Lời Chúa Năm B Các bài suy niệm Chúa Nhật Phục Sinh Năm B

Các bài suy niệm Chúa Nhật Phục Sinh Năm B

LỄ PHỤC SINH – Năm B

Lời Chúa: Mc 16,1-8;  Cv 10,34a.37-43;  Cl 3,1-4;  Ga 20,1-9

———

Mục lục

  1. Thấy Và Tin(Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  2. Sự Sống Mới Trong Đức Kitô (Lm Ngọc Dũng, SDB)
  3. Ngôi mộ trống  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  4. Mầu nhiệm Phục sinh trong đời sống  (Lm. Thái Nguyên)
  5. Trở về với thế giới thần linh  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  6. Ý nghĩa cuộc đời  (JB. Lê Đình Nam)
  7. Chúa sống lại với biến cố cuộc đời  (Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD)
  8. Tin mừng Phục sinh (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  9. Tình yêu chiến thắng (Maria Thùy Trang,  MTG.Thủ Đức)
  10. Chúa Phục Sinh  (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
  11. Bóng hồng trong sương (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  12. Khoảng trống đầy ý nghĩa (Trầm Thiên Thu)
  13. Chúa đã sống lại! Halleluia  (Giuse Vinhson Ngọc Biển, SSP)
  14. Chúa đã sống lại thật (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
  15. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật Phục sinh  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

  1. Hãy vui lên  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Rao truyền ơn phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
  3. Sứ điệp phục sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
  4. Chúa sống trong con (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  5. Phục sinh  (Lm. Trần Việt Hùng)
  6. Vượt qua chính mình (JM. Lam Thy, ĐVD)
  7. Niềm vui và đức tin phục sinh  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  8. Suy niệm lễ Chúa Phục sinh (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
  9. Suy niệm lễ Chúa Phục sinh.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
  10. Sự sống mới  (Lm. Tôma Vũ Kim Long, SDB)
  11. Chúa sống lại  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
  12. Nhân chứng phục sinh  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
  13. Khải hoàn  (Trầm Thiên Thu)
  14. Chết đi – Sống lại  (Jos. Hoàng Mạnh Hùng)
  15. Sống lại với Chúa Phục sinh  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  16. Đi tìm Chúa ngay cả khi đức tin bị khủng hoảng (Lm. Trần Bình Trọng)
  17. Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết  (Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
  18. Người phải sống lại từ cõi chết  (Lm. Nguyễn Thái)
  19. Chúa đã sống lại thật (Lm. Đinh Lập Liễm)
  20. Niềm vui phục sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  21. Sóng Triều (Lm. Vũ Đình Tường)
  22. Chúa Giêsu đã sống lại như lời Kinh thánh  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  23. Suy niệm Chúa Nhật Phục sinh (Lm. Anthony Trung Thành)
  24. Chết không còn đáng sợ  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  25. Hãy tin Ta (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  26. Rao giảng Tin mừng Chúa Phục sinh  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
  27. Ông đã thấy và đã tin  (Lm. Đan Vinh)
  28. Chúa Nhật Phục sinh_B (Lm. Antôn)
  29. Nhân Chứng Phục Sinh  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  30. Rao truyền ơn Phục sinh  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
  31. Sự sống lại là niềm hy vọng  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  32. Sự sống đang trào dâng  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  33. Trở thành chứng nhân đáng tin   (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
  34. Nhìn với đôi mắt trong sạch (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  35. Tìm Đấng Phục sinh  (Trầm Thiên Thu)
  36. Cùng sống lại với Chúa Ki-tô  (Lm. Đan Vinh – HHTM)
  37. “Ngôi mộ trống” hay “bằng chứng sống”?  (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)

 

THẤY VÀ TIN

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Ở đâu có niềm tin, ở đó có tình yêu, dù cha ông chúng ta có nói: trăm nghe không bằng một thấy. Tình yêu được xem là nguồn động lực mạnh mẽ nhất, tình yêu có thể làm thay đổi mọi thứ cách kỳ diệu. Mađalêna và một số các phụ nữ có niềm tin, có tình yêu, hay chỉ một chút tình cảm thôi thúc ra mồ từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần ? Hai môn đệ Phêrô và Gioan đã phản ứng thế nào, khi hay tin ngôi mộ trống: “người ra đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để xác Thầy ở đâu” ! Người ta lấy cắp xác Thầy ư ? Mà ai lấy, lấy để làm gì ? Người chết sống lại, tự sống, hay ai làm cho thân xác Thầy sống lại ? Trong tâm trí hai môn đệ sáng sớm hôm đó, phải đầy thắc mắc, khó hiểu ! Niềm tin có thể không giúp mọi việc dễ dàng hơn, nhưng chính niềm tin, hai học trò hôm đó được tràn đầy nghị lực: đừng sợ, mau, hãy đi, chạy, chạy nhanh, để xem …

Thấy và tin, điều mà Phêrô và Gioan mong, có phải là thấy “cái thân xác bất động”, hay là tin Thầy an nghỉ trong thanh thản, không oán trách sự giới hạn của các học trò ? Các chuyên gia tâm lý thường khuyên thân chủ: đừng khóc, đừng buồn, vì sự việc đã qua, hãy mỉm cười, hãy hít thật sâu, vì việc kỳ diệu chờ bạn ở phía trước. Mặc cảm vì chối bỏ Thầy, đúng, nếu các phụ nữ không báo tin “ngôi mộ trống”, hẳn các môn đệ vẫn thu mình ẩn nấp, vì xấu hổ, vì lo sợ ! Ở trường đời cho biết: nếu muốn quên đi một người thầy tốt, thì mãi mãi phải là thời gian hoặc người thầy mới. Các phụ nữ thấy “tảng đá lăn khỏi cửa mồ”, hai môn đệ thấy “những dây băng, khăn liệm, không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ”. “Ngôi mộ trống” mời gọi các phụ nữ và hai môn đệ điều gì, có phải là yêu ? Tình yêu không mùi không mầu, nhưng tình yêu là điều đầu tiên để thực thi những sự việc quan trọng ở phía trước.

Thấy và tin, thấy tảng đá lăn ra khỏi cửa mộ, thấy ngôi mộ trống, thấy sự ngăn nắp gọn gàng nơi táng niệm Thầy, điều cần thấy nhất, điều mong mỏi hơn, họ chưa thấy ! Lúc còn ở bên các môn đệ, Đức Giêsu đã nói: “ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho”. (Lc 11, 9). Phải tin, phải xin, mới thấy, phải yêu phải hành động, niềm tin mới sáng tỏ. Được trải nghiệm, được nhìn trước ngó sau, việc đi nhanh đi chậm không quan trọng, điều cần là phải tới đích. Giầu hay nghèo, tài giỏi hay khờ dại, sống thọ hay chết yểu, đó không phải là vấn đề, quan trọng là bạn hạnh phúc, bạn thanh thản, không phải hối tiếc khi bạn đã cố gắng hết sức. Các phụ nữ ra mồ từ sáng sớm, các môn đệ chạy nhanh chạy chậm, điều cần hơn là mức độ yêu và mức độ tin của bạn.

Thấy và tin, ở bên trong “ngôi mộ trống” có còn ẩn chứa điều gì ? Trước và sau tảng đá lăn ra khỏi cửa mồ, những tên lính canh có suy nghĩ gì không ? Các phụ nữ, Phêrô và Gioan thấy “ngôi mộ trống”, họ buồn hay vui, hoảng sợ hay thích thú, đáng yêu hay đáng ghét ! Sóng to gió lớn rồi cũng lặng im tức khắc để trả lại bầu trời trong sáng, một tình yêu đẹp, khởi đi từ niềm tin và sự thật. Những gì nhìn thấy bằng mắt, hẳn có tiền là mua được, những thứ mắt tinh thông cũng không nhìn thấy, đó chính là niềm tin, khi đủ thương yêu, nhất định bạn sẽ gặp sẽ thấy. Trong tình yêu luôn đầy kỳ bí: có những bạn vừa nhìn đã mê, vừa thấy đã thích, vừa nói chuyện đã muốn nên duyên, đó là yêu thật, hay do quá nhạy cảm ? Trong tình yêu nơi các phụ nữ ra thăm mồ, nơi hai môn đệ được tin báo “ngôi mộ trống”, và nơi các môn đệ đóng kín cửa lòng, tất cả đều giới hạn, niềm tin của họ sẽ không thể lớn, nếu thiếu tình yêu Đấng họ kiếm tìm, tin yêu.

Thấy và tin, nơi các phụ nữ vẫn bị mang tiếng: nghe một nửa, hiểu một phần, kể lại gấp đôi, thật đáng sợ ! Nơi Mađalêna và các phụ nữ sáng sớm ra mồ, họ đủ nhanh nhạy về báo tin cho các môn đệ, thế là đúng và đẹp rồi. Người xưa nói rằng: một cây đổ gây ồn ào hơn một cánh rừng đang mọc, thân xác ba người chịu treo trên thập giá ở đồi cao, nhưng chỉ Đức Giêsu được quan tâm. “Ông đã thấy và ông tin”. Thấy “ngôi mộ trống” là thấy sự sống, yêu thật và thao thức muốn thấy, dù là thân xác bất động của Thầy ! Đúng, một khi trung thành với khao khát của mình, người ta sẽ tìm thấy lối đi, chỉ cần tin, bạn sẽ được đền bù cân xứng về điều bạn yêu mến. Không có gì là không có thể đối với một người luôn nỗ lực và trải rộng yêu thương của mình. Tình yêu nơi các phụ nữ ra mồ từ mờ sáng, họ đã thấy gì ngoài “ngôi mộ trống”; Phêrô và Gioan đi sâu vào nơi táng niệm Thầy, họ thấy gì, hẳn họ đã thấy bình an và hy vọng trào dâng.

Ngụ ngôn tìm kiếm hạnh phúc, kể về thỏ, rùa, chim, họ thách đố nhau đua xem ai sẽ về đích trước, sau khi phổ biến cuộc đua, chúng thấy không ổn, vì không có sự đồng đều. Rùa chậm, thỏ nhanh, chim, còn bay được. Và loài vật đã tìm ra một giải pháp là đoàn kết, là cùng nhau về đến đích, nghĩa là chúng đều chiến thắng. Thân phận con người giới hạn, điều cần hơn phải là giúp nhau nhận ra mình là ai, và cần đến tình yêu để sống, để chu toàn trọng trách của mình. Bằng đôi mắt tinh tường, người ta nhìn xa trông rộng và thấy có đau khổ, có hạnh phúc ở xung quanh. Bằng mắt tâm hồn, ta sẽ thấy ai cũng tốt, ai cũng xứng đáng được yêu thương. Kẻ mất đi của cải, gọi là mất ít, kẻ mất đi tình yêu là mất nhiều, kẻ mất đi niềm tin là mất tất cả, vì niềm tin không thể mua bán, mà do được ban tặng.

Về mục lục

SỰ SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

Lm Ngọc Dũng, SDB

Chúng ta đang tìm kiếm gì trong cuộc sống này? Tiền tài và danh vọng? Nghề nghiệp và cơm áo? Tình yêu và cảm thông? Ai trong chúng ta cũng có một mục đích để sống, để tìm kiếm. Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta vì quá lo lắng tìm kiếm những “thực tại dưới đất” mà quên mất rằng mình cũng phải tìm kiếm những “thực tại trên trời” nơi mà kho tàng của chúng ta không bị mối mọt đục khoét hay dòi bọ gặm nhấm. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy các tín hữu Côlôsê rằng: “Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thánh Phaolô không có ý nói là chúng ta không quan tâm gì đến những thực tại trần thế. Chúng ta phải quan tâm. Điều Ngài muốn nói cho chúng ta là những thực tại trần thế không phải là đích điểm của chúng ta. Chúng chỉ là những phương tiện để chúng ta đạt đến những thực tại trên trời. Vì vậy, chúng ta không “ngủ quên” trong những thực tại trần thế mà quên rằng khi chết, chúng ta phải bỏ chúng lại đằng sau. Chúng ta phải nhớ rằng: “anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:3). Mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu phải được thực hiện trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã cùng chết với Chúa Giêsu, chết đi con người cũ của thế gian để sống một cuộc sống mới của nước trời. Đây chính là ý nghĩa đích thật của Mùa Phục Sinh mà chúng ta bắt đầu hôm nay và chúng ta được mời gọi hiện thực hoá ý nghĩa đó trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Nhưng đâu là những dấu hiệu cho tôi biết là tôi đang sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu?

Việc Chúa Giêsu phục sinh là chân lý tuyệt đỉnh niềm tin của chúng ta. Giáo Huấn của Giáo Hội dạy chúng ta rằng: “Đức Giêsu Phục Sinh là chân lý tuyệt đỉnh của đức tin Kitô giáo, được cộng đoàn tín hữu tiên khởi tin và sống như là chân lý trung tâm, được Truyền Thống lưu truyền như chân lý căn bản, được các văn kiện Tân Ước xác lập, được rao giảng như phần chủ yếu của mầu nhiệm Vượt Qua và Thập Giá: Đức Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã chết để chiến thắng tử thần và ban sự sống cho kẻ đã chết” (Sách GLGHCG, số 638). Nhưng đâu là bằng chứng phục sinh của Chúa Giêsu? Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài đọc 1 và bài Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những “bằng chứng” về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau chia sẻ về những “bằng chứng” này và rút ra những đặc điểm cho biết chúng ta đang sống mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Chứng cớ thứ nhất, “những chứng nhân mắt thấy tai nghe.” Đây là bằng chứng quan trọng nhất mà chúng ta thường đòi hỏi nơi những người làm chứng. Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta lời chứng của Thánh Phêrô. Trước tiên, chúng ta tự hỏi: Ở đâu Thánh Phêrô có được sự can đảm để làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không phải đã chứng kiến sự phục sinh của Chúa Giêsu? Người mà trước khi Chúa Giêsu phục sinh đã hèn nhát chối Ngài ba lần, giờ lại mạnh dạn không sợ hãi làm chứng cho Ngài: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41). Chứng cớ thứ nhất mời gọi chúng ta học từ Thánh Phêrô và các tông đồ khác, biết làm chứng cho Chúa Giêsu cách không sợ hãi qua một đời sống mới, một đời sống đụng chạm đến tình yêu của Ngài trong đời sống phụng vụ và cầu nguyện, trong đời sống phục vụ và yêu thương, trong đời sống tha thứ và cảm thông. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho biết chúng ta đang sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu: Làm chứng cho Chúa Giêsu qua đời sống tốt lành, thánh thiện của mình.

Chứng cớ thứ hai, “ngôi mộ trống.” Theo truyền thống của Giáo Hội, hình ảnh “ngôi mộ trống” là một trong những chứng cớ quan trọng về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta trích ở đây Giáo Huấn của Giáo Hội trình bày về chứng cớ này: “Trong biến cố phục sinh, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống, Tự nó, sự kiện này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân xác Đức Kitô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác (x. Ga 20:13; Mt 28:11-l5). Dầu vậy, mọi người đều coi ngôi mộ trống là dấu chỉ chủ yếu. Việc phát hiện mộ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Chúa sống lại. Đó là trường hợp các phụ nữ đạo đức (x. Lc 24:3,22-23), tiếp đến là Phêrô (x. Lc 24:l2). Khi vào trong mồ trống và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20:6), người môn đệ Đức Giêsu yêu quý” (Ga 20:2) khẳng định rằng: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8). Điều này giả thiết rằng: khi thấy mộ trống (x. Ga 20:5-7), ông nhận ra việc mất xác Chúa không phải là do loài người, và Đức Giêsu đã không đơn gian trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp Ladarô vậy (x.Ga 11,44)” (Sách GLGHCG, số 640). Thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hay rằng, Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến không tin và không hiểu phục sinh là gì cho đến khi nhìn thấy ngôi mộ trống: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết (Ga 20:6-9).

Ngoài hai chứng cớ trên, chúng ta còn có chứng cớ thứ ba là những lần hiện ra của Chúa Giêsu. Chứng cớ [thứ ba] sẽ được tường thuật trong những bài Tin Mừng của các Chúa Nhật Phục Sinh. Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy gẫm về Lời Chúa trong bài Tin Mừng để nghe Chúa muốn nói gì với chúng ta.

Bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta phản ứng đầu tiên của ba nhân vật “thân tín” của Chúa Giêsu: Maria Mácđala, Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến. Như chúng ta đã biết, Thánh Gioan thường sử dụng hình ảnh “tương phản” trong Tin Mừng của mình. Chúng ta nhận ra điều này ngay trong câu đầu tiên: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (Ga 20:1). Hình ảnh này được Thánh Gioan dùng ngay trong những câu đầu tiên của Tin Mừng của mình để nói về Ngôi Lời như là sự sống và sự sáng của thế gian, sự sáng mà bóng tối không thể diệt (x. Ga 1:1-18). Vì vẫn còn bị “bóng tối” của thập giá che phủ, Maria Mácđala đã không nhận ra Chúa Giêsu đã phục sinh. Bà chỉ dừng lại ở việc “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20:20). Đối với bà Maria Mácđala, Chúa Giêsu vẫn là một “xác chết” mà người khác đã lấy đi để ở chỗ khác. Nói cách cụ thể hơn, đối với bà, sự thay đổi của Chúa Giêsu ở đây chỉ là sự thay đổi “chỗ đặt” hay “chỗ ở” chứ không phải là sự thay đổi mang tính phục sinh nào. Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta? Điều này hàm ý dạy chúng ta rằng, chúng ta cũng đã nhiều lần thay đổi “chỗ ở” [chủ động] hoặc “bị đặt nơi khác” [bị động], nhưng chúng ta không có tí thay đổi nào trong đời sống của mình. Chúng ta vẫn ở lại trong tình trạng của “những cái xác” không hồn, không có yêu thương và tha thứ. Chúng ta có nhiều thay đổi bên ngoài, nhưng chúng ta không “phục sinh,” thay đổi để sống một đời sống có ý nghĩa hơn. Những người sống mầu nhiệm phục sinh là những người sống một đời sống thay đổi để trở nên tốt hơn, yêu thương hơn, tha thứ hơn và thánh thiện hơn cả bên trong lẫn bên ngoài.

Hình ảnh thứ hai mà bài Tin Mừng đề nghị cho chúng ta suy gẫm là hình ảnh “chạy đua” của Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy” (Ga 20:3-4). Như chúng ta biết, trình thuật về sự Phục Sinh của thánh Gioan bắt đầu với cuộc chạy đua mang tính huyền nhiệm của hai tông đồ đến mộ. Theo các học giả Kinh Thánh, câu chuyện này có lẽ có ý định trình bày cho chúng ta sự căng thẳng giữa “đặc sủng” và “chức vụ”, một sự căng thẳng nội tại trong cộng đoàn của Thánh Gioan, trong Giáo Hội thời đó [và bây giờ]. Đồng thời, cuộc chạy đua này cũng ám chỉ đến việc nhắc nhở cho chúng ta về các cuộc “chạy đua” chúng ta có trong cuộc sống. Nói cách khác, cuộc chạy đua giữa Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến ám chỉ dạy chúng ta rằng: trong cuộc sống có nhiều cuộc chạy đua, tuy nhiên, chỉ có một loại “tranh đua” chính đáng để thực hiện, đó là sự cạnh tranh để đi theo sát Chúa Giêsu hơn, để có một đức tin sâu hơn, và để có một đời sống sẵn sàng trao ban và phục vụ trong yêu thương hơn. Chúng ta đang chạy đua cho điều gì trong cuộc sống?

Về mục lục

NGÔI MỘ TRỐNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Buổi sáng ngày Phục sinh, tức là ngày thứ nhất trong tuần, mà ngày nay được gọi là ngày Chúa nhật, chúng ta giống như những người phụ nữ và hai môn đệ trong Tin Mừng, hối hả chạy đến mồ Chúa Giêsu. Bài Tin mừng Thánh Gioan được đọc trong Thánh lễ chính ngày diễn tả hai môn đệ chạy đến mộ để kiểm chứng những gì họ đã nghe mấy người phụ nữ kể lại. Các bà này đã nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Các bà bàng hoàng và lo sợ vì mất Chúa, và các bà cảm thấy đau xót về điều đó. Hai môn đệ là Phêrô và Gioan đã vội vàng chạy đến xem và họ thấy ngôi mộ trống. Khác với mấy người phụ nữ, hai ông không lo sợ bàng hoàng, mà tin vào sự phục sinh của Chúa, vì Người đã tiên báo với các ông điều này.

Cần lưu ý, trong xã hội Do Thái thời cổ xưa, mỗi ngôi mộ được thiết kế như một hang động, nhất là đối với những người khá giả. Thánh sử Gioan nói với chúng ta, ngôi mộ an táng Chúa Giêsu là ngôi mộ của một người nhà giàu còn mới, nên các môn đệ an táng Chúa tại ngôi mộ đó. Chính vì vậy mà hai ông Phêrô và Gioan cũng như những người phụ nữ có thể bước vào bên trong ngôi mộ này. Các bà đến viếng mộ với ý định hoàn tất nghi thức tẩm liệm mà trước đó chưa làm xong vì lý do ngày lễ nghỉ.

Hãy trở lại với ngôi mộ trống: nếu như thân xác Chúa Giêsu còn nằm trong ngôi mộ. Nếu như nấm huyệt vẫn được đậy kín, thì Chúa Giêsu cũng chỉ như một vĩ nhân, khi còn sống thì rao giảng những điều uyên bác cao siêu, nhưng khi chết thì cũng giống như bao người khác. Không, ngôi mộ trống khẳng định với chúng ta: Chúa Giêsu không còn ở đây. Người không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Người không bị giam cầm bởi sự chết cũng như bởi nấm mộ. Nói cách khác, Người đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa đã được Người báo trước. Tuy vậy những người phụ nữ và một số môn đệ khác vẫn thấy hoang mang và bất ngờ trước sự việc này. Thay vì vui mừng, các bà sợ hãi, run rẩy, hết hồn hết vía. Các bà không dám nói với ai vì sợ hãi.

Ngôi mộ trống là khởi điểm cho Đức tin Kitô hữu. Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng. Người có quyền trên sự sống và sự chết. Người đã tự ý trao ban sự sống của Người và Người có quyền lấy lại, như chính Người đã tuyên bố. Vì vậy, sự chết không còn làm chủ được Người. Ngôi mộ là bằng chứng hùng hồn về quyền năng của Chúa Giêsu, là Thiên Chúa tối cao.

Ngôi mộ nói với chúng ta về chiến thắng của Chúa Giêsu. Chúa chiến thắng cái gì? Thưa, Chúa chiến thắng bạo lực. Thập giá là bạo lực của con người dành cho Con Thiên Chúa. Một số biệt phái và luật sĩ, có sự chống lưng của các tư tế và nhất là vị tư tế thượng phẩm, đã lên án tử cho Chúa và quyết định giết Người bằng một hình thức vừa gây đau đớn, vừa gây nhục nhã. Khi giết được Chúa và khi thấy các môn đệ đã an táng Thầy mình trong huyệt mộ, những kẻ giết Chúa nghĩ mình đã diệt được một kẻ thù. Họ đã nhầm. Chúa Giêsu đã bước ra khỏi mộ, vinh quang sáng láng. Thiên Chúa đã chiến thắng mưu mô của con người. Tình thương đã thắng thù hận. Ánh sáng đã thắng tối tăm. Chúa Giêsu không sống lại để trả thù những người đã hành hạ và đã giết Chúa. Người sống lại để khẳng định rằng: mưu mô gian trá chỉ là nhất thời, tình yêu bao dung sẽ tồn tại mãi mãi. Đấng Phục sinh không chỉ chiến thắng sự chết, mà Người còn giải phóng con người khỏi sự chết. Người cũng giải phóng con người khỏi sự giam cầm của quyền lực tối tăm, tức là ma quỷ và tội lỗi xấu xa.

Ngôi mộ nói với chúng ta về niềm hy vọng Kitô giáo. Con người được tạo dựng không để nằm yên trong huyệt mộ, sau khi đã trải qua một cuộc sống đan xen hoà quyện giữa hạnh phúc và đau khổ, nhưng được tạo dựng để hưởng hạnh phúc vinh quang đời đời với Chúa. Chúa phục sinh bước ra khỏi mộ khơi nguồn hy vọng cho con người nói chung, người Kitô hữu nói riêng. Bởi lẽ từ nay, họ xác tín rằng, thân phận con người không chỉ là “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi”, nhưng trong con người có mầm sống siêu nhiên, thúc đẩy con người sống lương thiện. Mầm sống ấy không chết khi con người nhắm mắt xuôi tay, nhưng sẽ bừng lên cho một cuộc sống mới, như hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để nảy mầm sinh bông kết trái. Niềm hy vọng của người tín hữu giúp họ vượt lên những khó khăn của cuộc đời, với niềm xác tín Đấng Phục sinh đang hiện diện với họ, để dẫn họ đi trên mọi nẻo đường.

Kitô hữu là người tin vào Chúa. Tin là chấp nhận một điều gì đó mặc dù không nhìn thấy hoặc không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm. Một cách nào đó, người tín hữu đang đứng trước sự vắng bóng của Thiên Chúa, được coi như đứng trước một ngôi mộ trống. Quả vậy, chúng ta tin vào Chúa mà đâu có nhìn thấy Ngài. Chúng ta cầu nguyện với Chúa nhưng đâu có được gặp gỡ Ngài trực tiếp. Ngôi mộ trống chỉ là nơi đã an táng Chúa Giêsu. Những gì chúng ta cảm nhận suy tư về Thiên Chúa thực ra chỉ là dấu vết của Ngài. Chính vì vậy, lễ Phục sinh mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện quyền năng và đầy yêu thương trong cuộc sống hằng ngày. Chúa đang ở đây, với chúng ta, mặc dù con mắt thể xác không nhìn thấy Ngài.

Lễ Phục sinh không phải một sự kiện giải trí. Câu chuyện Đấng sống lại không phải là một huyền thoại. Người tín hữu mừng lễ Phục sinh, phải canh tân đổi mới cuộc đời để sống lại với Chúa. Trong thư gửi giáo dân Côlôxê được đọc trong Bài đọc II của Thánh lễ, thánh Phaolô nói đến sự sống mới của người Kitô hữu. Bởi lẽ, nhờ những hy sinh hãm mình và khổ chế, chúng ta cùng chết với Chúa Giêsu, và nay chúng ta sống lại với Người. Thánh nhân đặt những giá trị thuộc thượng giới, đối nghịch với những giá trị thuộc hạ giới. Giá trị hạ giới chỉ đem lại cho con người niềm vui nhất thời; giá trị thượng giới giúp con người đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu. Quả vậy, hành trình đi theo Đức Kitô là hành trình biến đổi. Đây vừa là hành trình của sự sống, cũng là hành trình của sự chết. Bởi lẽ chúng ta phải chết đi mỗi ngày để sống lại với Chúa. Nói cách khác, chúng ta phải loại bỏ những gì là tham lam, bần tiện, hận thù, ích kỷ, để nhường chỗ cho lòng đạo đức, nhân hậu bao dung. Tiến trình hoán cải là tiến trình liên lỉ, lâu dài, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng hy sinh và chấp nhận thương đau, như sự chết vậy.

Chúng ta hãy trở lại với hai môn đệ chạy vội đến mộ Chúa vào lúc tảng sáng. Khi trực tiếp quan sát ngôi mộ trống, hai ông tin. Các ông đã theo Chúa khoảng ba năm, được Chúa hướng dẫn và dạy dỗ. tuy vậy, niềm tin nơi các ông vào Đấng Thiên Sai còn nhiều mờ khuất và lệch lạc. Chính biến cố phục sinh đã giúp các ông xác tín vào Thày mình với một quan niệm và tầm nhìn xa rộng hơn. Không chỉ xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu, các ông còn mạnh mẽ lên đường rao giảng Đấng Phục sinh, mặc dầu phải chấp nhận hy sinh gian khổ và phải chết. Mỗi chúng ta, khi mừng lễ Phục sinh, hãy trở nên nhân chứng của Đấng phục sinh giữa đời, để khẳng định với mọi người xung quanh: Đức Giêsu đã sống lại và đang hiện diện giữa chúng ta. Những ai tin vào Người sẽ được hạnh phúc hôm nay và mãi mãi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phục sinh từ cõi chết. Chúa đã chiến thắng tử thần để sống lại vinh quang. Chúng con nhiều khi bị giam cầm trong huyệt mộ của sự ghen ghét, lười biếng và ích kỷ. Xin Chúa kéo chúng con ra khỏi mồ tối, để nhờ ánh sáng phục sinh chiếu soi, chúng coi can đảm vươn tới ánh sáng và trở nên ánh sáng giữa đời. Amen.

Về mục lục

MẦU NHIỆM PHỤC SINH TRONG ĐỜI SỐNG

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Chúng ta hân hoan mừng ngày Đức Kitô Phục Sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chịu chết trên thập tự, và mai táng trong mồ. Đó là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Đúng như thánh Phaolô đã xác tín: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cr 15,14). Tin vào Chúa Phục Sinh là cả một chặng đường dài trong cuộc sống. Nói đến Tin là nói đến Yêu, hay trái lại cũng thế. Đó là cặp sóng đôi trong đời sống Kitô hữu.

Nhờ lòng mến sâu xa mà Madalena đã khám phá ra mồ trống trước tiên, nhưng rất tiếc chị để cho nỗi buồn khổ lấn át, khiến cho tâm trí không còn tỉnh táo và sáng suốt, để nhận ra sự thật phía sau các dấu chỉ. Chị chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong ngôi mộ, nhưng sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài ngôi mộ (Ga 20, 11-17), ở ngoài sự đau xót cho một quá khứ đã qua, ở ngoài sự bám níu vào một cách thế, hay một hình thức cố định nào đó.

