LỄ PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9.
———
1. Đấng chiến thắng (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Mầu nhiệm phục sinh trong đời sống (Lm. Thái Nguyên)
3. Quán trọ trần gian (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
4. Cuộc chạy đua của lòng mến (Lm. Ngọc Dũng, SDB)
5. Chúng tôi đã thấy và chúng tôi đã tin (Jorathe Nắng Tím)
6. Chạy về phía Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
7. Tin mừng Phục sinh (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
8. Mộ trống (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Chúa Kitô phục sinh, nền tảng niềm tin Kitô giáo (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
10. Niềm xác tín Chúa phục sinh (Lm. Xuân Hy Vọng)
11. Thiên Chúa không chết (Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ)
12. Ông đã thấy và đã tin (Lm. Đan Vinh)
1. Hãy vui lên (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Đường Em-mau, đường thương xót (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Niềm vui Phục sinh (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
4. Phục sinh đem lại sự biến đổi (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Chúa đã sống lại thật rồi (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Ai sẽ lăn tảng đá? (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Đức Giêsu vẫn sống (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
8. “Chúa đã sống lại! Halleluya!” (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
9. Niềm tin Phục sinh (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
10. Xác tín (Trầm Thiên Thu)
11. Ông đã thấy và đã tin (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
12. Đã thấy và đã tin (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
13. Sức mạnh Phục sinh (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một chi tiết nhỏ trong trình thuật thương khó của Thánh sử Gioan đáng chúng ta lưu ý: ngôi mộ Chúa Giêsu được an táng là một ngôi mộ mượn của người khác. Tác giả viết như sau: “Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai”. Thánh sử rất cẩn thận và chi tiết, khi nói đến một ngôi mộ mới, lại còn nhắc thêm: “chưa chôn cất ai”. Sự kiện Chúa Giêsu được an táng trong ngôi mộ mượn của người khác diễn tả sự nghèo khó đến tột cùng của Con Thiên Chúa làm người. Khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, Chúa không có đến một mảnh vải che thân. Hơn thế nữa, những kỳ lão, biệt phái và người dân thành Giêrusalem đi qua còn buông lời chế diễu Người. Trên thập giá, Người trở nên người nghèo hơn hết trong số những người nghèo. Không chỉ nghèo về vật chất, khái niệm “nghèo” còn được thể hiện qua sự tín trung và phó thác nơi Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Việc Chúa Giêsu được an táng trong một ngôi mộ mượn, cũng cho chúng ta thấy một góc cạnh khác của mạc khải. Thông thường, khi ta mượn của ai cái gì, ta chỉ dùng tạm, sau đó trả lại cho người có quyền sở hữu. Đức Giêsu được an táng trong ngôi mộ mượn, và Người cũng chỉ ở đó một thời gian ngắn. Đến ngày thứ ba, Người đã phục sinh, vinh quang sáng láng bước ra khỏi mồ. Ngôi mộ này chỉ là mượn. Điều này làm chúng ta liên tưởng tới con lừa Chúa cưỡi khi tiến vào thành Giêrusalem, cũng là con lừa đi mượn (x Lc 19,28-34). Phòng tiệc ly nơi Chúa mừng lễ Vượt Qua cũng là phòng đi mượn (x. Lc 22,7-13). Thân xác của Người không nằm yên trong mồ tối và chịu hư nát do tác động của thời gian. Ngôi mộ mượn ấy chỉ là điểm tạm dừng, chỉ là thời gian lắng đọng để giúp chúng ta suy tư về sự chết và sự sống nơi Thiên Chúa cũng như nơi con người. Đức Giêsu phục sinh đã chứng minh với chúng ta quyền năng Thiên Chúa nơi kiếp sống nhân sinh. Giây phút Chúa sống lại là một thời khắc quan trọng của lịch sử. Đó cũng là một điều phi thường của đức tin.
Trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, sự sống đã chiến thắng sự chết. Khi bị bắt ở vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nói với những người lính Do Thái: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22,53). Những gì xảy ra liên tiếp sau đó, cho thấy có vẻ như quyền lực tối tăm đã chiến thắng. Những kinh sư và người biệt phái, thậm chí cả thày Thượng tế, đều hả hê trước cái chết của Chúa Giêsu, vì họ đã diệt được một đối thủ. Đối thủ này dám lên án họ với những lời lẽ gay gắt. Sự phục sinh của Chúa đã đảo ngược tình thế. Sự sống đã chiến thắng sự chết. Đức Giêsu đã sống lại như Người đã nói trước đó. Cái chết và quyền lực của tối tăm đã thất bại. Sau này, thánh Phaolô đã mạnh dạn thách thức: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1 Cr 15,55).
Trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, sự thiện đã chiến thắng sự ác. Trước những lời vu khống của một số kỳ lão Do Thái, trước sự hành hạ phỉ nhổ của quân lính Rôma, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường đón nhận. Người không dùng bạo lực để đối lại với bạo lực. Người như con chiên hiền lành bị đem đi xén lông. Chúa Giêsu là nạn nhân của bạo lực, của ghen ghét và hận thù. Cái chết trên thập giá và nhất là lời Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết mình chính là sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác. Qua cái chết trên thập giá, Chúa nói với chúng ta: ở đời này, không phải lúc nào sự chết cũng là một thất bại, và không phải lúc nào kẻ mạnh hơn cũng là người chiến thắng. Đem hận thù đối lại với hận thù, chỉ làm cho hận thù càng chồng chất. Đem tình yêu vào nơi oán thù, sẽ làm cho hận thù tiêu tan. Đời sống cụ thể của chúng ta đã hơn một lần chứng minh điều ấy.
Trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, niềm hy vọng chiến thắng sự thất vọng. Kể từ khi Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, cây gỗ gồm một thanh ngang và một thanh dọc đã trở thành biểu tượng của hy vọng đối với các Kitô hữu. Đây không phải là sự ru ngủ, mua chuộc hay mị dân. Trái lại, niềm hy vọng đến từ quyền năng của Thiên Chúa. Hãy nhìn xem hai người trộm bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu: một người khước từ tin vào Chúa và thậm chí phê phán thách thức Người; trái lại, người kia lại cầu xin với lòng thành tín cậy trông. Người “trộm lành” đã được Chúa hứa ban thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sự kiện này nhắc nhở chúng ta: dù tội lỗi đến đâu cũng không mất niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh đến gặp những ai đang mang gánh nặng cuộc đời, Người mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28),
Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh đến nâng đỡ những ai đang kiếm tìm chân lý và ý nghĩa cuộc đời, nhất là các bạn trẻ. Người khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,16).
Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh đến đổi mới tâm hồn những ai tin vào Người, với niềm xác tín “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16.16).
Ngày hôm nay, thế giới Kitô giáo đứng trước ngôi mộ trống và mang tâm trạng như tông đồ Gioan: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Ngôi mộ mượn của người khác chỉ là một điểm dừng chân của Chúa Giêsu. Người đã sống lại. Người đã chiến thắng tử thần và lòng hận thù ghen ghét. Người cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang đau khổ chán chường do sức ép của gánh nặng cuộc đời. Ngôi mộ của người tín hữu cũng chỉ là nơi ở tạm, đợi ngày thân xác được phục sinh trong ngày tận thế. Mỗi chúng ta, khi mừng lễ Phục Sinh, hãy cùng với Chúa chiến thắng những tội lỗi bủa vây xung quanh chúng ta. Như thế chúng ta sẽ trở thành những người tự do, nhờ ân sủng của Đấng Phục sinh.
MẦU NHIỆM PHỤC SINH TRONG ĐỜI SỐNG
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Chúng ta hân hoan mừng ngày Đức Kitô Phục Sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chịu chết trên thập tự, và mai táng trong mồ. Đó là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Đúng như thánh Phaolô đã xác tín: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cr 15,14). Tin vào Chúa Phục Sinh là cả một chặng đường dài trong cuộc sống. Nói đến Tin là nói đến Yêu, hay trái lại cũng thế. Đó là cặp sóng đôi trong đời sống Kitô hữu.
Nhờ lòng mến sâu xa mà Madalena đã khám phá ra mồ trống trước tiên, nhưng rất tiếc điều đó lại bị đóng khung trong một tình cảm rất tự nhiên, rất “người”. Chị đã để cho nỗi buồn khổ lấn át, khiến cho tâm trí không còn tỉnh táo và sáng suốt, để nhận ra sự thật phía sau các dấu chỉ. Đối với Madalena, tất cả kể như đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa, chua chát, một thực tế phũ phàng trĩu nặng nỗi âu lo, sợ hãi và u sầu. Chị chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong ngôi mộ, nhưng sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài ngôi mộ (Ga 20, 11-17), ở ngoài sự đau xót cho một quá khứ đã qua, ở ngoài sự bám níu vào một cách thế, hay một hình thức cố định nào đó.
Gioan cũng rất yêu Thầy, nhưng tình cảm của ông được đức tin hướng dẫn, nên ông khám phá ra ý nghĩa của ngôi mộ trống, và các tấm khăn đã được xếp gọn gàng như dấu chỉ của một trật tự mới (x. Mt 9, 17). Ông đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 8). Ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết ngoài ngôi mộ trống. Nhưng đối với Gioan, ngôi mộ không trống, không vương mùi chết chóc, không im lìm. Ngôi mộ đang nói, khăn liệm đang nói, nó đang mở ra một ký ức sống và giúp Gioan nhận được chân dung thực sự của Đức Giêsu – Thầy mình. Khi quan sát kỹ những dấu vết để lại, ông nhận ra cách thức hành động của Chúa Giêsu, đồng thời nhớ lại những lần Thầy đã tiên báo về sự phục sinh.
Đức tin là sự phối hợp nhịp nhàng của con tim và lý trí, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, nhờ vậy mà qua dấu chỉ hữu hình, người ta nhận ra một thực tại vô hình. Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự hoảng hốt hay thất vọng trước những thất bại và đổ vỡ trong cuộc đời. Là Kitô hữu, chúng ta cần tu tập cho mình có cái nhìn đức tin, để luôn sống bình an và lạc quan trong mọi tình cảnh. Cứ phải ra khỏi tình cảm bi lụy, ra khỏi tâm trạng buồn thương do tác động của hoàn cảnh bên ngoài, phải vượt trên cái “nhìn” một cách vật chất, để “thấy” trong đức tin nhờ sự trầm tĩnh và sâu lắng hơn trước mọi biến cố.
Tuy nhiên, chính tình yêu mến Chúa mới dạy cho người ta có cái nhìn đức tin. Vì yêu nên tin, chính tình yêu mới làm cho ta thấy những điều mà người khác không thấy, hiểu được điều mà người khác không hiểu. Cùng đọc kinh, cùng tham dự thánh lễ, nhưng sự thấu hiểu và cảm nhận về Chúa có nhiều mức độ khác nhau. Có những người cũng chẳng cảm thấy gì cho dù đi bao nhiêu lễ, đọc bao nhiêu kinh. Thiếu sống thân tình với Chúa và không quen với cách hành động của Chúa, ta sẽ chẳng bao giờ nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn hiển hiện trong từng biến cố.
Tình yêu là động lực giúp khám phá hoặc tiến mau hơn, sâu hơn và xa hơn trong mọi biến động cuộc sống. Chính tình yêu làm cho người ta thực sự biết được chiều sâu của các biến cố. Bản thân ta chỉ nhận ra bóng dáng Chúa Giêsu Phục Sinh, và trở nên nhân chứng của Chúa khi nào trái tim ta biết rung động sâu xa trước tình yêu Chúa trong cuộc đời mình. Yêu mến Chúa là một ân ban, nhưng phải bắt đầu từ sự khao khát mãnh liệt nơi lòng mình.
Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh luôn bao trùm mọi ngõ ngách cuộc đời chúng ta, biểu hiện ở những cuộc vượt qua nho nhỏ như:
– Khi chúng ta biết hàn gắn những đổ vỡ bằng tình yêu thương.
– Khi chúng ta biết khoan dung tha thứ, dẹp tan hận thù, chia rẽ, oán hờn.
– Khi chúng ta từ bỏ những ích kỷ để quảng đại hiến thân cho Nước Trời.
– Khi chúng ta đoàn kết yêu thương, mở lòng ra với mọi người.
Chính trong những nỗ lực vượt qua đó trong đời sống hằng ngày, mà chúng ta mới hân hoan ca vang khúc hát khải hoàn, vì Chúa đã sống lại thật trong chính đời sống mình. Alleluia! Alleluia! Alleluia!
Cầu nguyện
Lạy Cha!
Mọi đau khổ sẽ trở nên vô ích,
mọi hy sinh sẽ trở thành vô dụng
nếu đau khổ không đưa tới vinh quang,
và hy sinh không đem về vinh thắng.
Cái chết sẽ là một xúc phạm to,
khi mất đi những gì con từ bỏ
đời người cũng sẽ là một vô nghĩa,
nếu nỗ lực vượt qua phải chia lìa.
Thế nên con không hề lo liệu,
trước mọi đau thương mình phải chịu,
vì là chết đi con người cũ,
để được sống lại mãi thiên thu.
Lạy Đức Kitô, Đấng Phục Sinh!
Ngài là Đường cho đời con dấn bước,
là Sự Thật con ao ước dấn thân,
là Sự Sống con quyết chí gieo trồng,
là Điểm Hẹn con khát mong hạnh ngộ.
Xin cho con cảm nghiệm ơn phục sinh,
đang thấm nhập tâm hồn thân xác con,
đang luân chuyển qua từng biến cố,
đang sinh động trong từng liên hệ,
đang lan tỏa vào mọi hoạt động,
đang biến đổi đời sống con người.
Lòng con hân hoan dâng lời cảm tạ,
trước mầu nhiệm phục sinh thật cao cả,
đã trở thành một khúc khải hoàn ca,
cho nhân loại nguồn sống mới chan hòa,
và đời con hôm nay được thánh hóa,
trong vui mừng tiến bước về nhà Cha. Amen.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Khi nói về những nơi chúng ta đến rồi đi người ta dùng rất nhiều tên gọi khác nhau như: ở trọ, ở đậu, ở tạm . . . Và dường như trong cuộc đời dương thế này thì chẳng có nơi nào là định cư vĩnh viễn. Tất cả đều là tạm bợ như bài thơ “Ở Trọ” của Trịnh Công Sơn đã diễn tả:
“Con chim ở đậu cành tre, Con cá ở trọ trong khe nước nguồn“
Hình ảnh con chim đong đưa trên cành tre, con cá lững lờ trong dòng nước như những bức tranh tuyệt đẹp, nhưng cũng rất vô thường, mong manh. Vạn vật đều đi vào vòng tử sinh như kiếp người đến rồi đi nơi quán trọ trần gian:
“Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời”
Và ngay cả cái đẹp của mây và nắng cũng rất mong manh, vì nó cũng mau tan biến.
“Mây kia ở đậu từng không,
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người“
“Mây kia” và “nắng ấy” cũng chỉ trong chớp mắt rồi cũng tan biến. Điều quan yếu là vạn vật tuy vô thường nhưng vẫn tác động vào nhau. Cành cây chuyển động theo gió, dòng nước luân lưu theo nguồn, và dẫu biết rằng dòng đời hợp rồi tan nhưng ai cũng mong được ở gần người mình thương, để ở trọ nhau trong đôi mắt, trong trái tim, trên đôi chân . . .
