễn tiến, thế nhưng đó lại chính là Thánh Ý của Thiên Chúa, vì Ngài thấu suốt mọi sự, chắc chắn không có gì ngoài tầm kiểm soát của Ngài: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv 139:1-5) Ngay cả một sợi tóc mong manh mà Ngài cũng quan phòng và tiền định rồi, huống chi con người, loài thụ tạo quý giá của Ngài.

Hoàn tất “thủ tục” theo Luật truyền, Đức Maria và Đức Giuse trở về nơi cư ngụ ở Nadarét, miền Galilê. Còn các tín nhân chúng ta, những người cũng đã được thanh tẩy qua Bí tích Rửa Tội, được thánh hóa qua Bí tích Thêm Sức, rồi lại thường xuyên được thanh tẩy qua Bí tích Hòa Giải. Cuộc đời Kitô hữu là một chuỗi dài của Ơn Thánh. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực noi gương Đức Kitô để sao cho “ngày càng LỚN LÊN, thêm VỮNG MẠNH, đầy KHÔN NGOAN, và hằng được ÂN NGHĨA cùng Thiên Chúa.” (Lc 2:40) Cuộc sống tín nhân là chuỗi tháng ngày “giặt đời” không ngừng – hoàn thiện như Cha trên trời. (Mt 5:48) Thánh nhân có quá khứ, tội nhân có tương lai. Cứ dần dần, từng chút, từng bước,… từ từ đến gần Chúa hơn.

Nhờ Ánh Sáng Chúa Giêsu soi đường thì sẽ không lạc lối, bởi vì chính Ngài là ÁNH SÁNG THẾ GIAN. (Ga 8:12; 1 Ga 1:5) Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa là Nguồn Ánh Sáng và Ơn Cứu Độ của tôi.” (Tv 27:1) Chúa Giêsu đã minh định: “Tôi là CON ĐƯỜNG, là SỰ THẬT và là SỰ SỐNG.” (Ga 14:6) Và Ngài cũng đã xác nhận: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12)

Lạy Thiên Chúa là Nguồn Sáng, xin hướng dẫn chúng con luôn đi đúng đường lối của Ngài, xin tẩy rửa và thanh luyện chúng con để xứng đáng với Ngài, và xin biến chúng con thành ánh nến đức tin chiếu soi nơi tăm tối. Trong những ngày đầu năm 2020, nhân loại đã ngạo mạn nên tự tạo đại dịch Coronavirus mang tên loài quỷ đỏ Vũ Hán, xin Ngài tha thứ và cứu thoát những người thành tín. Chúng con chân thành sám hối và cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

 

Exit mobile version