Gioan cũng rất yêu Thầy, nhưng tình cảm của ông được đức tin hướng dẫn, nên ông khám phá ra ý nghĩa của ngôi mộ trống, và các tấm khăn đã được xếp gọn gàng như dấu chỉ của một trật tự mới (Mt 9, 17). Khi quan sát kỹ những dấu vết để lại, ông nhận ra cách thức hành động của Chúa Giêsu, đồng thời nhớ lại những lần Thầy đã tiên báo về sự phục sinh.

Đức tin là sự phối hợp nhịp nhàng của con tim và lý trí, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, nhờ vậy mà qua dấu chỉ hữu hình, người ta nhận ra một thực tại vô hình. Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự hoảng hốt hay thất vọng trước những thất bại và đổ vỡ trong cuộc đời. Là Kitô hữu, chúng ta cần tu tập cho mình có cái nhìn đức tin, để luôn sống bình an và lạc quan trong mọi tình cảnh.

Tuy nhiên, chính tình yêu mến Chúa mới dạy cho người ta có cái nhìn đức tin. Chính tình yêu mới làm cho ta thấy những điều mà người khác không thấy, hiểu được điều mà người khác không hiểu. Cùng đọc kinh, cùng tham dự thánh lễ, nhưng sự thấu hiểu và cảm nhận về Chúa với nhiều mức độ khác nhau. Có những người cũng chẳng cảm thấy gì cho dù đi bao nhiêu lễ. Cuộc sống khác đi chỉ khi nào tâm hồn ta đầy tràn lòng tin mến Chúa.

Bản thân ta chỉ nhận ra bóng dáng Chúa Giêsu Phục Sinh, và trở nên nhân chứng của Chúa khi nào trái tim ta biết rung động sâu xa trước tình yêu Chúa trong cuộc đời mình. Yêu mến Chúa là một ân ban, nhưng phải bắt đầu từ sự khao khát mãnh liệt nơi lòng mình.

Ước gì bản thân chúng ta được Chúa đổi mới từ lễ Phục Sinh hôm nay, qua việc cảm thấy mình siêng năng và sốt sắng hơn trong thánh lễ, trong cầu nguyện, trong các việc đạo đức, trong việc lành bác ái, trong sự dấn thân phục vụ… và nhất là biết nhìn mọi sự bằng đôi mắt đức tin, để thấy Chúa đang hiện diện ở mọi nơi, trong mọi người, qua mọi sự. Với cái nhìn đức tin như vậy, chúng ta mới hân hoan ca vang khúc hát khải hoàn, vì Chúa đã sống lại thật ngay trong chính đời sống mình.

Alleluia! Alleluia! Alleluia!

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Mọi đau khổ sẽ trở nên vô ích,
mọi hy sinh sẽ trở thành vô dụng
nếu đau khổ không đưa tới vinh quang,
và hy sinh không đưa tới vinh thắng.

Cái chết cũng sẽ là một xúc phạm lớn,
nếu nó không đưa tới cuộc sống hiển dung,
và đời người cũng sẽ là một vô nghĩa,
nếu nỗ lực vượt qua không có đích điểm.

Thế nên con thực sự vui mừng
trong mọi đau thương mình phải chịu,
để cùng được chết và sống lại với Đức Kitô.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh!
Ngài là Đường để con bước đi,
là Sự Thật để con dấn thân,
là Sự Sống để con loan báo,
và là Điểm Hẹn để con được hạnh ngộ.

Xin cho con cảm nghiệm ơn phục sinh của Chúa,
đang thấm nhập tâm hồn và thân xác con,
đang luân chuyển trong từng biến cố,
đang sinh động trong từng quan liên hệ,
đang lan tỏa vào mọi hoạt động,
và đang biến đổi đời sống con người.

Lòng con hân hoan cảm tạ,
vì tin vào niềm vui phục sinh của Chúa,
đang trở thành niềm vui phục sinh của con. Amen.

(Trích sách: Lời nguyện từ trái tim, số 64)

Về mục lục

TRỞ VỀ VỚI THẾ GIỚI THẦN LINH

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có một thế giới vô hình, dầu con người không thấy, nhưng dường như ai cũng tin. Đó là ma. Ma hiểu nôm na là hồn người chết tỏ ra cho người sống thấy. Ai cũng kể chuyện ma của ai đó đã thấy, nhưng người kể thì chưa bao giờ thấy. Điều lạ là con người đồng hóa ma với thế giới sự dữ. Họ xem như người chết là đi vào ma giới nên ai cũng sợ gặp ma. Dầu là bố mẹ hay người thân qua đời, liền bị mọi người sợ hồn ma ấy hiện về.

Có câu chuyện kể rằng: Vào lúc gần 12 giờ đêm, có một anh chàng chạc tuổi 20 đứng giữa một cánh đồng trống để đón xe buýt về thành phố. Anh ta đứng mãi mà chẳng thấy một chiếc xe nào chạy ngang. Đến đúng 12 giờ đêm có một chiếc xe chạy đến, anh ta vội vẫy chiếc xe và xin được đi nhờ vào thành phố.

Sau khi leo lên xe anh ta ngủ thiếp đi vì mệt mỏi.

Trời mưa rất to và một tiếng sét đánh xuống nghe chói tai đã làm cho anh chàng tỉnh giấc. Anh ta đã mất hồn khi không nhìn thấy tài xế mà xe vẫn chạy.
Anh ta đã la lớn: Ma…Ma…!

Bất ngờ có tiếng đằng sau nói lại:
– Ma cái gì mà ma, xe chết máy tao đẩy mệt muốn chết đây này. Mày xuống đẩy phụ cho tao.

Trước Chúa Giê-su phục sinh thì người Do Thái vẫn tin có ma. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lãi và đến với các Tông đồ, thế mà  họ vẫn tưởng Người là một bóng ma. Bằng việc ăn uống trước mặt họ và cho họ rờ tận tay để thấy đây là một thân xác thực sự, Chúa đã chứng minh, Người đã sống lại. Với những bằng chứng ấy, các môn đệ đã tin tưởng và vui mừng. Không những thế, họ còn trở nên những chứng nhân của Đấng Phục sinh.

Từ niềm tin Chúa phục sinh cho ta hiểu rằng chết là về với tình trạng ban đầu là hình ảnh Thiên Chúa. Chết là trở về với thế giới thần linh. Chết là không đi vào ma đạo của sự dữ như nhiều người lầm tưởng mà là đi vào sự sống thần linh và phải trải qua cuộc phán xét của Thiên Chúa.

Sứ điệp Chúa phục sinh cho ta hiểu về kiếp người : sinh ra không phải để chết mà là để được sống trường sinh. Con người sở dĩ sinh ra phải đau khổ và chết là do tội của tổ tông là Adam – Eva đã mở ra cửa tử, khiến con người phải đi qua vòng luẩn quẩn của kiếp người là sinh – lão- bệnh – tử. Nay nhờ sự kiện Chúa phục sinh mà cửa sinh đã mở ra, từ nay con người sẽ được về trời sau cuộc đời dương gian lắm truân chuyên.

Tuy nhiên, muốn được vào cõi Trời ấy thì con người hôm nay phải tin vào Đức Giê-su, cùng gắn bó liên kết với Người mới mong có sự sống trường sinh. Vì chính Chúa Giê-su đã nói:“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. (Gioan 11, 25)

Hôm nay mừng Chúa phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành và cho hết thảy những ai tin vào Ngài: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó với Thầy”.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su và qua sự phục sinh của Ngài cho chúng ta thấy: Chúa Giê-su đến trần gian không chủ đích chữa lành bệnh tật cho con người, không hứa hẹn cho con người một cuộc sống trần gian no ấm và hạnh phúc, mà Ngài hướng con người về trời cao để nhờ đó mà con người sống thanh thoát hơn khỏi những bon chen tham lam, ích kỷ thù hận , do vậy, những phép lạ Ngài làm chủ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa nên lời Ngài đáng để chúng ta tin.

Vì thế, sứ điệp phục sinh đang mời gọi chúng ta đi lại con đường Giê-su. Đó là con đường đón nhận thập giá xảy ra trong cuộc sống với niềm tín thác vào Chúa hầu mai sau chúng ta cũng được sống lại vinh quang với Thầy Chí Thánh Giê-su.Amen

Về mục lục

Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI

J.B Lê Đình Nam

Nếu như chúng ta gọi Giáng Sinh là lễ vui mừng nhất, thì Phục Sinh là lễ vinh quang nhất. Nếu gọi Lễ Giáng sinh khai mở niềm hy vọng của Ơn Cứu độ thì Phục sinh chính là bằng chứng xác thực của niềm hy vọng đó.

Thật thế, sự Phục Sinh là chân lý chóp đỉnh của đức tin Kitô giáo, như Thánh Phaolô xác tín: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền”(1Cr 15,17).

Đối diện với những tai ương và thảm họa về bệnh tật, thiên tai, chiến tranh và gần đây nhất là đại dịch Covid -19, có lẽ nhiều người trong chúng ta tự hỏi: đâu là ý nghĩ của cuộc sống này? 

Đức Kitô Phục sinh chính là câu trả lời cho câu hỏi đó. Chết không phải là hết! Nếu đời ta chỉ trải qua những gian nan, đau khổ và kết thúc bằng cái chết thì còn đâu là ý nghĩa. Sự Phục sinh là ý nghĩa cùng đích của hành trình dương thế. 

Nhưng để được Phục sinh như Đức Kitô, chúng ta phải làm cho cuộc đời này có ý nghĩa ngay bây giờ tại trần thế này:

Sống ý nghĩa cuộc đời là phải biết tôn trọng và bảo vệ phẩm giá con người giữa những phân biệt đối xử, tệ nạn bóc lột… vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. 

Sống ý nghĩa cuộc đời là phải biết trân trọng và tuân giữ những giá trị đạo đức và luân lý của con người giữa những trào lưu thế tục, vì chúng ta là con Thiên Chúa. 

Sống ý nghĩa cuộc đời là phải biết yêu thương và san sẻ trong tình người giữa những thử thách, đại hoạn vì chúng ta là anh chị em một Cha trên trời. 

Sống ý nghĩa cuộc đời là phải có niềm tin, tình yêu và hy vọng vào Chúa Kitô Phục sinh vì chính Người là nguồn ân sủng và cùng đích của đời ta. 

Nếu ta cuộc đời này ý nghĩa thì Sự Phục sinh chính là phần thưởng của ta giữa dòng đời gian truân hôm nay. Ở nơi đó, niềm vui sẽ xua tan những giọt nước mắt đắng cay; hạnh phúc viên mãn sẽ khỏa lấp những chuỗi ngày đau khổ; và sự sống vĩnh cữu trên Nước Trời sẽ thay thế cuộc lữ hành trần thế tạm bợ này.

Về mục lục

CHÚA SỐNG LẠI VỚI BIẾN CỐ CUỘC ĐỜI

Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường

Đêm Canh Thức Vượt Qua tối qua, chúng ta cùng nhau cử hành và sống lại biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại cách đây hơn 2 ngàn năm. Biến cố Phục Sinh là biến cố trọng đại và cao cả nhất của Kitô giáo, là điểm mấu chốt và đỉnh cao của Phụng vụ thánh. Biến cố Phục Sinh giúp cho cả nhân loại và mỗi người chúng ta hôm nay nhận ra tình yêu cứu độ của Thiên Chúa và làm rực sáng lên Đức Tin Công Giáo. Thánh Phaolô đã nói, nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta thật hão huyền và sống trong tội lỗi của anh em (x. 1Cr 15, 17).

Thật hão huyền, bởi vì chúng ta không thể chấp nhận một Thiên Chúa chết, một Thiên Chúa lại hủy mình và một Thiên Chúa thất bại vì sự dữ. Một Thiên Chúa chỉ làm phép lạ cho người khác mà không cứu nổi mình. Nhưng thật hạnh phúc và hãnh diện cho niềm tin của chúng ta là Đức Kitô đã chiến thắng tử thần, Người đã sống lại thật và ngự bên hữu Chúa Cha. Người đã sống lại thật như Lời Người đã phán hứa, Alleluia, Alleluia, Alleluia!

Chúa Nhật Phục Sinh 2021 năm nay, xin được chia sẻ một vài tâm tình ngang qua biến cố Phục Sinh của Chúa, của thế giới và của mỗi người chúng ta.

  1. Biến cố Chúa Giêsu

Hơn 2 ngàn năm, vụ án của Chúa thật kinh hãi khủng khiếp. Quá bất công, và đầy tính man rợ. Quân lính và dân chúng thì la ó lên: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá, giết nó đi, nó là kẻ phạm thượng, nó nói lộng ngôn… Thế nhưng, Chúa vẫn kiên nhẫn chịu đựng tất cả nhục mạ của con người dành cho Ngài. Chúa vẫn lặng thinh trước những dữ tợn của con người gây ra. Chúa vẫn chịu đựng quân lính đánh đập với trăm ngàn đòn roi xé thịt. Chúa vẫn gồng mình đau đớn để cho quân lính đóng đinh vào gỗ giá và cuối cùng Chúa đón nhận cái chết đau thương, nhục nhằn và trần trụi trên thập giá.

Với con mắt của các thượng tế, kinh sư và dân chúng thời đó, Cuộc Thương Khó của Chúa là điểm chấm hết, là kết thúc tất cả niềm hy vọng của những người tin vào Đức Giêsu. Nhưng có phải vậy không? Thưa không. Biến cố Phục Sinh, biến cố Ngôi Mộ trống đã làm đảo ngược tất cả. Đức Kitô Chúa chúng ta đã sống lại hiển vinh. Từ nay, các môn đệ cho đến những kẻ tội đồ đã phải choáng váng, thức tỉnh và bừng sáng con tim. Ánh Sáng Phục Sinh chỉ đường để tất cả phải được sống trong sự thật và tự do, sống trong niềm vui và tràn đầy hy vọng. Từ nay bóng tối của sự dữ nhường chỗ cho ánh sáng Phục Sinh Chúa Kitô. Thần dữ sẽ phải quy phục, khiếp sợ để quyền năng Thiên Chúa được ngự trị trên cõi đất này.

Tin Mừng Phục Sinh hôm nay, cho mỗi chúng ta thấy rằng: Biến cố Ngôi Mộ Trống đã khiến bà Maria Mađalêna không còn sống trong u tối của sự thất vọng và chán chường nữa. Bà bừng sáng con tim và đã có những hành động tích cực là chạy vội vã hết sức. Bà chạy về báo tin với các môn đệ và họ cũng chạy hối hả ra mộ để rồi từ việc chạy nhanh ấy đem đến cho các ngài niềm vui thật và ánh sáng thật của những kẻ đã từng tin tưởng vào Thầy mình: Thầy đã sống lại thật như lời Kinh Thánh được viết ra.

  1. Biến cố thế giới

Dịch bệnh Covid 19 kéo dài và vẫn còn tiếp tục cho đến hôm nay. Con virus quá nhỏ bé, con người không thể nhìn thấy nếu không có kính hiển vi. Thế mà con người bó tay, các nhà y tế thế giới đã trải qua một thời gian dài mới có thể nghiên cứu và cho ra loại vaccine để ngăn chặn nhưng con virus lại biến thể khác. Nó đã làm chết hàng trăm ngàn sinh mạng con người. Nó đã làm kiệt quệ kinh tế trên toàn thế giới. Nó đã chặn đứng các phương tiện giao thông từ quốc gia này đến quốc gia khác; từ châu nay đến châu khác; nó đã làm cho mỗi người không thể đến gần nhau như ước muốn của họ. Dường như con người bất lực trước đại dịch này! Sự chết với cơn đại dịch thật khủng khiếp như thế, nhiều người tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Có còn là một Thiên Chúa của tình yêu nữa không? Lòng Thương Xót của Chúa để ở chỗ nào? Ai sẽ cứu nhân loại trong cơn đại dịch này?

Vâng, thế giới đang trong chiều hướng phát triển về văn minh của khoa học kỹ thuật số. Thế nhưng trong xã hội này con người đã lầm tưởng chỉ có khoa học mới cứu vãn con người. Con người đã lầm tưởng họ có thể làm được mọi sự. Họ tưởng rằng: con người là trung tâm, là cái rốn của vũ trụ, vì thế, chính họ đã ngang nhiên loại Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống.

Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy biết bao tệ nạn… Nó đã làm cho con người ra “khốn đốn” không tìm được hướng đi, không tìm được lối thoát. Con người đang chết dần, chết mòn vì các tệ nạn cũng như tai ương xảy đến. Nhìn vào cách sống trong xã hội, dường như họ không muốn để Chúa can thiệp vào các vấn đề của họ và muốn Thiên Chúa vắng mặt nơi môi trường cũng như công ăn việc làm của họ. Họ coi Thiên Chúa như đã chết, và họ làm theo ý riêng của mình.

Đại dịch Covid 19 như nhắc nhớ con người rằng: con người là hữu hạn, thế giới này có hạn. Trần gian này sẽ có ngày kết thúc. Thiên Chúa làm chủ mọi sự trên trời và dưới đất. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm cho thế giời này vận hành trong yên hàn và trật tự của sự bình an. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chiếu sáng nơi tăm tối cuộc đời của mỗi người. Và chỉ có cuộc Tử Nạn Phục Sinh của Đức Kitô mới có thể cứu độ con người và đẩy lui sự dữ trong thế giới này.

Vâng, ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cách đây hơn 2 ngàn năm nhưng Thiên Chúa vẫn còn và sẽ cứu độ con người qua từng biến cố của cuộc đời. Vì Thiên Chúa là Apha và Omega. Ngài là nguyên thủy và cùng đích của nhân loại. Chính ánh sáng Phục Sinh của Chúa, niềm vui, niềm hy vọng của Đấng Phục Sinh sẽ làm cho trái đất này bừng sáng lên và làm cho thế giới này càng thấy rõ khuôn mặt của Thiên Chúa nhân hậu và từ bi; chậm bất bình và hết sức khoan dung (x. Tv 85,15b).

  1. Biến cố cuộc đời

Thế giới là một đại gia đình, vì dù sống xa bao nhiêu, họ cũng có thể liên lạc được với nhau, nhìn rõ mặt, nói chuyện như là ở sát bên nhau, rồi thấy hết những gì họ muốn. Nhưng dù khoa học có tiến bộ, con người có muốn xích lại gần nhau nhưng nhân loại dường như vẫn đang sống thiếu tình thương như đang sống mồ côi tình người.

Con người ngày nay họ cư xử với nhau vì lợi lộc, vì tiền, vì tiếng, nên họ tranh giành quyền bính, tranh giành tầm ảnh hưởng… họ dùng thủ đoạn và có khi họ bất chấp tính mạng con người miễn sao họ đạt được mục đích. Họ bắn, họ giết không cần bản án. Giữa tình người hôm nay, con người đang chủ trương sống theo thuyết: “mặc kệ nó” để lo cho bản thân, bỏ rơi anh chị em vốn là người thuộc về mình và là đồng loại với nhau.

Trên mạng xã hội mới đây, nói về một nữ tu quỳ trên đường phố đối đầu với binh lính Miến Điện đang trang bị vũ khí tấn công đã kể lại rằng: Thông điệp duy nhất của nữ tu là làm ơn đừng đàn áp người biểu tình tay không tấc sắt. Điều kỳ diệu là hành động của nữ tu đã khiến 2 cảnh sát vội quỳ xuống như nữ tu ấy để thể hiện sự kính trọng. Một cô gái có biệt danh là Angel, 20 tuổi, đối diện với bạo quyền cùng với dòng chữ trước thân mình: Everything will be ok (Tất cả sẽ ổn thôi). Và viên đạn đã giết chết cô gái sau đó. Nhưng đó là cái chết bất tử và làm hồi sinh những điều lớn lao cho con người.

Với xã hội tình người đã mất thì không có gì ngạc nhiên khi một nữ tu ấy, một cô bé 20 tuổi ấy, hoặc một người nào đó thể hiện tình người giữa đám đông liền được mọi người tung hô thán phục. Cầu mong cho nhân loại biết sống với nhau bằng TÌNH NGƯỜI, bằng TẤM LÒNG, đừng vì ngai vàng trần gian mà gây thù oán, chém giết… và cầu mong cho mỗi người biết sống bảo vệ đùm bọc lẫn nhau hầu xây dựng thế giới đầy tình người hơn.

Đâu đó đang vang lên tiếng khóc, đang báo động THÁI ĐỘ CON NGƯỜI về bất công, về dối trá, về dửng dưng và thiếu lòng nhân ái… Tiếng khóc ấy đang vang lên nơi những người thấp cổ bé miệng, nơi những người nghèo đói khổ đau và nơi những người không có gì để mất và không còn gì để sống.

Chúa đã đến với nhân loại, Người đã tử nạn và Phục Sinh. Chúa chết một lần và sống lại một lần. Hôm nay nếu mỗi chúng ta không để Chúa sống lại một lần nơi cõi lòng, trong trái tim mình thì điều đó chẳng có nghĩa gì. Chúa và Giáo Hội đang mong nơi mỗi tâm hồn thiện chí là hãy mở lòng ra để đón lấy ánh sáng Phục Sinh, đón lấy tình yêu Cứu độ mà Đấng Phục Sinh trao tặng.

Đón lấy ánh sáng Phục Sinh, tức là nhận ra Chúa trong cuộc sống nơi cuộc đời mỗi người. Chúng ta sống là để tìm cho được hạnh phúc, và hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa. Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi, mỗi người có thể nhìn thấy Chúa ở nhiều góc độ khác nhau nơi con người và nơi vẻ đẹp thiên nhiên trong vũ trụ. Nhất là nhận ra được Chúa trong cuộc đời với nhưng biến cố bản thân để có thể cảm nhận được.

Chúng ta có thể đã khóc quá nhiều vì những đau khổ trong cuộc sống vì sự mất mát người thân, vì sự thiệt thòi bản thân, vì sự cô đơn lạc lõng và vì sự chán nản thất vọng trong cuộc sống này. Lúc đó chắc chắn sự đau khổ đã ngăn không cho ta nhìn thấy rõ Chúa, và tâm trí chúng ta lại suy nghĩ đến những đau khổ, giống như bà Maria Mađalêna trong Tin Mừng được kể lại hôm nay.

Chúng ta có thể khóc vì nhiều lý do trong biến cố cuộc đời, nhưng liệu chúng ta có nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện trong những lúc như thế không? Chúng ta có nhận ra Chúa Phục Sinh đến, đồng hành và nâng đỡ ủi an nơi bản thân không?

Lạy Chúa, giữa phận người đang gian nan thử thách, đang nhiều biến cố xảy đến trong thế giới hôm nay, đặc biệt đại dịch Covid19 chưa có dấu hiệu dừng lại, xin dạy chúng con biết tin tưởng và phó thác vào tình yêu và quyền năng của Chúa. Xin mở con mắt đức tin để chúng con có thể nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện và đồng hành với chúng con và với toàn thể nhân loại. Amen!

Về mục lục

TIN MỪNG PHỤC SINH

Bông hồng nhỏ

Có nỗi đau nào lớn cho bằng nỗi đau của người môn đệ đã chứng kiến cái chết thảm thương của người Thầy mình luôn hết lòng yêu thương? Có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau của người môn đệ đã từng thề thốt hứa trung thành với Thầy cho dù phải chết nhưng rồi trong cơn hiểm nguy, vì hãi sợ đã chối Thầy đến ba lần? Có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau của những môn đệ đã mất đi Người Thầy đáng kính? Trong nỗi đau đớn đến cùng tận, họ hiểu được thế nào là trống vắng, thế nào nào bơ vơ. Không có Thầy bên cạnh, họ lo âu, sợ hãi, lòng buồn tê tái. Thầy Giêsu đã ngủ yên trong mồ đá.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria đã ra mộ từ lúc trời còn tối. Bà không để cho nỗi sợ hãi chôn chân ở nhà. Thầy mất, bà rất đau khổ, càng yêu quý Thầy bao nhiêu thì nỗi đau để lại trong lòng càng lớn bấy nhiêu. Bà chỉ chờ hết ngày Sabát để ra mộ thăm Thầy. Bà xăm xăm bước đi, lần mò trong đêm tối. Bà nhớ Thầy da diết khôn nguôi. Thấy ngôi mộ trống, bà nghĩ ngay đến việc người ta đánh cắp xác của Thầy. Điều ấy càng làm bà đau đớn và hoảng sợ. Ở trong đau khổ, người ta bị nỗi đau khổ dày vò. Thấy ngôi mộ trống không, bà không vào trong mộ để xem nhưng đã chạy thẳng về báo tin cho ông Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu” (Ga 20, 2). Hai ông vừa nghe bà báo tin liền vội vã chạy ra mộ. Lòng các ông cũng quặn đau trước sự ra đi của Thầy. Xác Thầy không còn, đó là một tin chẳng lành. Các ông chạy ra tận nơi để xem cho tường tận. Người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước, ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. Ông Phêrô vừa đến nơi liền vào thẳng trong mộ. Ông thấy những băng vải được sắp xếp gọn gàng. Đây chẳng phải là một vụ đánh cắp xác được làm trong vội vàng. Chẳng ai đi ăn cắp xác mà lại cẩn thận xếp gọn gàng những băng vải. Ông đã nhìn quanh mộ và chỉ lặng im. Ông Gioan bấy giờ cũng bước vào. Ông đã thấy và đã tin. Ông chỉ thấy những gì ông Phêrô đã thấy thôi sao? Ông đã thấy những gì ông Phêrô đã thấy và ông còn thấy bằng cái nhìn của con tim. Ông tin Thầy đã sống lại. Lòng ông vui lên. Thầy không ngủ yên trong mồ đá nhưng đã trỗi dậy.

Trong cuộc sống thường ngày, có những nỗi buồn cũng làm cho ta tê tái. Dường như, ta cũng đang cảm thấy Chúa vắng bóng. Người ở đâu khi ta bị nỗi đau khổ dày vò? Hãy rời khỏi căn nhà của chính lòng mình để ra đi, hãy bước đi bằng tiếng nói của con tim như bà Maria để được thấy điều Chúa muốn ta thấy, để được gặp Chúa, được nghe tiếng gọi thân thương của Người. Chúa Giêsu Thánh Thể đang kiên nhẫn chờ ta. Người âu yếm gọi tên ta. Hãy chạy vội đến với Người như hai môn đệ, để được nhìn thấy tường tận những dấu chỉ Người đã để lại. Nhìn lên thập giá, ta thấy gì? Chúa Giêsu đã chết thật rồi. Người đã chết như một tử tội. Người đã mang lấy tội lỗi của ta mà đưa lên thập giá, Người đã chết là để cho ta được sống. Nhìn Người chịu treo trên thập giá, ta không chỉ thấy cái chết của Người nhưng ta nghe được tiếng vọng của Tình Yêu. Người dẫn ta bước qua đau thương, thử thách để bước vào sự sống vinh quang. Mỗi lần ta biết sám hối, từ bỏ những gì đã ngăn cản ta đến với Chúa, ta đã chết đi với con người tự nhiên của mình, chết đi với ý muốn riêng mà chọn điều Chúa muốn; như thế ta đang được sống trong sự sống của Chúa rồi. Trong tình yêu, trước khi để cho lý trí dẫn đường, ta hãy tập lắng nghe tiếng nói của con tim và mạnh dạn đi theo điều con tim mách bảo.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh! Con cảm tạ Chúa đã chết và sống lại để con cũng được sống trong Chúa. Chúa giải thoát con khỏi tử thần. Con tin Chúa vẫn đang sống trong con và làm cho con được mạnh mẽ hơn mỗi ngày, để nhờ đó, con được lớn lên và trở thành người loan báo Tin mừng của Chúa. Mỗi lần con thấy Chúa vắng bóng trong đời, xin cho con khao khát tìm kiếm Chúa và gặp được Chúa. Amen.

Về mục lục

TÌNH YÊU CHIẾN THẮNG

Maria Thùy Trang

“ Mẹ ơi, em con ngủ đó, ngày mai em sẽ dậy và chơi với con”. Đó là những lời nói mà tôi thốt lên khi chứng kiến sự ra đi của em trai tôi. Và đến tận bây giờ tôi vẫn chưa thể đón nhận được sự thật tôi đã mất em, vĩnh viễn mất em, trong trái tim tôi vẫn còn đau nhói.

Hôm nay là ngày kỷ niệm mười hai năm em tôi ra đi, tôi đang bước đi để đến mộ của em, những bước chân của tôi rảo bước một cách khá nặng nề, đứng trước màn sương mỏng buổi sáng. Trong tôi hiện ra hình ảnh Bà Maria Madalena, bà cũng đến mộ Chúa từ tờ mờ sáng. Trước mắt bà tảng đá cửa mộ mở ra một luồng ánh sáng soi tỏ cả bầu trời và trong trái tim của một người yêu Chúa như bà, dù Người đã chết nhưng tôi còn cảm tưởng bà vẫn yêu với một tình yêu phi thường vượt trên mọi nghịch cảnh. Chính tình yêu ấy đã thôi thúc bà đến mộ từ sáng sớm để thăm Chúa. Nhưng bà tìm quanh chẳng thấy xác Chúa đâu bà đã khóc những giọt nước mắt của tình yêu rơi xuống đã làm cho trái tim thổn thức thêm mãnh liệt. Chính lúc tưởng rằng mọi hy vọng đã tắt, lúc này bà được lắng nghe tiếng Chúa gọi bà: “Maria”, bà thưa lại: “lạy Thầy”. Nhớ tiếng gọi thân thương ấy, bà đã nhận ra thầy Giêsu của bà đã sống lại, bà ôm chầm lấy Thầy như muốn giữ Thầy lại, nhưng Thầy Giêsu bảo bà: “để Thầy đi về với Cha của Thầy, hãy đi báo cho anh em của Thầy biết tin vui này”. Chắc chắn lúc này Maria Madalena rất vui, tâm hồn bà bừng lên một niềm tin vào Chúa: Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và Chúa đã Phục sinh. Bà đi báo tin vui cho các môn đệ và cho mọi người, bà hơn hở, lòng bà vui sướng như có Chúa ở cùng.