“Xin cho về trọ gần nhau. Mai kia dù có ra sao cũng đành“.
Trọ gần nhau đề hiểu nhau, thương nhau và san sẻ cho nhau chút tình đồng loại. Còn “Mai kia dù có ra sao cũng đành” dường là một bế tắc của kiếp người. Vì con người dường như mù tịt với “mai kia” khi rời quán trọ trần gian rồi sẽ đi đâu hay về đâu?
Chết rồi sẽ đi đâu trong cõi hồng trần này? Chẳng một triết gia nào tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng có một Đấng đã tự mình chết rồi sống lại. Sự phục sinh của Ngài đã trả lời cho mọi vấn nạn về kiếp sống con người. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền”.
Như vậy sự phục sinh của Đức Ky-tô là câu trả lời đầy đủ cho vấn nạn sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Ngài sẽ lau khô nước mắt của nhân sinh; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tùy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa chịu mục nát thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong vinh quang với Chúa muôn đời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau sẽ cũng được sống lại với Người trong vương quốc trường sinh. Amen
Lm. Ngọc Dũng
Chúng ta đang tìm kiếm gì trong cuộc sống này? Tiền tài và danh vọng? Nghề nghiệp và cơm áo? Tình yêu và cảm thông? Ai trong chúng ta cũng có một mục đích để sống, để tìm kiếm. Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta vì quá lo lắng tìm kiếm những “thực tại dưới đất” mà quên mất rằng mình cũng phải tìm kiếm những “thực tại trên trời” nơi mà kho tàng của chúng ta không bị mối mọt đục khoét hay dòi bọ gặm nhấm. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy các tín hữu Côlôsê rằng: “Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thánh Phaolô không có ý nói là chúng ta không quan tâm gì đến những thực tại trần thế. Chúng ta phải quan tâm. Điều Ngài muốn nói cho chúng ta là những thực tại trần thế không phải là đích điểm của chúng ta. Chúng chỉ là những phương tiện để chúng ta đạt đến những thực tại trên trời. Vì vậy, chúng ta không “ngủ quên” trong những thực tại trần thế mà quên rằng khi chết, chúng ta phải bỏ chúng lại đằng sau. Chúng ta phải nhớ rằng: “anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:3). Mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu phải được thực hiện trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã cùng chết với Chúa Giêsu, chết đi con người cũ của thế gian để sống một cuộc sống mới của nước trời. Đây chính là ý nghĩa đích thật của Mùa Phục Sinh mà chúng ta bắt đầu hôm nay và chúng ta được mời gọi hiện thực hoá ý nghĩa đó trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Nhưng đâu là những dấu hiệu cho tôi biết là tôi đang sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu?
Việc Chúa Giêsu phục sinh là chân lý tuyệt đỉnh của niềm tin của chúng ta. Giáo Huấn của Giáo Hội dạy chúng ta rằng: “Đức Giêsu Phục Sinh là chân lý tuyệt đỉnh của đức tin Kitô giáo, được cộng đoàn tín hữu tiên khởi tin và sống như là chân lý trung tâm, được Truyền Thống lưu truyền như chân lý căn bản, được các văn kiện Tân Ước xác lập, được rao giảng như phần chủ yếu của mầu nhiệm Vượt Qua và Thập Giá: Đức Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã chết để chiến thắng tử thần và ban sự sống cho kẻ đã chết” (Sách GLGHCG, số 638). Nhưng đâu là bằng chứng phục sinh của Chúa Giêsu? Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài đọc 1 và bài Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những “bằng chứng” về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau chia sẻ về những “bằng chứng” này và rút ra những đặc điểm cho biết chúng ta đang sống mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Chứng cớ thứ nhất, “những chứng nhân mắt thấy tai nghe.” Đây là bằng chứng quan trọng nhất mà chúng ta thường đòi hỏi nơi những người làm chứng. Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta lời chứng của Thánh Phêrô. Trước tiên, chúng ta tự hỏi: Ở đâu Thánh Phêrô có được sự can đảm để làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không phải đã chứng kiến sự phục sinh của Chúa Giêsu? Người mà trước khi Chúa Giêsu phục sinh đã hèn nhát chối Ngài ba lần, giờ lại mạnh dạn không sợ hãi làm chứng cho Ngài: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41). Chứng cớ thứ nhất mời gọi chúng ta học từ Thánh Phêrô và các tông đồ khác, biết làm chứng cho Chúa Giêsu cách không sợ hãi qua một đời sống mới, một đời sống đụng chạm đến tình yêu của Ngài trong đời sống phụng vụ và cầu nguyện, trong đời sống phục vụ và yêu thương, trong đời sống tha thứ và cảm thông. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho biết chúng ta đang sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu: Làm chứng cho Chúa Giêsu qua đời sống tốt lành, thánh thiện của mình.
Chứng cớ thứ hai, “ngôi mộ trống.” Theo truyền thống của Giáo Hội, hình ảnh “ngôi mộ trống” là một trong những chứng cớ quan trọng về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta trích ở đây Giáo Huấn của Giáo Hội trình bày về chứng cớ này: “Trong biến cố phục sinh, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống, Tự nó, sự kiện này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân xác Đức Kitô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác (x. Ga 20:13; Mt 28:11-l5). Dầu vậy, mọi người đều coi ngôi mộ trống là dấu chỉ chủ yếu. Việc phát hiện mộ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Chúa sống lại. Đó là trường hợp các phụ nữ đạo đức (x. Lc 24:3,22-23), tiếp đến là Phêrô (x. Lc 24:l2). Khi vào trong mồ trống và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20:6), người môn đệ Đức Giêsu yêu quý” (Ga 20:2) khẳng định rằng: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8). Điều này giả thiết rằng: khi thấy mộ trống (x. Ga 20:5-7), ông nhận ra việc mất xác Chúa không phải là do loài người, và Đức Giêsu đã không đơn gian trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp Ladarô vậy (x.Ga 11,44)” (Sách GLGHCG, số 640). Thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hay rằng, Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến không tin và không hiểu phục sinh là gì cho đến khi nhìn thấy ngôi mộ trống: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20:6-9).
Ngoài hai chứng cớ trên, chúng ta còn có chứng cớ thứ ba là những lần hiện ra của Chúa Giêsu. Chứng cớ [thứ ba] sẽ được tường thuật trong những bài Tin Mừng của các Chúa Nhật Phục Sinh. Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy gẫm về Lời Chúa trong bài Tin Mừng để nghe Chúa muốn nói gì với chúng ta.
Một trong những dấu chứng rõ ràng cho sự phục sinh của Chúa Giêsu là sự kiện ngôi mộ trống. Đây là điều được trình bày trong Tin Mừng hôm nay. Trong khi Tin Mừng Nhất Lãm mở rộng trình thuật về những người phụ nữ đến mộ, thấy ngôi mộ mở, xác của người không có ở trong mộ, và nhận được giáo huấn Phục Sinh và sứ điệp cho các môn đệ của Chúa Giêsu (x. Mc 16:1-8a; Lc 24:14,24 nói đến việc Phêrô hoặc một số môn đệ đi kiểm tra những gì được báo), Thánh Gioan trình thuật sự kiện ngôi mộ trống cách ngắn gọn về sự kiện Maria Mácđala khám phá ra ngôi mộ trống theo sau với trình thuật dài về Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu tại ngôi mộ trống. Sự kiện này có sự tương đồng với cuộc thăm viếng của họ trong câu chuyện thứ hai khi Maria gặp gỡ Đức Kitô phục sinh (x. Ga 20:11-18). Câu chuyện này cũng chứa đựng những chi tiết liên quan đến ngôi mộ trống được tìm thấy trong các truyền thống khác: hình ảnh các thiên thần, và sứ điệp được chuyển đến các môn đệ. Đối với Tin Mừng Thánh Gioan, không phải ngôi mộ trống cũng không phải những lần hiện ra của Chúa Giêsu chứa đựng ý nghĩa trọn vẹn của Phục Sinh. Sứ mệnh của Chúa Giêsu chỉ được hoàn thành với việc Ngài trở về với Chúa Cha và vinh quang mà Ngài có được “trước khi tạo thành thế giới” (Ga 20:17; 3:13; 6:51; 7:33; 13:2-3; 14:4,28; 16:5,17,28; 17:13).
Thánh Gioan bắt đầu trình thuật bằng việc đề cập đến Maria Mácđala, một người trong nhóm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19:25). Maria Mácđala là người đầu tiên được đề cập đến trong danh sách những người phụ nữ đến viếng mộ trong Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mc 16:1; Mt 28:1; Lc 24:10). Chi tiết đầu tiên chúng ta cần lưu ý là thời gia Maria Mácđala đên mộ: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (Ga 20:1). Theo truyền thống, sự quy chiếu cho sự kiện ngôi mộ trống xảy ra vào lúc rạng đông của ngày sau ngày sabát. Thánh sử có thể đã thêm bóng đêm để đưa vào trong ánh sáng những hình tượng của Tin Mừng. Theo Tin Mừng của Thánh Gioan, vì sự kiện xức dầu của Chúa Giêsu chỉ hoàn thành trong cảnh Chúa Giêsu được chôn trong mồ, nên bóng đêm không phải là động lực cho việc Maria đi thăm mồ Chúa Giêsu. Nhìn chung, các môn đệ không hiểu gì về sự kiện ngôi mộ trống cho đến khi Chúa Giêsu Phục Sinh xuất hiện với họ. Chi tiết này mời gọi chúng ta suy gẫm về những giây phút khó khăn và đau buồn trong cuộc sống, giây phút mà chúng ta không hiểu gì ngoài cái trống rỗng của sự chết chóc. Chúng ta chỉ có thể hiểu tất cả mọi sự khi chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh từ cõi chết.
Phản ứng đầu tiên của Maria Mácđala khi thấy ngôi mộ trống là “chạy về” báo tin cho các môn đệ: “Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: ‘Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu’” (Ga 20:2). Maria đã diễn tả sự quan tâm của mình ba lần về việc xác Chúa Giêsu bị lấy đi khỏi mộ (x. 20:2,13,15). Trong những lời này, chúng ta thấy Maria vẫn chưa tin vào sự phục sinh mà chỉ nghĩ là người Do Thái đã lấy xác Chúa Giêsu khỏi mộ và không biết họ để Ngài ở đâu. Theo các học giả Kinh Thánh, những lời này âm hưởng lại những bản văn trước đó trong Tin Mừng Thánh Gioan nói về việc không ai biết Chúa Giêsu đi đâu. Đứng trước sự không biết Chúa Giêsu ở đâu của Maria, Tin Mừng đã đưa ra hai câu trả lời cho việc Chúa Giêsu ở đâu: (1) Ngài về với Chúa Cha (x. Ga 13:1-3; 14:12,28; 17:21-26), và (2) ở lại với các môn đệ của Ngài (x. Ga 14:3,18,20,23,28).
Phản ứng của Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu thương khi nghe tin là “chạy đi” đến nơi Chúa Giêsu được chôn cất: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước” (Ga 20:3-4). Điều đáng để chúng ta suy gẫm ở đây là hành động ‘chạy’ của hai môn đệ. Theo các học giả Kinh Thánh, hành động này của hai môn đệ nói về một sự “căng thẳng” đang xảy ra trong cộng đoàn của Thánh Gioan, đó là sự cạnh tranh giữa ‘cơ cấu’ [hiện thân là Phêrô] và ‘đặc sủng’ [hiện thân nơi người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến]. Tuy nhiên, sự căng thẳng, ganh đua ở đây chỉ xoay quanh việc ai chạy nhanh đến với Chúa Giêsu. Nói cách khác, đây là một cuộc đua tranh giành sự gần gũi với Chúa Giêsu. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng thường ganh đua và tranh giành hơn thua về những thứ mang tính trần thế. Hình ảnh của hai môn đệ chỉ ra cho chúng ta rằng: những người môn đệ Chúa Giêsu chỉ có một cuộc tranh đua, đó là cuộc tranh đua đến gần Chúa Giêsu. Đây chính là hành trình đức tin mà người môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương đã thực hiện: “Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20:5-8). Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến là người gần Chúa Giêsu nhất trong bữa tiệc ly (Ga 13:25), chính tình yêu sâu đậm dành cho Chúa Giêsu đã đưa ngài đến ngôi mộ trước. Nhưng ngài không vào trong mộ. Điều này chỉ ra rằng đối với người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến, đức tin chính là mục đích tối hậu của sự kiện viếng thăm ngôi mộ trống. Như vậy, mỗi lần đến với Chúa Giêsu, đức tin của chúng ta phải được củng cố và trở nên vững mạnh hơn.
CHÚNG TÔI ĐÃ THẤY VÀ CHÚNG TÔI ĐÃ TIN
Jorathe Nắng Tím
Kinh nghiệm đức tin của Maria Mácđala là “thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”, và Đức Giêsu phục sinh, mà bà tưởng là người làm vườn đã gọi tên bà và nói với bà (x. Ga 20,1.16-17); kinh nghiệm đức tin của Phêrô và Gioan là nhìn vào trong mộ và thấy những băng vải, và khăn che đầu Đức Giêsu (x.Ga 20,5.6-7); kinh nghiệm đức tin của hai môn đệ trên đường Emmau là lòng họ “đã bừng cháy lên” khi nghe “Đức Giêsu nói chuyện và giải thích Kinh Thánh”, nhưng chỉ đến khi “đồng bàn với họ”, mắt họ mới mở ra và nhận ra Ngài (x. Lc 24,30-32); kinh nghiệm đức tin của Nhóm Mười Hai là được thấy “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20,19-20). Và tất cả những người “được kinh nghiệm “đều tin” Chúa đã sống lại thật!” (Lc 24,34).
Các bài đọc của chúa nhật Phục Sinh cho chúng ta gặp gỡ những người được Thiên Chúa “tuyển chọn từ trước” để được thấy Ngài phục sinh, như sách Công Vụ Tông Đồ khẳng định: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (Cv 10,40-42).
Như thế, kinh nghiệm đức tin phải được dẫn đến niềm xác tín vào Đức Giêsu phục sinh, và đưa đến hành động “lên đường” làm chứng “Chúa đã sống lại như lời Ngài phán hứa!”, là sứ vụ của những ai “đã thấy và đã tin”.
Quan sát những người đã “thấy Chúa phục sinh”, chúng ta nhận ra ở họ điều này, đó là họ đã thấy và đã tin. Nhưng rất lạ, không một ai trong họ sau khi đã thấy và tin đã giữ riêng cho mình, giấu diếm những gì họ đã thấy và Đức Giêsu, Đấng họ tin, nhưng kể cho mọi người, và loan báo khắp mọi nơi.
Maria Mácđala là người đầu tiên đã từ mộ vội vã chạy về gặp hai môn đệ Phêrô, Gioan và báo tin cho các ông: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2), để từ “tin khởi đầu rất bối rối” đó, các môn đệ tiếp tục kể cho nhau rất nhiều lần Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra giữa các ông, và từ hơn hai ngàn năm nay Tin Vui: “Chúa đã sống lại!” (Lc 24,34), và “chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20, 25) vẫn tiếp tục được các thế hệ môn đệ Đức Giêsu nối tiếp nhau kể cho mọi người, ở mọi nơi, mọi thời cho đến ngày tận thế.