“Chúa sống lại rồi, Chúa sống lại rồi” đó là những âm vang mà lúc này tôi nghe được trong cõi lòng tôi. Với tôi hình ảnh về một Maria Madalena yêu Chúa đã làm cho trái tim tôi rực sáng niềm tin vào Chúa, tôi vui vẻ đón nhận điều Chúa gửi đến. Tôi cảm thấy bản thân như đang sống lại sau một giấc mơ dài, bây giờ tôi phải đến mộ em trai tôi, để nhìn em với cái nhìn của đức tin của người Kitô hữu và tôi tin  em đang được sống bên Chúa rất vui vẻ, em cũng đáng hướng lòng về những người đang sống mong cho mọi người có được cuộc sống bình an, hạnh phúc. Tôi đã đến mộ của em, nhìn em với nét mặt nở  nụ cười tươi, lòng tôi cảm thấy bình an và hân hoan một cách lạ thường. Tôi đến bên gia đình đang chờ tôi, ôm chầm lấy họ và tôi òa lên khóc khi nhận ra tôi là kẻ cuối cùng cứng lòng tin vào Chúa. Và tôi tin em là món quà tình yêu mà Chúa đã gửi đến cho tôi, để thấy khi yêu ta có thể vượt qua mọi ngăn cản để luôn làm cho người mình yêu được hạnh phúc.

Chúa Giêsu đã yêu nhân loại và Ngài minh chứng tình yêu đó bằng cái chết trên thập giá để đền thay tội lỗi cho nhân loại. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng yêu con bằng tình yêu phi thường, xin Chúa giúp con mỗi ngày nên giống Chúa hơn, yêu với cái nhìn yêu thương của Chúa, yêu với quả tim của Chúa và sống với trái tim bao dung tha thứ của Chúa.

Con tạ ơn Chúa đã đồng hành với con trên hành trình bước theo Chúa trong linh đạo Mến Thánh Giá. Ước mong mỗi ngày con yêu Chúa nhiều hơn và sẵn sàng chấp nhận thánh giá Chúa gửi đến như một món quà cao quý Chúa dành cho con, để khi đối diện với sự thật về con người trong con, con luôn tin tưởng, phó thác vào tình yêu quan phòng của Chúa. Con tin bài học nơi gia đình sẽ giúp con biết lắng nghe hơn, biết trân trọng từng phút giây được sống bên Chúa và để trái tim con luôn biết thương cảm trước những nỗi đau của nhân loại.

Chúa là niềm vui, là sự sống của đời con. Xin giúp con luôn can đảm, mạnh mẽ bước theo Chúa và trung thành vác thập giá theo Chúa mỗi ngày thêm trọn vẹn hơn, và mai sau cũng được sống lại với Chúa. Amen.

Về mục lục

CHÚA PHỤC SINH

Thiên San

Sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi viếng mộ. Bà thấy tảng đã đã lăn khỏi mộ, tưởng rằng người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ nên liền chạy về báo tin cho Simon Phê rô và môn đệ Đức Giêsu thương mến. “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2).  Nghe tin, hai môn đệ liền chạy thẳng ra mộ. Các ông đã thấy và đã tin.

Điều đầu tiên Maria Mađalêna thấy đó là ngôi mộ trống cùng tảng đá lớn lăn ra khỏi cửa mộ. Tiếp đến, môn đệ Đức Giêsu thương mến chạy đến trước, ông cúi xuống và thấy những băng vải còn đó, nhưng không vào. Sau cùng Simon Phêrô cũng đến nơi. “Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu; khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” . (Ga 20, 6-7). “Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào, ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8). Đó là những dấu chứng đầu tiên về sự phục sinh của Thầy Giêsu. Sau khi phục sinh, Đức Giêsu nhiều lần hiện ra với nhóm Mười Hai, hai môn đệ trên đường Emmau… Các lần hiện ra được các sách Tin Mừng, sác Công vụ Tông đồ ghi lại.

Thánh Phao lô đã từng nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Thật vậy, nếu Đức Giêsu chỉ dừng lại ở cuộc khổ nạn, đức tin của các tông đồ có thể sẽ chẳng còn. Nhưng Đức Giêsu Kitô thực sự đã phục sinh khải hoàn. Sự sống nguyên tổ Adam đánh mất xưa kia nay tìm lại được nhờ sự phục sinh của Adam mới là Đức Kitô. Sự phục sinh của Người đem lại cho ta sự sống mới. Mừng biến cố Phục sinh, cùng toàn thể triều thần thiên quốc và môn loài thọ tạo chúng ta hân hoan ca lên lời ca Alleluia. Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng tình yêu của Ngài mà làm cho Đức Kitô được trỗi dậy từ cõi chết để chúng ta nhờ liên đới với Người cũng được phục sinh trong ngày sau hết.

 Sự sống mới Đức Giêsu Phục sinh mang đến là sự sống bởi Thần Khí. Tội lỗi làm cho con người trở thành nô lệ nhưng nay được giải thoát. Chúng ta đã được tha thứ. Nếu chúng ta đã đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy nỗ lực sống sự tha thứ ấy. Đó khi chúng ta biết khiêm tốn đón nhận sự thứ tha đồng thời biết quảng đại tha thứ cho nhau. Khi đó, ta không chỉ được thông phần thập giá Đức Kitô mà con được sống dồi dào niềm vui phục sinh cùng với Người. Thần Khí của Chúa Phục sinh sẽ đồng hành hướng dẫn ta trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho chúng ta mỗi ngày, theo cách thức Người muốn. Chúng ta hãy xin Người cho chúng được ơn khao khát, yêu mến và thuộc về Người. Như Maria Mađalêna can đảm ra mộ từ sáng sớm, như Simon Phê rô và môn đệ Đức Giêsu thương mến đã thấy và đã tin, chúng ta được mời gọi loan tin mừng Phục Sinh bằng chính đời sống của mỗi người. Nhờ đó, ta nhạy bén hơn với lời mời gọi cũng như sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong cuộc đời mình. Để từ đó, chúng ta sống trong niềm hy vọng, vui tươi. Bình an dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn.

Về mục lục

BÓNG HỒNG TRONG SƯƠNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Bóng hồng trong sương” với hình ảnh thật thi vị. Nhạc sĩ Tuấn Kim phổ nhạc. Giai điệu vui tươi phấn khởi. Lời thơ nhạc khởi đi từ câu chuyện Tin Mừng Phục Sinh. Maria Mađalêna đi thăm mộ từ sáng sớm tinh sương. Hình ảnh đẹp nên thơ “bóng hồng lay động sương mai, sương ướt đẫm bờ vai, đi tìm Thầy mà không thấy Thầy đâu. Nhìn ngôi mộ trống lòng nàng đau biết bao, bóng hồng khóc lóc kêu than, nàng trách lời ai áo trắng hỏi han… Bóng hồng hoan lạc bao la vì bóng hồng nay thấy Chúa Phục Sinh. Chúa truyền rằng đừng động đến mình Ta, về mau hãy nói là Ta đã sống lại”…

Maria Mađalêna và các phụ nữ là “những bóng hồng” chân yếu tay mềm nhưng can đảm lạ thường và chan chứa lòng mến. Trước khi rời nghĩa trang, họ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62),  và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh sao?

Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan khiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.

Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…

  1. Nấm mồ mở toang

Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu“.

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

  1. Thấy và tin

Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.

Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin” diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

  1. Ánh sáng bừng tỏa

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.

Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.

  1. Chúa đã sống lại thật! Allêluia!

Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Hãy cùng với những “bóng hồng trong sương” hát lên khúc ca Allêluia với những nốt nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.

Về mục lục

KHOẢNG TRỐNG ĐẦY Ý NGHĨA

Trầm Thiên Thu

Ngôi Mộ Chứng Minh Đức Chúa Sống Lại

Tín Nhân Loan Báo Tin Mừng Phục Sinh

Đúng như lời Đức Kitô nói trước, bây giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã bị giết chết công khai, nhưng thực sự Ngài đã sống lại, niềm tin của chúng ta được bảo đảm: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.” (1 Cr 6:14) Vô cùng kỳ diệu, chính “ngôi mộ trống trơn” lại chứa đựng tất cả sự sống. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi.” (Lc 24:5-6) Sự thật tiếp tục được củng cố.

Vì yêu thương, cha mẹ muốn có gì đó để lại cho con cái. Có người để lại tiền bạc, nhưng các cha mẹ tri thức và khôn ngoan thì không cho con cái thừa kế tài sản mà để lại cho chúng thứ quý giá hơn, không thể mua bằng tiền bạc – kiến thức và sống lương thiện.

Có câu chuyện thật lạ tại một hội nghị tôn giáo, người ta đặt câu hỏi: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?” Lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút tro tàn, người thì nói là chút hài cốt, người thì nói là mấy cọng râu, nhúm tóc, manh áo, chiếc nhẫn, hoặc vật này, vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo nói: “Chúa Giêsu của chúng tôi để lại di sản là NGÔI MỘ TRỐNG.” Rất đặc biệt và rất tuyệt vời!

Ngôi mộ trống nhưng không rỗng tuếch mà đầy ắp mọi thứ. Mắt thường không thể thấy nhưng đó là sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy càng ngày càng có nhiều chứng cớ chứng tỏ thực sự có một Ông Giêsu đã bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.

Thật vậy, chính các thượng tế và các kỳ mục đã bàn bạc với nhau là cho lính một số tiền lớn và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” (Mt 28:13-14) Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Kẻ trên hèn thì kẻ dưới nhát. Vô cùng hèn hạ!

Tuy nhiên, khắp nơi trên thế giới này vẫn có các nhân chứng sống động, cụ thể trước tiên là ông Phêrô – người đã từng sợ hãi khi bị phát hiện là người cùng phe với Chúa Giêsu, và rồi đến Phaolô – người đã từng phủ nhận Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Conêliô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.” (Cv 10:34-35) Thiết tưởng cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản. Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói thật, không hư cấu hoặc bịa đặt.

Một Simôn đã thành Phêrô, và Phêrô hôm nay hoàn toàn khác Phêrô hôm qua, kẻ sợ hãi đã biến thành người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn nói về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10:37-38)

Dẫn chứng rất cụ thể, ông nói một lèo: “Chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội.” (Cv 10:39-43) Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là tin thật, không là tin giả, là sự thật tuyệt đối, không thể chối cãi, bất cứ ai từ chối đều là cố chấp.

Đức tin của chúng ta là có tính tông truyền, thật diễm phúc vì chúng ta đang cố gắng sống niềm tin đó. Mừng lễ Chúa Phục Sinh là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình và tái xác định: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:1) Chúng ta chỉ là con “số không” to lớn, thế nên càng phải tạ ơn, bởi vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực.” (Tv 118:16) Kinh Thánh xác định: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết.” (Kn 2:1) Chúng ta sẽ chết, nhưng chúng ta không chết tủi nhục, mà sẽ được sống lại và sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm.” (Tv 118:17)

Có điều rất lạ lùng: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118:22-23) Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, không thể không chia sẻ với người khác: “Đây là ngày Chúa làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.” (Tv 118:24)

Alleluia – Hãy vui mừng! Và như một mệnh lệnh, Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” (Cl 3:1-2) Phải thế thôi, không thể khác được, bởi vì chính Chúa Giêsu xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 8:23) Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải một lòng một dạ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” để được vĩnh sinh với Chúa Giêsu Phục Sinh.

Tại sao? Thánh Phaolô cho biết: “Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3:3-4) Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất, rác rưởi, nhơ nhớp và hôi tanh, vậy mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Cứ ngỡ là huyền thoại mà lại là sự thật. Rất kỳ diệu, ngoài sức tưởng tượng của phàm nhân.

Nhưng phải luôn cẩn trọng, kẻo mà ảo tưởng, bởi vì ảo tưởng sinh ra kiêu ngạo, kiêu ngạo sinh ra cố chấp, cố chấp thì cùng đường. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1 Cr 5:6-8) Mừng đại lễ không là mâm cao, cỗ đầy, với những món hấp dẫn, quan trọng là tâm hồn chúng ta có thực sự phục sinh hay chưa.

Chuyện ngôi mộ trống và chuyện những người đi tìm Đấng Phục Sinh được trình thuật Ga 20:1-9 kể ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” Nghe nói vậy, cả Phêrô và Gioan vội vã chạy ngay ra mộ. Có lẽ họ cũng hoang mang, cũng nghĩ có kẻ nào đó đã lén lấy thi hài Thầy đem đi mất tiêu!

Họ cùng rán sức chạy, nhưng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn Phêrô và tới mộ trước. Gioan cúi xuống, thấy những băng vải còn đó, nhưng không vào. Phêrô đến sau và vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải ở đó, có cả khăn che đầu Đức Giêsu nhưng khăn này cuốn lại, xếp riêng một nơi. Thế thì không thể có kẻ lấy xác Thầy. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế. Chắc chắn Thầy phục sinh thật rồi!

Sau đó Gioan cũng đi vào, cũng thấy, cũng tin. Mới trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, ngôi mộ trống đã cho thấy hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, hết lo sợ, khấp khởi vui mừng, can đảm làm chứng nhân: Thầy Giêsu đã phục sinh vinh quang.

Lạy Chúa Cha toàn năng, Con Một Ngài là Đức Kitô đã phục sinh vinh hiển, thật diễm phúc cho chúng con. Xin cho linh hồn chúng con được sống lại thật, giúp chúng con can đảm làm chứng về Đấng Phục Sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI! HALLELUIA

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Trong suốt Mùa Chay, nhất là Tuần Thánh, đỉnh cao là đêm Vọng Phục Sinh, Chúng ta được Giáo Hội qua các nghi thức cử hành, mời gọi chúng ta hướng về Quê Trời, cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới là chính Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi để sống xứng đáng là con cái Chúa. Ra khỏi bóng tối để đi vào Ánh Sáng. Những ý nghĩa này, đã được các nghi thức tối hôm qua diễn tả thật rõ nét. Thánh lễ giờ đây, chúng ta được Giáo Hội mời gọi hãy hân hoan hát lên bài ca Chúa Đã Sống Lại! Halleluiya! và hãy loan tin vui này đến tận cùng trái đất. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta tin? Làm sao chúng ta dám loan truyền Chúa đã sống lại? Dựa vào đâu để xác tín điều đó?

  1. Ngôi mộ bị bỏ trống?

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thuật lại sự kiện Chúa Phục Sinh. Bắt đầu từ việc bà Maria Mácđala đi ra mộ, mang theo thuốc thơm để sức xác Chúa. Khi tới nơi, bà ngỡ ngàng vì những gì hiện lên trước mắt bà. Tảng đã khổng lồ đã lăn ra khỏi mồ. Như vậy, theo linh tính, bà biết rằng xác Chúa không còn trong đó. Phải chăng người ta đã mang xác Chúa đi chỗ khác? Có thể là do một hoặc nhiều người đã lấy cắp xác Chúa? Bà liền chạy về báo cho các môn đệ, và Phêrô cùng với Gioan đã chạy tới, nhưng tiến thêm một bước nữa, cả hai ông đều vào và thấy khăn vải quấn người Đức Giêsu cũng như khăn che đầu vẫn còn đó. Một trong hai ông đã tin, đó là Gioan. Sự kiện ngôi mộ trống đã rõ ràng. Chắc chắn không còn xác Đức Giêsu trong đó. Nhưng Chúa đã sống lại hay bị mang đi hoặc bị đánh cắp? Tin Mừng cho chúng ta thấy có những suy nghĩ trái chiều. Maria Mácđala thì cho rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu”. Với các Kinh Sư, Luật Sĩ, Thượng Tế…và những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu, sau khi nghe tin Chúa đã sống lại thì đã dàn dựng một vở kịch nhằm vu khống cho các môn đệ, đồng thời bảo các lính canh thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt28:13-15).

Tuy nhiên việc phao tin là các môn đệ lấy cắp xác Đức Giêsu không khả tín cho lắm vì những lý do:

– Các môn đệ là những người ít học, đơn sơ chất phác. Những người chủ mưu giết Đức Giêsu thì có cả một kế hoạch (x. Mt 27, 62-66; 28,13-15).

– Khả năng chuyên môn của các môn đệ là chài lưới, thu thuế…Còn đội lính canh giữ Đức Giêsu thì tinh nhuệ và sắc bén (x. Mt 27, 62 – 66).

– Các môn đệ đang trong tình trạng sợ sệt, không thể nào lấy cắp xác Chúa mà vẫn ung dung xếp những giải khăn gọn gàng được (x. Ga 20:18-19).

–  Các môn đệ là những người thụ động. Lính canh là những người chủ động…

Như vậy, không có thể bày đặt ra chuyện Chúa đã sống lại để rồi lừa dối được. Gioan đã hiểu điều đó nên ông đã tin.

Tuy nhiên, nếu chỉ có chứng cứ về ngôi mộ trống thì không thuyết phục cho lắm. Sự kiện này chỉ có tính cách khai mở và là dấu chỉ của sự phục sinh mà thôi. Bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều giả thiết trái ngược nhau được đưa ra. Vậy, chúng ta còn dựa vào đâu nữa? 

  1. Những lần Đức Giêsu hiện ra và những lời Đức Giêsu đã báo trước

Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra với rất nhiều người, có những lúc trong nhà, trên đường, ngoài bãi biển. Trong số những người được Chúa hiện ra, chúng ta gặp những tên tuổi và những nhóm người như: hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9; Ga 20,11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emau (x. Mc 16,12-13; Lc 24,13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20,19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v… ; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28,16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).

Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:

– Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27); 

– Nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20,16);

– Những hành động Chúa làm (x. Lc 24, 35); 

– Hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,27.45). 

Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28,9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24,15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20,14;21,4).

Sự kiện Đức Giêsu hiện ra và việc nhận ra Ngài  đã được tông đồ Tôma đáp lại cách tuyệt đối sau khi đã sỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn: “lạy Chúa tôi, lạy Chúa của tôi” (Ga 20,28). Mặt khác, Đức Giêsu còn ra dấu hiệu về việc làm chứng và sứ vụ. Đồng thời, những lần hiện ra, Ngài còn hứa hẹn và loan báo sẽ trao ban Chúa Thánh Thần đến để trợ giúp, đồng hành với các ông trong sứ vụ.  

Cuối cùng, Đức Giêsu đã mở lòng trí các ông, để các ông nhớ lại tất cả những điều đã được báo trước trong Kinh Thánh và chính Ngài đã nói cho các ông trước khi lên Giêrusalem để chịu chết: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21).

Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi…thì mới không tin mà thôi.

Như vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng ghi lại: ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, và hứa sẽ đồng hành với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế qua việc trao ban Chúa Thánh Thần, và điều quan trọng nhất đó là những lần Ngài đã báo trước. 

  1. Sự kiện Đức Giêsu sống lại và niềm tin của chúng ta

Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của các tông đồ…, và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội hơn 2000 năm qua, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” (1Cr 15, 19), và niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền, lời rao giảng là vô cớ. Nhưng Ngài đã sống lại và đã phục sinh tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành con người mới: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Đây quả là Tin Mừng, và Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, qua đau khổ là vinh quang. Sự kiện Chúa Phục Sinh, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được Phục Sinh như Ngài.

Giờ đây, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh lại một lần nữa được chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: tôi tin Đức Giêsu […] Đấng đã “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”. Đây là niền tin của Giáo Hội và của mỗi chúng ta. Chúng ta hãnh diện, tự hào và tuyên xưng đức tin ấy cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội ấy. Amen.

Về mục lục

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

  1. Khi trình bày các biến cố ghi dấu và nối tiếp việc Chúa Giêsu sống lại, các thánh sử không muốn làm cho đọc giả bằng những cách diễn tả nhằm đánh động trí tưởng tượng, nhưng chỉ muốn tập trung vào những nét chính yếu: Chúa Giêsu đã sống lại, mộ của Ngài trống rỗng từ ngày Chúa nhật, và chính Ngài nhiều lần đã hiện ra với các tông đồ của Ngài như một người sống.

Các bài tường thuật của họ luôn luôn khác nhau và mỗi người trình bày theo một nhãn giới riêng. Nếu tất cả đồng ghi nhận việc ngôi mộ được phát hiện trống rỗng từ sáng Chúa nhật do một hay nhiều phụ nữ, một hay hai thiên thần loan báo sự sống lại, thì mỗi một thánh sử sau đó lại xếp đặt câu chuyện theo sơ đồ riêng. Vì lưu tâm đến tư tưởng: Chúa Giêsu là thầy của luật mới mà Ngài đã công bố trên núi miền Galilê (Mt 5,7), Mt chỉ muốn tường thuật việc Chúa hiện ra (sau khi sống lại) trên một ngọn núi miền Galilê. Ở đó Ngài sai các môn đồ đi rao giảng khắp thế giới như những vị thầy (Mt 28,16-20). Mc thì quan tâm đến việc minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa mà không tìm cách xác định vị trí các sự kiện được kể lại; ông chỉ vắn tắt nêu lên lần hiện ra với Madalena, với hai khách bộ hành, sau đó với nhóm 11 tông đồ trong một bữa ăn, có lẽ bữa ăn tối phục sinh, mà ông ghép luôn với việc sai các tông đồ đi truyền giáo (Mc 16,9-18). Lc chỉ trình bày sứ vụ Chúa Giêsu như một tiến trình từ Galilê về Giêrusalem và sứ vụ các tông đồ như một tiến trình khác từ Giêrusalem đến với thế giới (24,47), cho nên ông không ghi lại những lần hiện ra ở Galilê, vì sợ xáo trộn lược đồ địa dư của mình; ông kể lại rất dài dòng lần hiện ra với hai môn đệ làng Emmau, với các tông đồ trong bữa ăn vào chiều Phục sinh mà ông ghép luôn với việc sai đi truyền giáo (Lc 24,13-49).

Gioan thì xếp đặt câu chuyện về sứ vụ Chúa Giêsu cốt để xác định thiên tính của Ngài và trình bày các chứng nhân đã tin hay không tin vào Đức Kitô trần thế. Trong chương 20, ông vẫn đeo đuổi những mục tiêu ấy, liên quan đến việc Chúa Giêsu sống lại. Trước hết ông quả quyết Chúa Giêsu đã sống lại và tiến về Chúa Cha, sau đó, cho biết Maria Madalena và các môn đệ, ban đầu hoàn toàn không tin, nhưng dần dần đã tin vào sự sống lại, vào Đức Kitô thiên quốc thế nào. Câu chuyện bắt đầu bằng tiếng kêu thống khổ của Maia Madalena: “Người ta đã cất Chúa khỏi mộ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu!” để rồi kết thúc bằng việc tuyên xưng đức tin và hoàn hảo của Tôma, người nghi ngờ cố chấp nhất: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa tôi”.

Trong trình thuật này, như sẽ thấy, Gioan lần lượt gặp gỡ bản thánh sử khác nhưng không quan tâm kể lại tất cả. Cũng như trong các phần khác của phúc âm, ông thu gọn chứng từ của mình vào những yếu tố quan trọng để thêm rõ ràng và mạnh mẽ hơn; trong các đoạn văn liên hệ đến những người nữ thánh thiện, ông chỉ đề cập đến một người hoạt động và nổi bật hơn hết về đức tin là Maria Madalena. Ông bỏ qua nhiều cảnh huống hấp dẫn nhưng ít quan trọng; trong các lần hiện ra ông chỉ giữ lại những lần khơi dậy niềm tin và đánh tan nghi ngờ hay cứng lòng tin. Trong trang cuối của “Phúc âm các dấu chỉ”, hơn lúc nào hết, ông muốn đưa chúng ta đến hành động tuyệt vời của đức tin, là chóp đỉnh và mục tiêu của cả cuốn sách: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa tôi”.

  1. Khởi đầu câu chuyện, Gioan chỉ giới thiệu một mình Maria Madalena trên đường đến mộ, trong phúc âm nhất lãm thì nói đến nhiều người. Tuy nhiên, trên đường từ mộ về, Maria Madalena phát biểu ở ngôi thứ nhất số nhiều: “người ta đã cất chúa khỏi mộ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu” (c.2). Người ta đã tìm cách cắt nghĩa sự bất thường này bằng nhiều cách:
  2. Một vài nhà chú giải cho rằng Gioan chỉ kể tên Madalena vì bà là người đầu tiên được đề cập tới trong phúc âm nhất lãm và là người hoạt động nhất trong số các người nữ thánh thiện. Nếu Gioan không đề cập tới các người nữ khác, thì không phải là muốn cho người ta hiểu rằng Maria đã đi thăm mộ một mình đâu. Như một người chú trọng ăn thể, Gioan có thói quen đơn giản hóa: ông tách rời, rồi cho hai nhân vật chạm trán nhau để đề cao nét chính yếu của đề tài mà ông trình bày ở đây: là sự trái nghịch giữa phản ứng ngây ngô, đại lượng và đầy tình người của Maria Madalena và yêu sách của Chúa Giêsu kêu mời bà phải thấu hiểu bằng đức tin. Trong trường hợp này, tiếng “chúng tôi” của câu hai hình như được cắt nghĩa cách tự nhiên bằng sự kiện là Maria nói đại diện cho các người nữ khác cùng đi viếng mộ với bà mà đã về trước để báo tin cho Phêrô và Gioan.
  3. Wellhausen và Spitta thì nghĩ tiếng “chúng tôi” chỉ là một cố gắng của người viết để dung hòa Gioan và các phúc âm nhất lãm; nhưng trong khi câu chuyện của Gioan khác biệt với các phúc âm nhất lãm về nhiều khía cạnh, mà muốn dung hòa về một điểm nhỏ nhặt và tinh vi như thế thì thật là chuyện lạ.
  4. Bultmann và một vài nhà chú giải khác cho rằng: tiếng “chúng tôi” chỉ là một kiểu diễn tả của Do thái, có vài nét tương tự với Hy lạp. Dựa theo giả thuyết này, dalman (trong sách Grammatik des judischpalastinischen Aramaisch, xuất bản năm 1960) có viết: “trong tiếng Aramêo ở Galile, ngôi thứ nhất số nhiều được dùng để thế ngôi thứ nhất số ít”. Dầu có cách cắt nghĩa văn phạm như thế cũng chưa thỏa mãn, vì trong phần nối tiếp câu chuyện (c.13) Maria vẫn nói lại câu chuyện đó nhưng lần này thì ở số ít.

Trong các lối giải thích trên, thì hình như lối giải thích thứ nhất hay và tự nhiên hơn hết.

Hai chi tiết khác của câu chuyện được các nhà chú giải giải thích khác nhau. Trước hết tại sao Gioan lại chạy đến mộ trước Phêrô? Vì Gioan trẻ và nhanh hơn. Lagrange và nhiều người khác giải thích như thế. Một lối giải thích khác cho rằng nếu Gioan chạy nhanh hơn và chạy đến trước vì ông là môn đệ Chúa yêu và tình yêu của Thầy đã thúc đẩy ông chạy nhanh hơn. Một vài nhà chú giải cổ xưa còn dám cho rằng Gioan chạy nhanh hơn vì ông là người độc thân. Người khác thấy đây là một biểu tượng đặc biệt: Gioan tượng trưng cho Kitô giáo gốc lương dân cởi mở đón nhận đức tin hơn, còn Phêrô tiêu biểu cho các tín hữu Do thái là những người đầu tiên được sát nhập vào giáo hội, mặc dầu đức tin của họ yếu kém hơn. Nhưng tiến vào ngôi mộ chưa phải là tin, hình như câu chuyện cũng muốn gợi ý là Gioan, người vào mộ sau hết lại chính là kẻ đạt đến đức tin trước hết. Trước những cố gắng giải thích rời rạc như vậy, cách khôn ngoan hơn hết có lẽ là xem như vấn đề không giải quyết được hoặc theo cách giải thích đơn giản và tự nhiên hơn hết: vì Gioan trẻ nên chạy nhanh hơn.

Chi tiết thứ hai: tại sao Gioan lại phải đợi Phêrô vào mộ trước rồi mới vào sau? Các nhà chú giải đưa ra nhiều lối giải thích khác nhau. cách thông thường hơn hết cho rằng Gioan có lẽ đã chờ Phêrô vì địa vị tối cao của Phêrô trong cộng đoàn các môn đệ. Người khác lại thấy trong chi tiết này một dấu vết của truyền thống trong Lc 24,12 theo đó thì chỉ có Phêrô chạy đến mộ mà thôi. Cách đơn giản hơn hết có lẽ nghĩ rằng: vì bàng hoàng trước cửa mộ rộng mở và những giải khăn liệm còn ở dưới đất nên Gioan đã chần chờ một vài giây phút trước sự kiện lạ lùng này, và như thế Phêrô đã đủ thì giờ bắt kịp; ông này thì tính tình nóng nẩy có lẽ đã chui vào mộ trước khi Gioan hết sững sờ. Cũng như trong các chi tiết khác thuộc loại này, việc tìm hiểu một biểu tượng để cắt nghĩa một sự kiện là điều không luôn luôn thích hợp mấy. Chắc hẳn, cách giải thích hay hơn hết thường là xác nhận rằng nếu như người chép sách Kinh thánh đã nghĩ rằng mình phải nêu lên một chi tiết không mấy quan trọng nào đó là vì sự kiện đã xảy ra như thế. Nằm trong biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu, một chi tiết đã đánh động ông, chi tiết tự nó không quan trọng, nhưng đã khắc sâu vào trong trí nhớ của ông vì có liên quan với biến cố quan trọng trên. Ngồi suy tưởng lại biến cố ấy, thánh sử cũng đồng thời nhớ lại chi tiết trên và ghi vào trong phúc âm mình để nói lên cái nét sống động và đích thật của biến cố.