Thực vậy, người Kitô hữu là người được tuyển chọn để sống kinh nghiệm tương quan cha – con với Thiên Chúa, và nhờ kinh nghiệm “được thấy, được chạm vào, được nếm sự ngọt ngào của Chúa” mà đức tin vốn yếu đuối được ăn rễ sâu và lớn lên mỗi ngày.
Chính nhờ đức tin vững mạnh được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm của tương quan thiết thân với Thiên Chúa, mà sứ vụ làm chứng Thiên Chúa trước mọi người, bằng kể lại “những điều cao cả Ngài đã làm vì thương xót” (x. Lc 1 49-50) của người tín hữu mới có thể thực hiện cách hữu hiệu. Và đó là lý do người tín hữu chúng ta cần trân qúy những kinh nghiệm đức tin, vì rất cần thiết cho sứ vụ truyền giáo, bởi người làm chứng có xác tín nhờ kinh nghiệm “gặp gỡ và sống với” Đức Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại, thì lời chứng “Thiên Chúa yêu nhân loại vô cùng và đến cùng” của chúng ta mới có sức thuyết phục.
Xin Chúa Kitô phục sinh cho chúng ta “được thấy và tin Ngài đã sống lại thật” là hy vọng, phần thưởng, và hạnh phúc đời đời cho những ai tin vào Ngài.
Bông hồng nhỏ
Thầy Giêsu đã bị đóng đinh và đã chết thảm thương trên cây thập giá. Xác của Người được an táng trong mồ. Các phụ nữ đã để ý xem chỗ người ta mai táng Thầy. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Hai môn đệ ấy liền đi ra mộ, họ chạy vội vã vì muốn biết thực hư thế nào. Trước ngôi mộ trống, hai ông đã thấy gì?
Thầy Giêsu chết, bà Maria đau buồn, nhớ thương Thầy rất nhiều. Tình yêu hối thúc bà, tình yêu cho bà can đảm để ra mộ lúc trời còn chưa kịp sáng. Bà Maria thấy tảng đá lăn khỏi mộ thì đã nghĩ ngay rằng: có kẻ đã đem Chúa đi khỏi mộ. Bà không bước vào trong để nhìn xem. Bà vội vã chạy về báo tin cho các hai môn đệ. Nghe bà nói, cả hai ông đã ra tận nơi để nhìn xem ngôi mộ trống. Hai ông vội vã chạy, người môn đệ Đức Giêsu thương mến còn trẻ, khỏe hơn nên chạy nhanh hơn. Ông đến mộ trước nhưng không vào trong mà chỉ cúi xuống nhìn vào trong mộ. Ông Phêrô đến nơi liền bước vào, nhìn thấy các băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Ông bước vào trong ngôi mộ và quả thực xác Thầy không còn ở đó nữa. “Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8). Ông đã thấy những gì mà ông Phêrô đã thấy, đó là các băng vải, khăn che đầu của Thầy mình. Nhưng ông đã tin vào điều gì vậy? Ông nhận ra cách sắp xếp quen thuộc của Thầy. Ngôi mộ trống nhưng những gì đã sắp xếp ở đó lại rất quen thuộc. Có một trật tự mới và bằng ánh mắt của người luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu, ông đã tin, dù ngay lúc ấy cả ông và môn đệ Phêrô đều chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh thì Thầy Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.
Sự bí ẩn của ngôi mộ trống khiến cho cả ba người môn đệ có những phản ứng khác nhau. Dù không hiểu và không hề nghĩ đến việc Thầy Giêsu sẽ phục sinh, cả ông Phêrô và bà Maria đều đã chứng tỏ cho ta thấy rằng: Tình yêu sẽ hối thúc ta can đảm tìm kiếm Thầy Giêsu và mong gặp được Người. Sự kiện ngôi mộ trống có một ý nghĩa đặc biệt với riêng họ. Trong cuộc sống, sẽ có những lúc ta cũng rơi vào những nỗi đau, những buồn phiền. Dường như ta không cảm nhận được sự hiện diện gần bên của Thầy Giêsu, bởi những đau khổ đã làm cho đôi mắt tâm hồn của ta ra u tối. Vẫn có một sự hối thúc mạnh mẽ từ trong trái tim, có một tiếng nói cứ mời gọi ta tìm kiếm Thầy Giêsu. Ta có can đảm chạy băng qua những bóng đêm của đau khổ và tội lỗi để tìm kiếm Thầy Giêsu không? Những khi tìm kiếm Thầy Giêsu, có lẽ ta cũng giống như bà Maria hay ông Phêrô, ta không nghĩ đến lời Thầy đã từng loan báo là ba ngày sau khi chết, Thầy sẽ sống lại. Ta chỉ thấy những gì thực tế phơi bày ra trước mắt ta: một ngôi mộ trống. Hãy cứ tìm kiếm Thầy, hãy chạy đến nơi mà ta nghĩ là có Thầy ở đó, hãy chạy với sức mạnh của tình yêu dành cho Thầy Giêsu. Điều đó sẽ mang lại một giá trị và ý nghĩa đặc biệt cho riêng ta, và điều đó trở thành một kinh nghiệm thật sự rất quý giá đối với ta. Nếu ta là người vẫn thường sống thân thiết với Thầy Giêsu, có thể ta sẽ nhận được đức tin ngay khi vừa thấy những dấu chỉ mà Người để lại. Đó là một ơn đặc biệt dành cho ta. Chắc chắn rằng, những ai kiên trì tìm kiếm Chúa, Người sẽ cho gặp, vì hơn ai hết Người mong chờ ta đến với Người biết bao. Người mong chờ ta hơn ta mong chờ Người, Người yêu ta và tìm kiếm ta hơn ta yêu mến và tìm kiếm Người. Ta hãy mở lòng ra để được Thần Khí Chúa Kitô thúc đẩy.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã phục sinh để cho con được sống một sự sống mới, để con được sống trong niềm hạnh phúc của người tràn đầy niềm tin và hy vọng. Xin giúp con luôn can đảm ra khỏi mình, để chạy về phía mà Chúa gợi hứng cho con rằng Chúa đang có đó. Dù có lúc con chỉ thấy một ngôi mộ trống, nhưng đó là điều mà Chúa đã chuẩn bị cho con, để con đón nhận một sự thật quan trọng biết bao: Chúa đã sống lại. Amen.
Thiên San
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối mịt, có một người phụ nữ tên là Maria Mácđala cùng với mấy người bạn đi ra mộ từ sáng sớm. Các bà đi ra mộ của Thầy Giêsu, mới an táng được ba ngày. Hôm qua là ngày Sabat nên các bà không thể đi ra mộ được. Các bà ra mộ của Thầy Giêsu làm gì vậy? Chắc hẳn các bà rất quý mến Người. Chẳng còn tâm trí để sợ hãi, lo lắng cho sự an toàn của bản thân nhưng chỉ còn lại con tim dẫn lối đưa đường. Lúc đi ra tới mộ, thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, một trong số các phụ nữ là bà Maria Mácđala đã vội chạy về báo tin cho Phêrô và môn đệ Đức Giêsu thương mến. “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20, 2). Đó là lời loan báo đầu tiên về Tin Mừng Phục Sinh.
Chúng ta có thể thấy, dường như lời loan báo của Maria Mácđala không hoàn toàn là lời loan báo về việc Đức Giêsu đã sống lại. Vì theo như lời bà nói với hai môn đệ kia thì thông điệp chính mà bà muốn nói chính là việc không thấy xác của Thầy ở đâu. Các bà đoán là có ai đó đã đưa xác Thầy đi và các bà chẳng biết họ đã đưa Người đi đâu. Nếu chỉ dừng lại ở lời loan báo này, chúng ta chưa thể thấy được Tin mừng Phục sinh. Chẳng ai dám nói rằng Thầy đã sống lại. Có thể lúc đó các bà cũng chẳng hề nghĩ đến việc Thầy của mình đã sống lại. Các bà chỉ biết một điều là không thấy xác của Thầy mình. Điều đầu tiên các bà có thể làm lúc này là chạy về báo tin cho các môn đệ.
Sau khi nghe Maria Mácđala báo tin, cả Simon Phêrô và môn đệ Đức Giêsu thương mến liền vội chạy ra mộ để xem chuyện gì đã xảy ra. Môn đệ kia chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đã đến mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. Chẳng biết Simon Phêrô chạy chậm hơn bao nhiêu nhưng cuối cùng ông đã đến nơi, ông vào thẳng trong mộ. Dĩ nhiên là các ông cũng chẳng thấy Thầy mình ở đâu. Các ông chỉ thấy những băng vải còn ở đó. Điều đặc biệt là khăn che đầu của Thầy được xếp gọn, để riêng ra một nơi. Bấy giờ, người môn đệ kia cũng vào, ông đã thấy và đã tin (x.Ga 20, 3-8). Có thể nói, các ông đã quá quen thuộc với cách sống của Thầy mình, chỉ cần nhìn cách sắp xếp các băng vải thôi các ông đã đoán được ai là người đã gấp chúng. Đến đây, chúng ta có thêm những dữ kiện để thấy trọn vẹn hơn Tin mừng Phục sinh.
Quả thực, Đức Giêsu, Chúa của chúng ta đã sống lại hiển vinh. Người đã chiến thắng cái chết và nay Người ở với chúng ta luôn mãi. Nếu đọc tiếp sách Công vụ Tông đồ hay thư của thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy được rằng Đức Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ và mời gọi các ông loan báo Tin mừng này. Chúng ta tự hỏi, sự phục sinh của Đức Giêsu có ý nghĩa gì với tôi? Mỗi người chúng được mời gọi mở lòng đón nhận Tin mừng lớn lao này. Vì như thánh Phao lô đã từng nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14).
Đón nhận Tin mừng phục sinh là cách để chúng ta sống trọn vẹn niềm tin vào Con Thiên Chúa, là cách để chúng ta đón nhận trọn vẹn ân sủng và tình yêu lớn lao của Ngài. Chúng ta hy vọng và tin tưởng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu, Chúa chúng ta, chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Người, được hưởng hạnh phúc đời đời với Người. Hôm nay và ngày mai, chúng ta được mời gọi trở nên sứ giả của Chúa, loan báo Tin mừng phục sinh bằng chính đời sống của mỗi người. Một đời sống có khả năng chuyển tải niềm vui và hy vọng, một đời sống cho đi và yêu cho đến cùng như Chúa chúng ta đã làm. Để nhận ra sự thật về Tin mừng Phục sinh, chúng ta được mời gọi sống mối tương quan thân tình với Ngài để có thể nhạy bén nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa chúng ta qua các dấu chỉ trong đời sống, nhờ đó chúng ta tin tưởng và bước đi theo Chúa mỗi ngày một hơn.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị,có quyền thế,có bằng cấp,có tiền của,có sức mạnh,có tài năng…mới làm nên chuyện. Nhưng Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Theo sách Sáng Thế,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng,không không “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất,đất còn trống rỗng chưa có hình dạng,tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2).
Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái hoang vu trống rỗng của ngôi mộ trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong băn khoăn,Gioan đã thấy và đã tin.
Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Sau đó hai môn đệ Phêrô và Gioan không còn thấy xác Đức Giêsu trong ngôi mộ mở toang.
Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ, các Thượng tế, Kinh sư và Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say, sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức,mất ăn mất ngủ.Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng,chẳng còn ai nhắc tới.Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ.Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh.
Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nỗi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết nhưng họ đã đối diện với ngôi mộ trống.
Mađalêna khi thấy mộ trống liền nghĩ ngay đến chuyện có ai đã đến lấy xác Chúa mang đi rồi: “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2). Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội vả chạy về báo tin. “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11).
Các thượng tế và các kỳ mục thì lo âu sợ hãi trước hiện tượng mồ trống. Vì thế các ông mới cho tiền hậu hĩ lính canh và bảo những người này phải phao tin là các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác: “Các anh hãy nói như thế này, ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13).
Phêrô và Gioan cùng chạy ra mồ. “Phêrô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20,6-7).
Phản ứng của Phêrô là thinh lặng,ông đang phân vân, không biết nghĩ thế nào và ăn nói làm sao. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối, ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.
Còn Gioan đã thấy và đã tin. Không phải vì hiện tượng mồ trống mà vì những gì Gioan đã thấy. Gioan đã thấy gì? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của ngôi mộ trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Cảnh tượng này làm cho Gioan nhớ lại dấu lạ Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại. Khi Ladarô sống lại liền ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Kinh Thánh nói rằng: Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết rồi mới chỗi dậy từ trong đám kẻ chết mà vào chốn vinh quang (Lc 24,26). Chính những lời đó đã làm cho Gioan tin. Bởi vậy, thấy là nền tảng và bằng chứng cho lòng tin. Nhưng thấy ở đây không phải là thấy những sự kiện bên ngoài mà là thấy ý nghĩa bên trong gắn liền với sự kiện. Tông đồ Gioan thấy sự kiện những băng vải và khăn che đầu, và nhờ nhớ lời Kinh Thánh mà tin.Thấy rồi mới tin là chuyện bình thường. Còn không thấy mà tin mới là phúc, như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,28).
Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm,không rình rang giữa tiếng kèn trống reo hò của toàn dân. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá lấp cửa mồ đã mở toang. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm đã mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Đấng Phục Sinh! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Chúa Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
Đức Kitô đã chiến thắng tử thần,thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài hôm nay đã được “Thần Khí Hoá” và từ đây Ngài sống hoàn toàn bởi Thần Khí,vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Ngài không mặc lấy một thân xác khác, thân xác Phục Sinh của Ngài vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết thập giá, nay thân xác đó được biến đổi, thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Ngài được Thần Khí hoá, không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ để cũng cố đức tin cho họ, chuẩn bị tâm hồn các ông đón nhận Chúa Thánh Thần hầu trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.
Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ ngôi mộ trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức thì chúng ta trở về với đời sống thanh bạch.Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.
Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng người ta không nhận thấy được Ngài vì thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Nói khác đi mỗi tâm hồn chúng ta là một ngôi mộ trống. Ngôi mộ trống là ngôi mộ không còn xác Chúa nhưng còn dấu chỉ Đấng Phục Sinh, đó là khăn liệm và khăn che mặt. Tất cả những gì nhân loại dùng để trói buộc Chúa Giêsu, che mặt Người, cần phải cởi ra và xếp gọn một bên. Gioan đã đi vào ngôi mộ trống, đã nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh và Gioan đã tin. Chúng ta không thấy Chúa nhưng chúng ta thấy ngôi mộ trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người.Ta cũng có thể thấy Chúa trong trong tâm hồn khiêm nhu tự hạ quên mình, trong sự bình an thanh thản của nội tâm. Đó là những dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh ban tặng.
Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền, cuộc sống có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?. Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh, rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vỡ, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao? Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường…
Chúa đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc than tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng. Chúa Phục Sinh đã đẩy mọi tảng đá nặng nề ra khỏi tâm hồn các môn đệ.Từ đây các môn sinh bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
CHÚA KITÔ PHỤC SINH, NỀN TẢNG NIỀM TIN KITÔ GIÁO
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong ba ngày qua, chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã chết thật và được mai táng trong mồ. Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Kitô phục sinh. Đó là một biến cố gây ngạc nhiên, một sự kiện có một không hai trong lịch sử nhân loại và là nền tảng niềm tin của Kitô giáo.