Bên trong mộ, các khăn liệm vẫn còn. Khác với Lazarô khi sống lại (11,43), Chúa Giêsu không cần đến sự giúp đỡ nào của con người. Như Ngài đã lăn tảng đá đóng kín mộ ra thế nào, thì Ngài cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thể ấy. Sự kiện các khăn liệm vẫn còn “đặt đó” và khăn phủ mặt “được buộc riêng ra một chỗ”, loại bỏ giả thiết cho rằng xác Chúa bị đánh cắp vội vã hoặc là bị đánh cắp một cách nào đó, vì không lẽ những người trộm xác lại có thể nghĩ đến chuyện lột trần xác chết như vậy. Chi tiết này là một dấu chỉ việc Chúa sống lại. Thực vậy khi chỉ nhìn dấu chỉ này thôi, Gioan liền tin vào Chúa sống lại, nhờ đức tin sống động của ông…Nếu không cần thấy Chúa đích thân sống lại để tin, thì ông cũng cần đến sức mạnh của dấu chỉ đó: “ông đã thấy và tin”. Ông thú nhận mình đã không thực hiện hoàn toàn lời chúc phúc của thày: “phúc cho ai không thấy mà tin” (20,29). Chỉ một mình Mẹ Chúa Giêsu, người đã tin ở con mình trước khi được thấy bao phép lạ (2,3-6), là đã chứng tỏ một đức tin hoàn hảo, đến độ người không xuất hiện tất cả các biến cố này. Người đã không cần đến bằng chứng hoặc dấu chỉ nào đề tin vào sự sống lại của con mình. Nếu Chúa Giêsu có hiện ra với người sau khi sống lại, thì hầu như chắc chắn là không phải để tỏ bằng chứng sống lại cho người, nhưng đúng hơn là để chia sẻ với người nguồn vui và chiến thắng vinh hiển của mình. Có lẽ có người chống lại giả thuyết cho rằng Chúa Giêsu vinh hiển đã hiện ra với mẹ Người, vì bản văn Mc nói rõ ràng: “Chúa Giêsu hiện ra trước hết với Maria Madalena (16,9), cả trước khi hiện ra với hai người nữ thánh thiện khác lúc họ đi loan báo cho các môn đệ; nhưng không có gì ngăn trở việc nghĩ rằng Chúa Giêsu hiện ra trước hết với mẹ Ngài như lòng đạo đức của các người tín hữu xưa nay vẫn thường tin như vậy. Nếu các tài liệu đã không thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với mẹ Ngài, là vì nó có tính cách riêng tư. Còn về phần Phêrô, thì thánh sử không nêu lên việc ông đạt đến niềm tin nhờ vào dấu chỉ khăn liệm. Theo Lc và Phaolô, ông là người đầu tiên được diễm phúc thấy Chúa hiện ra với mình (1Cr 15,6; Lc 24,34). Có phải vì thế mà Lc và Phaolô muốn gián tiếp cho rằng Phêrô phải thấy Chúa sống lại đã rồi mới tin không?

  1. Môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu, một khi đã vào mộ thì thấy rõ điều mà Phêrô đang quan sát và chính ông khi mới tới mộ cũng thoáng thấy: đó chính là khăn liệm vẫn còn nguyên vẹn, ngôi mộ vẫn còn thứ tự không bị xáo trộn: giả thuyết xác bị mất trộm như vậy bị loại bỏ. “Ông tin”.

Một vài người nghĩ rằng kiểu nói này tương đương với “ông xác tín” và cần phải nối ghép câu ấy vào lời nói của Maria Madalena. Ông xác tín rằng bà đã nói thật và thêm tin tưởng vào lời bà hơn (khi đã thấy khăn liệm). Lối giải thích đó của W.Nank xem ra không thể đứng vững được. Trước hết nó không để ý đến sức mạnh của kiểu nói “thấy và tin” của thánh Gioan, hơn nữa, còn mâu thuẫn với toàn bộ câu chuyện. Thật vậy, Maria Madalena không chỉ nói Chúa không còn đó nữa mà còn quả quyết là họ đã “lấy mất” xác rồi. Mà chính điểm này đã bị loại bỏ vì khăn liệm và khăn phủ mặt còn nguyên. Sau hết giải thích như thế là làm suy yếu đi tầm quan trọng của việc sùng kính đối với đức tin vào sự sống lại của môn đệ Chúa Giêsu yêu và giản lược đức tin này vào việc hùa theo lời nói của Maria Madalena. Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, khăn liệm và khăn khăn phủ mặt, người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

Còn Phêrô thì sao? Phúc âm không nói gì. Lc 24,12 cho biết là ông trở về nhà, kinh ngạc về việc xảy ra. Một số đông các nhà chú giải nghĩ rằng: ý hướng của thánh sử, dĩ nhiên là Phêrô cũng tin. Có lẽ người ta suy diễn điều đó từ câu sau đây: “Là vì họ chưa hiểu lời kinh thánh là Ngài phải sống lại từ cõi chết” (Ga 20,9). Theo các nhà chú giải khác, thì hầu như thánh sử muốn biện minh cho người Chúa Giêsu yêu dấu, cố đề cao đức tin nhanh chóng của ông với sự chậm chạp của Phêrô: ông đã đến mộ trước tiên, thì cũng thế ông đã đạt được niềm tin phục sinh trước hết, và hồng ân này là do tình thương đặc biệt của Thiên Chúa. Dầu vậy, nói như Cha Lagrange là bản văn không đề cập đến Phêrô thì có lẽ đúng hơn. Nếu “môn đệ kia” chỉ nói cho mình thôi, thì phải là ông muốn nghi ngờ đức tin của ông đã nghiệm lòng: ông chỉ nói lên điều mình đang sống và cảm nghiệm.

Có nhiều lý lẽ vững vàng không cho phép nghi ngờ giá trị lịch sử và truyền thuyết liên quan đến việc khám phá mồ trống. Trước tiên là truyền thuyết này được xây dựng trên chứng từ của các người nữ. Mà chứng từ của phái nữ thì được coi là không thể chấp nhận (x.Lc 24,11), và các thánh sử đều đồng ý đặt chung từ đó dưới sự kiểm soát của các môn đệ, đặc biệt là thánh Phêrô. Ta không thấy lý do mà cộng đoàn Kitô hữu đã nêu lên vấn đề khó khăn đó nếu như thực tế không buộc như vậy. Đàng khác, cuộc tranh luận với người chống đối đã không bao giờ bàn về sự kiện ngôi mộ được phát hiện trống trơn, nhưng chỉ bàn về cách giải thích (x. Mt 27,62-66). Những kẻ nghịch đạo thời xưa cũng không bao giờ chối cãi sự kiện ấy. Qua bao nhiêu đổi thay của truyền thuyết phục sinh, sự xác quyết “mồ trống” vẫn không thay đổi.

KẾT LUẬN

Đoạn phúc âm này dẫn đưa chúng ta đến hai nền tảng thiết yếu của đức tin phục sinh: kinh thánh đã mạc khải chương trình Thiên Chúa, và chứng từ của các tông đồ, dựa trên kinh nghiệm mồ trống và các lần hiện ra, xác quyết rằng ý định Thiên Chúa đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (20,30-31; Ga 1,1). Cho dẫu được căn cứ trên kinh nghiệm mồ trống và các lần hiện ra, đức tin phục sinh chỉ đạt mức độ sung mãn và chân lý hoàn toàn khi được đào sâu và kiện toàn trong sự thông hiểu ý định của Thiên Chúa mạc khải trong kinh thánh. Vì thế cho nên, câu tuyên xưng đức tin Kitô giáo cổ xưa nhất cũng mang khoản này: ”…theo lời kinh thánh” (1Cr 15,3-4); ngay chính Chúa Giêsu trên đường Emmau cũng “khởi từ Môisen và lướt qua hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ (môn đệ) các điều đã viết về Ngài trong toàn bộ kinh thánh” (Lc 24,27.32). Chính nhờ sự thông hiểu ý định Thiên Chúa mà người môn đệ Chúa Giêsu yêu đã có trực giác ngay khi thấy dấu chỉ đầu tiên. Với ông dù chưa thấy Chúa, nhưng ý định của Thiên Chúa đã tỏ lộ; lời chúc phúc của Chúa được thực hiện cho ông rồi.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Điều gì đã đi sâu chừng nào vào đời sống của con người thì khó diễn tả chừng ấy. Kinh nghiệm đức tin vào Chúa Giêsu sống lại cũng vậy. Đối với người ngoại giáo, sự sống lại của Chúa Giêsu chỉ có thực trong niềm tin của các Kitô hữu. Còn đối với người Kitô hữu, sự sống lại của Chúa Giêsu là một thực tại còn xác thực hơn một sự kiện lịch sử đã được kiểm chứng cách chắc chắn nhất. Người Kitô hữu có thể biểu lộ niềm tin của mình thế nào trước người ngoại giáo hoặc giản dị hơn, trước đòi hỏi chính đáng của lý trí mình? Ai tin vào sự sống lại của Đức Kitô thì rồi cũng phải mặc lấy thái độ của các tông đồ. Nhờ vào ngôn ngữ và cách suy tư riêng của họ, các vị này chứng thực rằng họ đã quen biết Chúa Giêsu trước khi Ngài chết, họ đã gặp thấy lại Ngài đang sống. Họ làm chứng, nghĩa là họ quả quyết điều họ đã sống và thấy. Biến cố xảy ra thế nào, họ không hiểu. Chúa Giêsu vượt qua từ sự chết đến sự sống thế nào, Ngài làm thế nào mà hiện ra trong cách sống không còn như xưa nữa, các tông đồ không nói gì hết. Nhưng họ xác nhận sự kiện một cách chắc chắn tuyệt đối. Cũng vậy đức tin của người Kitô hữu hôm nay xác quyết sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, nhưng không thể trả lời những vấn nạn đòi hỏi nó phải tường trình về cách thế sống lại. Tuy nhiên, nhờ vào sự hiện diện và hành động của Chúa Giêsu sống lại trong đời sống của mình. Họ có thể làm chứng cho Đức Kitô sống lại, nhưng không thể giải thích. Đó là mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.
  2. “Cả hai cùng” Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mộ, sau khi được Maria Madalena báo tin. Trong sự vội vã và nao nức ấy, hãy xem đó là một dấu hiệu tượng trưng. Chúng ta có bị thu hút về Chúa Giêsu sống lại và hiện đang sống không? Với Phêrô và Gioan, ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn từ chiều thứ sáu. Thế mà giờ đây họ đang hướng về một niềm hy vọng, chắc chắn còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng hoảng chạy. trong cuộc sống của chúng ta, có những lần thất bại mà chúng ta bị cám dỗ cho là tuyệt vọng không? Một ước vọng nào đó mà chúng ta đã không thể thực hiện được, một công việc tông đồ nào đó không có kết quả, một hạnh phúc chính đáng nào đó đã chìm mất trong thất bại… chúng ta có nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách không? Chúng ta là môn đệ của Đấng Sống lại, Ngài kêu mời chúng ta đừng bao giờ đặt hòn đá thất vọng trên bất cứ sự gì, nhưng luôn luôn hy vọng. Có lẽ điều sống lại sẽ khác với điều ta mơ ước, nhưng chắc chắn là điều tốt đẹp hơn.
  3. “Ông thấy và tin”. Câu nói này về Gioan. Bản văn thêm rằng, lúc ấy ông mới hiểu lời kinh thánh. Kinh thánh đây là Cựu ước. Thật vậy con người và cuộc đời Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi Cựu ước. Người ta có thể nói như vậy về Tân ước. Phải đọc Thánh kinh như thế nào? Phải tìm gặp Chúa Giêsu Kitô, là chân lý, là sức mạnh, là cố vấn, là đạo đức, là chính cuộc sống của chúng ta.
  4. Sự sống lại của Chúa Giêsu vô hiệu hóa sức quyến rũ của những thắng lợi trần thế, bằng cách minh chứng rằng sự sống đích thực không tọa lạc nơi dương thế nhờ định luật đào thải hủy diệt, nhưng chính là sự trung thành với Thần khí, Đấng tác tạo con người mới của sự công chính và tình yêu Chúa Cha. Trong ý hướng ấy, Chúa Giêsu đã hủy diệt quyền lực tội lỗi cho dù ảo vọng của con người vẫn chưa tiêu tan, cho dù sự vô ý thức của chúng ta vẫn còn nặng nề khó lay chuyển; thực tế đã như thế rồi từ sáng phục sinh, lúc mà trong tiếng động đất, Chúa Giêsu con ông Giuse và bà Maria đã chỗi dậy khỏi mồ và tiến vào sự sống thật. Như thế một lần thay cho tất cả, Ngài minh chứng cho chúng ta rằng: con đường đưa tới hạnh phúc thật, con đường dẫn đến sự sống lại, không đi qua tội lỗi song qua lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vô điều kiện.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT PHỤC SINH

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu, vì thế, bỏ qua Bài Đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giêsu đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ lễ Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư.

Cv 10: 34a, 37-43

Đoạn sách Công Vụ nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh đạo của Giáo Hội, được nêu bật  trong đoạn sách Công Vụ này.

Cl 3: 1-4

Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Phục Sinh, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.

Ga 20: 1-9

Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, khởi điểm đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.

BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)

Sách Công Vụ được giới thiệu như phần tiếp theo của Tin Mừng Thứ Ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, và cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, một Ki-tô hữu trí thức thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng cũng có thể là một nhân vật hư cấu biểu tượng “người Chúa thương mến” mà bất kỳ tên người Ki-tô hữu nào có thể điền tên mình vào đây.

Thánh Lu-ca mang nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.

Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích này vào Chúa Nhật Phục Sinh này.

  1. Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô

Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), nay sóng gió đã qua đi. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ lắng dịu này để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.

  1. Thánh Phê-rô lần đầu tiên đến nhà một người ngoại giáo

Trong khi thánh Phê-rô đang ở nhà tại Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.

Thánh Phê-rô đến nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm của thế giới ngoại giáo vào dân Chúa, nhưng dần dần lệnh cấm này phổ biến và tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.

  1. Bài diễn từ của thánh Phê-rô

Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn từ mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ đã minh chứng cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những người chứng kiến những hành động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là cuộc Phục Sinh của Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã ủy nhiệm họ làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử cả người sống lẫn kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói rằng vị Thẩm Phán này cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.

Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng này dứt khoát đến độ Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải tuyên xưng biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô phục sinh.

BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)

Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.

  1. Lập luận của thánh Phao-lô

Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.

Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Ki-tô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.

  1. Người Ki-tô hữu

Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại này còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).

Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Đây là ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.

TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)

 Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín này đã hình thành nên hai giai đoạn. Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên. Chính kinh nghiệm này đã mở mắt họ và đã khai lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh.

Tiếp đó, vào cũng một ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác vẫn in dấu những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm củng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tận mức này cho đến phải hy sinh mạng sống của mình.

  1. Ngày thứ nhất trong tuần

Tin Mừng Gioan dâng hiến cho chúng ta một bài trình thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, một bài trình thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa sâu xa.

Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất này sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.

  1. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la

Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong số các người phụ nữ đã cũng đi với Đức Giê-su và nhóm Mười Hai trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài khắp miền Ga-li-lê (Lc 8: 1-3); “các bà đã chứng kiến” cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giê-su (Lc 23: 49); các bà cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, kiên vững bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25); và “các bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào” (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, các bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói với chúng ta rằng các bà đến mộ “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà thúc đẩy bước chân dạn dĩ của bà ra đi càng sớm chừng nào có thể để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.

Ở đây, Tin Mừng Thứ Tư chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, chính bản văn làm chứng rằng còn có các người phụ nữ khác cùng đi với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20: 2). Thật ra, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1); còn thánh Mác-cô lại kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), riêng thánh Lu-ca còn kể ra nhiều người phụ nữ hơn nữa (Lc 24 : 1). Nhưng trong số những người phụ nữ đó, bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh đầu tiên.

Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó). Bà là người được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh được các sách Tin Mừng tường thuật, và bà cũng là người đầu tiên được Đấng Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ; vì thế, chẳng lạ gì truyền thống Giáo Hội gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, theo kiểu nói tuyệt đối của người Do thái, nghĩa là bà là “người được sai đi tuyệt hảo”.

  1. Thánh Phê-rô và thánh Gioan

Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình, nhất là cuộc phục sinh của anh La-da-rô, chắc chắn kinh nghiệm này giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng này.

Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn, vì thế thánh nhân không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng bên ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước tiên. Ở nơi sự kiện này, thánh ký hàm ý rằng thánh Gioan nhận ra quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô. Thật ra, theo Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội sẽ được công bố chỉ sau khi Đấng Phục Sinh gặp gỡ các ông bên bờ hồ Ti-bê-ri-a vào bữa ăn mà chính Ngài đã dọn sẵn cho các ông trong sương mờ sáng sớm (Ga 21: 15-17), tuy nhiên đã được hàm chứa rồi ở nơi cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô khi Ngài long trọng đổi tên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha, tức là Phê-rô” (Ga 1: 42) và ở nơi sự kiện trước ngôi mộ này.

Như vậy, cả hai người đều cùng thấy hiện trường. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều này cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.

  1. Những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi

Một mặt, hai ông không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng còn thấy những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này được lập lại đến hai lần (20: 5 và 6-7) đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm và khăn che đầu có lẽ đã bị vất bừa bãi rồi. Thế mà, tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp. Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến việc La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44)? Đức Giê-su hoàn toàn tự do, không còn bị những băng vải liệm buộc chặt thân thể của Ngài, biểu tượng xích xiềng của tử thần. Như vậy, La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn nằm trong vòng kiềm tỏa của tử thần nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi tử thần từ nay không có quyền hành gì trên Chúa Giê-su nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại tử thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ này và xao động đến mức thánh nhân đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt quá trình từ “thấy” đến “gắn bó trọn vẹn” với Đấng Phục Sinh.

Ánh sáng niềm tin bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” này trước ngôi mộ trống cùng với những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại gọn gàng và xếp riêng ra một nơi. Dù trước đây niềm tin của thánh nhân đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy, tình yêu của thánh nhân đã không hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi bước theo từng bước chân của Thầy lên đến tận đỉnh đồi Sọ và chứng kiến giây phút đau thương sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này giờ đây dẫn đưa thánh nhân đến niềm tin vào sự Phục Sinh của Thầy ngay tức khắc. Cũng chính độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân sẽ là người đầu tiên nhận ra Thầy mình trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương mờ buổi sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên lại tin cái tối đa. Độ nhạy bén của con tim hỗ trợ cho thánh nhân rất nhiều để hiểu biết con người và sự vật. Quả thật, nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của nó mà lý trí không sao hiểu được”.

  1. Theo lời Kinh Thánh

Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, ông cũng cần đến ánh sáng của lý trí: “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết”. Lời này ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng khai lòng mở trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (x. Ga 14: 26; Lc 24: 45).

Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí hai ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Thánh Vịnh 16, vì vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh này mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31). Quả thật, chúng ta đọc trong Thánh Vịnh 16 những hàng này :

“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.

Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty,

không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).

Vì thế, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo.

Về mục lục

 

HÃY VUI LÊN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Hãy vui lên, đó là nội dung bài ca của Giáo Hội long trọng loan tin Chúa đã phục sinh trong đêm canh thức. Lời mời gọi “Hãy vui lên” được nhắc đi nhắc lại như một điểm nhấn và một điệp khúc diễn tả niềm vui lớn lao kỳ diệu. Lời kêu mời đó được ngỏ với các thiên thần trên trời, đến cộng đoàn đông đảo các thánh, rồi đến các tín hữu và những ai thành tâm thiện chí. Đây là niềm vui trọng đại, giống như đối với tù nhân được giải phóng khỏi tù ngục để bước ra hưởng tự do hạnh phúc, như người đi xa lâu năm gặp lại người thân, như nai rừng tìm thấy nguồn suối, như bông hoa thấy ánh mặt trời.
 
Hãy vui lên và trút bỏ tang chế, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ, là Đấng hằng sống. Ngài đã làm cho Đức Giêsu là Con Một của Ngài chiến thắng tử thần, sống lại vinh quang. Vâng, hãy vui lên vì từ nay sự chết không còn quyền lực gì đối với những ai tin vào Chúa. Nếu sự chết còn tồn tại, thì nó chỉ một trạm chuyển tiếp trước khi con người bước vào thế giới linh thiêng, vĩnh cửu.
 
Hãy vui lên vì trong Đức Giêsu phục sinh, thân phận con người tìm thấy ý nghĩa và phẩm giá của mình. Từ ngàn đời, con người không ngừng đặt ra những vấn nạn về thân phận của họ bên kia cái chết. Đức Giêsu phục sinh bước ra khỏi mồ như câu trả lời cho những vấn nạn ấy, và như bằng chứng hùng hồn về những gì Người đã tiên báo trước đó: “Này chúng ta đi lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,18-19). Người Do Thái đã xử với Chúa đúng y như Người tiên báo.
 
Lời Chúa trong Phụng vụ Đại lễ Phục Sinh giới thiệu với chúng ta những nhân chứng bằng xương bằng thịt, những người đã mắt thấy tai nghe. Họ đã nhìn thấy Chúa chết trên thập giá và nay họ được thấy Người sống lại. Trước hết, đó là lời chứng của Phêrô, vị tông đồ trưởng. Ông đã làm chứng về sự phục sinh của Chúa Giêsu tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, trước mặt những “người ngoại”, tức không phải là người Do Thái. Đối với Phêrô, Đức Giêsu phục sinh đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Từ nay, “ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
 
Bài Tin Mừng hôm nay còn giới thiệu với chúng ta chứng từ của Maria Mácđala và của Gioan, người môn đệ Chúa yêu. Có một sự kiện duy nhất là Chúa sống lại, nhưng mỗi người có một cảm nhận và một cách làm chứng khác nhau. Maria Mácđala, với tâm lý chung của người phụ nữ, vội vã chạy về gặp hai môn đệ Phêrô và Gioan để “khoe” về điều mình đã thấy. Bà không quên kèm theo một lời kết luận dựa trên phỏng đoán cá nhân: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Bà ngỡ ngàng kinh ngạc trước cảnh tượng vừa được chứng kiến và nóng lòng sốt ruột chạy đi loan báo cho mọi người.
 
Về phần mình, Gioan không hốt hoảng vội vã như Mácđala, không hăng hái hùng biện như Phêrô, nhưng chứng từ của ông mang tính nội tâm và sâu sắc. Chính ông đã ghi lại lời chứng của mình một cách khách quan: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào (mộ). Ông đã thấy và đã tin”. Việc chứng kiến ngôi mộ trống đã lập tức làm cho Gioan liên tưởng và kết nối các sự kiện cũng như những lời báo trước của Chúa, giúp ông xác tín vững vàng rằng Chúa đã sống lại. Ngôi mộ trống thay vì làm ông hốt hoảng như Mácđala, lại giúp ông tin rằng Thày mình đang sống. Ngôi mộ trống soi sáng cho ông hiểu những lời giáo huấn của Chúa và những lời tiên báo trong Kinh Thánh.
 
Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trong niềm xác tín Người vẫn đang sống và đang hiện diện. Chúa đã sống lại, hãy vui lên. Lễ Phục Sinh là lễ của niềm vui. Người tín hữu vui mừng hân hoan vì Chúa phục sinh là bảo chứng cho những ai tin theo Chúa sẽ được phục sinh vinh quang với Người.
 
Khi long trọng mừng lễ Phục Sinh, chúng ta được mời gọi hãy “sống lại về phần linh hồn”, nghĩa là hãy đoạn tuyệt với tội lỗi để sống xứng đáng là con Thiên Chúa. Những thực hành của Mùa Chay gồm chay tịnh khổ chế và cầu nguyện, làm bác ái đã giúp chúng ta phần nào trút bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới được ánh sáng của Đấng Phục Sinh chiếu soi. Không chỉ có Chúa Giêsu phục sinh bước ra khỏi nấm mồ, nhưng mỗi chúng ta cũng đang bước ra từ những nấm mồ là sự ích kỷ, mưu mô và hận thù toan tính, rũ bỏ quá khứ tội lỗi để làm lại cuộc đời.
 
Sự Phục Sinh của Chúa là một sứ điệp cần loan báo cho con người mọi nơi, mọi thời. Những ai đã lãnh nhận phép Thanh Tẩy đều là những sứ giả loan tin vui Phục Sinh. Như Phêrô, Mácđala và Gioan, mỗi người có cách loan báo riêng của mình, nhưng nội dung của lời loan báo luôn là Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta cũng vậy, mỗi người có hoàn cảnh riêng, những khó khăn và thuận lợi riêng, nhưng đều có sứ mạng loan báo Đấng Phục Sinh, Đấng đang sống và đang hiện diện giữa chúng ta.
 
Xin cho mỗi chúng ta nhiệt thành nói với anh chị em chúng ta rằng: hãy vui lên, Chúa đã sống lại. Hãy vui lên, vì chúng ta cũng được sống lại với Người.

Về mục lục

.

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
  2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
  3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
  4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

Về mục lục

.

SỨ ĐIỆP PHỤC SINH

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Người ta thường dùng thị giác để nhận biết người này, người nọ và sự vật xung quanh như cây cối, núi đồi, sông suối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú vv…Tuy nhiên, về đời sống thiêng liêng, con người không thể dùng thị giác để thấy nhưng phải nại tới đức tin. Sứ điệp Phục Sinh xác quyết, loan báo công khai, rõ ràng, dứt khoát Đức Giêsu sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong thế giới, trong cuộc đời của chúng ta…

Vâng, Chúa Giêsu đã bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh trên Thập giá, nhưng ngày thứ ba Ngài đã Phục Sinh như lời Ngài đã loan báo trước. Thân xác của Đức Giêsu sống lại vào buổi sáng Phục Sinh hoàn toàn khác với thân xác Đức Giêsu đã được an táng vào buổi chiều ngày thứ sáu. Đây không phải là một thân xác được hồi sinh như thân xác của Lazarô và thân xác của con bà góa thành Naim đã được Chúa Giêsu làm cho sống lại. Nhưng thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh là  thân xác vinh quang đến nỗi bà Maria Mađalêna tưởng Ngài là người làm vườn,bà chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh khi Chúa gọi tên bà…Thân xác sáng láng, vinh quang của Chúa sống lại khiến các môn đệ là những người thân tín, sống gần gũi với Chúa nhất, vẫn không nhận ra Ngài khi Ngài đứng trên bờ hồ buổi sáng tinh mơ vv…Thánh Phaolô đã so sánh thân xác trước và sau Phục Sinh giống như một hạt giống và một cây non. Ngài viết :” Vật con người gieo chỉ là một hạt giống chứ không phải là một cái cây có đầy đủ cành lá. Khi xác thân bị an táng là nó đã chết, còn khi sống lại thì nó trở thành bất tử.Khi bị an táng, nó xấu xí và yếu đuối, nhưng khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi bị an táng, nó là một thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó sẽ thành một thân thể tinh thần ( 1 Co 15, 37. 42-44 ). Cũng trong chương này, thánh Phaolô tiếp tục giải thích :” Sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết.Đó là một bảo đảm cho thấy rằng những ai ngủ yên trong cõi chết sẽ được sống lại. Bởi vì do một người mà sự chết đã đến thì tương tự như vậy, sự sống lại từ cõi chết cũng sẽ do một người mà đến.Vì mọi người đều phải chết do kết hợp với Adam, thì cũng tương tự như thế, mọi người sẽ được sống lại với Đức Kitô…Cũng như chúng ta đã mặc lấy hình tượng của người được dựng nên từ đất, thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của Người từ trời xuống ( 1 Co 15, 20 – 22, 49 ).Thánh Phaolô còn khuyến dụ, nhắc nhở chúng ta đừng đợi đến khi chúng ta chết mới thông dự vào sự Phục sinh và quyền năng của Đấng sống lại. Nhưng ngay bây giờ, lúc này, chúng ta vẫn thông dự vào Sự Sống lại và quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh.Tất cả những gì chúng ta phải làm là mở tung cõi lòng với Đức Giêsu…

Vâng, điều chúng ta phải làm ngay bây giờ và ngay giây phút này là sống yêu thương, hiệp nhất, quảng đại, hy vọng, cậy trông và làm những việc bác ái, những việc tỏa sáng là khi đó chúng ta đang tham dự vào Sự Phục Sinh và quyền năng của Đấng Phục Sinh. Thánh Phêrô khi vào mồ thấy các dấu chỉ như khăn liệm, băng quắn vv…nhưng không ra Đức Giêsu đã sống lại…Tuy nhiên với các dấu chỉ và bằng đức tin của mình, Gioan khi vào mồ đã tin Đức Giêsu Kitô đã sống lại. Đức Giêsu sống lại vẫn dùng các dấu chỉ để chứng tỏ sự hiện diện của Ngài giữa nhân loại. Liệu chúng ta có dùng con mắt đức tin của chúng ta để mau mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh giữa chúng ta ? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những dấu chỉ tình thương để làm chứng cho người ta thấy Chúa sống lại đang ở trong chúng ta không ?