Bởi thế, thánh Phaolô đã xác tín: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả Đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14).
Niềm tin của chúng ta căn bản là tin vào Đấng Phục Sinh và chúng ta đặt hy vọng vào Thiên Chúa Hằng Sống (1 Tm 4,10). Thánh Augustinô nói rằng: “Lòng tin của Kitô hữu là sự phục sinh của Chúa Kitô. Khi tin Chúa Kitô đã chết thì không có gì là khó khăn cả, kẻ ngoại đạo cũng tin như vậy, và tất cả mọi người cũng đều tin như vậy. Nhưng điều cao cả hơn hết là tin Chúa Kitô đã sống lại thật.”
Nhưng tin vào Chúa sống lại không phải là một việc dễ dàng, vì chúng ta vẫn thường nghi ngờ làm sao có chuyện người chết sống lại? Vậy đâu là bằng chứng và nền tảng của niềm tin vào Chúa Kitô đã phục sinh?
Để trả lời câu hỏi này, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta chứng cớ lịch sử về biến cố sống lại của Chúa Kitô. Theo đó, biến cố này đã thực sự xẩy ra trong lịch sử, được nhiều người làm chứng. Những sự kiện sau đây có thể chứng minh sự sống lại của Chúa là có thật:
1- Trước hết, Chúa Giêsu đã chết thật
Bốn Phúc Âm đều kể lại vụ án và cái chết của Chúa xảy ra ngoài thành Giêrusalem là có thật. Chúa đã chết cùng với hai tội nhân và được mai táng trong mồ. Sử gia ngoại giáo Giusepus cũng nói đến cái chết của ông Giêsu trong cuốn sử của mình. Chúa Giêsu đã bị kết án trên thập giá và vào lúc ba giờ chiều ngày thứ Sáu, Người đã tắt thở trước sự chứng kiến của nhiều người, trong đó có Đức Maria, thánh Gioan, thánh Mađalêna và người Do Thái. Nếu Chúa không chết thì làm sao có chuyện phục sinh.
2- Sự cứng lòng tin của các Tông Đồ
Các Tông Đồ là những người bình dân ít học, những người đánh cá đã theo Chúa. Khi thấy Chúa bị bắt và đem đi giết, rồi nhìn thấy Chúa chết trên Thánh Giá, các ông nghĩ rằng mọi sự đã kết thúc và ai nấy bỏ cuộc, trở về nhà mình. Lúc đầu các ông không hề chờ đợi một sự sống lại, họ không thể tin điều đó có thể xảy ra! Khi Chúa sống lại, họ chưa sẵn sàng để tin, Chúa Giêsu phải trách móc họ: “Ôi những kẻ kém lòng tin!” Họ chính là những người lúc đầu nghĩ rằng họ đã bị Chúa lừa gạt. Sau những lần gặp gỡ Đấng Phục Sinh hiện ra, tiếp xúc với họ, các ông mới tin. Quả thế, nếu Chúa không sống lại thì làm sao họ có thể dám chịu bách hại và chết vì Chúa? Họ được lợi lộc gì khi phải chịu hy sinh như vậy?
3- Ngôi mộ trống
Chúa Giêsu được chôn trong một ngôi mộ và việc Chúa chỗi dậy và ra khỏi mồ cũng là một bằng chứng về sự sống lại của Người. Tin Mừng Luca kể các phụ nữ ra mộ Chúa. Các bà hoảng sợ vì không còn thấy xác Chúa mà chỉ thấy một người thanh niên ngồi bên phải nói rằng: Người đã chỗi dậy rồi, Người không còn ở đây nữa (Lc 16,6).
4- Các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh
Cuối cùng, các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh là bằng chứng hùng hồn nhất về việc Chúa đã sống lại. Chúa hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emmaus. Sau đó Người hiện ra với các Tông Đồ và nhiều người khác. Vì nghi ngờ, Chúa cho ông Tôma xem các dấu đinh và cạnh sườn Người, nhờ đó, ông đã tin.
Chứng tá xưa nhất về sự sống lại của Chúa Kitô là lời chứng của thánh Phaolô: “Tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh, Người đã hiện ra với ông Kê Pha rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số đó, phần đông hôm nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người cũng hiện ra với ông Giacôbê rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15,3-8). Những lời này được viết ra vào năm 56 hay 57 sau CN. Vì Phaolô đã gặp Đấng Phục Sinh trên đường đi Đamát trong khi bắt bớ Giáo Hội vào khoảng năm 35 sau CN, nghĩa là khoảng 5 năm sau khi Chúa Kitô chết. Vì thế, đó là một chứng nhân lịch sử rất có giá trị.
Những cuộc hiện ra này chứng minh những điều mới mẻ về Chúa Kitô Phục Sinh. Khi hiện ra, không phải ai cũng có thể thấy Chúa được nhưng chỉ những người Chúa cho thấy, mới thấy Chúa được mà thôi. Bởi vì, thân xác Chúa hoàn toàn khác biệt so với khi trước. Chúa không còn lệ thuộc vào những định luật vật chất. Đấng Phục Sinh có thể đi vào trong nhà mà cửa vẫn đóng kín; Người hiện ra và biến đi theo cách thức hoàn toàn mới mẻ mà con người không thể nắm giữ.
Đây là những bằng chứng lịch sử về sự sống lại của Chúa Kitô. Tuy nhiên, biến cố Chúa phục sinh phải được đón nhận bằng đức tin. Bởi vì, lý trí loài người không thể lý giải được tại sao. Cho nên, chúng ta cần phải có đức tin để hiểu biết và đón nhận biến cố quan trọng này. Tin để hiểu và hiểu để tin là như thế.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin ban cho chúng ta một đức tin mạnh mẽ và vững vàng để chúng ta sống và làm chứng niềm tin Chúa phục sinh cho con người hôm nay. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
Thế giới đảo điên trước tin đồn, tin nóng hổi, nào là người từ cõi chết trở về dương gian, người nằm trong mồ trỗi dậy về với gia đình trước sự bàng hoàng, hoảng sợ của họ hàng bà con, còn người được xác quyết đã lìa thế, nhưng nay trở về, v.v…Theo thói thường, con người chúng ta có xu hướng mong mỏi sự kiện, thông tin ‘shock’, thích bàn tán, bàn luận về ‘thế giế bên kia’, phép lạ này phép lạ kia, v.v… Thế nhưng, đứng trước niềm xác tín, lòng tin Chúa Ki-tô phục sinh, chúng ta có thái độ thế nào, và sống chứng tá ra sao?
Trước tiên, chúng ta cùng tán tạ Thiên Chúa đã thực hiện biết bao kỳ công vĩ đại và cùng chung hân hoan chia san niềm vui Chúa Phục Sinh vì “Chúa đã sống lại thật rồi, Allêluia!”. Thiết nghĩ lời chúc mừng này chính là động lực, niềm xác tín của đời sống Ki-tô hữu chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng khẳng định khi Ngài nói về sự phục sinh của Đức Ki-tô: “Nếu Đức Ki-tô không trỗi dậy từ cõi chết, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng…và nếu Đức Ki-tô không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền…nếu chúng ta chỉ đặt niềm tin vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết” (1Cr 15, 14.17.19). Vì thế, niềm vui Phục Sinh là bài ca tán tụng Thiên Chúa, là kim chỉ nam cho đời sống chúng ta.
Tuy nhiên, Phục Sinh khải hoàn này chẳng phải do công trạng, lòng đạo đức thánh thiện của riêng ta, mà đây chính là cuộc chiến thắng tử thần của Đức Giê-su Ki-tô, và nhờ vào lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa mà chúng ta được thông phần vào niềm hân hoan phục sinh của Chúa Ki-tô. Hơn nữa, một khi chúng ta kết hợp mật thiết với Ngài, đồng chịu tử nạn với Ngài, đóng đinh những sai lầm, tội lỗi, tính hư nết xấu của bản thân, thì chúng ta sẽ cùng được sống lại với Ngài. Ngạn ngữ phương tây có câu: “Có qua con đường thập giá, mới được nhận triều thiên phục sinh” (no cross, no crown). Thật vậy, lắm lúc, chúng ta mong muốn, hồ hởi đón nhận niềm vui, vòng hoa chiến thắng vinh quang, nhưng chúng ta chẳng muốn thông phần chịu tử nạn, trải qua con đường hy sinh, dâng hiến ‘trên thập tự’! Lắm lúc, chúng ta khước từ lời mời gọi ‘uống chén đắng’ với Thầy Giê-su trong mọi giây phút sinh hoạt hằng ngày, ngược lại, chỉ toàn ước mong nhanh nhanh lãnh lấy triều thiên quang vinh!
Trong các bài đọc hôm nay, Chúa Ki-tô phục sinh mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy xác tín, tin vào Người, vì chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống (x. Ga 11, 25). Thứ đến, hãy trở nên nhân chứng cho Chúa Ki-tô phục sinh qua mọi sinh hoạt, mọi nơi, mọi lúc, trong mỗi cử chỉ, lời ăn, lối suy nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề, cách sống xây dựng tình huynh đệ trong cộng đoàn, vì chúng ta là đoàn dân của Chúa Ki-tô phục sinh như chính Đức Hồng y Lu-is An-tô-ni-ô G. Tag-lê, Tổng trưởng Thánh bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các Dân tộc, và trước kia là Tổng Giám mục Địa phận Ma-ni-la, Phi-luật-tân, đã xác tín khi Ngài viết tác phẩm suy tư về ơn gọi cùng đích của người Ki-tô hữu, và sứ mạng của Giáo Hội Công Giáo với tựa đề nguyên bản “The Church: The People of the Resurrection” (tạm dịch: Giáo Hội: Dân Chúa Phục Sinh). Theo ngài, mỗi Ki-tô hữu là một chứng nhân của niềm vui Phục Sinh, chứ không là người ủ dột, buồn sầu. Người Ki-tô hữu là chứng tá sống động của Chúa Ki-tô Phục Sinh, chứ chẳng phải là người vô cảm, vô hồn, chẳng màng đến sự thống khổ của đồng loại. Người Ki-tô hữu là những người con cưng của Giáo Hội, luôn mang trong mình niềm tin Chúa Ki-tô Phục Sinh, luôn mặc lấy con người mới, con người của sự chia san, của sự quên mình, luôn nghĩ cho tha nhân, và đặt Chúa Ki-tô làm chủ, làm trung tâm đời sống mình.
Noi gương bà Ma-ri-a Mag-đa-lê-na, với lòng trìu mến, gắn bó với Chúa Giê-su, và nhất là bà đã đặt Ngài làm chủ, làm trung tâm của mọi sinh hoạt của bà, thế nên bà đã chiến thắng nỗi sợ sệt khi phải một mình ra mộ lúc trời còn mờ tối (x. Ga 20, 1). Bà trở nên can đảm nhanh nhẹn chia san, loan truyền những gì bà cảm nghiệm và đón nhận từ Chúa Phục Sinh. Cũng như Phê-rô, Gio-an đã dật tung cánh cửa khép kín do nỗi sợ hãi, ra khỏi con người cũ, bước tới với niềm xác tín vào Chúa Phục Sinh, và trở nên chứng tá Tin Mừng “ông thấy và ông tin” (x. Ga 20, 9). Tương tự, Phao-lô được mời gọi hoán cải từ một người Biệt Phái bắt bớ các tín hữu tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh, trở thành tông đồ nhiệt thành, sống và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh “…Người đã truyền chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn vinh…” (x. Cv 10, 42). Chúng ta được mời gọi trở nên nhân chứng của niềm tin hân hoan Chúa Phục Sinh trong đời sống thường nhật, và cũng được thông phần vào sự vui mừng trọn vẹn mà Chúa Phục Sinh mang lại cho chúng ta, đó là: ơn cứu độ, vinh quang chiến thắng sự chết.
Chúa đã sống lại thật rồi, Al-lê-lui-a! Chúng ta hãy hân hoan, mừng rỡ, chia san, thông truyền niềm vui Phục Sinh đến hết mọi người, mọi dân nước vì Chúa đã chiến thắng sự chết và sống lại vinh quang.
Trần hoàn vui ca mừng
Vì Chúa đã phục sinh
Khắp nơi trong hoan lạc
Thần chết bị đập tan.
Al-lê-lui-a hoà vang
Muôn dân tung hô chứa chan
Al-lê-lui-a tán dương
Chúa đã sống lại hiển vinh. Amen!
Giuse Phạm Đình Ngọc
Triết gia vô thần người Đức Nietzsche (1844-1900) nổi tiếng với lời tuyên bố: Thiên Chúa đã chết. Từ đó, trào lưu triết học phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa ra sức chứng minh cho luận điểm này. Tuy vậy, nhiều người sẽ gặp khó khăn khi phải chú giải đoạn Kinh Thánh về Tin Mừng Phục Sinh mà hôm nay chúng ta lắng nghe (Lc 24,1-12). Đó là những dữ kiện cho thấy Đức Giêsu là Thiên Chúa và Ngài đã sống lại từ cõi chết.
Nietzsche chỉ đúng nếu xét trong cuộc thương khó của Đức Giêsu. Trong Tuần Thánh, chúng ta chứng kiến Chúa Giêsu phải chịu rất nhiều đau khổ, phải vác thập giá lên đồi Canvê. Sau cùng, rất nhiều người chứng kiến Đức Giêsu đã chết và được mai táng trong mồ. Trang sử của nhân loại chẳng có gì mới lạ nếu Đức Giêsu không sống lại, câu chuyện sẽ chẳng ồn ào nếu Đức Giêsu không phục sinh! Thực tế cho thấy Thiên Chúa không chết[1] là một dữ kiện vừa mang tính lịch sử vừa mang tính thần học.
Bằng chứng của biến cố phục sinh
Các Tin Mừng đều ghi lại dữ kiện ngôi mộ trống để cho thấy đây là bằng chứng đầu tiên liên quan đến việc Đức Giêsu sống lại[2]. Số là ngày thứ nhất trong tuần, một số phụ nữ đi ra mộ sớm để sức dầu cho thi thể Đức Giêsu. Đây là phong tục của người Do Thái, hầu giúp cho xác được phân hủy nhanh hơn. Sáng sớm khi vừa đến mộ, họ đã thấy tảng đá của cửa mộ đã bị lăn sang một bên. Họ cảm thấy có điều gì đó bất thường. Ngạc nhiên hơn khi họ không thấy thi thể Đức Giêsu trong mộ. Trong lúc hoang mang như thế, hai thiên thần hiện ra để báo Tin Mừng Phục Sinh cho các bà. Đức Giêsu đã sống lại và đã ra khỏi ngôi mộ tù túng này. Thời điểm này đánh dấu ngày Chúa Nhật, tức là ngày Chúa Giêsu sống lại.
Cố bình tĩnh trước cảnh tượng lạ lùng này, các phụ nữ đã nhớ lại lời Đức Giêsu nói khi còn rao giảng ở Ga-li-lê: “Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.” (Lc 24,7). Nếu tính về thời gian, Chúa chết vào chiều thứ Sáu, ngày thứ Bảy Chúa yên nghỉ trong mồ, đến rạng sáng ngày Chúa Nhật, Đức Giêsu đã sống lại. Bên ngôi mộ trống lúc này, các bà cảm thấy một niềm vui đang lan tỏa trong tâm hồn. Thay vì buồn sầu hoảng hốt, các bà chạy về báo tin cho các môn đệ.
Nếu bạn và tôi còn khó tin vào Tin Mừng Phục Sinh này, xin đừng lo lắng, bởi chính các môn đệ cũng gặp khó khăn này. Các bà về kể cho các môn đệ những gì đã thấy ở ngôi mộ trống, đã nghe lời thiên thần nói. Thay vì tin, các môn đệ hoài nghi với biết bao lý lẽ của các đấng nam nhi, khi cho rằng các bà thật bồng bột dễ tin. Thánh Luca cho thấy tất cả những người phụ nữ này đều nói cùng một thông điệp Phục Sinh. Họ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nhưng các môn đệ vẫn cho rằng đó là chuyện vớ vẩn chẳng đáng tin.
Thật may là Phêrô đã chạy ra mộ để kiểm chứng. Tin mừng thánh Gioan còn cho thấy cả Gioan cũng chạy ra mộ với Phêrô (Ga 20,3-4). Họ đã thấy ngôi mộ trống với những khăn liệm ở trên nền đá. Linh tính cho thấy thầy Giêsu đã sống lại và ra khỏi mồ. Họ đã tin vào Tin Mừng Phục Sinh.
Niềm vui Phục Sinh
Đối với những ai tin vào Thiên Chúa, dĩ nhiên đây là niềm vui vô bờ, vì Thiên Chúa đã chiến thắng tử thần. Đó là “sự chiến thắng của tình yêu trên sự chết.” (Bênêđictô XVI). Từ đây, lịch sử nhân loại mở ra một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ước mong trước biến cố này, chúng ta xin cho mình cảm nhận được niềm vui của Chúa Phục sinh.
Một điều chắc chắn, nếu Đức Giêsu không sống lại, xin bạn đừng tin vào Người, đừng tin vào đạo Công giáo! Đó là lời quả quyết của Thánh Phaolô khi nói với chúng ta rằng: “Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì lời chúng tôi rao giảng sẽ vô ích, và đức tin của bạn cũng vô ích.” (1Cr 15,14). Hay có lần Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận viết trong Đường Hy Vọng: “Nếu không có sự phục sinh thì người Công Giáo là hạng vô phúc nhất trần gian.” Nhưng thật hạnh phúc cho chúng ta vì Giêsu đã sống lại thật!
Nếu lúc nào đó chúng ta hoang mang về niềm tin của mình, thật quý để bạn chiêm ngắm mầu nhiệm Phục Sinh. Đó là nền tảng cho mọi điều chúng ta tin. Hoặc nói như lời Đức Bênêđictô XVI: “Biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại trở thành tâm điểm của Kitô giáo. Đó là điểm tựa cho đức tin của ta, là đòn bảy mạnh mẽ cho tin tưởng vững chắc của ta, là luồng gió mạnh quét sạch mọi sợ hãi, và lưỡng lự, mọi hồ nghi và tính toán của loài người.” (x. Youcat 105)
Bạn thấy Chúa Giêsu phục sinh chưa? Phần tôi chỉ thấy tượng Chúa Giêsu phục sinh mỗi khi mừng lễ Phục sinh thôi. Dẫu sao, ngoài ngôi mộ trống và những lời Thiên Thần nói trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và với nhiều người. Chúng ta lưu ý rằng thân xác của Chúa lúc này không thuộc về trần gian nữa, mà Người hiện diện trong vinh quang với Chúa Cha. Thiên Chúa vẫn đang sống và hằng hiện diện với chúng ta, cho dù chúng ta không thấy Ngài một cách hữu hình. Trong ý nghĩa này, dường như chúng ta không được phép sống trong u buồn, sợ hãi. Theo đó nhà văn Friedrich Schiller chí lý khi quả quyết rằng: “Người nào đã nhận được sứ điệp Phục Sinh không thể nào còn bước đi với bộ mặt bi thảm và sống cuộc sống không có niềm vui của một người không có hy vọng.” (Youcat 108).
Ước gì bạn và tôi luôn để Chúa Phục Sinh chi phối cuộc đời, đừng để Người quá xa vắng trong mọi biến cố vui buồn của ta. Được như thế, chúng ta mới làm chứng cho Chúa với người đời, với bạn bè rằng: Thiên Chúa đã chết, nhưng Ngài đã sống lại. Mục đích là Ngài muốn cứu độ chúng ta. Đó là niềm vui, là hạnh phúc cho những ai tin yêu Đức Giêsu phục sinh.
VŨ ĐIỆU MỪNG CHÚA PHỤC SINH: https://www.youtube.com/watch?v=3RE6wc5YTos
[1] Đây cũng là tựa đề của một bộ phim: https://www.phimconggiao.com/phim-chua-khong-chet/xem-phim/9715
[2] X. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-11, Ga 20,1-10.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Ga 20,1-9
- Ý CHÍNH :
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
- CHÚ THÍCH :
– C 1 : + Ngày Thứ Nhất trong tuần : Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối : Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết : “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết : “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô : “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết : “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la : Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
– C 2 : + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô : Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến : Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết : Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4 : + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ : Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước : Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
– C 5-6 : + Băng vải còn ở đó : Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào : Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ : Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
– C 7-9 : + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi : Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin : Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết : Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
- CÂU HỎI :
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA : Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
- CÂU CHUYỆN :
1) MỘT CUỘC CHẠY MA-RA-THON :
Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy ma-ra-thon. Vậy chạy ma-ra-thon là gì ? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy là thế này : Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Mil-ti-a-de, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Ma-ra-thon, một ngôi làng cách thủ đô A-thène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Mil-ti-a-de đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.
Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay cũng tường thuật hai cuộc chạy ma-ra-thon : Cuộc chạy thứ nhất là của cô Ma-ri-a Ma-đa-le-na báo tin cho các môn đệ xác Thầy đã biến mất. Cuộc chạy thứ hai là của hai môn đệ Phê-rô và Gio-an đi ra mộ để kiểm tra thực hư. Những người này đã đi tìm Chúa và sau đó đã đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
2) ĐẰNG SAU SỰ KIỆN NGÔI MỘ TRỐNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giê-su”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Tal-pi-ot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên Giê-su con ông Giu-se. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Giê-su thành Na-da-rét ? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh ?
Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên Giê-su; mười bốn phần trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giê-su con ông Giu-se được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giê-su chỉ là giả tưởng.
Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa. Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng : đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và vẫn đang sống.
3) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH :
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng : “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp : “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp : “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời : “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói : “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp : “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp : “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời : “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
4) MẦU NHIỆM PHỤC SINH DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA :
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi : “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết để mở ra cho con người lối đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ tình thương của Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế khôn lường, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là cho con người được sống đời đời. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài vẫn luôn theo duổi và chờ đợi con người đáp lại tình thương của Ngài để được sống mãi với Ngài.
5) GƯƠNG CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN :
Một câu chuyện rất cảm động đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.
Một người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của Chúa.
“Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ :
– Chị biết hôm nay là ngày gì không?
Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp :
– Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.
Nghe thế tôi tự hỏi :
– Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Tuy là lễ của niềm vui và hy vọng, nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã bị héo úa, khô cằn. Còn niềm hy vọng thì tôi đành để trong lòng chứ không dám nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề :
– Đức Ki-tô đã sống lại !
Tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời :
– Ngài đã sống lại thật.
Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa ra, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.
Qua tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không lò sưởi để nhờ cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ, thì con người cuồng tín này sẽ phải gục ngã.
Một tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam với chúng tôi như trước. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào :
– Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam. Còn những điều khác không quan trọng !
Nói xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy trong mắt cô vẫn sáng lên như trước”.
- SUY NIỆM :
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau :
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÔI THÚC MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA :
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng sớm tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến mà bà đã thêm can đảm để đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì sáng sớm hôm nay lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp thêm thuốc thơm cho xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống không, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà thì ai đó đã đến lấy trộm xác Thầy và bà không biết họ đã để xác Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn vào trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a quay lại mồ để tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người trao cho bà sứ mệnh như sau : “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN RA CHÚA TRƯỚC ANH EM :
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc, làm cho ông trở thành người can đảm hơn các anh em như sau : Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ mình và đón Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước ông này (x Ga 20,8). Sau cùng chính lòng mến đã khiến Gio-an viết Tin Mừng Thứ Tư, trong đó đề cao giới răn yêu thương. Tương truyền khi về già, mỗi lần rao giảng Tông đồ Gio-an đều giảng về đề tài yêu thương. Khi có người thắc mắc lý do thì Gio-an đã trả lời rằng : Chỉ việc tuân giữ giới răn yêu thương là đủ. Vì “yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10b).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN :
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chiêm ngưỡng Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1); Được chứng kiến phép lạ Người phục sinh bé gái mới chết (x Lc 8,51); Được ở gần Đức Giê-su khi Người lo buồn trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như : bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận đường thập giá (x Mt 16,22-23); Hoặc có lúc bị Thầy trách là kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc trách khi không muốn Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8); trách khi quá tự tin vào sức mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới bắt các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như : Có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị lấy trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô đã vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng ba lần tuyên xưng yêu mến Thầy và đã được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến đích thật khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN :
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ trước tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh trở thành Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và sứ mệnh chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống của chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng : khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn. Bấy giờ chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN :
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy ?
- LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Sự phục sinh của Chúa vừa mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh : sẵn sàng hy sinh tất cả vì yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu, để dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt… vì xác tín rằng : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Hãy vui lên, đó là nội dung bài ca của Giáo Hội long trọng loan tin Chúa đã phục sinh trong đêm canh thức. Lời mời gọi “Hãy vui lên” được nhắc đi nhắc lại như một điểm nhấn và một điệp khúc diễn tả niềm vui lớn lao kỳ diệu. Lời kêu mời đó được ngỏ với các thiên thần trên trời, đến cộng đoàn đông đảo các thánh, rồi đến các tín hữu và những ai thành tâm thiện chí. Đây là niềm vui trọng đại, giống như đối với tù nhân được giải phóng khỏi tù ngục để bước ra hưởng tự do hạnh phúc, như người đi xa lâu năm gặp lại người thân, như nai rừng tìm thấy nguồn suối, như bông hoa thấy ánh mặt trời.
Hãy vui lên và trút bỏ tang chế, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ, là Đấng hằng sống. Ngài đã làm cho Đức Giêsu là Con Một của Ngài chiến thắng tử thần, sống lại vinh quang. Vâng, hãy vui lên vì từ nay sự chết không còn quyền lực gì đối với những ai tin vào Chúa. Nếu sự chết còn tồn tại, thì nó chỉ một trạm chuyển tiếp trước khi con người bước vào thế giới linh thiêng, vĩnh cửu.
Hãy vui lên vì trong Đức Giêsu phục sinh, thân phận con người tìm thấy ý nghĩa và phẩm giá của mình. Từ ngàn đời, con người không ngừng đặt ra những vấn nạn về thân phận của họ bên kia cái chết. Đức Giêsu phục sinh bước ra khỏi mồ như câu trả lời cho những vấn nạn ấy, và như bằng chứng hùng hồn về những gì Người đã tiên báo trước đó: “Này chúng ta đi lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,18-19). Người Do Thái đã xử với Chúa đúng y như Người tiên báo.
Lời Chúa trong Phụng vụ Đại lễ Phục Sinh giới thiệu với chúng ta những nhân chứng bằng xương bằng thịt, những người đã mắt thấy tai nghe. Họ đã nhìn thấy Chúa chết trên thập giá và nay họ được thấy Người sống lại. Trước hết, đó là lời chứng của Phêrô, vị tông đồ trưởng. Ông đã làm chứng về sự phục sinh của Chúa Giêsu tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, trước mặt những “người ngoại”, tức không phải là người Do Thái. Đối với Phêrô, Đức Giêsu phục sinh đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Từ nay, “ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Bài Tin Mừng hôm nay còn giới thiệu với chúng ta chứng từ của Maria Mácđala và của Gioan, người môn đệ Chúa yêu. Có một sự kiện duy nhất là Chúa sống lại, nhưng mỗi người có một cảm nhận và một cách làm chứng khác nhau. Maria Mácđala, với tâm lý chung của người phụ nữ, vội vã chạy về gặp hai môn đệ Phêrô và Gioan để “khoe” về điều mình đã thấy. Bà không quên kèm theo một lời kết luận dựa trên phỏng đoán cá nhân: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Bà ngỡ ngàng kinh ngạc trước cảnh tượng vừa được chứng kiến và nóng lòng sốt ruột chạy đi loan báo cho mọi người.
Về phần mình, Gioan không hốt hoảng vội vã như Mácđala, không hăng hái hùng biện như Phêrô, nhưng chứng từ của ông mang tính nội tâm và sâu sắc. Chính ông đã ghi lại lời chứng của mình một cách khách quan: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào (mộ). Ông đã thấy và đã tin”. Việc chứng kiến ngôi mộ trống đã lập tức làm cho Gioan liên tưởng và kết nối các sự kiện cũng như những lời báo trước của Chúa, giúp ông xác tín vững vàng rằng Chúa đã sống lại. Ngôi mộ trống thay vì làm ông hốt hoảng như Mácđala, lại giúp ông tin rằng Thày mình đang sống. Ngôi mộ trống soi sáng cho ông hiểu những lời giáo huấn của Chúa và những lời tiên báo trong Kinh Thánh.
Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trong niềm xác tín Người vẫn đang sống và đang hiện diện. Chúa đã sống lại, hãy vui lên. Lễ Phục Sinh là lễ của niềm vui. Người tín hữu vui mừng hân hoan vì Chúa phục sinh là bảo chứng cho những ai tin theo Chúa sẽ được phục sinh vinh quang với Người.
Khi long trọng mừng lễ Phục Sinh, chúng ta được mời gọi hãy “sống lại về phần linh hồn”, nghĩa là hãy đoạn tuyệt với tội lỗi để sống xứng đáng là con Thiên Chúa. Những thực hành của Mùa Chay gồm chay tịnh khổ chế và cầu nguyện bác ái đã giúp chúng ta phần nào trút bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới được ánh sáng của Đấng Phục Sinh chiếu soi. Không chỉ có Chúa Giêsu phục sinh bước ra khỏi nấm mồ, nhưng mỗi chúng ta cũng đang bước ra từ những nấm mồ là sự ích kỷ, mưu mô và hận thù toan tính, rũ bỏ quá khứ tội lỗi để làm lại của đời.
Sự Phục Sinh của Chúa là một sứ điệp cần loan báo cho con người mọi nơi, mọi thời. Những ai đã lãnh nhận phép Thanh Tẩy đều là những sứ giả loan tin vui Phục Sinh. Như Phêrô, Mácđala và Gioan, mỗi người có cách loan báo riêng của mình, nhưng nội dung của lời loan báo luôn là Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta cũng vậy, mỗi người có hoàn cảnh riêng, những khó khăn và thuận lợi riêng, nhưng đều có sứ mạng loan báo Đấng Phục Sinh, Đấng đang sống và đang hiện diện giữa chúng ta.