Tin Mừng Phục Sinh là “ Không có gì có thể hủy diệt chúng ta được dù là tội lỗi, thử thách, ươn hèn, sự chết.Tin Mừng Phục Sinh còn là “ Chúa sống lại đã chinh phục mọi người, chúng ta cũng làm được như vậy nếu chúng ta biết đặt tin tưởng nơi Ngài. Tin Mừng Phục Sinh là “ Hễ có chiều Thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh. Điều quan trọng là “ Chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con “. “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình thương của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại thật như lời Chúa đã hứa. Alléluia. Alle1luia.Alle1luia !

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao lại nói :” Nếu có chiều Thứ Sáu Tử Nạn, thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh ?”.

2.Maria Mađalêna đã nhận ra Chúa Phục Sinh khi nào và bằng cách nào ?

3.Tại sao bà Maria Mađalêna lại khóc ?

4.Sứ điệp Phục Sinh là gì ?

5.Nhờ gì chúng ta nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh ?

Về mục lục

.

CHÚA SỐNG TRONG CON

Bông hồng nhỏ 

– A! Mẹ về rồi!

– Sao em biết? Tuần sau mẹ mới về mà.

– Chị xem nè, món cá lóc nấu canh chua này thì chỉ có mẹ mới nấu ngon vậy thôi. Mẹ nấu cho chị em mình đó.

– Ừ nhỉ. Chỉ ngửi mùi thơm của nồi canh thôi là cũng thấy thèm rồi. Bố sẽ không nấu ngon được như vậy. Đi học về mệt thế này có món canh chua của mẹ thì tuyệt quá rồi.

– Nhưng mà mẹ mình đi đâu rồi nhỉ?

– Mẹ ơi! Mẹ ơi mẹ!…

Hai chị em thi nhau gọi ý ới. Nấu canh chua xong mẹ múc một tô qua cho bà nội rồi nói chuyện với bà bên nhà luôn. Nghe con gái cưng gọi, mẹ mới cắp cái rổ đi về.

Khi một mối tương quan đã thật sự trở nên rất bền chặt, rất thân quen đến độ chỉ nhìn những dấu hiệu bên ngoài thôi, ta cũng có thể hiểu ý người khác, nhận ra sự hiện diện của họ dù cho ngay lúc ấy họ vắng mặt.

Sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc ấy trời còn tối, có một người phụ nữ đi ra thăm mộ. Lòng chị đang buồn bã vì Thầy đã mất, Thầy bị người ta đóng đinh treo lên cây thập giá mà chị chẳng thể cứu Thầy, các môn đệ của Thầy cũng không thể làm gì được. Chị tên là Maria Mácđala. Chị yêu mến Thầy nhiều lắm, mang ơn Thầy suốt đời, cái ơn ấy chị chưa kịp đền đáp thì Thầy đã ra đi mãi mãi. Càng yêu thương ai nhiều nỗi đau mất đi người mình thương càng lớn, vết thương càng khó chữa lành. Thật lạ lùng khi vừa đến mộ, chị thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ và cứ thế chị chạy một mạch về báo tin cho ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Chị nghĩ rằng người ta đã đem xác Thầy đi và chị chạy về báo tin ấy cho hai môn đệ (x Ga 20, 1- 2). Chị hoảng hốt đến nỗi không có thời gian để ngó vào ngôi mộ trống xem sự gì, chỉ biết xác Thầy không còn ở trong mộ. Nếu ở trong trường hợp của chị, ta sẽ ứng xử thế nào đây? Lòng ta chắc chắn cũng sẽ rối bời và khó giữ được bình tĩnh để có một quyết định sáng suốt.

Hai môn đệ vừa nghe tin liền chạy ra mộ nhưng người môn đệ được Chúa yêu chạy nhanh hơn vì ông yêu Thầy nhiều hơn chăng? Hay vì ông có sức khỏe dẻo dai hơn? Chỉ biết rằng khi đến nơi ông cúi xuống nhìn vào trong mộ và thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào (x. Ga 20, 3-5). Lạ quá. Tại sao ông còn chần chừ mà ở ngoài thế kia? Ông là người thường hay nhớ lại những điều đã xảy ra và ngay lúc này biến cố ngôi mộ trống đã tác động mạnh mẽ lên ông. Thời gian này, ông đứng ở ngoài để chờ đợi Tông đồ Phêrô và cũng là lúc ông ngẫm nghĩ lại những lời Thầy đã nói chăng? Trước một biến cố xảy đến, ta có lắng lòng lại để bình tâm hay ta bồn chồn sợ hãi và để lòng mình rối như tơ vò? Hãy chiêm ngắm chân dung người môn đệ ngay lúc này để ta cùng người môn đệ bước vào một kinh nghiệm của con tim. Chỉ khi người môn đệ đã bước vào, đã thấy một sự sắp xếp có trật tự là dấu chỉ sự hiện diện của Thầy chứ không phải là một vụ trộm xác, ông đã thấy và đã tin. Nhìn những băng vải được xếp đặt gọn gàng, trật tự, có lẽ người môn đệ được Chúa yêu đã nhận ra chính bàn tay Thầy đã sắp đặt tất cả.

Lạy Chúa! Đứng trước ngôi mộ trống của cuộc đời mình, nhiều khi con trở nên hoang mang, sợ hãi như Maria Mácđala mà không kịp vào trong ngôi mộ để xem, để nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thầy. Để rồi, con mãi ngồi khóc lóc trước ngôi mộ trống. Như người môn đệ được Chúa yêu đã nhìn lại kinh nghiệm ở với Thầy để khi đứng trước biến cố ngôi mộ trống, ông đã can đảm bước và để thấy và đã tin. Xin Chúa ban cho con có một trái tim nhạy bén trước sự hiện diện của Chúa, có sự thân quen rất mật thiết với Chúa để rồi con sẽ reo vui khi nhận ra Chúa đã phục sinh trong tâm hồn con, được lắng nghe tiếng gọi thân yêu của Chúa với sự cá vị. Amen.

Về mục lục

.

PHỤC SINH

Lm. Trần Việt Hùng

Yêu thương chan chứa đong đầy,

Ma-ry thức giấc, nhớ Thầy mồ chôn.

Tinh sương sáng sớm dủ hồn,

Vội vàng cất bước, kính tôn xác Thầy.

Ai lăn tảng đá khỏi đây,

Mồ không trống rỗng, xác Thầy đi đâu.

Trở về loan báo tin sầu,

Phê-rô vội chạy, ngó đầu vào xem.

Chỉ còn khăn liệm bên hèm,

Dây băng vải cuốn, ai đem góc mồ.

Gio-an yếu dấu tông đồ,

Ngó nhìn vào mộ, không vô, hiểu rằng,

Ông tin sống lại vĩnh hằng,

Là Con Thiên Chúa, thiên thăng cõi trời.

Trải qua sự chết phận người,

Phục sinh vinh hiển, cao vời Chúa Con.

Hy sinh tận hiến sắt son,

Cứu nhân độ thế, chính Con Chúa Trời.

Niềm vui hy vọng tuyệt vời,

Cho ai tin tưởng, Ngôi Lời Phục Sinh.

  

Mừng Chúa Phục Sinh. Alleluia. Chúa Giêsu sống lại là niềm hy vọng và là cùng đích niềm tin của chúng ta nơi Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lại, lời giảng dạy chỉ là vô ích và niềm tin trở thành trống rỗng. Và chúng ta sẽ trở thành những người khờ dại nhất.

Ngày qua, khi nói truyện với một bà mẹ về Lễ Phục Sinh. Bà ta nói: cha biết không, đời sống có lúc lên, lúc xuống. Khi chúng ta càng lớn tuổi, chúng ta càng hiểu biết nhiều hơn. Có ánh sáng, có đêm tối. Có sa ngã, có chỗi dậy. Có sự chết, có sự sống. Có Thứ Sáu Tuần Thánh phải có Phục Sinh. Đây là sự thật.

Phúc âm hôm nay kể rằng: từ sáng sớm, các bà đã đến mồ để xức dầu thơm cho xác Chúa nhưng các bà không thấy xác của Chúa đâu cả. Các bà liền về báo lại cho các môn đệ và các ông đã vội vã đến mồ. Đang trong cơn buồn sầu, tâm trạng bất an, mệt mỏi, chán nản và sợ hãi. Nghe tin mất xác Chúa, các tông đồ bàng hoàng chạy đi kiếm tìm. Mồ đã trống, Chúa không còn ở đó. Ngài đã sống lại ra khỏi mồ. Mồ trống là dấu hiệu của ánh sáng phục sinh. Dấu hiệu mời gọi niềm tin. Tông đồ Gioan thấy và ông đã tin.

Câu truyện trong Phúc âm kể lại rất đơn sơ nhưng chúng ta tìm được sự thật. Không ai nhìn thấy Chúa sống lại và bước ra khỏi mồ nhưng các bà và các tông đồ chứng kiến cảnh mồ trống. Đây là sự kiện rất quan trọng, kêu gọi chúng ta tin. Thánh Tôma là một nhân chứng của niềm xác tín này vì được thấy Chúa và được xỏ tay vào cạnh sườn của Chúa.

Chúa Giêsu sống lại khác với sự sống lại của Lazarô. Lazarô đã chết, được Chúa cho sống lại nhưng sống lại để tiếp tục cuộc lữ hành dưới thế, rồi cũng sẽ phải chết. Sự sống lại của Chúa Kitô là biến cố chỉ duy nhất có một. Chúa sống lại là đi vào cõi sống vĩnh hằng. Sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa. Ngài đã chiến thắng sự chết và tội lỗi muôn đời.

Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể. Chúng ta là chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô. Chúng ta sẽ được dự phần đau khổ và phục sinh với Ngài. Niềm tin vào Chúa Kitô sống lại là niềm tin của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của sự sống.  Phục sinh là nguồn sinh lực mới đem lại niềm hy vọng muôn đời cho những ai đặt niềm tin tưởng nơi Chúa.

Về mục lục

.

VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH

JM. Lam Thy

Khi chia sẻ Lời Chúa trong Lễ Phục Sinh, bất cứ ai cũng hay nhắc đến Đêm Canh Thức Vượt Qua. Đó là thời điểm quan trọng đánh dấu cuộc vượt qua vô cùng kỳ diệu của Đức Giê-su Ki-tô. Suy niệm về Đêm Canh Thức, kẻ viết bài này thường hay liên tưởng tới đêm cuối năm. Đêm cuối cùng của một năm được gọi là Đêm Trừ Tịch, còn được gọi là đêm Giao Thừa. Đêm Trừ Tịch là khoảng thời gian thiêng liêng nhất của năm khi các gia đình sum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành sẽ đến và tiễn đưa năm cũ. Giao thừa (  : cũ giao lại, mới tiếp nhận) là thời điểm chuyển tiếp giữa ngày cuối cùng của năm cũ sang ngày đầu tiên của năm mới.

Dương lịch coi Giao thừa là thời điểm chấm dứt năm cũ (24 giờ ngày 31/12) và đón mừng năm mới vào đúng thời điểm 00 giờ 00 ngày 01/01. Âm lịch gọi thời điểm Giao thừa là giây phút “Tống cựu nghinh tân”        (tiễn cũ đón mới). Đây là một trong những buổi lễ quan trọng trong tập quán, văn hóa của nhiều dân tộc. Dân tộc Việt Nam có tập tục truyền thống cứ mỗi khi Xuân về Tết đến là tổ chức lễ Giao Thừa rất long trọng đón mừng Năm Mới. Tính cách giao thừa (cũ giao mới nhận) giống hệt thời khắc Vượt qua cuộc khổ nạn, đón mừng hồng phúc Phục Sinh. So sánh như vậy cho dễ hiểu chớ thực tình Đêm Canh thức quan trọng hơn nhiều, vì đó là “Đêm Thánh mẹ của mọi đêm Thánh” (Thánh Au-gus-ti-nô).

Giáo hội đã ấn định trước khi cử hành đại lễ Phục Sinh, phải cử hành đêm Canh Thức. Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ. Sở dĩ vậy vì lễ Phục Sinh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Giê-su Ki-tô, tựa như Dân Chúa thời Cựu Ước ra khỏi đất Ai-cập, vượt qua Biển Đỏ, trở về Đất Hứa. Sách Xuất Hành đã ghi nhận: “Đó là đêm ĐỨC CHÚA canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai-cập; đêm đó thuộc về ĐỨC CHÚA, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.” (Xh 12, 42). Cũng bởi vì trong Đêm Canh Thức, Giáo hội trông đợi Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Đêm nay trong bầu khí trang trọng này, Giáo hội mừng Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô Phục Sinh, mầu nhiệm căn bản của Ki-tô giáo. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1Cr 15, 14.22)

Sách “Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên  lịch – Normae de Anno liturgico et Calendario” (số 18-21) đã giải thích về Tam nhật Vượt Qua và lễ Phục Sinh: “Chúa Ki-tô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Người. Nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết của chúng ta và sống lại để khôi phục sự sống cho chúng ta. Chính Tam nhật Phục sinh, nhằm tưởng niệm cuộc thương khó và Phục sinh của Chúa, sáng chói lên như tột đỉnh của cả năm phụng vụ. Cũng như trong tuần lễ, Chúa nhật là ngày trọng đại, thì trong năm phụng vụ, lễ Phục Sinh là lễ trọng đại nhất. Tam nhật Vượt Qua tưởng niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa. Cuối Tam nhật Vượt Qua là Đêm Canh Thức Phục Sinh: Lễ Canh Thức Phục sinh, trong đêm thánh Chúa sống lại, được coi là “Mẹ của mọi lễ Canh Thức”. Trong lễ Canh thức này, Hội Thánh canh thức để mong đợi Chúa Ki-tô sống lại và cử hành mầu nhiệm Phục sinh ấy trong các bí tích.”

Quả thật “Toàn thể truyền thống Ki-tô Giáo luôn nhìn nhận buổi canh thức này mang tính chất trông đợi cuộc quang lâm cánh chung của Chúa” (sách “Những ngày lễ Công Giáo 2018”, tr. 72-73). Cuộc Thương khó của Chúa Giê-su Ki-tô chính là cuộc Vượt Qua tội lỗi và cái chết của loài người để hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại. Như vậy cũng có thể nói Chúa Ki-tô đã vượt qua chính mình, tiêu diệt sự chết, phục hồi sự sống (phục sinh) vậy. Vượt qua chính mình ư? Thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng, nhưng nghĩ cho kỹ, suy cho cùng, thì đó lại là một việc làm thiên nan vạn nan. Ngay chính Đức Giê-su với bản tính loài người, thì Người cũng khó lòng vượt qua được chính mình trong cuộc khổ nạn. Sở dĩ Người vượt qua được, là nhờ bản tính Thiên Chúa đã có sẵn trong Người.

Với bản tính Thiên Chúa thì cuộc vượt qua của Đức Ki-tô không có gì là khó khăn cả, nhưng với bản tính loài người thì không phải là chuyện dễ dàng. Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, nhưng với bản chất con người bình thường như mọi con người trên thế gian, thì Người cũng đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni khi nghĩ đến cuộc khổ nạn mà Người phải vượt qua, thậm chí Người còn cầu xin cùng Chúa Cha cho khỏi phải chịu sự thương khó ấy (“Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này.” – Mt 26, 37-39). Tuy nhiên, với bản tính Thiên Chúa thì Người lại thưa: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39).

Đặt một giả thiết, nếu Đức Giê-su không vượt qua được bản tính con người với cuộc thương khó không một phàm nhân nào có thể tưởng tượng ra được (chớ đừng nói là có thể vượt qua), thì liệu Người có được “Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết” (Rm 8, 11) không? Quả thật là không đơn giản chút nào để có thể vượt qua được chính mình. Xin đơn cử một ví dụ nhỏ: Trên đường đi gặp một con sông chắn ngang trước mặt, muốn vượt qua nó tôi phải làm sao? Tiên vàn thì phải có được quyết tâm, có được can đảm, dũng khí. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, mà còn cần phải rèn luyện được kỹ năng (bơi lội, cách thức chống chọi với sóng gió…), rồi còn phải trang bị cho mình những phương tiện (bè mảng, ghe thuyền). Rèn luyện kỹ năng thì có thể tự mình làm được, nhưng cũng cần phải có người chỉ bảo hướng dẫn, kết quả mới khả quan; đến như những phương tiện thì chắc chắn phải cậy dựa vào tha nhân mới có được. Tóm lại, dù có đầy đủ quyết tâm và dũng khí (chủ thể), nhưng vẫn rất cần phải có sự trợ giúp từ bên ngoài (khách thể).

Vượt qua một chướng ngại vật thiên nhiên còn như thế, huống hồ là vượt qua được những thử thách của siêu nhiên, vượt qua được chính mình. Hoá cho nên vấn đề đặt ra với Ki-tô hữu khi bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cử hành Tam Nhật Vượt Qua, không chỉ là tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su Ki-tô và ăn mừng Lễ Phục Sinh đánh dấu mầu nhiệm Vượt Qua vinh hiển của Người; mà còn là làm sao vượt qua được chính mình trên hành trình dương thế, ngõ hầu tiến về được quê Trời vui hưởng hạnh phúc đời đời. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể đạt được ước vọng đó khi chúng ta được “cùng chết với Đức Ki-tô”. Và chỉ có “cùng chết với Đức Ki-tô” thì mới được “cùng sống lại với Người”.

Cụ thể hơn, phải vượt qua được bản chất “sợ chết” (tham sinh uý tử) cố hữu của con người. Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi loài người, vậy thì tại sao loài người lại không sẵn sàng chết vì tội lỗi của chính mình, để hy vọng được thực sự “sống lại” trong Nước Trời vinh quang. Hệ luận tất yếu phải là “cùng chết với Đức Ki-tô” (VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH) để được “cùng sống lại với Người” (PHỤC SINH VINH HIỂN). Đơn giản chỉ có vậy, tuy nhiên muốn thực hành có hiệu quả thì điều tất yếu phải biết cậy dựa vào Thần Khí Chúa, cũng chẳng khác khi vượt qua một chướng ngại vật thiên nhiên phải cậy nhờ vào sự trợ giúp của tha nhân vậy (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chềt, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” – Rm 8, 11).

Nghi thức Đêm Canh Thức Vượt Qua được sắp xếp theo 4 bước :

1- Thắp nến Phục Sinh (quen gọi là làm phép lửa): đem ”Ánh sáng Chúa Ki-tô” chiếu toả vào tận nơi sâu thẳm của cung lòng mỗi Ki-tô hữu;

2- Phụng vụ Lời Chúa: suy niệm những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho dân Người từ khởi nguyên đến tận cùng (alpha => omega);

3- Phụng vụ Thánh Tẩy (quen gọi là làm phép nước): Cộng đoàn Dân Chúa đón nhận những anh chị em tân tòng và cùng đồng thanh lặp lai lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy;

4- Phụng vụ Thánh Thể: Toàn thể Hội Thánh được mời vào bàn tịêc (“đồng bàn – ) trong đời sống mới mà Chúa đã dọn sẵn thông qua sự chết và phục sinh vinh hiển của Người (”Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật mà ăn mừng đại lễ” – 1Cr 5, 6-8).

Tóm lại, “Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta sẽ tưởng niệm một lần nữa nghi thức rước ánh sáng của ngọn nến Phục Sinh. Được thắp lên từ “ngọn lửa mới”, ánh sáng này sẽ dần vượt qua bóng tối và thắp sáng cộng đoàn phụng vụ. “Nguyện xin ánh sáng Đức Ki-tô vinh hiển chiếu giãi ánh sáng của Người để phá tan bóng tối đang bao phủ lòng trí chúng ta.” , và có thể cho chúng ta sống lại kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Emmau. Bằng cách lắng nghe Lời Chúa và nhận lãnh của ăn từ bàn tiệc Thánh Thể, xin cho tâm hồn chúng ta ngày càng hăng hái trong đức tin, đức cậy và đức mến.” (Sứ điệp Mùa Chay 2018).

Mỗi năm chỉ có một Mùa Chay với 40 đêm ngày hãm mình ép xác, ăn năn sám hối. Mỗi Mùa Chay cũng lại chỉ có một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa trọng đại của Tam Nhật Vượt Qua cô đọng trong đêm Canh Thức Vượt Qua như đã dẫn trên, người tín hữu cần nghĩ thêm rằng mình phải thực hành (không chỉ là cử hành) cho kỳ được công cuộc vượt qua được Mùa Chay của bản thân, của cuộc đời mình. Và nhất là làm thế nào để mỗi năm thêm một lần ghi dấu được cuộc vượt qua chính mình bằng một cái mốc thời gian trong cuộc đời.

Phải sống làm sao cho đúng với ý nghĩa “sống là chấp nhận vượt qua, vượt qua mọi cám dỗ ngọt ngào, mọi đam mê thấp kém, vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã – vượt qua được chính mình”. Cuộc sống không chỉ là mỗi năm một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua trong giới hạn 3 ngày, mà phải là thực hành liên lỉ cuộc “Bách Niên Vượt Qua” trong suốt cả trăm năm trần thế, cho đến ngày tới được cùng đích của cuộc đời. ”Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6, 5). Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Con biết nếu con vượt qua được chính mình để cùng chết với Chúa, con sẽ được sống lại trong Ngài. Nhưng con cũng biết rõ, với con người mỏng giòn yếu đuối, con không thể thực hiện được cuộc vượt qua vô vàn khó khăn đó. Lạy Chúa Ki-tô! Chúa đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Xin cho chúng con ”được trỗi dậy cùng với Chúa”, để chúng con biết ”tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha”, xin giúp chúng con luôn ”hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Chúng con luôn cầu mong chúng con ”đã chết, và sự sống mới của chúng con hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô” và ”Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng con xuất hiện, chúng con sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3, 1-4).

Ôi! Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh! Con tha thiết khẩn cầu Chúa ban Thần Khí cho con – như xưa Chúa đã ban cho các Tông đồ tiên khởi của Giáo hội trong ngày Lễ Ngũ Tuần – để con có thể vượt qua được chính mình, ngõ hầu được cùng chết và cùng sống lại với Chúa trong ngày cánh chung. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!

Về mục lục

.

NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH

 Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Chúa Kitô đã Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Gioan tường thuật khá chi tiết, và đầy xác tín: Chúa đã sống lại (x.Ga 20,1-31).

Với tôi, Tin Mừng theo thánh Gioan như một nhân chứng vừa sung sướng, vừa hãnh diện thuật lại những gì mắt thấy tai nghe.

Bằng ngòi bút sâu sắc trong suy niệm; thâm tín trong diễn tả; quả quyết trong lời kể; say sưa trong chiêm ngắm; tràn ngập hạnh phúc, niềm vui, lòng mến nơi tâm hồn, thánh Gioan tường thuật hành trình chạm tới ơn phục sinh và chạm tới Đấng Phục Sinh mà các môn đệ, cụ thể là ba con người: Maria Macđala, Phêrô, Gioan đã trải qua để tiến đến đức tin mạnh mẽ rằng: “Chúa đã Phục Sinh”.

Bằng chính niềm vui và đức tin phục sinh, thánh Gioan quả quyết: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20, 3-9).

I. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH SỚM LAN TRÀN.

Chúa đã phục sinh. Không phải chỉ một mình thánh Gioan sung sướng ghi lại biến cố phục sinh của Chúa, và sung sướng ngỏ với mọi người về chính đức tin của mình: “Ông đã thấy và đã tin”, mà chẳng lâu sau đó, thánh Phêrô cũng đã tin, các tông đồ đã tin, đoàn môn đệ đã tin, và cả Hội Thánh đã tin.

Niềm vui và đức tin phục sinh đã lan tràn. Niềm vui và đức tin phục sinh đi vào và đang lớn lên trong cõi lòng từng người chúng ta. Niềm vui và đức tin phục sinh luôn là tất cả hy vọng của Hội Thánh.

Ngày nay Hội Thánh vẫn mang lấy chính tâm tư vui mừng khôn xiết của thánh Gioan, để không chỉ tin, mà còn hãnh diện đem “khoe” cùng cả loài người, cùng toàn thể vũ trụ, cùng mọi thụ tạo để loan báo, để truyền giảng không mệt mỏi về niềm vui và đức tin: Chúa của mình đã phục sinh. Người vẫn tồn tại. Đến muôn đời, Người sẽ tồn tại. Người là Chúa. Bất cứ ai thuộc về Người, cũng sẽ phục sinh cùng Người.

Bởi thâm tín mạnh về niềm vui và đức tin Phục Sinh, dẫu là thánh Phêrô hay các tông đồ, dẫu là đoàn môn đệ của Chúa hay toàn Hội Thánh, đã không để bất cứ điều gì khuất phục mình – nhưng đạp trên tất cả sự dữ, dù là cái chết, gông cùm, tù tội, bị thú dữ nghiền nát, bị hành hạ dã man, bị lên án khốc liệt, bị phân biệt đối xử…, vẫn không làm lung lay lời rao giảng và lòng xác tín: Chúa đã phục sinh – để đêm ngày, qua muôn muôn lớp lớp lịch sử, vẫn hiên ngang sống, hiên ngang chết cho niềm thâm tín vào Một Đấng Phục Sinh Duy Nhất là Chúa muôn loài, cữu rỗi muôn loài.

II. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH: SỰ CHIẾN THẮNG.

Niềm vui và đức tin phục sinh mà Hội Thánh xác tín nơi Chúa Kitô, không đơn giản chỉ là hồi sinh trở về đời sống trần thế như đã từng sống. Sẽ không bao giờ giống cuộc trở về sau cái chết của con trai bà góa thành Naim (Lc 7, 11-17), con gái ông Giairô (Lc 8, 40-56), hay  Lazarô ở làng Bêtania (Ga 11,1-45). Bởi tất cả họ, dù đã từng được Chúa cho hồi sinh, đều cũng lại trở về bụi đất như tất cả mọi người.

Chúa Kitô phục sinh, Người không phục hồi sự sống như đã từng sống nơi dương thế, nhưng là tiến về sự sống trong Thiên Chúa, sống bằng sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là sự sống thuộc linh, một sự sống không hao mòn, không bị thời gian khống chế, không tàn phai, không kết thúc.

Về mặt nhân trần, Chúa đã chết thật. Chúa là người như mỗi chúng ta là người. Chúa đã chết như bao nhiêu con người đã chết.

Nhưng Chúa đã phục sinh. Từ nay Chúa mặc lấy sự sống sung mãn đến nỗi sự chết không còn quyền gì ảnh hưởng tới Chúa. Chúa chúng ta cũng không còn bị bất cứ định luật tự nhiên nào có thể chi phối. Không còn có bất cứ mãnh lực nào, dù tự nhiên hay siêu nhiên, hữu hình hay vô hình, có thể bị hủy hoại hay bất hoại… có khả năng chi phối sự sống phục sinh của Chúa.

Chúa Kitô là Đấng duy nhất trong nhân loại đã chiến thắng sự chết. Từ nay, Chúa đi vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống đã khải hoàn chiến thắng của Chúa đã trào tràn, tuôn đổ trên mỗi chúng ta.

Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và là sự sống lại của chúng ta. Người cho chúng ta tham dự vào sự phục sinh của Người, như chính Người đã từng phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).

Còn chúng ta, nhờ ơn phục sinh của Chúa, chúng ta cũng trở thành bất diệt sau cái chết trần thế của mình.

Là chứng nhân của Ðấng Phục Sinh đầy tràn sự hãnh diện, ôm ấp niềm vui, và tha thiết sống chết cho đức tin, các tông đồ, các môn đệ, và cả Hội Thánh của Chúa, ra đi khắp thế giới, loan tin mừng Phục Sinh. Tất cả cùng khẳng định: Ai tin nhận Chúa Kitô, tuyên xưng Người là Chúa và sống theo giáo huấn của Người, kẻ đó sẽ được Phục Sinh như Người.

III. CHÚNG TA SỐNG NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH.

Chúng ta, từng cá nhân, hãy mang lấy chính tâm tư vỡ òa của thánh Gioan tông đồ, của cả Hội Thánh, của biết bao nhiêu anh chị em đồng đạo, dám băng mình trên mọi nẻo đời, công bố cách không mệt mỏi đức tin cao cả, quý trọng, độc nhất vô nhị của mình: Chúa đã phục sinh.

Niềm vui và đức tin phục sinh phải là lẽ sống, là tâm niệm sống, là định hướng sống của từng Kitô hữu.

Hãy để niếm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn đời sống. Một đời sống mà biết để niềm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn, sẽ là một đời sống phong phú, một đời sống không chỉ mang đậm niềm hạnh phúc, nhưng còn trào tràn hạnh phúc ấy ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh mà đời sống ấy hiện diện.

Hãy để niềm vui và đức tin phục sinh đồng hành, giúp ta vững tâm bước qua tăm tối, chông gai, thử thách của đời sống mình. Qua tất cả những thăng trầm ấy, ta đóng đinh chính mình, đóng đinh tính xác thịt của mình vào thánh giá của Chúa, nhờ đó, ta sẽ cùng Chúa tiến vào cõi phục sinh vinh thắng.

Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.

Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,

Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.

Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.

Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn. Đó là cách duy nhất để ta sống niềm vui và đức tin phục sinh.

Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.

Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.

Khi chiến đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Người tham dự vào niềm vui và đức tin phục sinh, luôn luôn dược đòi hỏi phải chiến đấu với kẻ thù của linh hồn mình. Vì thế, hãy chiến đấu để đi tới chiến thắng. Chỉ có chấp nhận chiến đấu để vươn tới chiến thắng, ta mới thực là người mang lấy và sống niềm vui và đức tin phục sinh.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ba thù, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào mọi góc tối tăm của linh hồn chúng con, để chúng con trung thành sống chết cho đức tin. Xin đừng để chúng con rơi vào hoàn cảnh bi thảm mà các lãnh đạo Do thái giáo xưa đã từng thực hiện, đó là một mặt tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng mặt khác, do đời sống bê bối của chúng con, chúng con lại đang ra sức chối từ Chúa, ra sức đẩy xa ảnh hưởng của niềm tin phục sinh ra khỏi cuộc đời mình. Amen. 

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA PHỤC SINH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Các Tin mừng đều tường thuật biến cố Chúa Giêsu Phục sinh và trưng dẫn những chứng nhân về biến cố Chúa Phục sinh. Phụng vụ Lời Chúa lễ Phục Sinh hôm nay đưa ra những nhân chứng cụ thể:

– Maria Madalena, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, chứng kiến Đức Giêsu đã chết. Bà đi đến mộ từ sáng sớm không phải để xức dầu thi hài Chúa, bởi là việc chôn cất “theo tục lệ của người Do Thái đã hoàn tất”. Có lẽ là lòng mến với Thầy Giêsu, vì con tim thúc đẩy, mà bà không sợ hãi đi một mình tới mộ, không sợ kẻ thù của Chúa. Maria Madalena đã chứng kiến ngôi mộ trống, tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên. Lúc đó không thấy xác Chúa, bà không biết làm gì hơn là báo tin cho Phêrô và Gioan. Sau đó chính Chúa Phục Sinh đã hiện ra với bà, gọi tên bà và bà đã nhận ra Thầy mình đã Phục sinh.

– Nhân chứng thứ hai là Phêrô. Ông đã đễn và vào trong mồ: mồ trống và khăn liệm sắp lại gọn ghẽ. Như vậy là giả thuyết Maria Madalena đưa ra“người ta đã lấy xác Thầy” không có cơ sở nữa, vì “kẻ trộm sẽ chẳng tội gì mà lấy băng vải cuốn lại rồi đặt riêng ra một nơi”. Luca thì nhận xét: “Ông rất đỗi ngạc nhiên”. Phêrô còn bán tin bán nghi. Nhưng khi chứng kiến nhiều lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Phêrô đã tin và trở thành chứng nhân đặc biệt về Đức Giêsu Phục sinh. Ngài đã tuyên bố: Đức Giêsu đã bị giết chết nay đã sống lại thật Phêrô đã giảng tại nhà ông Cornelio:

“Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”(Cv 10, 40-41).

– Nhân chứng thứ ba là Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến đã đến và vào trong mồ. Bằng trực giác của tình yêu, ông đã thấy cảnh mồ trống và khăn vải liệm sắp xếp ngăn nắp dấu chỉ của thực tại khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo Gioan, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu mà chính là quyền lực của sự sống tiêu diệt hết quyền lực của sự chết. “Nghĩa là Đức Giêsu đã toàn thắng sự chếtvà theo Kinh thánh thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.(Ga 20, 9).

Phục sinh là tin vui cho chúng ta. Đức Giêsu phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta, cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống hôm nay như hai môn đệ trên đường về làng Emmaus (x.Lc 24, 13-35)

Phục sinh là tin vui cho biết Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, sự dữ và sự chết để đem ơn cứu độ cho nhân loại và trở thành Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Phục sinh là tin vui hy vọng cho người Kitô hữu sau này sẽ được phục sinh với Đức Kitô, được hưởng hạnh phúc quê trời khi chúng ta biết vui nhận thập giá như Đức Giêsu Kitô, biết chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.

Phục sinh là tin vui mặc khải cho ta biết rằng không có gì ở trên đời tiêu diệt được chúng ta, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và qua mầu nhiệm Phục sinh kêu gọi chúng ta đến sự sống mới. Sự sống trong ân sủng, nghĩa là luôn sống trong tương quan hài hòa với Chúa và anh em.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta xác tín mạnh mẽ Đức Kitô Phục sinh là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo và ý thức hơn khi đọc lời tuyên xưng sau khi truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Nghĩa là chúng ta pjải sống mầu nhiệm vượt qua như Đức Kitô: Chết đi cho tội lỗi, chết đi cho con người cũ để được sống lại với Chúa trong vinh quang.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA PHỤC SINH.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến

Chúng ta vừa đọc lại một trong những đoạn Tin Mừng quan trọng nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Đây là đoạn Tin Mừng đầu tiên truyền đạt lại cho những thế hệ mai sau biết về một biến cố lạ lùng nhất có liên hệ đến một nhân vật cũng lạ lùng vào bậc nhất trong Lịch sử loài người. Đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng được coi như một bản tự thuật hôm nay lý do là vì chính Gioan là tác giả bản tường thuật này thì ngoài Chúa Giêsu cũng như chính tác giả là Gioan ra, chúng ta còn thấy tác giả đã nhắc đến tên của hai nhân vật cũng rất quen thuộc với chúng ta trong Tin Mừng. Đó là Ông Phêrô và bà Maria Madalena. Trong ít phút suy niệm này tôi chỉ xin được nói về Maria Madalena. 

I. Khi suy niệm về màu nhiệm Phục Sinh, tôi tự hỏi tại sao một biến cố quan trọng như thế mà Chúa Giêsu không chọn một người nào quan trong hơn để loan báo mà Chúa lại chọn Maria Madalena? Đang suy nghĩ như vậy thì rất may tôi gặp được một bài thơ được in ở trong tập sách nhỏ được phát cho các linh mục vào dịp Đức Tổng Giám mục J.B Phạm minh Mẫn về nhậm chức tại Giáo phận TP HCM của chúng ta. Bài thơ dài nhưng tôi chỉ xin được trích một ít câu.

“Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên. 

Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật cà lăm. Thế là Moise đứng lên. 

Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Người lại chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavid đứng lên. 

Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội, Người đã chọn một người chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên. 

Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình. Người lại chọn một tên bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarxô. 

Vâng kính thưa anh chị em. Nếu chúng ta đọc lại cả Lịch sử Cựu Ước cũng như Tân Ước chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hay làm những điều thật khó hiểu như vậy. 

II. Như vậy thì thắc mắc của tôi kể như đã được giải đáp một phần nào. Tôi nói là một phần nào thôi bởi vì kính thưa anh chị em, nếu đọc thật kỹ Kinh Thánh, tôi lại thấy Thiên Chúa làm việc một cách hết sức khôn ngoan.

Không phải vô tình mà Ngài đã chọn Abraham. Ngài đã thấy được ở nơi con người này những gì cần thiết cho công việc của Người. Nơi Abraham Thiên Chúa đã tìm thấy được một lòng tin kiên cường không có một sức mạnh nào lay chuyển được. Đó là đức tính cần có cho vai trò của một tổ phụ. 

Nơi Moise thì có hơi khác. Trong con người nhút nhát ấy Chúa đã nhìn thấy một tấm lòng lúc nào cũng biết kính sợ Chúa. Chọn ông làm phát ngôn viên Chúa không sợ ông nói bạy. 

Còn nơi Đavid Chúa cũng nhìn thấy những đức tính rất đặc biệt của ông. Chúa đã nhìn thấy trong con người nhỏ bé này một ý chí sắt đá và một lòng quả cảm khó có thể tìm thấy được ở nơi những con người khác. Đó là những đức tính cần thiết cho một nhà lãnh đạo. 

Nơi Phêrô, Chúa tìm thấy gì nơi con người đã ba lần chối Chúa này. Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy Phêrô lúc nào cũng muốn những điều tốt đẹp nhất cho Chúa. Đôi lúc chúng ta thấy ông phán đoán hơi sai ý của Chúa nhưng trong thâm tâm của ông chúng ta thấy lúc nào Chúa cũng là số một đối với ông. Tuy có lỗi lầm nhưng ông vẫn xứng đáng là người để Chúa tin tưởng.        

Còn đối với Phaolô chẳng cần phải chứng minh dài dòng. Không ai mà không thấy được sự nhiệt thành và một tâm hồn quảng đại dám sống chết với những điều mình tin nơi con người này. Trước kia ông bắt đạo vì ông chưa biết Chúa là ai. Nhưng khi đã biết được Chúa rồi chúng ta thấy ông đã làm gì cho Chúa. Ông xứng đáng là tông đồ để đem Tin Mừng của Chúa cho những người chưa biết Chúa. Phải có những con người như ông thì mới có thể chu toàn được sứ mạng khó khăn Chúa trao phó. 

Vậy thì đối với Maria Madalena, Chúa đã thấy được gì nơi người phụ nữ này? 

Chúng ta hãy nhìn lại một một chút về cuộc đời của con người này qua Tin Mừng: 

Lần đầu tiên chúng ta gặp được người phụ nữ này ở trong Marco 16,6: người phụ nữ được Chúa trừ khỏi 7 quỉ. 

Trong Luca 8,23, bà cùng với một số các bà khác đi theo giúp Chúa và các tông đồ trong công việc truyền giáo. 

Với Mt 27,56 thì chúng ta thấy bà có mặt ở dưới chân cây Thánh giá của Chúa Giêsu cùng với Đức Mẹ, thánh Gioan và một vài người phụ nữ khác khi Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá. 

Theo Mt 26,61 và Mc 15,47 thì bà đã có mặt ở mồ Chúa ngay lúc vừa tảng sáng 

Mt 28,1 và Lc 24,10 còn cho chúng ta biết bà đến viếng mồ Chúa cùng một người khác cũng có tên là Maria vào buổi sáng sớm ngày Chúa sống lại. 

Và Ga 20,1118 cho chúng ta biết một chi tiết đặc biệt hơn: bà được Chúa Giêsu đích thân hiện ra và bà nhận ra Chúa khi Chúa gọi tên bà. 

Kính thưa anh chị em có lẽ bằng ấy sự việc cũng đủ để chúng ta thấy được con người này là một con người như thế nào. 

Nói một cách thật vắn tắt thì đây là một con người đã được Chúa phục sinh. 

Đó là lý do tại sao Chúa đã chọn chị để loan báo cho toàn thể nhân loại một Tin Vui vĩ đại nhất trong Lịch sử loài người: Đó là việc Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại để trở thành Cứu Chúa của mọi người. 

III. Vâng! Chúa đã sống lại và Người mãi mãi là Cứu Chúa của tất cả chúng ta. 

Mẹ thánh Têrêsa là một trong những nhân vật nhận được nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự nhất. Năm 1973, mẹ được quận công Phillip, với tư cách là chủ tịch danh dự của đại học Kempet bên Anh quốc trao cho mẹ bằng tiến sĩ danh dự về thần học. Mẹ trở về nhà vào giữa buổi trưa, dân chúng và ký giả đứng trực sẵn trước của nhà. Một ký giả đã đặt câu hỏi như sau:

– Đâu là động lực đã thúc đẩy mẹ bắt tay vào công việc phục vụ người nghèo? Điều gì đã gợi hứng và nâng đỡ mẹ trong suốt những năm qua?. 

Người ký giả và dân chúng hy vọng sẽ có một câu trả lời dài dòng với những lời giải thích thỏa đáng. Thế nhưng trước sự ngạc nhiên của nhiều người, mẹ Têrêsa đã chỉ đáp lại gọn gàng, vắn tắt bằng một tiếng ngắn ngủi: “Chúa Giêsu”. 

Vâng! Đối với mẹ, hai tiếng Giêsu đã quá đủ để giải thích về niềm tin, sự dấn thân, lòng can đảm, tình yêu, lòng nhiệt thành và những thành quả mẹ đạt được. Tất cả đều tùy thuộc vào Chúa Giêsu. Mỗi một cố gắng, mỗi một hy sinh đều được thực hiện vì Ngài. Tất cả cả vì Chúa Giêsu, đó là khẩu hiệu và cũng là câu tâm niệm trong từng phút giây của Mẹ. Điều đó không chỉ có nghĩa Mẹ làm mọi sự vì Chúa Giêsu và cho Chúa, mà còn có nghĩa là để cho Chúa Giêsu sống và hoạt động trong Mẹ. 

Tất cả vì Chúa Giêsu thưa anh chị em 

Hãy để cho Chúa Giêsu sống và hoạt động trong chúng ta. 

Hãy để cho Chúa Giêsu hướng chúng ta đến điều thiện. 

Hãy để cho Chúa Giêsu khơi dậy những tư tưởng cao đẹp trong chúng ta. 

Hãy để cho Chúa Giêsu thực hiện những hành động bác ái qua chúng ta.

Hãy để cho Chúa Giêsu bổ túc những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài qua những hy sinh nhẫn nhục từng ngày của chúng ta.

Hãy để cho sự phục sinh của Ngài chiếu sáng trong niềm tin yêu, hy vọng của chúng ta.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG MỚI

Lm. Tôma Vũ Kim Long

Chúng ta vừa trải qua một Tuần thánh thật trang nghiêm và sốt sắng. Nếu chú ý một chút, chúng ta sẽ thấy có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt những ngày đại lễ vừa qua. Này nhé:

@ hôm Chúa nhật Lễ Lá, Đức Giêsu được dân Do thái tung hô và tôn vinh là vua qua cuộc rước lá long trọng vào thành Giêrusalem: hoan hô Con Vua Đa-vít, chúc tụng Vua Israel.

@ rồi thứ Sáu Tuần thánh, chính quyền đã chính thức và công khai nhìn nhận Đức Giê-su là vua, qua bản án gắn trên đầu cây thập giá đã ghi: ông Giê-su Nagiaret là vua dân Do thái, theo lệnh của tổng trấn Philatô.

@ và hôm nay Chúa nhật Phục sinh, các tín hữu Kitô hân hoan tôn vinh Đức Giêsu đã phục sinh, là vua sự sống mới: vạn tuế đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng.

Như thế, Thiên chúa đã tỏ cho chúng ta thấy ý định của Người là muốn tôn vinh Đức Giê-su là Cứu Chúa của nhân loại, là Vua vũ trụ, như bài đọc 1 diễn tả: chính Người là đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người. Và bài đọc 2, thánh Phaolô khẳng định rõ rệt: Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Như thế, vượt  ra ngoài những toan tính ích kỷ và nhỏ nhen của con người, là muốn thủ tiêu và loại trừ Đức Giêsu ra khỏi đất kẻ sống, thì Thiên chúa đã điều khiển mọi sự để cho lịch sử diễn tiến đúng như thánh ý Người, đó là tôn vinh Đức Giêsu Phục sinh là Vua của vũ trụ, Vua các vua. Thật đúng như lời tung hô trong phần đáp ca: đây là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.

Vậy mà nhiều người không hề biết công trình kỳ diệu đó. Chúng ta quá may mắn vì nhận biết và thấu hiểu kế hoạch của Chúa và công trình của Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng vẫn đòi chúng ta phải đóng góp nỗ lực của mình, nghĩa là  chúng ta phải vận dụng đức tin, phải đặt niềm tin vào Người; bằng chứng là cái chết của Đức Giêsu xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, rất nhiều người biết rõ sự kiện ấy, không chỉ dân chúng sống tại Giêrusalem, mà kể cả nhiều khách thập phương đi hành hương Giêrusalem cũng chứng kiến cảnh tượng đó; vì nó xảy ra vào ban trưa ngày áp lễ Vượt qua.

Còn biến cố Phục sinh xảy ra vào ban đêm hay khi nào, không một ai chứng kiến. Các bà đạo đức chỉ phát giác ra, khi đến viếng mộ vào tảng sáng mà thôi, và lúc đó thì mọi sự đã rồi. sự kiện mồ trống chỉ là một bằng chứng tiêu cực, không cho biết đích xác Chúa có phục sinh thực sự hay không, hoặc ai đó đã đánh cắp xác Người? Sự kiện Phục sinh của Chúa đúng là không rõ, không biết chính xác. Nó giống như một cảnh quan bị che phủ bởi một lớp sương mù ban mai, mờ mờ, ảo ảo, khi ẩn khi hiện;  khiến chúng ta cứ khắc khoải, cứ day dứt thấp thỏm không yên. Đối với người thiếu chân thành thì sự kiện Phục sinh đủ mờ để họ không tin; nhưng đối với người thành tâm yêu mến, thì nó đủ rõ để tin.

Bài Tin mừng kể lại: ngay cả Madalena, bà còn tưởng là xác Chúa bị mất cắp. Còn Phêrô, sau khi đến mộ trống, ông chỉ kinh ngạc chứ chưa tin; Duy mình Gioan:ông đã thấy và đã tin. Thế mới biết  tin đức Kitô sống lại là điều rất khó, dù Ðức Giêsu đã báo trước nhiều lần: Người phải chịu nhiều đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Các môn đệ chỉ nhớ được nửa vế đầu của lời loan báo mà thôi, còn nửa vế sau tiên báo về sự phục sinh, thì các ông chẳng nhớ gì! Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên chăng. Vì thế, người kito hữu phải giục lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Niềm tin Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ… nhưng hướng đến sự phục sinh vinh hiển là sự sống mới. Vì thế, sự kiện Phục sinh mời gọi các Kitô hữu hãy tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Chính Ngài đã từng nói: Phúc cho những ai không thấy mà tin. Như thế mới có phúc, có công. Thiên Chúa cố ý muốn như vậy để ngài có lý do thưởng công cho chúng ta.

Cầu xin Chúa kiện cường niềm tin cho chúng ta và cầu chúc mọi người trở nên những chứng nhân can trường của Chúa Kitô Phục sinh cho thời đại hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA SỐNG LẠI

Lm. G.B. Trần Văn Hào

 Mầu nhiệm Phục sinh là nền tảng căn bản của niềm tin Kitô giáo. Thánh Phaolô đã xác quyết : “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi và đức tin của anh em hoàn toàn trống rỗng, và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trong tất cả mọi người (1 Cor 15,14-19). Vì vậy, toàn bộ đời sống đức tin của mọi Kitô hữu đều quy chiếu vào mầu nhiệm quan trọng này.

 Chúa đã chỗi dậy

 Tuy nhiên, trong cái nhìn hiện đại, việc Chúa sống lại không phải là một sự kiện mà con người dễ dàng chấp nhận. Người ta có thể nêu ra những nghi vấn dựa trên lý luận thông thường, đó là con người chúng ta sau khi đã chết thật sự, thì không thể sống lại. Nếu chỉ chết lâm sàng, tức là con tim tạm ngưng đập, và sau đó sự sống thể lý được phục hồi khi huyết quản được lưu thông, thì đó chưa phải là cái chết thật sự. Còn nơi Đức Giêsu, Đấng chúng ta đặt trọn niềm tin, là một ‘Thiên Chúa – Người’, cái chết đã thật sự đến với Ngài. Chúa đã chết trên Thập giá, được mai táng trong mồ ba ngày, và ‘đã trỗi dậy’. Điều này đã được các Tông đồ tận mắt mục kích và các Ngài đã can trường làm chứng, đặc biệt qua các chứng từ của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Chúng ta cần đào sâu về những chứng từ này.

 Trước hết, sách Công vụ Tông đồ thuật lại rất nhiều lần những lời rao giảng của thánh Phêrô. Vị thánh Tông đồ quả quyết : “Họ đã treo Người lên cây gỗ và Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa cho Người sống lại và Người đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi và những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, là những kẻ được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại’ (Cv 10, 39-41).

 Không phải chỉ thánh Phêrô mà tất cả các môn đệ đã đồng lòng xác quyết một việc đã xảy ra rất lạ lùng và khác thường. Họ không chỉ nói trên lý thuyết nhưng đã kể lại chính kinh nghiệm cụ thể mà họ từng nếm trải. Trong cộng đoàn Giêrusalem có rất nhiều nhân vật được Kinh thánh nhắc tới, như Phêrô, Maria Mađalêna, Salômê, Maria – mẹ của ông Giacôbê, bà Gioanna, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các môn đệ khác. Phải chăng, tất cả họ đều là những người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình ?

 Cleopas trên đường đi Emmaus đã nói về cảm giác hụt hẫng : “Chúng tôi kỳ vọng Ngài sẽ là người giải cứu Israel (Lc 24,21)”. Maria Mađalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên : “Người ta đã lấy cắp xác Chúa tôi và mang đi khỏi mộ. Tôi không biết người ta để Người ở đâu”. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần tiên báo về việc Ngài sẽ bị giết chết, nhưng sau 3 ngày sẽ sống lại, nhưng các môn đệ ngơ ngác không hiểu, lại còn ra sức can ngăn. Chỉ khi các ông trực tiếp gặp gỡ ‘Đấng đã trỗi dậy’, đầu óc u tối của các ông mới được khai sáng.

 Người ta có thể đặt ra giả thuyết và cho rằng có thể các môn đệ bị rơi vào ảo giác hay hoang tưởng, giống như một sự bù đắp về tâm lý. Đấng mà họ kỳ vọng đã không còn nữa, nên họ cố tạo ra một nhân vật huyền thoại theo trí tưởng tượng, giống như kiểu nói cường điệu hoá trong xã hội ngày nay ‘Vị lãnh tụ này hay anh hùng nọ… đời đời sống mãi’.

Đối với các Tông đồ và cộng đoàn Giêsusalem tiên khởi thì không bao giờ có chuyện đó. Niềm tin của họ là một niềm tin rất chắc chắn vì đã được trải nghiệm cụ thể. Họ đã tận mắt mục kích và đã làm chứng, cho dầu phải đối diện trước cái chết. Trong suốt hơn 20 thế kỷ qua, niềm tin đó được truyền thụ lại cho các thế hệ và cho chính chúng ta là con cháu các ngài ngày hôm nay.

 Những người cổ đại thời Chúa Giêsu, cho dầu có vẻ ngây thơ và dễ tin, nhưng họ có rất nhiều kinh nghiệm về thế giới người chết và tiếp cận người sắp chết hơn những người Đông phương chúng ta hiện nay. Họ hiểu rõ thế nào là sự chết và những gì họ thuật lại không phải là những câu chuyện giả tưởng hay hoang đường.

 Ngôi mộ trống.

 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna là người đầu tiên đã đón nhận Tin mừng Phục sinh. Bà về báo cho Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa yêu dấu nhưng hai vị này ban đầu đã không tin, chỉ cho là chuyện vớ vẩn (Lc 24,11). Cuối cùng Gioan và Phêrô cũng đi ra, đến bên ngôi mộ trống và ngạc nhiên về sự việc trước mắt. Riêng Thánh Gioan đã ghi lại cảm  nghiệm của chính mình : “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Dần dần các Ngài mới am tường, vì ‘Trước đây họ chưa hiểu rằng theo Kinh thánh, Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết (Ga 20,9).

 Cuộc hành trình dẫn đến đức tin của các chứng nhân đầu tiên, khởi đầu bằng việc tiếp cận ‘ngôi mộ trống’. Hành trình này quả không giản đơn chút nào nếu chỉ đứng trên góc nhìn của khoa học thực nghiệm. Maria Mađalêna cùng hai Tông đồ Phêrô và Gioan đã đi sâu vào cảm thức đức tin vì họ đã biết trải lòng mình ra để cho ơn thánh tác động. Cũng vậy, hình ảnh về ngôi mộ trống năm xưa cũng rất ý nghĩa đối với chúng ta trong cuộc sống đức tin ngày hôm nay. Nó biểu thị một tâm hồn hoàn toàn rỗng tuếch khi không có Thiên Chúa ở trong đó. Đồng thời, hình ảnh này cũng gọi mời chúng ta phải biết cách làm cho tâm hồn của mình trở nên trống rỗng, để được Thiên Chúa lấp đầy. Sự khao khát đi tìm kiếm Thiên Chúa sẽ được Chúa cho no thỏa, nếu chúng ta biết chân thành chạy đi để kiếm tìm Ngài.

 Kết luận

 Buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, cũng phải trở nên một khởi đầu mới với ánh bình minh chiếu dọi để xua tan những chỗ u tối trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần tiếp bước dấu chân của Maria Mađalêna, của Phêrô và của Gioan, khi mặt trời vừa mới ló rạng (Mc 16,1) để đến với Chúa, và chúng ta sẽ tiếp cận được Đấng Phục Sinh trong cuộc sống đời thường của chúng ta mỗi ngày.

Về mục lục

.

NHÂN CHỨNG PHỤC SINH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong trình thật biến cố phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư: Ma-ri-a Mác-đa-la, Phê-rô và Gio-an. Họ được coi như các nhân chứng duy nhất thuộc diện F1 của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên thập giá, được mai tang trong mồ, rồi ngày thứ ba đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ, hay tất cả những gì mà họ có thể đưa ra dẫn chứng cho biến cố này, thì lại quá đỗi đơn giản: ‘lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác da-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’. Chi tiết thật đấy nhưng chỉ vỏn vẹn có thế! Hầu như các chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục được ai. Dầu vậy Gio-an, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn, “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng vật chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải một sự kiện mà là cả một niềm tin có sức làm thay đổi cuộc sống của chính ông, đồng thời làm thay đổi toàn thể nhân loại này nữa. Sau này ông đã dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố trọng đại này, và còn sẵn sàng chết để minh chứng nó.

Tại sao vậy? Chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này và hiểu ra ngay, niềm tin phục sinh phải luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư cụ thể nhất.

Phê-rô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi như đáng xấu hổ nhất trên đời: phản bội chính Ông Thầy của mình! Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết, vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thấy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!”. Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” Đâu ngờ chính ông lại tới ba lần lên tiếng thề thốt: “tôi không hề biết ông ấy đâu!” Chính với cái trải nghiệm đáng tủi hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Ki-tô) vượt lên trên tất cả, vượt xa hơn tất cả, kể cả sự đớn hèn của con người. 

Gio-an: Là môn đệ được Đức Giê-su thương mến, Gio-an đã cảm nghiệm được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Yêu bao nhiêu thì đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi phải chứng kiến tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gio-an lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những ‘mạnh hơn cái chết’ theo nghĩa thông thường (= đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết – cả cái chết về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng – và tình yêu này không gì cũng như không ai có thể ngăn cản nổi, kể cả thần chết hay cái chết trong tội lỗi! Ai tin chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng; vì quả thật, Người đích thực là sự sống lại như chính Người đã từng tuyên bố, sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.

Ma-ri-a Mác-đa-la: nhân chứng số một của biến cố phục sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi đối với bà là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, và trải nghiệm yêu thương, gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giê-su mang lại đã rơi vào bế tắc cùng với cái chết của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giê-su đã sống lại và ra khỏi mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vình viễn và thăng hoa sẽ là bất tận.

Là Ki-tô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh như một biến cố, mà còn phải là chứng nhân việc Chúa đã sống lại từ chính kinh nghiệm riêng tư của niền tin của tôi. Tôi phải tự mình làm chứng về một tình yêu tha thứ trở thành bền vững, như chính tôi từng cảm nghiệm qua bí tích rửa tội và hòa giải đã lãnh nhận. Vậy thì tốt nhất hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này:  đó là cảm nghiệm của Phê-rô, của Gio-an hay của Ma-ri-a Mác-đa-la?

Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phê-rô hay Mac-đa-la; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gio-an, nhất là trong ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại, xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thực sự thâm tín và phấn khởi. A-men

Về mục lục

.

KHẢI HOÀN

Trầm Thiên Thu

MỘ ĐÁ CHỨNG MINH ĐỨC CHÚA SỐNG LẠI

NHÂN GIAN LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH

Chúa Giêsu đã phục sinh khải hoàn, tất cả tín nhân hân hoan hợp xướng “Alleluia!”, nhưng đồng thời cũng phải có trọng trách: “Anh em PHẢI CỞI BỎ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và PHẢI MẶC LẤY con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Hai mệnh lệnh “phải” rất quyết liệt!

Chúa Giêsu đã chiến thắng Tử Thần, niềm vui phục sinh đang tràn ngập lòng người, ánh sáng phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi Kitô hữu. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Chúa Giêsu sống lại là lời xác định về niềm tin của chúng ta: XÁC LOÀI NGƯỜI SẼ SỐNG LẠI. Chắc chắn như vậy, nhưng phần chúng ta là phải cố gắng sống để hoàn tất lời hứa của Ngài: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3).

Thiên Chúa là ĐẤNG CÔNG CHÍNH (Tv 11:7; Tv 35:28; Ga 17:25) nên Ngài cũng CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7). Ngài còn là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) nhưng Ngài lại chẳng thiên vị bất kỳ ai, như Thánh Phêrô xác quyết: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, dĩ nhiên cũng chẳng loại trừ ai, bởi vì MỌI NGƯỜI ĐỀU BÌNH ĐẲNG TRƯỚC MẶT CHÚA. Thế nên chớ cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mình “ngon” hơn người khác!

Nói về Đấng Phục Sinh, Thánh Phêrô giải thích một loạt: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Rút kinh nghiệm sau lần lỡ chối bỏ Sư Phụ Giêsu của mình chỉ vì quá khiếp nhược, và rồi nhận biết sự thông cảm của Thầy khi Thầy quay lại nhìn mình (Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt”, khóc vì biết mình yếu đuối và khốn nạn. Nhưng điều đó lại là đại phúc. Không biết khóc cho tội mình mới là khốn nạn đời đời.

Ngay sáng sớm, được mấy phụ nữ báo “tin nóng”, ông Phêrô cũng đã ba chân bốn cẳng chạy tới mộ, thế là chắc chắn rồi. Từ khi biết chắc Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Chẳng còn thứ gì có thể khiến ông lo sợ như trước nữa. Ông đã biến đổi thành một con người hoàn toàn mới.

Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-cương-trực (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế cũng “liều mạng” lắm chứ – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược (chối Thầy khi chỉ có mấy đứa tớ gái chân yếu tay mềm – Mt 26:69-75; Mc 14:66-72; Lc 22:56 -62; Ga 18:15-18, 25-27). Thế nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-hèn-nhát-và-nhu-nhược đã biến thành một Phêrô-mạnh-mẽ-và-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó chính là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mọi sự.