Xin cho mỗi chúng ta nhiệt thành nói với anh chị em chúng ta rằng: hãy vui lên, Chúa đã sống lại. Hãy vui lên, vì chúng ta cũng được sống lại với Người.
.
ĐƯỜNG EM-MAU, ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay nói về những con người mới. Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô trở nên người mới sau khi gặp Chúa Phục Sinh. Tin mừng trình bày chi tiết hai môn đệ buồn phiền chán nản đến tuyệt vọng: Bỏ Giê-ru-sa-lem; Bỏ lý tưởng; Bỏ cộng đoàn; Bỏ Chúa. Họ đi vào đêm đen, tâm hồn chìm trong bóng tối, không lối thoát. Họ đang chết. Nhưng, Chúa đã đến. Chúa làm ấm lên cõi lòng băng giá; Chúa làm sáng lên đêm đen; Chúa làm sống lại hi vọng. Họ trở lại: với Chúa, với anh em, với lý tưởng và với sự sống.
Chúa Giê-su đã phục sinh các tâm hồn nhờ những phương thuốc thần diệu sau:
1.Chúa phục sinh. Họ chết vì nghĩ rằng Chúa đã chết. Họ sống lại ngay khi biết Chúa sống lại. Nhưng để phục sinh Chúa đã phải trải qua khổ nạn, trải qua cái chết, trải qua nhục nhã, trải qua thất bại.
2.Chúa đi tìm. Con người cô đơn và buồn phiền. Đi trên con đường tăm tối bất định. Họ không thể tìm Chúa nên Chúa đi tìm họ. Chúa đến gặp họ, ngay trên đường họ đi, ngay trong nỗi buồn của họ.
3.Lúc trời đã tối. Buổi tối là lúc nghỉ ngơi. Chẳng ai làm việc buổi tối, nhất là phải ra đường thì rất nguy hiểm. Nhưng Chúa đã lên đường lúc trời tối vì Chúa thương những tâm hồn tăm tối hơn bóng tối.
4.Chúa chia sẻ. Chúa đến chia sẻ những ưu tư lo lắng của họ. “Các anh có chuyện gì mà buồn thế”? Chúa để họ chia sẻ nỗi niềm. Họ được dịp giãi bầy. Chúa lắng nghe. Chúa giải nghĩa Thánh Kinh suốt chặng đường dài mấy giờ đồng hồ.
5.Chúa trở nên người bạn. Từ người xa lạ Chúa đã trở thành thân thiết. Đến nỗi họ không muốn rời xa Chúa nữa, vì Chúa hiểu họ và giúp họ.
Đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa. Lòng Thương Xót nhìn thấu nỗi cô đơn tuyệt vọng; Quan tâm đi tìm những tâm hồn lạc lõng bơ vơ; Chiếu sáng và sưởi ấm giữa đêm đen lạnh lẽo; Cảm thông chia sẻ với những tâm hồn cô đơn; Chữa lành những tâm hồn bị thương tích; Phục sinh những tâm hồn đang chết dần mòn.
Thế giới hôm nay tràn đầy những con người như thế: buồn sầu, tuyệt vọng nhưng chẳng có ai cứu giúp. Vì con người ngày nay quá bận rộn, chỉ chú ý đến bản thân, không có thời giờ cho người khác. Mỗi con người đang trở thành một con đường cô đơn đi về sự chết, cần có Chúa, cần có Lòng Thương Xót để đường Em-mau trở thành đường yêu thương gặp gỡ, đường sự sống. Ta hãy thực hành những gì Chúa đã làm. Đó là:
Hãy đi tìm. Biết bao anh em đang cô đơn lạc lõng giữa ngã ba đường, đang khao khát được gặp gỡ, được chia sẻ.
Hãy khẩn cấp lên đường. Dù giữa đêm khuya. Biết bao người sắp chết đang chờ đợi ta.
Hãy trò chuyện. Hãy lắng nghe. Biết bao nỗi lòng cần được giãi bầy, cần được cảm thông.
Hãy làm bạn. Một người bạn sẵn sàng chia vui sẻ buồn, sẵn sàng hiện diện. Có mặt dù chỉ để cảm thông, chỉ để ăn một bữa cơm, chỉ để nói một câu chuyện, hoặc giản đơn chỉ để ở bên nhau dù không làm được gì.
Nhưng trước hết và trên hết ta hãy phục sinh chính mình. Thánh Phao-lô mời gọi ta hãy chết cho con người cũ để “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” được tỏ hiện. “Đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ”.
Hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Chúa Phục Sinh. Hãy đem Lòng Thương Xót gieo rắc khắp nơi để bất cứ con đường nào ta đi cũng trở thành Đường Em-mau, Đường của Lòng Thương Xót; để bất cứ ai gặp ta cũng gặp được Lòng Thương Xót, gặp được lòng tốt, gặp được sự cảm thông chia sẻ, gặp được một người bạn.
Lạy Chúa, hằng ngày Chúa đi bên cạnh con mà con không nhận biết Chúa. Xin cho con nhận ra Chúa trong những người anh em sống chung với con, đi bên cạnh con, cùng làm việc với con. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH
Đau khổ, niềm vui, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, vì đã gặp; thức khuya dạy sớm để đi làm, chúng ta đã từng thức, còn thức dạy sớm để ra mồ, xức dầu thơm cho người chết, thì chưa. Không ai có thể bắt người ta cười, trong khi họ đang đau khổ, nước mắt tuôn rơi; nhưng Đấng có tên là “Giêsu Nagiarét, vua dân Do-thái”, Ngài đã làm cho người thân của Ngài khóc trong vui sướng. Các phụ nữ, các tông đồ hôm xưa cười trong lúc đau khổ, không phải do gặp may hay trúng số, nhưng họ vui cười vì tìm thấy dấu hiệu của sự sống nơi “mộ trống”.
Đức Giêsu chịu đau khổ vì bất công, nhằm giúp con người qua các thời đại hiểu, và đừng nguyền rủa đau khổ. Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá là để biến khổ đau thập giá thành Thánh Giá cứu chuộc nhân loại tội lỗi chúng ta. Đau khổ sự chết không giết được Đức Giêsu, thì độc ác gian tà nơi nhân loại, không thể cản lối che đường người có đức có tâm gặp được sự sống lại trong Đức Kitô. Tảng đá to lớn lăn ra khỏi cửa mộ, khiến nhiều người nhớ đến câu ví von : người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo.
Đúng, lính canh đã sợ hãi bỏ chạy vì “ngôi mộ trống”, các phụ nữ nửa lo nửa mừng khi phát hiện tảng đá được lăn ra khỏi cửa mộ; và rồi tâm trí các tông đồ bừng sáng lên bởi niềm vui từ “mộ trống”. Có những sự thật ám ảnh ta đau lòng mãi không nguôi, làm sao ta có thể nghe được kinh nghiệm của cha ông mình : đừng ngồi đó mãi mà hối tiếc ly sữa đã đổ. Sai thì sửa, vấp ngã thì đứng lên, có tội, hãy sám hối để được tha; hãy giúp nhau mạnh dạn lên, dù chỉ một lời : “tôi đã thấy tảng đá lăn khỏi mộ”.
Nhân loại đã giết Đức Giêsu, các tông đồ bỏ Thầy, tìm lối thoát thân, chúng ta ở đây từng vi phạm giới luật yêu thương, tất cả đều tội lỗi bất xứng. Vâng, hãy để Đức Giêsu Phục Sinh con người tội lỗi của ta, hãy đối diện với sự thật để tâm hồn ta được bao dung tha thứ, được rửa sạch vết nhơ tội lỗi. Tội lỗi và bội phản đã giết Chúa, khổ đau thập giá Chúa chúng ta đã chịu, đã mang vác; tình yêu của Thiên Chúa đã Phục Sinh Đức Kitô từ cõi chết, vì cớ gì ta không tìm gặp Ngài ?
Tin-mừng Phục Sinh đến với hai môn đệ thân tín, các ông không từ từ hay dửng dưng, hai vị đã tức tốc chạy mau ra ngôi mồ, hẳn các ông cũng như các phụ nữ không thể tìm “người sống nơi kẻ chết”. Ánh sáng Phục Sinh đã làm cho con người phải công tâm nhìn nhận : Sự Sống mới đã đến từ Đức Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết. Sự Phục Sinh vinh hiển của Đức Giêsu không như tình cờ chuyện phải tới, mà được tỏa chiếu từ tình hiệp thông Nên Một trong Thiên Chúa yêu thương.
Để khen giới phụ nữ, mọi người, mọi thời đại, sẽ còn thán phục tính đơn sơ, nhưng đầy can đảm của họ trước mục đích bé nhỏ là xức dầu thơm cho thân xác Chúa đã bất động. Để chê các học trò Đức Giêsu, người ta sẽ còn nói hoài, nói mãi : sao các ông nhút nhát thế, ham sống sợ chết vậy ? Sự kiện “ngôi mộ trống” hôm xưa và hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt, Đức Giêsu sống lại, nhưng không hiện diện cho người thân, cho các tông đồ, hay cho những người giết Chúa được thấy cách tỏ tường. Chúa không hiện ra ở mộ đá để các phụ nữ, các tông đồ được “tay bắt mặt mừng”, phút đầu gặp được sự sống, nhất định phải là tình yêu, chứ không hẳn chỉ là con tim khói óc.
Niềm vui được gặp Chúa sống lại bắt đầu từ niềm tin “nho nhỏ” nơi “mộ trống”; tâm hồn trống rỗng của các phụ nữ, của các tông đồ, được lấp đầy hạnh phúc chính là điệp khúc yêu thương giữa tình Thầy-trò. Sự kiện kẻ chết và sống lại của Đức Kitô sẽ phai nhạt theo năm tháng, nếu người ta sống đạo hời hợt, sống đạo xa xa, sống vu vơ ở ngoài nhà thờ. Tình yêu và niềm vui được lớn lên là nhờ được nuôi dưỡng, nhất là tình hiệp thông. Đấng Phục Sinh sẽ ban ánh sáng tình yêu của Ngài, đặc biệt là ơn bình an, để mọi người sẽ tâm phục khẩu phục : tôi đã tin nên tôi đã vui mừng thấy Đấng Kitô Phục Sinh đã sống lại trong tôi. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong một lần thăm viếng mục vụ, một linh mục trò chuyện với một cụ già gần 90 tuổi. Vị linh mục hỏi ông cụ : Nếu Chúa cho cụ sống thêm 50 năm nữa, cụ có muốn không ? Cụ già trả lời : Con chỉ muốn sống thêm, nếu con được thay đổi để sống một cuộc sống khác hơn thì con muốn. Con cũng chỉ muốn sống thêm khi thấy con cái cũng thay đổi, sống khác hơn bây giờ, yêu thương nhau hơn, kính trọng, thảo hiếu hơn, thì con mới muốn sống thêm. Chứ sống lâu mà bệnh tật, nhìn thấy con cháu ngỗ nghịch, phá phách thì sống thêm nữa để làm gì ?
Họp mừng Chúa Sống Lại chỉ thực sự là niềm vui và có ý nghĩa khi mỗi chúng ta thật lòng thay đổi nếp sống, để cùng Chúa Giêsu sống một cuộc sống mới. Nếu Đức Giêsu sống lại để sống một cuộc sống mới, mà những kẻ tin vào Ngài vẫn sống nếp sống cũ, thì điều đó sẽ không có giá trị và ý nghĩa gì. Như vậy, chúng ta phải làm sao để cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu thực sự tác động và biến đổi cuộc đời chúng ta.
Các bài đọc ngày lễ Chúa Phục Sinh muốn nói đến sự biến đổi của những con người đã được gặp và đã tin vào Mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Sự kiện Phục Sinh là sự kiện của đức tin. Sự kiện này vượt quá khả năng của lý trí và sự kiểm nghiệm của giác quan. Để đón nhận đức tin, cần phải có ơn Chúa và đón nhận sự chỉ dạy của Giáo Hội. Tin Mừng Gioan cho chúng ta nhiều hình ảnh mang tính biểu trưng. Thánh sử kể lại chuyện của Bà Maria Madalena. Bà là người đã tin Chúa sống lại nhờ tìm kiếm dựa vào kinh nghiệm cá nhân và lời chứng của Giáo Hội. Thánh Gioan cho thấy bà ra mộ từ sáng sớm, khi trời còn tối. Khi đến nơi, bà thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Bầu trời tối, không chỉ là sự tối tăm của thiên nhiên, nhưng còn là sự tối tăm trong tâm hồn của bà Madalena. Ánh sáng Phục Sinh chưa chiếu vào tâm hồn bà được. Mặc dù đã nhìn thấy tảng đá được lăn ra khỏi mộ, nhưng bà vẫn nuôi trong mình suy nghĩ của sự chết và hình ảnh Thầy Giêsu đã chết. Vì thế, bà về nói với các tông đồ : Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.
Thánh Gioan cũng cho thấy, trong lúc bối rối về Mầu nhiệm Phục Sinh, bà đã chạy về gặp ông Simon Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Điều đó có nghĩa là khi gặp thử thách về đức tin, chúng ta đừng chạy ra, cũng đừng chạy đi, mà phải chạy về với Simon, tức là với Giáo Hội. Vì Simon và các tông đồ chính là chỗ dựa đức tin cho chúng ta, các Ngài là những người có thẩm quyền trong đức tin.
Thánh Gioan cũng kể về kinh nghiệm đức tin của Simon và của chính ông, người môn đệ Chúa yêu. Một người là môn đệ được Chúa yêu, người kia là môn đệ yêu Chúa nhất. Cả hai ông cùng chạy ra mộ. Người môn đệ kia đến trước, nhưng ông vẫn chờ và nhường cho Simon đến sau vào mộ trước. Hành động này cho thấy sự tôn trọng quyền thủ lãnh của Phêrô, người được Chúa trao nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em.
Simon Phêrô bước vào trong mồ, thấy những tấm băng vải để đó được xếp gọn gàng, khăn che đầu được cuộn lại và để riêng một nơi. Chi tiết này chứng tỏ không hề có ai lấy xác Chúa như bà Madalena đã nói. Vì nếu kẻ trộm lấy xác, chắc chắn chúng không gỡ những băng vải ra làm gì. Nếu là kẻ trộm, chúng sẽ không có thời giờ để gấp gọn các khăn và băng vải. Như thế, Simon đã nhận ra, đây chính là dấu chứng cho thấy Thầy của các ông đã sống lại.
Niềm tin của Gioan vào mầu nhiệm Phục Sinh có khác với Simon. Đứng trước việc tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, Gioan đã cúi xuống để nhìn vào trong mồ và thấy những băng vải còn đó. Tin Mừng muốn nói rằng, để có thể chấp nhận được niềm tin Phục Sinh, cần phải có một thái độ khiêm tốn, cung kính cúi mình trước những mầu nhiệm siêu việt này. Chỉ khi cúi xuống, mới có thể thấy những dấu vết của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh để lại trong cuộc đời chúng ta. Kế đó, ông bước vào trong mộ cùng với Simon Phêrô, ông đã thấy và ông đã tin.