Và rồi mỗi chúng ta cũng chẳng hơn gì Phêrô, cũng đã bao phen “chối” Chúa, thậm chí còn dám “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem. Nhưng dù chúng ta dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết, chỉ cần chúng ta thật lòng sám hối. Mặc dù tội lỗi và bất xứng, nhưng chúng ta hãy can đảm kêu gọi: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh Vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp ca này: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Hãy vững lòng tin tưởng và tự thề hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao làm vậy? Đây là lý do minh nhiên:

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ

Lại trở nên đá tảng góc tường

Đó chính là công trình của Chúa

Một công trình kỳ diệu vô thường

(Tv 118:22-23)

Với lòng nhiệt thành và sự ân cần, Thánh Phaolô căn dặn mỗi chúng ta: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh chị em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:1-3). Có lẽ sợ chúng ta nản chí sờn lòng nên Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Đó là lời hứa chắc chắn và là niềm tin bất tử của tất cả chúng ta – những người đã, đang và sẽ hành động vì Đức-Kitô-Phục-Sinh.

Đây là tường thuật của người-môn-đệ-Chúa-yêu: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.

Lo sợ và hoang mang, Cô Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình đã nói trước. Con người thế đấy, nỗi sợ hãi khiến người ta hóa ngớ ngẩn. Nghe nói vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ, họ cùng chạy, chạy như bay. Nhưng chàng trai Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.

Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào. Chàng Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi mà không lòng tin thì cũng vô ích. Nếu thấy và tin rồi cũng chưa xong, mà còn có bổn phận phải làm chứng. Một “chiếc kiềng” vững chắc nhờ cả ba chân: Thấy – Tin – Thực Thi.

Dựa vào Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, tất nhiên không loại trừ mỗi chúng ta, cho rằng “không thấy thì rất khó tin” – theo kiểu thực nghiệm. Nhưng Chúa Giêsu lại xác định: “Phúc thay những người KHÔNG THẤY MÀ TIN!” (Ga 20:29). Không thấy mà vẫn tin, đó không phải là hồ đồ, mù quáng hoặc ảo tưởng, mà là đức tin do Thiên Chúa mặc khải.

Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, xin tạ ơn Ngài đã soi sáng cho chúng con nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, nhận biết Đức Kitô là Đấng chịu chết và sống lại, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên đường lữ hành trần gian này, đồng thời cũng giúp chúng con can đảm làm chứng nhân về Ngài trong suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ duy nhất của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHẾT ĐI – SỐNG LẠI

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Sống trên cõi đời, ai cũng phải đi qua hai cửa ải là sinh và tử. Khi lọt lòng mẹ, cất tiếng khóc chào đời cũng là lúc con người đang dần đi vào cửa tử, có người sớm, có người muộn. Cho nên “tham sống, sợ chết” là cái lẽ thường tình cho tất cả mọi sinh vật sống trên thế gian này.

Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Chết được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngưng vĩnh viễn mọi hoạt động sống (không thể phục hồi) của mọi cơ thể. Tuy nhiên, ngoài cái chết thể lý, còn có những cái chết khác tùy thuộc vào các quan điểm tôn giáo, tín ngưỡng cũng như nhiều lãnh vực liên hệ.

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chúng ta quan niệm chết mà vẫn sống, mất mà vẫn còn (Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn). Người chết vẫn còn sống, vẫn sinh hoạt bình thường ở cõi âm như người còn sống. Vì thế, có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, quần áo, đầy tớ, v.v… để “chi viện” cho người chết.

Đức tin của người Công giáo dựa trên nền tảng Đức Kitô chết và đã sống lại. Ngay từ thời nguyên tổ, Ađam đã bất tuân lệnh Thiên Chúa ăn trái cấm để từ đó tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Vì tội lỗi mà có sự chết và sự chết đã truyền tới mọi người. Tuy vậy, với tình yêu thương con người, Thiên Chúa đã ban ân sủng cứu độ nhờ người con duy nhất của Người là Ðức Giêsu Kitô. Thế là vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết, thì nay cũng nhờ một người mà con người được hưởng sự sống muôn đời. (x. Rm 5, 12-19)

Sống lại là một sự kiện kỳ diệu nhất, bởi vì chưa hề có một người nào chết đi rồi mà được sống lại và không bao giờ chết nữa. Đây là một sự kiện quan trọng và là niềm hy vọng mới cho con người. Nếu Đức Kitô vẫn còn ở trong sự chết thì thập giá của Người quả là vô nghĩa và chẳng cứu độ được ai. Nếu Đức Kitô không sống lại thì tình yêu và đức tin của chúng ta chỉ là sự hoài tưởng về một con người đã chết hoàn toàn thuộc về quá khứ. “Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cor 15, 20).

Tin Đức Kitô đã chết và sống lại không phải là những lời nói suông, nhưng quan trọng hơn chính là chết đi và sống lại như Ngài, là trở thành môn đệ của Ngài trong mỗi ngày. Niềm tin ấy không chỉ dành cho riêng mình nhưng còn được loan báo cho những người xung quanh có liên hệ đến cuộc sống của mình.

Chết đi là chấm dứt mọi hoạt động của con người cũ, con người ích kỷ chỉ muốn mọi người phải chiều theo ý mình; con người vụ lợi chỉ muốn sống cho thỏa nguyện hạnh phúc của riêng mình. Con người cũ còn là con người xác thịt không hành động theo luật lương trí, sống buông thả cho mọi khuynh hướng sống. Đó là “Tất cả những người lấy cái bụng làm Chúa, những người đặt vinh quang của họ trong những việc chỉ làm cho họ xấu hổ vì chỉ thích những cái gì phàm tục” (Pl 3, 19).

Sống lại có nghĩa là sống một cuộc sống mới, một cuộc sống mà trước đó chưa từng sống: cuộc sống hoàn hảo, trọn vẹn, tươi đẹp và phong phú nhất. Đó là cuộc sống không còn dấu vết của chết chóc, đau thương sầu khổ nhờ cái chết và sống lại của Đức Kitô. Con người mới sống lại hiểu rõ và thực hiện thiên chức làm người của mình qua sự vâng phục làm trọn nhiệm vụ của mình ở đời này cho đến ngày chết.

Sống lại chính là từng giây từng phút “lột bỏ con người cũ” (Cr 3, 9), con người ích kỷ vụ lợi, không muốn “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Sống lại hôm nay chính là từng giây từng phút “mặc lấy con người mới” (Cr 3, 10), con người được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, sống vị tha quảng đại, trong sạch, gương mẫu và biết diệt trừ các tính hư nết xấu của mình.

Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin cho con được biết chết đi về tội lỗi mỗi ngày. Xin cho con được sống lại với một trái tim trong thần khí mới để con luôn sống theo các điều luật, tuân giữ và thi hành các mệnh lệnh của Người. Amen. Alleluia!

Về mục lục

.

SỐNG LẠI VỚI CHÚA PHỤC SINH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.

“Trăm năm còn có gì đâu?

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du)

Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty

Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.

Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh

Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giê-su đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.

Ngài biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Ngài khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Ngài đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!

Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.

Huỷ diệt con người cũ để được tái sinh với Chúa Giê-su 

Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta cần phải cùng chết với Chúa Giê-su để sống lại với Ngài trong đời sống mới như lời Thánh Phao-lô dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6:8).

Chết với Chúa Giê-su là hủy diệt con người cũ của ta đang nằm dưới ách thống trị của tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để cho người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô, không còn hận thù, ích kỷ, tham lam, ghen ghét …

Sống lại với Chúa Giê-su là chúng ta hãy mặc lấy Chúa Giê-su như lời thánh Phao-lô kêu gọi: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13:13-14).

Mặc lấy Chúa Giê-su là mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giê-su, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giê-su, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giê-su.

Thực hành được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Giê-su phục sinh.

Về mục lục

.

ĐI TÌM CHÚA NGAY CẢ KHI ĐỨC TIN BỊ KHỦNG HOẢNG

Lm Trần Bình Trọng

Mỗi dân tộc có những câu truyện thần thoại khác nhau. Trí tưởng tượng người ta càng giầu thì truyện càng thần thoại. Tuy nhiên câu truyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một truyện quá thần thoại, vượt sức tưởng tượng của loài người.

Ðối với những người chống Thiên Chúa giáo, thì đó chỉ là một câu truyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu truyện Ðấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các ngôn sứ tiên báo cả hàng trăm năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự tiên báo. Ðể phản bác lời tiên tri về việc Ðấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã xin Pilatô phái quân lính đến canh mộ Người, hầu tránh âm mưu có thể xẩy ra do việc môn đệ lấy trộm xác, rồi phao tin là Thầy họ đã sống lại (Mt 27:63-66).

Sự kiện Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử loài người. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem bấy giờ hãy còn ngái ngủ trước biến cố phục sinh của Ðức Giêsu. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Mọi người đều bị khủng hoảng trầm trọng, không còn hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì họ vừa khiếp sợ, vừa bực bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thầy họ đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.

Chỉ có bà Maria Mácđala là người đầu tiên đã vượt qua được nỗi khiếp sợ, sầu khổ và hoang mang về cảnh đóng đinh thập giá để đi tìm Chúa. Khi thấy mồ trống, bà đoán ngay được là đã lấy trộm xác Thầy mình. Khi thấy Thầy mình sống lại hiển linh, bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Ðức Giêsu gọi bà bằng tên: Maria (Ga 20:16).

Vậy bà Maria Mácđala là ai? Bà Maria Mácđala không nhất thiết phải là người phụ nữ tội lỗi vô danh đến xức dầu thơm bình thường lên chân Ðức Giêsu, như người ta lầm tưởng trước kia, khi Người đến dùng cơm tại nhà một người Pharisêu trong Phúc âm thánh Luca (Lc 7:36-50). Bà Maria Mácđala cũng không phải là người phụ nữ ngoại tình, không tên, trong Phúc âm thánh Gioan, bị nhóm kinh sư và Pharisêu đem đến hỏi ý Ðức Giêsu về việc ném đá phạm nhân ngoại tình theo luật Môsê (Ga 8:3-11). Bà Maria Mácđala này, cũng không phải là bà Maria, em bà Mácta 1, thuộc gia đình giầu có, đã xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Ðức Giêsu khi Người đến dùng bữa ăn tối tại Bêtania, có bà Mácta hầu bàn, trong Phúc âm thánh Gioan (Ga 12:3-8).

Bà Maria Mácđala đây là bà Maria quê thành Mácđala gần biển hồ Tibêria, đã được Ðức Giêsu giải thoát khỏi bảy qủi ám (Mc 16:9; Lc 8:2); là người đã theo Ðức Giêsu cùng với mấy bà khác để giúp đỡ Người (Mt 27:55; Lc 8:3, Mc 15:41). Bà là một trong những bà chứng kiến cảnh đóng đinh Ðức Giêsu (Mt 27:56; Mc 15:40; Ga 19:25) và là một trong những bà có mặt trong việc mai táng Ðức Giêsu (Mt 27:61; Mc 15:47). Bà Maria Mácđala cũng là người thấy ngôi mộ trống (Mt 28:1-10; Mc 16:1-8; Lc 24:10). Việc Ðức Giêsu hiện ra với bà Maria Mácđala được ghi lại trong Phúc âm thánh Mác-cô và Gioan (Mc 16:9; Ga 20:1-18).

Cuối Phúc âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng: Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Ðức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 20:9). Nếu muốn: Nói có sách, mách có chứng, thì ta cần tìm hiểu xem Thánh kinh nói gì về việc sống lại của Người. Trước hết Thánh kinh Cựu ước đã  tiên báo về mầu nhiệm phục sinh (Tv 16:10; Hs 6:2). Còn chính Ðức Giêsu cũng đã tiên báo về việc phục sinh của Người ba lần trong Tân ước. Lần thứ nhất được ghi chép trong cả ba Phúc âm Nhất lãm (Mt 16:21; Mc 8:31; Lc 9:22). Lần hai được tìm thấy trong hai Phúc âm thánh Mát-thêu và Mác-cô: (Mt 17:22; Mc 9:31). Lần này thánh Luca có nhắc đến việc Ðức Giêsu bị nộp vào tay người ta (Lc 9:44) mà có lẽ quên không nói đến việc phục sinh của Người. Lần thứ ba lại được nhắc lại trong cả ba Phúc âm Nhất lãm (Mt 20:19; Mk 10:34; Lc 18:32). Riêng thánh sử Gioan thì nhắc đến việc phục sinh của Người trong việc xây dựng lại Ðền thờ khi Người bảo người Do thái cứ phá huỷ Ðền thờ này, Người sẽ xây lại trong ba ngày (Ga 2:19). Ở đây Ðức Giêsu muốn nói đến Ðền thờ là thân thể phục sinh của Người.

Vào thời bấy giờ tại tòa án Do thái, đàn bà không thể đứng ra làm nhân chứng. Vậy mà Ðức Giêsu đã chọn bà Maria Mácđala làm chứng nhân cho việc Người sống lại. Như vậy phải có lý do nào đó. Và đó là đường lối của Chúa. Khi bà Maria Mácđala vội vã chạy về báo tin cho ông Phêrô và Gioan rằng xác Thầy họ không còn ở trong mồ nữa, hai ông cũng chạy ra mồ. Ông Gioan chạy mau hơn nhưng vì tế nhị không vào ngay, đợi cho ông Phêrô đến sau để vào trước. Ông Phêrô không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Nếu  xác Ðức Giêsu bị lấy cắp như các thượng tế và người Pharisêu đã đề phòng xin Philatô ra lệnh cho quân lính canh mồ, thì kẻ cướp phải làm cách vội vàng, chứ đâu còn giờ mà lột khăn liệm ra khỏi thân mình Chúa, và cũng đâu còn giờ để gấp khăn che đầu lại làm chi cho mất công và mất giờ. Do đó việc gấp khăn che đầu là dấu chỉ cho các tông đồ tin là Thầy họ đã sống lại. Và thánh Gioan, có lẽ vì được Ðức Giêsu thương mến (Ga 20:2) và không bận tâm với việc vợ con, nên mới tinh ý nhận ra được ý nghĩa của dấu chỉ này.

Cũng như các tông đồ, cũng như bà Maria Mácđala, ta cũng có thể có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng và ta không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như bà Maria Mácđala, cũng như thánh Phêrô và Gioan, ta vẫn phải đi tìm Chúa, ngay cả khi cảm thấy tâm hồn hoang mang. Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong cuộc sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, và mê đắm theo đuổi những chuyện phù vân quả là phù vân (Gv 1:2).

Lời cầu nguyện xin cho được ơn tiếp tục đi tìm Chúa:

Lậy Ðức Kitô phục sinh!

Muôn vàn lần xin tạ ơn Chúa đã ban cho con

được ơn nhận lãnh đức tin khi chịu Phép Rửa tội.

Xin cho con được nhận thức rằng

đức tin không phải là bảo vật gì

có thể chôn chất hay bỏ vào hộp an toàn nhà băng,

mà luôn phải được tìm kiếm, bảo trì và phát triển.

Xin cho con được tiếp tục đi tìm Chúa

ngay cả khi đức tin bị thử thách. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU PHẢI CHỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT

Phêrô Trần Đình Phan Tiến

 Vâng! Kính thưa quý vị, đây không phải là lời của người ta, mà là Lời của Kinh Thánh. Kinh Thánh là dòng chảy của lịch sử thuộc về Thiên Chúa. Nên chi, dù tin hay không Kinh Thánh vẫn thuộc về Thiên Chúa. Đó là chân lý.

Đây là chóp đỉnh của lịch sử ơn cứu độ và là chóp đỉnh của Đức Tin. Ngôi Mộ trống, cả bốn Tin Mừng đều ghi là “Ngôi Mộ Trống”. Mầu nhiệm Tử Nạn, thì người ta được mục kích rõ ràng, nhưng mầu nhiệm phục sinh thì không ai được nhìn thấy, kể cả các môn đệ. Điều nầy nói lên điều gì, thưa quý vị?

Thưa nói lên rằng: Khi Đức Kitô từ cõi chết sống lại, thì Người không bị lệ thuộc vào bất cứ điều gì thuộc về trần thế. Đồng thời nói rõ, Người là Thiên Chúa Hằng Hữu. Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian, con người và lịch sử, không một thế lực nào không chế được Người. Nói lên, phần Thiên tính của Người là vô biên. Chúng ta thấy biên giới giữa cái chết và sự sống thật gần gũi đối với mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Tuần Thánh là giai đoạn đau khổ tột đỉnh của mầu nhiệm Vượt Qua, đưa Con Người vào cái chết bi thương. Có thể nói, không ai là không hãi hùng đối với cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế, một người bình thường không thể chịu đựng nỗi sự đau khổ cùng cực và thể xác đau đớn đến khiếp đảm như cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Sự cứu chuộc của Người vượt quá sự chịu đựng của một con người. Vì vậy có thể nói dù Đấng Cứu Thế chịu đựng bởi phần nhân tính của Người, nhưng trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, Người mới có thể hoàn tất.

Biết bao cuộc suy niệm, biết bao lời dẫn chứng, cùng biết bao sách vở nói về cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, nhưng không ai có thể cảm nghiệm hoàn toàn đủ về cuộc khổ nạn của Người, nhất là trong những giây phút hoàn toàn bi thương nhất.

Vì vậy, để đối nghịch lại với cuộc thương khó, sự Phục Sinh của Người hoàn toàn là một mầu nhiệm của sự chiến thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản diện nhau. Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau khổ. Hiển nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con Thiên Chúa là sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện là giá trị của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm nhân. Vì vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không có giá trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục Sinh. Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu đến giây phút cuối cùng.

Đoạn Tinh Mừng (Ga 20,1-9) hôm nay, cũng như (Lc 24,1-12), hay (Mc 16,1-8), (Mt 28,1-8) tường thuật cùng một sự kiện là “Mồ Trống”. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ cho thấy là mồ trống. Còn những yếu tố khác hiển nhiên là không ai thấy được. Điều nầy có nghĩa là khi đã hoàn tất cuộc khổ nạn. Con Thiên Chúa không còn giới hạn trong nhân tính của Người, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh không mặc khải như mầu nhiệm Tử Nạn. Chúa Giêsu không còn là Người, nghĩa là nhân tính của Người bây giờ là siêu nhiên trong sự Hữu Hình. Phần nhân tính đã ở lại trong Phép Thánh Thể mà Người đã thiết lập ngày thứ năm Tuần Thánh. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là sự kiện mồ trống, không dừng lại ở yếu tố nầy, mà là hàng loạt cuộc hiện ra với các môn đệ, mà đặc biệt chỉ có Thánh Luca ghi lại “trên đường Emau” (Lc 24, 13-35). Còn thánh Gioan thì ghi lại ba lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Rõ ràng sự kiện Phục Sinh không dừng lại ở đoạn Tin Mừng hôm nay, mà liên kết những lần hiện ra sau Phục Sinh, vì vậy, Lễ Phục Sinh không phải chỉ Mừng Kính Trọng Thể một ngày, mà là Lễ Phục Sinh với tuần Bát Nhật Phục Sinh, và một mùa Phục Sinh.

Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng, đồng thời cả Triều Thần Thiên Quốc cùng nhau chúc tụng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa đã sống lại thật! Alleluja! Người đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Alleluja! Xin cầu cùng Chúa cho chúng con. Alleluja!

Về mục lục

.

NGƯỜI PHẢI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

Lm. Nguyễn Thái

Vào dịp lễ Phục Sinh năm 1997, tại nhà thờ St. Pius X, Westerly, Rhode Island, linh mục Raymond Suriani đã chia sẻ bài giảng với tựa đề “Một câu chuyện Phục Sinh hiện đại có thật: Bác sĩ Bernard Nathanson.”

Ngày xưa, có một cậu bé Do Thái tên là Bernard. Bernard là con của một bác sĩ, nhưng trước khi trở thành bác sĩ ông là một Rabbi Do Thái. Ông đã từ bỏ đức tin Do Thái để trở thành bác sĩ. Dù vậy ông vẫn gửi Bernard đến trường học Do Thái. Dĩ nhiên điều này ảnh hưởng không ít đến chú bé Bernard, như sau này ông đã nói:

“Khi về nhà, tôi nói với ba tôi về điều đã học được ở trường học Do Thái. Ông cười nhạo, chế diễu và đả phá tất cả những gì tôi đã học… Trong nhiều năm tôi bị bỏ rơi, lầm đường lạc lối, không biết gì về tôn giáo và Thiên Chúa. Tôi đã vào quán rượu lúc 13 tuổi thay vì đến hội đường… Tôi đã không có một tí tia sáng nào, không có phương hướng, dù chỉ là sự hướng dẫn tinh thần.

Bernard là một chàng thanh niên trẻ có tài. Anh học đại học, vào trường y khoa và tốt nghiệp ưu hạng. Thật không may, chỉ sau đó một thời gian ngắn, Bernard đã hai lần lập gia đình, chỉ vì anh đã đặt những liên hệ của anh với những người vợ dựa trên của cải vật chất, và khoái lạc, ngoài ra không có gì khác.

Bernard là một bác sĩ sản khoa và phụ khoa rất thành công. Cuộc đời sự nghiệp của ông trôi chảy bình thường cho đến một buổi tối vào năm 1968, tại bữa tiệc, ông đã gặp ông Lawrence Lader. Lader vừa viết một cuốn sách về phá thai, nên họ cùng thảo luận về chủ đề này. Cả hai người đều sớm nhận ra rằng họ có thể kiếm được rất nhiều tiền qua việc cung cấp “dịch vụ” này cho phụ nữ. Nhưng vào lúc đó, phá thai vẫn còn là bất hợp pháp. Do đó, họ đồng ý quyết định thành lập một nhóm người hoạt động để loại bỏ bất cứ luật lệ nào ngăn cản việc phá thai. Nhóm đó hiện nay vẫn còn hoạt động, gọi là NARAL – The National Abortion Rights Action League.

Như chúng ta đã biết NARAL rất thành công trong những nỗ lực của họ. Và sau cùng Bernard đã đứng đầu một bệnh viện phá thai lớn nhất thế giới, ở phía đông của Manhattan, New York. Ông có 35 bác sĩ và 95 y tá làm việc phụ giúp. Họ đã thực hiện 120 vụ phá thai mỗi ngày trong năm, trừ ngày nghỉ Lễ Giáng Sinh. Trong thời gian Bernard làm việc ở đây, ông đã thực hiện khoảng trên 75,000 vụ phá thai. Sau này ông gọi 75,000 thai nhi bị giết này là “một hành lý rất nặng nề” – “a pretty heavy baggage” – đè trên lương tâm ông.

Sau hai năm, ông ngưng làm việc phá thai và đảm trách chức vụ trưởng phụ khoa và sản khoa ở bệnh viện St. Luke của Columbia University. Với sự giúp đỡ của khoa học kỹ thuật hiện đại như ultrasound – siêu âm, ông bắt đầu suy tư về điều mà ông đã làm. Ông nghiên cứu bào thai trong bụng mẹ từ quan điểm thuần tuý khoa học, và đã đạt đến một kết luận kinh hoàng rằng bào thai là một người, một con người có nhân tính. Từ đó ông đã trở nên một người bảo vệ sự sống – pro-life. Nhưng sự thay đổi này vẫn chỉ dựa trên lãnh vực khoa học, ông nói: “Lúc đó, tôi đã thay đổi quan điểm, nhưng tôi vẫn chưa có một chút ý niệm gì về Thiên Chúa, về một Đấng Tối Cao, hay về tôn giáo. Không có sự tin tưởng, không có đức tin, chỉ hoàn toàn thuần túy khoa học mà thôi.”

Quả vậy, lúc ấy có lẽ Bernard đã tự coi mình là một người vô thần. Tuy nhiên, trong thập niên 1980, Bernard đã trở thành một tiếng nói mạnh mẽ trong hoạt động bảo vệ sự sống, pro-life. Ông đã làm hai cuốn phim nổi tiếng, “The Silent Scream và Eclipse of Reason” – “Tiếng kêu thét thinh lặng và Bóng tối của Lý Trí”. Ông vẫn cảm thấy còn vướng mắc một điều gì đó. Ông không có sự bình an trong tâm hồn. (Với 75,000 oan hồn đang treo lơ lửng trên đầu bạn thì làm sao có sự bình an cho được!) Đây là lời tự thú của ông: “Tôi cảm thấy chán nản ngã lòng không thể tả được. Tôi không thể làm việc được. Tôi rất là bối rối về điều tôi đã làm trong cuộc đời. Lại thêm một hôn nhân khác tan vỡ làm đứa con trai tôi bị bấn loạn. Càng ngày tôi càng già, và khi tôi nhìn lại cuộc đời của mình thì tất cả những gì tôi có thể thấy đó là “cái gói hành lý” của 75,000 sinh mạng thơ ngây bé nhỏ đã bị phá hủy, và một phần quan trọng cuộc đời của những người lớn mà tôi đã gây thiệt hại cho họ… Những ngày này tinh thần tôi sa sút tới tận cùng… và tôi đã nghĩ đến việc tự vận. Tôi cảm thấy không còn lý do gì để sống nữa.”

Trước khi kết thúc câu chuyện này, chúng ta cần phải ngừng lại một chút và tự hỏi, “Phục Sinh – Easter, là gì?” Ngày nay có một số người chỉ nghĩ rằng Phục Sinh là mùa những bông hoa tulip, hoa lili nở. Hay là mùa những anh hề phát cho trẻ con những trái trứng sơn màu mè xanh đỏ tím vàng. Những người khác thì nghĩ rằng Phục Sinh chỉ là cái cớ để diện quần áo đẹp và quy tụ gia đình lại với nhau ăn nhậu một bữa cho sướng. Đây không phải là ý nghĩa của Phục Sinh!

Phục Sinh dành để cho những người như ông bác sĩ Bernard! Hay nói một cách khác, Phục Sinh dành cho những người biết thực sự họ cần ơn cứu rỗi. Phục Sinh dành cho những người khiêm nhường, và thành tâm chấp nhận, như lời Chúa Giêsu đã nói trong Gioan 12: 32, “Khi nào được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta.” Đó là điều đã xảy ra vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh: Chúa Giêsu đã kéo tất cả mọi người, và tội lỗi của họ về cho Ngài, luôn cả Bernard và tội giết 75,000 người của ông. Chúa Giêsu đã cứu chuộc cho tất cả tội lỗi đó, và cho mọi người trên cây Thập Giá. Và Ngài đã sống lại từ cõi chết, ba ngày sau đó, để chúng ta có thể chỗi dậy từ cõi chết với Ngài (Rm 6:3), cũng như Bernard có thể chỗi dậy từ tình trạng chết chóc tinh thần mà ông ta đang sống trong đó. Đó là ý nghĩa của Phục Sinh. Đó là món quà của sự sống đã chỗi dậy trong Chúa Kitô. Đời sống đó chúng ta đã lãnh nhận, trước hết, trong bí tích Rửa Tội, và sau này, trong bí tích Hòa Giải. Đó là đời sống mà Bernard cũng như mọi người cần đến, bởi vì nó dẫn đưa chúng ta vào thiên đàng sau cái chết của thể xác này (Rm 8:11).

Để kết luận câu chuyện của Bernard, hãy nghe chính ông tâm sự: “Khoảng cuối thập niên 1980, tôi cảm thấy không còn lý do gì để tiếp tục sống như vậy được nữa, nhưng cần phải được giải thoát. Người đã cứu tôi là linh mục John McCloskey, ngài đã nghe biết về trường hợp của tôi và ngài đã bắt đầu câu chuyện với tôi. Trước hết chỉ là cuộc đàm thoại chung chung, nhưng dần dần chúng tôi đã đi vào những vấn đề chính. Và tôi bắt đầu nghĩ rằng con đường mà tôi đã chọn, đó là tự khinh bỉ chính bản thân mình, thì không xây dựng tích cực lắm. Đã có sự hy vọng được tìm thấy… sự hy vọng vào ơn cứu rỗi, vào sự thanh tẩy tội lỗi, vào sự trút bỏ đi cái “hành lý nặng nề không thể dung tha được”.

Trước hết, cha McCloskey tặng cho tôi mấy cuốn sách để đọc. Ngài biết rằng đối với tôi phải qua lãnh vực tri thức trước, rồi sau đó mới chinh phục con tim. Và với tài năng và sự chính xác không sai lầm của một nhà phẫu thuật về tim mạch, ngài biết rõ cách thế đến với tôi. Dần dần, tôi càng bị thu hút, rồi dự các buổi cấm phòng. Tôi vẫn không ý thức rằng mình là người Do Thái. Tôi đã xin sự hướng dẫn soi đường của các rabbis trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng sự trả lời của họ không thích đáng. Họ đã không giúp tôi thực sự hy vọng vào sự thanh tẩy, cứu chuộc và trút đổ “cái gói hành lý” đi. Do đó, dần dần tôi hiểu rằng sự hy vọng duy nhất của tôi vào ơn cứu độ là trong sự bình an của Chúa Kitô! Đến bây giờ tôi đang đứng ở trước quý vị như một người tín hữu Kitô Giáo. Tôi đã được sinh lại, sống lại, đổi mới lại, và sau cùng hôm nay tôi đã tìm thấy sự bình an. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi rất vui với cái mà tôi có, với cái mà tôi tin vào. Quí vị đã biết tất cả điều này. Tôi đã học được một điều rằng: tôi không thể kiểm soát được cuộc đời của tôi. Nó nằm trong bàn tay của Thiên Chúa.”