Tuy nhiên, không phải mọi người đều có thể tiếp cận được với những lý chứng như ngôi mộ trống hoặc những tấm khăn xếp gọn là dấu vết về cuộc phục sinh của Chúa. Vì thế, thánh Gioan mời gọi chúng ta, muốn đón nhận được niềm tin Phục Sinh thì cần phải đọc và suy gẫm Kinh Thánh. Tác giả ghi lại : Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết. Kinh Thánh là Lời của Chúa và là chương trình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Kinh Thánh nói về Chúa Giêsu và cuộc tử nạn phục sinh của Người. Tin vào Kinh Thánh, chúng ta sẽ có niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Khi đón nhận được niềm tin phục sinh, chúng ta sẽ được biến đổi và phải biến đổi nên con người mới. Chúa Giêsu sống lại, Ngài không sống lại với con người cũ. Mặc dù vẫn là thân xác, vẫn mang những dấu đinh, nhưng thân xác ấy đã hoàn toàn biến đổi. Thân xác của Chúa không còn bị giới hạn hay lệ thuộc vào không gian thời gian. Thân xác Chúa dù rất quen thuộc khiến cho Madalena nhận ra giọng nói của Ngài, nhưng cũng rất khác lạ khiến cho các phụ nữ và các tông đồ khi gặp đã không nhận ra Ngài.
Có một điều chắc chắn, Chúa Phục Sinh đã biến đổi hoàn toàn cuộc đời các tông đồ. Các ông từ những kẻ nhát sợ, đã trở nên can đảm ; từ những kẻ như đã chết, nay được hồi sinh ; từ những kẻ bình dân, nhà quê nay trở nên thông thái, mạnh dạn nói về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Bài đọc một cho thấy, Phêrô đã không còn nhát sợ, không còn tính bồng bột trước đây, ông đã trở thành cột trụ cho Giáo Hội sơ khai, thành người rao giảng không mệt mỏi về Chúa Phục sinh. Tại nhà ông Cornêliô, Phêrô đã có một bài giảng long trọng nói về Chúa Giêsu Nazaret : Ngài là Đấng được Thánh Thần xức dầu để thi hành sứ mạng cứu độ. Ngài đã thi ân giáng phúc, dùng quyền năng mà làm nhiều phép lạ. Cuối cùng, người Do Thái đã giết Ngài, treo trên thập giá, nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy.
Phêrô đã làm chứng rằng : Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đã hiện ra tỏ tường với chúng tôi là những nhân chứng Người đã tuyển chọn từ trước. Chính chúng tôi là những kẻ đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng : Chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đã đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Khi lãnh Bí tích Rửa tội, chúng ta được dìm vào cái chết và bước vào cõi sống cùng với Chúa Giêsu Kitô. Do đó, tuyên xưng Chúa sống lại không chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, mà phải cùng biến đổi với Chúa Kitô. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta : Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin Chúa Giêsu sống lại, chúng ta không thể để mình bị chìm trở lại trong con người cũ, nhưng phải sống một con người mới, một thay đổi mới. Chắc chắn Chúa chịu chết và sống lại muốn nhìn thấy chúng ta là con Ngài sống tốt hơn, gắn bó với Ngài hơn. Ngài chết để cứu chuộc chúng ta, Ngài muốn chúng ta thuộc về Ngài. Ngài sống lại để đem đến cho nhân loại sự sống mới, Ngài muốn chúng ta đón nhận sự sống mới từ nơi ngài để được sống.
Hãy bắt đầu bằng việc làm mới lại bản thân, sống một quyết tâm mới, một con người mới. Hãy đến với Chúa thường xuyên hơn, gặp gỡ, gắn bó với Chúa nhiều hơn trong cầu nguyện và trong những công việc thường ngày. Hãy làm cho gia đình mình thực sự trở nên mới hơn, nhiều tiếng cười, nhiều niềm vui và nhiều hạnh phúc hơn. Hãy bước đến với anh em chòm xóm và mọi người với một gương mặt mới, vui hơn, tươi hơn. Hãy đem đến cho nhau tấm lòng tốt hơn, đẹp hơn và hãy làm nhiều việc nhân ái hơn, bao dung, quảng đại hơn cho người chung quanh.
Xin cho chúng ta biết để Chúa Phục sinh biến đổi mỗi người nên những con người mới và làm cho mầu nhiệm Chúa Phục sinh lan tỏa và biến xã hội này nên tốt đẹp hơn. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : “Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối” (Ga 20, 1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong“(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh“ (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : “Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thủa. Allêluia!
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh nói đến tảng đá lấp cửa mộ đã bị bật tung và mở toang. Sự kiện khởi đi buổi “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”, Maria Mađalêna đi thăm mộ và “thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ”, bà liền kết luận “người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Phêrô thinh lặng. Gioan “đã thấy và đã tin”.
Mađalêna đau khổ thất vọng nên chỉ thấy tảng đá là sự kết thúc. Bà chưa hiểu phía sau tảng đá được lăn ra kia ẩn chứa một mầu nhiệm siêu phàm.
Tông đồ Phêrô, quan sát kỹ lưỡng từ tảng đá cho đến ngôi mộ trống và tất cả những gì đã xảy ra nơi đây, nhưng ngài không nói gì, không bày tỏ thái độ mà chỉ thinh lặng. Vì sao vậy? Lý do có thể Phêrô là lãnh đạo tinh thần của nhóm tông đồ nên sự im lặng là cần thiết? băn khoăn, không biết nghĩ thế nào hay phải ăn nói làm sao! Tuy nhiên, căn cứ vào những gì Tin mừng trình bày, sự im lặng của Phêrô có nguyên nhân từ sự chưa hiểu thấu mầu nhiệm Phục sinh: “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết” (x. Ga 20,9). Thật thế, cho đến mãi sau này, khi đã được gặp Đấng Phục Sinh và đón nhận Thánh Thần, Phêrô mới hiểu vì sao ngôi mộ trống và tâm hồn ông lúc ấy mới bừng sáng để hiểu điều mà Kinh thánh từng loan báo. Phêrô là một người chân chất đơn sơ. Điều gì chưa biết thì im lặng và chờ đợi chứ không nhiều lời, không suy diễn.
“Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Tảng đá nghi ngờ đang che mờ đôi mắt đức tin của họ.
Các thượng tế và kỳ mục thì lo âu sợ hãi trước hiện tượng mồ trống. Vì thế, các ông mới cho lính canh số tiền hậu hĩ và bảo những người này phao tin là các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác: “các anh hãy nói như thế này: ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13). Tảng đá ghen ghét đã bịt lối nhìn lối nghĩ của họ.
Cuối cùng chỉ có một người tin. Đó là Tông đồ Gioan. Nhưng Gioan tin không phải vì hiện tượng mồ trống mà vì những gì đã thấy. Gioan thấy gì? Ông thấy những băng vải và khăn che đầu không xếp lộn với nhau, nhưng để riêng ra một nơi. Cảnh tượng này làm Gioan nhớ lại lời Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết rồi mới chỗi dậy mà vào chốn vinh quang (Lc 24,26). Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại. Ladarô ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Những lời đó làm Gioan tin chứ không phải thấy Đấng Phục Sinh. Gioan không thấy Đấng Phục Sinh nhưng ông tin Đấng mà ông yêu mến đã sống lại. Ngay từ giây phút đầu tiên khi thấy những vết tích còn để lại trong mồ trống, Gioan đã tin cách tuyệt đối. Tuy không thấy xác nhưng những vải liệm kia chính là những dấu chỉ có giá trị đối với ông. Nói như J.P Duplantier, “ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở nên một ngôn ngữ”. Nhờ việc chú ý đến thứ ngôn ngữ ấy, người môn đệ Chúa yêu đã khám phá và hiểu rằng Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết, điều mà lúc bấy giờ ngoài ông ra, các môn đệ khác còn chưa hiểu nổi. Rõ ràng, thấy là nền tảng và bằng chứng cho lòng tin. Nhưng thấy ở đây không phải là thấy những sự kiện bên ngoài mà là thấy ý nghĩa bên trong gắn liền với sự kiện. Tông đồ Gioan thấy sự kiện những băng vải và khăn che đầu, nhưng vì nhớ lời Kinh Thánh mà tin. Thấy rồi mới tin là chuyện bình thường. Còn không thấy mà tin mới là phúc như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28).
Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá lấp cửa mồ đã mở toang. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm đã mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Đấng Phục Sinh! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Chúa Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
Có những hòn đá ta bước qua rất dễ. Có những tảng đá phải tốn thời giờ công sức mới dịch chuyển nó sang một bên để có đường đi. Nhưng cũng có những tảng đá to chắn bít lối đi, che khuất tầm nhìn nên không thể bước tiến.Trong đời sống thường nhật, có biết bao tảng đá vô hình mà nặng nề, cần phải được tháo bỏ. Giuđa bán Thầy với giá 30 đồng bạc, cả một tảng đá tham lam đè nặng tâm hồn. Phêrô chối Thầy đến 3 lần, ấy là vì tảng đá sợ hãi che kín. Các môn đệ bỏ trốn, vì tảng đá nhát đảm sợ liên luỵ đang vây bủa. Mỗi người chúng ta có thể cũng đang bị một tảng đá vô hình nào đó đè nặng tâm hồn. Tảng đá đam mê nết xấu.Tảng đá ghen ghét, chia rẽ. Tảng đá đam mê dục vọng… Ai sẽ giúp chúng ta lăn những tảng đó ra?. Xin thưa là chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Ngài sẽ giúp ta lăn tảng đá đó ra khỏi đời mình và làm cho tâm hồn ta được phục sinh để sống bình an.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Tảng đá đó thể hiện sức mạnh quyền lực của sự dữ và sự thống trị của con người. Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do thái có khả năng thách thức được quyền phép Thiên Chúa sao? Đấng Phục Sinh đã bật tung tảng đá niêm phong, từ cõi chết, Người sống lại vinh quang, mở lối vào sự sống mới.
Chúa Giêsu sống lại, chân lý đã chiến thắng, tình yêu vượt trên hận thù và sự sống mạnh hơn sự chết. Phục Sinh là niềm tin và hy vọng cho người Kitô hữu vào sự sống mai sau: “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8).
Phục Sinh là niềm vui của những người được Chúa Kitô đẩy tảng đá ra khỏi cuộc đời họ, làm cho tâm hồn họ được bình an. Như Giakêu, như Lêvi đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tảng đá của tội lỗi nên họ cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản và bước theo Chúa. Và còn biết bao tấm gương khác đã được giải thoát khỏi những tảng đá vô hình, và từ đó hân hoan bước theo Chúa Giêsu.
Chúa đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc than tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng. Chúa Phục Sinh đã đẩy mọi tảng đá nặng nề ra khỏi tâm hồn các môn đệ.Từ đây các môn sinh bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại. Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường…Tảng đá vô hình đè nặng được lăn ra khỏi tâm hồn chính là phục sinh. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
- Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?
.
“CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI! HALLELUYA!”
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trong suốt Mùa Chay, nhất là Tuần Thánh, đỉnh cao là đêm Vọng Phục Sinh, Chúng ta được Giáo Hội qua các nghi thức cử hành, mời gọi chúng ta hướng về Quê Trời, cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới là chính Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi để sống xứng đáng là con cái Chúa. Ra khỏi bóng tối để đi vào Ánh Sáng. Những ý nghĩa này, đã được các nghi thức tối hôm qua diễn tả thật rõ nét. Thánh lễ giờ đây, chúng ta được Giáo Hội mời gọi hãy hân hoan hát lên bài ca “Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” và hãy loan tin vui này đến tận cùng trái đất. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta tin? Làm sao chúng ta dám loan truyền Chúa đã sống lại? Dựa vào đâu để xác tín điều đó?
- Ngôi mộ bị bỏ trống?
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thuật lại sự kiện Chúa Phục Sinh. Bắt đầu từ việc bà Maria Mácđala đi ra mộ, mang theo thuốc thơm để sức xác Chúa. Khi tới nơi, bà ngỡ ngàng vì những gì hiện lên trước mắt bà. Tảng đã khổng lồ đã lăn ra khỏi mồ. Như vậy, theo linh tính, bà biết rằng xác Chúa không còn trong đó. Phải chăng người ta đã mang xác Chúa đi chỗ khác? Có thể là do một hoặc nhiều người đã lấy cắp xác Chúa? Bà liền chạy về báo cho các môn đệ, và Phêrô cùng với Gioan đã chạy tới, nhưng tiến thêm một bước nữa, cả hai ông đều vào và thấy khăn vải quấn người Đức Giêsu cũng như khăn che đầu vẫn còn đó. Một trong hai ông đã tin, đó là Gioan. Sự kiện ngôi mộ trống đã rõ ràng. Chắc chắn không còn xác Đức Giêsu trong đó. Nhưng Chúa đã sống lại hay bị mang đi hoặc bị đánh cắp? Tin Mừng cho chúng ta thấy có những suy nghĩ trái chiều. Maria Mácđala thì cho rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu”. Với các Kinh Sư, Luật Sĩ, Thượng Tế…và những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu, sau khi nghe tin Chúa đã sống lại thì đã dàn dựng một vở kịch nhằm vu khống cho các môn đệ, đồng thời bảo các lính canh thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt28:13-15).
Tuy nhiên việc phao tin là các môn đệ lấy cắp xác Đức Giêsu không khả tín cho lắm vì những lý do:
– Các môn đệ là những người ít học, đơn sơ chất phác. Những người chủ mưu giết Đức Giêsu thì có cả một kế hoạch (x. Mt 27, 62-66; 28,13-15).
– Khả năng chuyên môn của các môn đệ là chài lưới, thu thuế…Còn đội lính canh giữ Đức Giêsu thì tinh nhuệ và sắc bén (x. Mt 27, 62 – 66).
– Các môn đệ đang trong tình trạng sợ sệt, không thể nào lấy cắp xác Chúa mà vẫn ung dung xếp những giải khăn gọn gàng được (x. Ga 20:18-19).
– Các môn đệ là những người thụ động. Lính canh là những người chủ động…
Như vậy, không có thể bày đặt ra chuyện Chúa đã sống lại để rồi lừa dối được. Gioan đã hiểu điều đó nên ông đã tin.
Tuy nhiên, nếu chỉ có chứng cứ về ngôi mộ trống thì không thuyết phục cho lắm. Sự kiện này chỉ có tính cách khai mở và là dấu chỉ của sự phục sinh mà thôi. Bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều giả thiết trái ngược nhau được đưa ra. Vậy, chúng ta còn dựa vào đâu nữa?
- Những lần Đức Giêsu hiện ra và những lời Đức Giêsu đã báo trước
Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra với rất nhiều người, có những lúc trong nhà, trên đường, ngoài bãi biển. Trong số những người được Chúa hiện ra, chúng ta gặp những tên tuổi và những nhóm người như: hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9; Ga 20,11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emau (x. Mc 16,12-13; Lc 24,13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20,19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v… ; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28,16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).
Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:
– Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27);
– Nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20,16);
– Những hành động Chúa làm (x. Lc 24, 35);
– Hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,27.45).
Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28,9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24,15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20,14;21,4).
Sự kiện Đức Giêsu hiện ra và việc nhận ra Ngài đã được tông đồ Tôma đáp lại cách tuyệt đối sau khi đã sỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn: “lạy Chúa tôi, lạy Chúa của tôi” (Ga 20,28). Mặt khác, Đức Giêsu còn ra dấu hiệu về việc làm chứng và sứ vụ. Đồng thời, những lần hiện ra, Ngài còn hứa hẹn và loan báo sẽ trao ban Chúa Thánh Thần đến để trợ giúp, đồng hành với các ông trong sứ vụ.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã mở lòng trí các ông, để các ông nhớ lại tất cả những điều đã được báo trước trong Kinh Thánh và chính Ngài đã nói cho các ông trước khi lên Giêrusalem để chịu chết: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21).
Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi…thì mới không tin mà thôi.
Như vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng ghi lại: ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, và hứa sẽ đồng hành với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế qua việc trao ban Chúa Thánh Thần, và điều quan trọng nhất đó là những lần Ngài đã báo trước.
- Sự kiện Đức Giêsu sống lại và niềm tin của chúng ta
“Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của các tông đồ…, và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội hơn 2000 năm qua, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” (1Cr 15, 19), và niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền, lời rao giảng là vô cớ. Nhưng Ngài đã sống lại và đã phục sinh tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành con người mới: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Đây quả là Tin Mừng, và Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, qua đau khổ là vinh quang. Sự kiện Chúa Phục Sinh, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được Phục Sinh như Ngài.
Giờ đây, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh lại một lần nữa được chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: tôi tin Đức Giêsu […] Đấng đã “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”. Đây là niền tin của Giáo Hội và của mỗi chúng ta. Chúng ta hãnh diện, tự hào và tuyên xưng đức tin ấy cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội ấy. Amen.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Bà Maria Mađalêna đi thăm mộ Thầy Giêsu lúc trời còn tối. Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho mau sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu trái tim của bà? Bà yêu mến Thầy cách đặt biệt. Mới chiều thứ sáu, vì lòng yêu mến, bà đứng bên chân thánh giá (Ga 19, 25). Sau đó, cũng vì lòng yêu mến, bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy (Mt 27, 61). Bây giờ tình yêu ấy lại thôi thúc bà ra mộ trước tiên, trước cả người môn đệ được Thầy thương mến…
Nhưng thật kinh hoàng: xác Thầy đã biến mất. Tảng đá che mộ đã bị ai đó lăn ra… Maria Mađalêna hớt hãi chạy vội về báo tin cho các môn đệ. Bà nghĩ, có lẽ có kẻ đã ăn cắp xác Thầy. Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20, 2.13.15). Bà cần biết chỗ đó để lấy ngay xác về. Maria không hề nghĩ rằng Thầy của bà, và là Chúa của bà đã phục sinh. Bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết…
Nghe Maria nói, hai tông đồ Phêrô và Gioan cũng chạy đến mộ. Họ chạy bằng những bước chân hối hả. Nhưng khi đến mộ, thì chỉ có ngôi mộ trống và băng vải đặt ở đó, còn khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng. Thấy mọi điều đó, tông đồ Gioan tin rằng, Thầy đã phục sinh. Chẳng ai ăn cắp xác mà lại để gọn ghẽ khăn vải liệm…
Chúng ta cần có lòng mến như bà Maria Mađalêna, nhưng rất cần có sự nhạy cảm để tin như tông đồ Gioan. Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: Đó là ý nghĩa của cái chết bi đát trên Núi Sọ. Đó là ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng. Tất cả những ý nghĩa đó dạy ta biết: Chúa chúng ta đã phục sinh.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho con được phục sinh với Chúa trong đời sống hằng ngày của con. Đó là cho con biết vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ, vượt qua những đam mê kéo ghì con xuống, vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã, vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu. Đó là cho con vượt qua những khắc khoải của niềm tin, vượt qua những thành kiến mà con có về người khác…
Xin cho con như Chúa Phục Sinh, gieo rắc bình an và hy vọng; tin tưởng và niềm vui. Ước gì ai gặp con, họ cũng đều gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Tử Thần thua cuộc đành khuất phục
Con Chúa phục sinh giữa vinh quang
Tin là diễm phúc, xác tín là đại phúc. Chúng ta là hậu sinh nhưng lại thực sự diễm phúc vì đã được biết rõ là Đức Kitô Giêsu đã sống lại vinh quang, chứ không bán tín bán nghi như những người thời Chúa Giêsu. Thật vậy, nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là hoang đường!
Vâng, Con Thiên Chúa đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh khải hoàn. Vì vậy, chúng ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng này được, mà phải cùng nhau hân hoan hợp xướng: “ALLELUIA!”. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cố gắng thực hiện trọng trách: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24).
Ánh sáng Phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi chúng ta, trên cả thế gian này. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa đã động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18).
Đức Kitô đã sống lại thật. Đó là một sự thật minh nhiên, thật hơn cả sự thật, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ về những gì liên quan Chúa Giêsu, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.
Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (*). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt như một số người cố chấp.
Sau khi sám hối vì chối Thầy ngay lúc dầu sôi lửa bỏng nhất, ông Phêrô đã xác tín và can đảm nó sự thật: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, và không loại trừ ai, vì mọi người đều bình đẳng trước mặt Chúa. Không ai có thể cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mạo nhận là mình “ngon” hơn người khác!
Khi nói về Sư Phụ Giêsu, ông Phêrô đã giải thích rạch ròi từng chi tiết: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Sau khi lỡ chối bỏ Sư Phụ mình vì khiếp nhược và nhận biết sự thông cảm của Sư Phụ Giêsu khi Ngài quay lại nhìn mình (x. Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt” (x. Lc 22:62), không chỉ hối hận mà còn tự xấu hổ, vì vừa mới chịu chức thánh xong (x. Ga 21:15-17) mà đã phản bội ngay, chính Thầy cho biết trước mà vẫn không tránh được. Thật khốn nạn!
Vô tri bất mộ. Biết rồi thì không thể lặng im. Và khi biết rõ Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).
Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-thẳng-tính (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược. Nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-nhát-đảm đã biến thành một Phêrô-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó là tác động của Chúa Thánh Thần!
Chúng ta cũng vậy, cũng đã bao phen “chối” Chúa và “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin thì cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem: Mỗi lần phạm tội là mỗi lần chối Chúa, mỗi lần lườm nguýt tha nhân là liếc xéo Chúa, vân vân và vân vân… Vô kể! Nhưng dù chúng ta có dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho đó là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết. Vì thế, chúng ta hãy can đảm và tin tưởng mời gọi người khác cùng xưng tụng Ngài: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp khúc: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Chúng ta tin tưởng và đoan hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao? Vì:
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường
Đó chính là công trình của Chúa
Một công trình kỳ diệu vô thường
(Tv 118:22-23)
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Thật không dễ khi phải bỏ một thói quen cũ mà xấu, để sống theo một thói quen mới mà tốt. Muốn được vậy, người ta phải cố gắng rất nhiều và cố gắng không ngừng.
Thiên Chúa Ngôi Hai, Đức Kitô Giêsu, đã phục sinh, vì thế mà chúng ta cũng được sống lại và phải sống lại với Ngài. Thánh Phaolô minh định thêm: “Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8). Phải có đức tin mới khả dĩ thực hiện như vậy.
Người-môn-đệ-Chúa-yêu (tức là nhân chứng Gioan tông đồ) đã tường thuật: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.
Bà Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình nói trước. Nghe vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.
Kẻ trước, người sau, rồi ông Phêrô cũng đến nơi. Kính lão đắc thọ. Ông Phêrô đến sau nhưng vào trước, vào thẳng trong mộ. Ông thấy những băng vải để và khăn che đầu Đức Giêsu có ở đó. Khăn che đầu không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào sau. Ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi, liệu có đủ lòng tin? Nếu THẤY và TIN rồi thì phải có bổn phận LAM CHỨNG. Một quy trình hợp lý!
Theo Kinh Thánh cho biết, Đức Giêsu PHẢI trỗi dậy từ cõi chết. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (x. Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, kể cả chúng ta, không thấy thì rất khó tin. Chúng ta không thấy Chúa Giêsu, nhưng chúng ta có thể thấy những nhân chứng can đảm suốt đời sống và chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Phần còn lại là có xác tín hay không, và đó là phần của mỗi chúng ta.
Xin được nhắc lại lời của Thánh nữ Bernadette (1844-1879, người được Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức): “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì có giải thích cũng vô ích!”.
Lạy Thiên Chúa chí thánh và toàn năng hằng hữu, xin Ngài ban thêm đức tin cho chúng con và xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên cuộc lữ hành trần gian này, đồng thời giúp chúng con can đảm làm chứng nhân của Ngài suốt cuộc đời này, mọi nơi và mọi lúc, qua từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
——-
(*) Trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh là cuốn sách đứng đầu trong 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất trên thế giới: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu,
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Mácđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến…
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên Núi Sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,
những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
.
Bông hồng nhỏ
Trước cái chết của một người thân yêu, nỗi đau trong tâm hồn ta quá lớn, dường như chẳng có niềm vui nào lấp đầy. Thầy Giêsu đã chết, các môn đệ cũng đã rất đau, nỗi đau lớn đến nỗi làm họ không nhớ lời loan báo Phục Sinh của Thầy. Để khi đứng trước ngôi mộ trống, các ông đã thấy nhưng không phải tất cả đã tin.
Thánh sử Gioan đã thuật lại biến cố “ngôi mộ trống”. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Macđala đi đến mộ (x.Ga 20, 1). Có lẽ, bà đã rất muốn tỏ lòng yêu mến Thầy nên không thể để chờ trời sáng hơn một chút. Ra đến mộ, thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, không thấy xác Thầy đâu, bà liền vội chạy về báo tin cho môn đệ Phêrô và người môn đệ mà Thầy thương mến rằng Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20, 2). Bà không thể nghĩ đến việc Thầy Giêsu đã Phục Sinh.
Môn đệ Gioan chạy nhanh hơn nên đến trước ông Phêrô. Ông đến nhưng chỉ cúi xuống quan sát từ xa và thấy băng vải còn đó. Hành động của ông có thể là một sự bình tĩnh, xem xét từ ngoài vào trong? Còn ông Phêrô khi chạy đến nơi, ông vào thẳng trong mộ và thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu, khăn này không để lẫn với các băng vải nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi (x.Ga 20, 6-7). Ông Phêrô cũng ngạc nhiên và ông cũng không tin. Bấy giờ, ông Gioan đi vào, ông đã thấy những gì ông Phêrô thấy nhưng ông đã tin. Ông tự nhận mình là người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bấy giờ ông thấy những sắp xếp mới mẻ nơi ngôi mộ trống này, ông còn thấy cả sự đụng chạm của Thầy trong những sắp xếp này. Ông tin Thầy đã Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu Chịu – Đóng – Đinh, Đấng đã Phục Sinh! Cảm tạ Chúa đã luôn đồng hành với con trong những đau thương của cuộc đời và ban cho con niềm hy vọng được Phục Sinh với Chúa. Giữa những nỗi đau lớn lao, xin giúp chúng con có cái nhìn của người môn đệ được Chúa thương mến, để luôn thấy những đụng chạm của Chúa, những sắp xếp mới mẻ Chúa đã làm nơi cuộc đời chúng con. Chúng con có thể đã mất đi một người thân yêu, thiếu đi một niềm vui trong đời nhưng không bao giờ chúng con thiếu vắng tình yêu của Chúa. Xin Chúa củng cố niềm tin nơi chúng con và làm cho niềm tin ấy trổ sinh hoa trái. Amen.
.
Anna Cỏ May
Chúa đã sống lại Alleluia, Alleluia. Đó là bài ca mà toàn thể Giáo hội ca mừng Chúa Kitô trong suốt mùa Phục Sinh. Đó chính là niềm tin của chúng ta.
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Macđala đi đến mộ. Đến nơi bà thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, liền chạy về báo tin cho các môn đệ. Bà nói: “Người ta đã đêm Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?” (Ga 20, 2). Bà Maria Macđala là đại diện cho những người phụ nữ giàu cảm xúc trước những sự mất mát. Khi vừa trông thấy tảng đá được lăn ra, bà nghĩ ngay đến người khác đã lấy xác Chúa Giêsu. Khi Đức Giêsu hiện ra với và hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria Macđala tưởng người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem người đi, thì xin nói cho tôi biết, ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Ga 20, 15). Ở trong nỗi đau mất Thầy, dường như bà không còn suy nghĩ được điều gì khác, chỉ có một điều chiếm hết tâm trí bà là “Thầy đâu rồi”. Nên bà nói mà không suy nghĩ “xin ông nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Ga 20,15). Làm sao một người phụ nữ yếu ớt như bà lại có thể mang nổi thân xác Thầy mà “đem Người về”?
Trước đó, bà về báo tin cho ông Phêrô và người môn đệ Chúa thương, họ liền chạy ra mộ. Nhưng người môn đệ Chúa thương chạy nhanh hơn nên đến trước ông Phêrô. Ông đến nhưng chỉ cúi xuống quan sát từ xa và thấy băng vải còn đó. Hành động của ông có thể là một sự cẩn trọng, xem xét từ ngoài vào trong? Còn ông Phêrô khi chạy đến nơi, ông vào thẳng trong mộ và thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu, khăn này không để lẫn với các băng vải nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi (x.Ga 20, 6-7).
Phêrô luôn là người đi bước trước nhưng ít nhiều đã vấp ngã. Ông được Chúa chỉ bảo và trách cứ nhiều lần. Ông cũng là người chối Thầy ba lần. Nhưng lần này ông đã có hành động can đảm. Ông đã chạy thẳng vào mộ và thấy được tất cả những gì còn lại trong ngôi mộ. Ông đã thấy nhưng không hiểu. Khi ông Phêrô vào rồi, bấy giờ ông Gioan mới vào theo. Ông đã thấy và đã tin. Ông là người tin rằng Chúa đã Phục Sinh (x.Ga 20,8). Tạ ơn Chúa, nhờ các Tông đồ và bà Maria Macđala mà chúng ta đã biết Chúa Phục Sinh.
Chúa Giêsu đã Phục Sinh, chúng ta hãy tin vào Ngài, dù niềm tin của chúng ta luôn bị thử thách. Điều quan trọng là chúng ta phải mang sức sống nguyên lý của đời sống mới trong Chúa Giêsu Phục Sinh. Sức sống Phục sinh sẽ đẩy lùi sức mạnh của sự chết ra khỏi con người bất toàn của chúng ta, chữa lành mọi vết thương tâm hồn. Thật vậy, mỗi người chúng ta cần được Phục Sinh vì một xã hội tuy đầy đủ vật chất, tiện nghi nhưng sức mạnh thần chết vẫn đang ẩn mình dưới vỏ bọc của một xã hội giàu sang. Ai sống trong niềm vui của Chúa Giêsu, tâm hồn sẽ được sống lại toàn diện như Thánh Phaolô tuyên xưng: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1Cr 6, 14).
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã sống lại để đem niềm tin, sức sống mới cho chúng con. Xin cho chúng con lãnh nhận sức sống của Chúa và sống trong niềm tín thác. Nhờ đó chúng con đạt tới sự sống trong Nước Trời. Amen.
.