Năm 1996, tại nhà thờ chánh tòa St. Patrick của thành phố New York, bác sĩ Bernard Nathanson đã chịu phép rửa tội, gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Bernard đã được tha thứ tất cả những tội lỗi ông đã phạm. Ông đã trở thành một tạo vật mới, hoàn toàn mới trong Đức Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 5:17). Đây là sức mạnh của sự Sống Lại. Đây là sức mạnh của Phục Sinh. Ước gì mỗi người chúng ta cũng kinh nghiệm được điều này cho chính bản thân mình.

Về mục lục

.

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT

Lm. Đinh Lập Liễm

Thành Công Và Thất Bại

Nhìn vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần Thánh vừa qua.

Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục: “Nước dưới sông có khi trong khi đục, Trang anh hùng có khi nhục khi vinh (Tục ngữ).

Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời. ”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy“ mà hành động thì mới mong thành đạt. Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: ”Thất bại là mẹ thành công.” Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.

Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: ”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người…, anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa.”

Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao quí của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd, trang 27).

Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói: ”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không.” Ông Henry Ford cũng khuyên: ”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn.”

Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.

Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái.” Tiến là đi lên; thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được; lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật. Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: ”Một ngàn việc tiến, Chín trăm chín mươi chín việc lùi, đó là TIẾN BỘ” (Henri Frédéric AMIEL).

Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại (Mt 16:21; 17:22-23; 20:17-19). Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày (Mt 12:40) và việc xây đền thờ Giêrusalem trong ba ngày (Jn 2:19) đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại (Rm 1:4; 6:9-10; I Cor 15:4, 20).

Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu (Act 10:40-42).

Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin (Jn 20:29).

Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: ”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa” (Mt 28:6). Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta (Rm 8:11; 6:9-11;I Pet 3:18). Chúng ta tin chắc như vậy! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem!

Chúng ta đã có một gương xán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại (Gal 3:13; Rm 4:24-25). Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta (I Cor 15:54-56; Hr 2:14-15). Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói: ”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được.” Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết.” Nhưng nghịch lý thay! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất.” Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được.” Một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được.” Ví dụ: Thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá; ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị Thánh Lập Dòng (Cf Carôlô).

Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết.” Chết và sống không phải là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.

Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: ”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai” (Jn 3:14; 8:28) Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng (Gen 3:5, 23).

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu: ”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn.”

Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây: Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm: “Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó. Dòng suối giận dữ: “Nhưng ta có phải là gió đâu?” Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn: “Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.” Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng: “Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.” Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh: “Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.” Tiếng nói thì thầm giải thích: “Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc: “Vẫn một dòng suối như cũ ư?” Giọng nói giải thích: “Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi. Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97).

Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kết quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.

Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá, con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán: ”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mk 8:34). Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa: ”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,62).

Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy (Mt 6:34). Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.”

Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng (II Tm 4:6-8; Rev 2:26-29). Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách (II Cor 1:3-6). Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.

Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Do Thái sau đây: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta” (Hr 12:5-10).

Về mục lục

.

NIỀM VUI PHỤC SINH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.

Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.

Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…

Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.

Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Sách Công vụ kể lại rằng: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (CVTĐ 2,42); “Các tín hữu bấy giờ gia tăng đông đảo, một lòng một ý với nhau, cùng làm chứng cho việc Chúa sống lại, sống chia sẻ, bác ái, và trong cộng đoàn không còn ai phải thiếu thốn” (CVTĐ 4,32-35). Đó là những công việc mà Giáo hội sơ khai đã làm để minh chứng cho niềm tin của mình. Sống niềm vui Phục Sinh bằng đời sống phục vụ và thực thi bác ái là lời chứng mạnh mẽ nhất về niềm tin Phục Sinh của Giáo hội và của chúng ta hôm nay.

Xin cho mỗi người Kitô hữu trở thành sứ giả đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người, biết sống niềm vui Phục Sinh trong mọi mối tương quan, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.

Về mục lục

.

SÓNG TRIỀU

Lm Vũdình Tường

Sóng triều diễn tả làn sóng tiếp theo làn sóng, không ngừng, sóng trước đổ, sóng sau đứng thẳng xô tới rồi cứ thế tiếp tục, sóng này đổ ập xuống sóng kia tiến lên thế chỗ. Cái chết của Đức Kitô làm cho nhóm lãnh đạo đền thờ thở phào nhẹ nhõm. Họ kinh ngạc về giáo huấn canh tân của Đức Kitô và ngày đêm lo lắng về lòng xót thương Đức Kitô dành cho đám đông. Họ bối rối không biết làm sao chặn đứng làn sóng người theo Đức Kitô như sóng triều. Năm bảy lần họ gài bẫy mong tìm kẽ hở bắt chẹt Ngài trước đám đông nhưng càng gài bẫy càng thua đặm. Họ biết với sức mạnh của lãnh đạo Đền Thờ họ không thể làm hại Đức Kitô nên họ cấu kết với ngoại bang làm công việc triệt hạ Đức Kitô. Họ phịa ra những bằng chứng giả, nhân chứng gian, tố cáo Đức Kitô đội lốt tôn giáo làm chính trị; lợi dụng lòng tin dân chúng làm thế đứng củng cố chính trị, hầu mong lật đổ nhà cầm quyền. Với những cáo buộc vô bằng chứng, nhà cầm quyền không trực tiếp ra tay cộng tác nhưng ngoảnh mặt làm ngơ cho họ tuỳ tiện ra tay.

Họ kết án Đức Kitô ngay trong đêm bắt Ngài và mau chóng đưa ra án tử hình. Một bản án hết sức dã man, đau đớn tột cùng, để đau khổ thấm tận tim gan, chết một cách chậm chạp- đóng đinh trên thập tự. Bản án phải thi hành ngay tức khắc mà không cho thời gian kháng án hay trưng bày thêm bằng chứng. Nắm chắc trong tay họ tiêu diệt được kẻ họ căm ghét khi thấy Đức Kitô tắt thở trên thập tự. Niềm vui của họ không lâu quá ba ngày khi mà các tình báo Đền Thờ liên tục đưa tin làm cho họ bối rối, lo lắng đến uống nước mắc nghẹn, ăn không xuôi. Tin Đức Kitô các ông đóng đinh nay đã sống lại và hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi khác nhau đến dồn dập như nước triều dâng. Trước tin giật gân, sét đánh mang tai đó họ đâu còn thời giờ chuẩn bị vì thế họ dùng tiền trước đây thâu được trong Đền Thờ nhờ độc quyền đánh thuế mang ra bịt miệng những người đưa tin. Lãnh đạo Đền Thờ không những chính họ đã dối trá mà còn dậy người khác nói dối nữa. Tội sinh ra tội, của cải trần gian thu vén từng xu lẻ; khi đi chúng túa ra đồng bạc chẵn. Đức Kitô sống lại từ cõi chết cho biết dụ ngôn hạt lúa mì rơi xuống đất thối nát đi nó sẽ sinh nhiều hoa trái.

Đức Kitô sống lại ban sức mạnh cho các tông đồ. Các ông từng trốn chui, trốn nhủi giờ bung ra ánh sáng, từng sợ chết nay vui mừng chịu chết, từng sợ roi đòn nay hãnh diện vì được đau khổ cùng Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh làm cho các tông đồ trở thành con người mới. Các ông vui mừng rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh và số người tin theo từng đoàn, từng lớp tiếp theo nhau tin vào Đức Kitô. Lãnh đạo Đền Thờ giết một Đức Kitô bây giờ có hàng ngàn lớp người trở thành Kitô hữu, càng bách hại số người tin theo càng đông. Ai có thể đoán nổi giọt máu bầm tím rơi xuống chân thập tự lại trở thành hạt giống Phục Sinh, mỗi giọt lại trổ sinh bông trái rũ cành. Tất cả đều đứng thẳng, hiên ngang và sẵn sàng hiến thân phục vụ dưới bóng cờ Kitô Phục Sinh. Quả là ngoài sức tưởng tượng của muôn người. Điều này diễn ra khắp các nẻo đường trên toàn thế giới và sức mạnh Phục Sinh lan toả từ đời nọ nối tiếp đời kia như những làn sóng không sức mạnh nào chặn đứng được. Ngọn lửa yêu mến Đức Kitô Phục Sinh nếu bị bách hại, ngọn lửa đó ngầm cháy trong tim óc Kitô Hữu và chờ cơ hội thuận tiện sẽ bừng sáng lên, như hạt lúa nằm sâu trong lòng đất chờ điều hiện khí hậu tốt lành vùng lên cây mạ mới. Điều này ứng nghiệm hơn hai ngàn năm qua với biết bao thăng trầm. Vì thế bất cứ ai có í định bách hại Kitô hữu bằng cách này hay cách khác đều sống thiếu thực tế bởi Kitô giáo tồn tại qua bao bách hại có sách lược chủ trương nhưng tất cả đều đầu hàng vì số người tin theo lúc tăng lúc giảm nhưng không bao giờ đầu hàng trước sức mạnh trần thế.

Kitô hữu từ hơn hai ngàn năm qua cho biết sức mạnh Phục Sinh của Đức Kitô mạnh hơn sự chết. Bách hại Kitô hữu chính là giúp họ đi con đường tắt mau đến gần Đức Kitô Phục Sinh hơn. Chết chỉ là con đường dẫn vào chốn trường sinh mau hơn, nơi đó không còn đau thương, than khóc nhưng tràn đầy tình yêu Chúa. Môn đệ Đức Kitô là chứng nhân mãnh liệt cho niềm tin này bởi chính tai họ nghe Đức Kitô nói về sự chết và sự sống lại và Ngài hứa sẽ cùng đồng hành với họ trong mọi hoàn cảnh cho đến tận cùng trái đất. Trước đây họ không hiểu điều này nhưng sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ không những đã hiểu và còn tin một cách mãnh liệt bởi chính sự sống lại của Đức Kitô là bằng chứng cho lời Ngài hứa với các ông. Đức Kitô đã hiện ra với các ông, chính các ông đã đàm đạo với Ngài, dùng bữa với Ngài và cùng đồng hành với Ngài trên đường đi. Ngài hứa ở cùng các ông và còn ban thêm Thánh Thần Chúa hướng dẫn, bảo trợ, bao bọc, che chở trong hành trình làm chứng nhân Kitô.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI NHƯ LỜI KINH THÁNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ” (Mt 28,1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.

Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc “lính canh khiếp đảm” (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an : “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói” (Mt 28,5-6).

Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước

Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong“(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông  tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.

Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?

Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời

Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin : “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.

Sống Tin Mừng Phục Sinh

Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).

Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy.  Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !

Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).

Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.

Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).

Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT PHỤC SINH

 Lm. Anthony Trung Thành

Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước Ngài sẽ chịu chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Ngài còn dùng sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem trong ba ngày để nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực.

Trước hết, lời chứng của Thánh Phêrô trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ. Sau khi cho biết, Đức Giêsu đã chịu phép rửa bởi Thánh Gioan, được Thánh Thần xức dầu tấn phong, đi khắp nơi rao giảng, làm nhiều phép lạ, bị giết treo trên thập giá, thì Thánh Phêrô khẳng định rằng“ngày thứ ba Ngài đã sống lại.”Thật vậy, Thánh Phêrô khẳng định: “…Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết.” (Cv 10, 40-42). Các động từ như “hiện ra”, “ăn uống với các tông đồ” và “truyền cho các ông đi rao giảng” được Thánh Phêrô dùng để diễn tả hành động của Đức Giêsu sau khi sống lại. Thật vậy, chỉ có con người sống mới “hiện ra”, “ăn uống” và “truyền”, chứ người chết không bao giờ làm được như vậy.

Thứ đến, lời chứng của Thánh Gioan trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe:Ngài nhắc đến người phụ nữ được Chúa trừ khỏi bảy quỷ, có tên là MariaMađalêna. Sau khi táng xác Chúa trở về, bà nóng lòng chờ cho đến sáng để đi ra mồ viếng Chúa. Thế rồi, khi trời còn tờ mờ sáng, bà đã đi ra mồ Chúa. Khi đến nơi, trông thấy ngôi mồ trống, không thấy xác thầy đâu, bà liền chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết. Nghe thế, ông Phêrô và ông Gioan vội vàng chạy ra mồ. Đúng như bà Maria Mađalêna báo, hai ông không thấy xác Thầy đâu. Nhưng hai ông thấy “những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.”(Ga 20,6-7) Tin mừng cho biết về phản ứng của Thánh Gioan: “ông đã thấy và ông đã tin”. Tin mừng không cho biết phản ứng của Phêrô nhưng chắc chắn Phêrô cũng xác tín như Gioan, vì khi chứng kiến những sự việc trên ông không hoảng hốt nhưng rất bình tĩnh. Thực ra, ngôi mồ trống cũng không thể chứng minh được sự kiện Chúa sống lại nếu không có những bằng chứng khác. Vì thế, những người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng có ai đó đã lấy trộm xác Đức Giêsu.Chỉ có những người thân tín với Đức Giêsu mới có thể tin Ngài sống lại từ ngôi mồ trống. Vì từ ngôi mồ trống các ông đã nối kết với lời tiên báo của Đức Giêsu trong Kinh Thánh:“Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 9,22)

Như vậy, từ những bằng chứng trên đây, chúng ta xác tín sâu xa rằng, Đức Giêsu đã sống lại. Đó là đức tin làm nền tảng cho mọi hoạt động của chúng ta. Nói như Thánh Phaolô: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.”(1Cr 15,14).

 Khi xác tín vào sự sống lại của Đức Giêsu, chúng ta cần phải làm gì?

Trước hết, chúng ta phải sống mầu nhiệm đau khổ vì phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Chính Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh. Ngài mời gọi mọi người rằng:“Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”(Mt 16,24). Nơi khác Ngài nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được  nhiều hạt khác.” (Ga 12,24). Ngài còn nói thêm: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12,25). Vì thế, khi chúng ta từ bỏ mình, vác thập giá, chết đi cho tội lỗi, liều mất mạng sống mình ở đời này…thì chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Đức Kitô.

Thứ đến, chúng ta hãy sống niềm tin vào Mầu nhiệm Phục sinh. Vì khi tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu và sự sống đời đời sẽ giúp chúng ta có động lực phấn đấu và vượt qua những rào cản trong cuộc sống đời này để được hạnh phúc đời sau. Trong bài đọc II hôm nay, trích thơ gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô mời gọi chúng ta là những người đã chịu phép Rửa tội, đã được tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”(Cl 3,1-2).Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới chính là biết: tìm kiếm Chúa, yêu mến Chúa, yêu thương anh em như chính mình. Đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới chính là biết: tránh xa tội lỗi, tránh xa sự cám dỗ của ma quỷ, sự lôi kéo của thế gian và xác thịt.

Thứ ba, chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin mừng phục sinh cho những người khác. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, nhờ bà MariaMađalêna báo tin mà các Tông đồ mới biết Đức Kitô phục sinh. Tiếp đến, các Tông đồ đã loan báo Tin mừngPhục sinh cho những người Do thái. Cứ như thế, nhờ các Tông đồ, các nhà truyền giáo và Giáo hội chúng ta mới nhận được Tin mừng Phục sinh như hôm nay. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải loan báo Tin mừng Phục sinh cho những người khác. Chúng ta có thể loan báo Tin mừng Phục sinh bằng lời nói, bằng chứng tá đời sống, thậm chí bằng cả chính cái chết của mình.

Nguyện xin Đức Kitô Phục sinh giúp chúng ta có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh của Ngài, để từ đó chúng ta biết sống Mầu nhiệm Phục sinh và loan báo cho những người xung quanh. Amen.

Về mục lục

.

CHẾT KHÔNG CÒN ĐÁNG SỢ

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói: “sự chết là con lạc đà đen quỳ đợi ngay trước cổng nhà của tất cả mọi người”. Không ai tránh khỏi cái chết, không ai không nghĩ đến nó và dường như ai cũng lo lắng về sự chết đến với bản thân.

Cái chết là kết thúc một kiếp người. Cái chết khép lại công danh của một đời người. Cái chết là đáp số cuối cùng của đời người. Điều đáng buồn là đời người sao ngắn ngủi và chóng qua như nhà thơ Tản Đà đã ngao ngán nói rằng:

“Hoa ơi! hoa hỡi hoa hời!
Đang ở trên cành bỗng chốc rơi
Nhị mềm cánh úa
Hương nhạt màu phai
Sống chữa bao lâu đã hết đời”

Nghĩ về cuộc đời mau qua nên thi nhân Cao Bá Quát đã ngao ngán thốt lên:

“… Ba vạn sáu ngàn ngàn là mấy
Cõi phù du trông thấy cũng nực cười…”

Điều quan trọng là chết rồi đi đâu. Chết có phải là hết hay vẫn tiếp diễn trong sự sống khác. Nếu chết là hết thì cuộc sống trần gian này là một phi lý, một bất công với những người sống ngay lành. Nếu chết là hết thì trần gian là một ác mộng của kiếp người chúng ta.

Có một câu chuyện dụ ngôn kể rằng: Dưới đáy một hồ sâu, giữa vũng nước đục và bùn đen có mấy con ấu trùng bàn bạc với nhau. Chúng băn khoăn tự hỏi tại sao trong bọn chúng không có một ai leo dọc thân cây sen lên trên mặt nước đều không bao giờ trở lại nữa và tất cả chúng đều đồng ý với nhau là rồi đây ai trong bọn chúng trèo lên trên mặt nước trước sẽ trở lại để kể cho những ai còn ở lại biết được trên mặt nước có gì.

Ít hôm sau, một con ấu trùng cảm thấy như có một động lực thúc đẩy, nó bắt đầu trèo lên cây sen với hi vọng cuộc mạo hiểm ly kỳ trên mặt nước. Nó nghĩ bụng, phen này nó sẽ giữ lời hứa, là sẽ trở lại kể cho chúng bạn nghe những gì nó trông thấy, những gì sẽ xẩy ra đến với nó trên mặt nước.

Vừa ló đầu khỏi mặt nước, mắt nó liền hoa lên vì những sự ngạc nhiên mới lạ. Trước hết là ánh sáng của mặt trời và hơi ấm của khí, trong khi ở dưới bị chìm ngập trong cảnh đen tối thất vọng vì không bao giờ trông thấy ánh sáng. Chẳng mấy chốc, nó thấy có cái gì lạ đang chuyển vận trong cơ thể, hình như nó đang thay hình đổi dạng, và từ trên thân thể mềm nhũn của con ấu trùng nó bắt đầu trở nên cứng cáp hơn. Chỉ trong chốc lát, từ cái vỏ của con ấu trùng nó đã bay ra thành con chuồn chuồn với bộ lông cánh màu đẹp như thế, nó cứ yên trí nghĩ rằng, suốt đời nó mãi mãi sẽ là con ấu trùng như tất cả những con ấu trùng khác, kế đó nó bắt đầu vươn vai giang cánh với chiếc bay đầu tiên, nó bay qua lượn lại trong không gian với tất cả niềm ao ước sẽ trở xuống đáy hồ để kể cho chúng bạn nghe bao nhiêu điều kỳ lạ.

Từ trên mặt nước trong suốt, nó nhìn rõ dưới đáy hồ và trông thấy chúng bạn, nhưng chúng bạn lại không nhìn thấy nó, một lúc sau nó hiểu ra rằng: tìm cách trở lại dưới đáy hồ là công dã tràng, vì cho dù nó có trở xuống, nhưng với đôi cánh của nó thì chúng bạn sẽ không thể nào nhận ra nó vì nó đã được hoàn toàn biến đổi, hoàn toàn thay đổi hình dạng, nó đã trở thành một tạo vật mới như chưa từng nghĩ ra trước đó.

Kinh thưa quý OBACE,

Đời sống con người quả là một cuộc hành trình, bắt đầu từ cung lòng sự sống rồi bước qua trong lòng sự sống để sau cùng tiến tới sự sống đời đời của sự sống thật. Giữa ba giai đoạn cuộc hành trình, sự sống này có một hố sâu cách biệt thật khó hiểu, không ai có thể dò thấu hết được và cũng không ai một khi đã bước qua rồi còn có thể quay đầu trở lại. 

Tuy nhiên, Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã qua sự chết một lần và đã toàn thắng sự chết. Ngài đã sống lại khải hoàn để phục hồi sự sống cho toàn thể nhân loại. Nhờ mầu nhiệm thập giá và vượt qua, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và của sự chết. Vì thế, mầu nhiệm sự chết và sống lại của con người chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của biến cố lịch sử và trong mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu. 

Trong niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, cái chết của con người không phải là chấm dứt, là hết. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu tan trong cõi hư vô, nhưng để được sống đời đời. Đó là niềm hy vọng vững chắc của lòng tin Kitô vào biến cố phục sinh khải hoàn của Chúa Giêsu là bảo chứng chắc chắn nhất về tình liên đới.
Xin Chúa nhóm lên trong chúng ta niềm tin và kiên cường lòng cậy trông để vững bước trên mọi nẻo đường con đi. 
Xin Chúa giúp chúng ta luôn vững lòng tiến bước với niềm cậy trông vững vàng, vì Chúa đã phục sinh khải hoàn và là nguồn sự thật của sự sống vĩnh cửu. 

Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TIN TA

Lm. Jos. DĐH.

Nếu hỏi em bé, tại sao con khóc ? có thể nó sẽ nói tại ba con la mắng con, tại má con không thương con, tại anh chị con không chơi với con. Nếu hỏi một người trưởng thành, tại sao bạn khóc ? chúng ta sẽ có câu trả lời, vì tôi buồn. Gợi lên như thế để thấy, khóc cười đều có nguyên nhân, vui buồn đều có lý do. Quy luật tự nhiên, có bỏ tiền của đầu tư, mới có hy vọng để chờ đón kết quả lợi nhuận ; ai chăm sóc yêu thương con cháu nhiều, càng có cơ hội thấy con cái nên người hữu ích cho gia đình xã hội. Quan tâm thương yêu anh chị em mình đó là điều chúng ta được giáo dục từ nhỏ, nhưng chúng ta không có quyền bắt người khác phải cười, trong khi họ đau khổ, có chuyện buồn. Vào kỷ nguyên đầu, Đức Giêsu đã thức tỉnh các học trò, người thân phải vui mừng sung sướng thay cho nỗi buồn, họ khóc trong hạnh phúc khi hay tin Chúa phục sinh.

Hãy tin Ta, đó có phải thao thức của Chúa Giêsu khi đối diện với đau khổ thập giá, nhưng Ngài không hề kêu than oán trách con người ác tâm ác đức ? Chúa Giêsu chịu đóng đinh thập giá để Ngài biến đau khổ thập giá nên “Thánh Giá” cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Chúa Giêsu chết vì yêu, và Ngài sống lại cũng vì yêu, mặc dù sống lại từ cõi chết khó hiểu hoặc chúng ta chưa có khái niệm. Có những sự thật khiến lòng ta đau như cắt, nhưng cha ông chúng ta có câu: đừng ngồi đó mà tiếc xót ly sữa đã đổ, dĩ nhiên hư hỏng, sai đúng, cần phải khắc phục. Hình ảnh Madalena thẫn thờ vì buồn, hay vì yêu, khi bà ra mồ từ sáng sớm có thể mọi người không quan tâm, nhưng lời khẩn báo “ngôi mộ trống”, thật vô cùng quan trọng đối với Phêrô, Gioan, và cả chúng ta trong hiện tai.

Tâm trạng buồn thì khóc, vui thì cười, đau khổ thì than van, trông thấy “mộ trống”, Madalena chỉ nghĩ là người ta lấy trộm xác Chúa, không biết họ để xác Thầy ở đâu ! Phản ứng của Phêrô, Gioan, nghe tin “người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ”, các ông mạnh ai nấy chạy, thiện cảm một chút thì nghĩ đó là những con người đơn sơ chân thành. Trong khi lời mời gọi hãy nhớ lời Ta, hãy tin Ta, ít là trong bữa tiệc cuối cùng, lẽ nào các ông đã quên, xem ra biến cố mất mát to lớn quá, các môn đệ chưa thể hoàn hồn ! Hãy tin Ta, lời mời gọi ấy “Đấng phục sinh” đang thôi thúc mau suy xét, vì tâm hồn chúng ta đầy khiếm khuyết, bất xứng, rất cần được ơn đức tin biến đổi nên môn đệ của Chúa.

Nếu thiếu niềm tin, thiếu tình yêu, người ta cứ bù lu bù loa, giam hãm mình trong bóng tối sợ hãi, có thể còn lâu lắm chúng ta mới cùng các môn đệ phát hiện ra dấu chỉ “ngôi mộ trống”. Nếu chỉ lý sự, chết là hết, Đức Giêsu không xuống khỏi cây thập giá, Chúa Cha không thực hiện phép lạ, hẳn lời mời gọi hãy theo Ta thật là vô nghĩa, con người sẽ ở mãi trong tối tăm sự chết mà thôi. Có thể chúng ta thường hay mạnh miệng giống Phêrô: con sẽ liều mạng vì Thầy, hoặc chúng ta cùng đi Giê-ru-sa-lem để chịu chết với Thầy. Nhưng chỉ khi nào đối mặt giữa sợ hãi, bắt bớ, tù đày, nguy  hiểm đến tính mạng, người ta mới hiểu tại sao Phêrô lại dễ chối Chúa như thế. Thực ra, Chúa phục sinh chỉ cần mỗi khi gặp đau khổ, cám dỗ, đừng tuyệt vọng, hãy tiếp tục kiên nhẫn cầu nguyện, khiêm tốn và cậy trông vào sức mạnh Chúa nhiều hơn.

Câu chuyện người chết sống lại có thể sẽ từ từ phai nhạt đi với thời gian, nguy hiểm hơn đối với những ai theo Chúa cách hời hợt, vui thì tìm Chúa, gặp khó khăn thì né Chúa, xa xa Chúa ! Tình yêu lớn lên nhờ được nuôi và dưỡng, người ta thắng được đói nghèo nhờ chăm chỉ làm việc, thắng được cám dỗ là nhờ ơn ban, nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện. Hãy tin Ta có thể vẫn trừu tượng, bao lâu chúng ta còn lầm tưởng tôi khoẻ mạnh, tôi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn tiền nhân của tôi. Câu chuyện Đấng phục sinh sẽ làm chúng ta mất cảnh giác, khi chúng ta nghĩ rằng Chúa chết vì yêu thương, Chúa sẽ sống lại vì yêu thương để cứu nhân loại tội lỗi chúng ta. Vì tình yêu thương, Chúa mời gọi hãy theo Ta, hãy đi con đường của Chúa, là con đường vác thập giá hàng ngày để đến đỉnh hạnh phúc vinh quang. Amen.

Về mục lục

.

RAO GIẢNG TIN MỪNG CHÚA PHỤC SINH

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 10:34a, 37-43;  Cl 3:1-4;  Ga 20:1-9)

          Trong bài Giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô ngày 28 tháng 3 năm 2018 về Tam nhật thánh, ngài nói rằng lễ Phục Sinh không kết thúc sau những lễ lạc, nhưng là khởi đầu cho cuộc hành trình của sứ vụ loan báo Đức Ki-tô đã sống lại.  Đúng vậy, phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta việc loan báo ấy.  Việc loan báo hoặc rao giảng tin vui Chúa Ki-tô đã sống lại được thực hiện do các môn đệ Chúa như bà Ma-ri-a Mác-đa-la và tông đồ Phê-rô.  Tuy nhiên mỗi Ki-tô hữu chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào việc loan báo ấy, cụ thể bằng chính lối sống của chúng ta.

          Loan báo Chúa sống lại cũng có nghĩa là làm chứng rằng Người đã sống lại từ kẻ chết.  Trước hết chúng ta hãy xem bà Ma-ri-a Mác-đa-la loan báo thế nào về sự kiện Chúa Ki-tô đã sống lại.  Bà Ma-ri-a là người đầu tiên đã gặp Chúa Phục Sinh.  Sau khi đi ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm, bà khám phá ra ngôi mộ trống nên vội vàng chạy về báo cho các tông đồ Chúa biết rằng có lẽ người nào đó đã lấy trộm xác Chúa rồi.  Thế là ông Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu mến mau lẹ chạy ra mộ.  Hai ông đã tận mắt thấy những vật chứng như dây băng vải, khăn liệm che đầu mà không thấy thi hài Chúa đâu cả, chứng tỏ có điều bất thường xảy ra.  Riêng người môn đệ được Chúa yêu mến đã hiểu ngay được ý nghĩa những vật chứng ấy nên ông đã tin, tin rằng Chúa đã sống lại rồi.

          Nếu đọc đoạn tiếp theo bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ biết được cuộc gặp gỡ giữa Chúa Phục Sinh với bà Ma-ri-a Mác-đa-la xảy ra như thế nào.  Sau khi báo tin cho ông Phê-rô và người môn đệ khác về ngôi mộ trống, bà Ma-ri-a trở lại mộ Chúa để than khóc.  Đang lúc bà đau đớn than khóc, Chúa Phục Sinh đã hiện ra với bà, gọi tên bà để giúp bà nhận ra Người.  Lúc trước, khi báo tin cho các môn đệ Chúa, bà chỉ đoán là “người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi”.  Bà chưa biết được là Chúa đã sống lại.  Nhưng sau khi quay lại mộ và được gặp Chúa, bà tin là Người đã sống lại thật.  Chắc chắn qua cuộc gặp gỡ này, bà đã trở thành một chứng nhân của sự Phục Sinh và loan báo Tin Mừng này bằng mọi khả năng của bà.  Để khẳng định sứ vụ của bà Ma-ri-a là loan báo Chúa Giê-su đã sống lại, mới đây Giáo Hội đã nâng lễ mừng thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la từ lễ nhớ lên thành lễ kính thánh tông đồ, giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của việc bà làm chứng Chúa sống lại không khác gì các tông đồ.       Riêng đối với thánh Phê-rô, những lần Chúa hiện ra sau khi Người sống lại đã củng cố đức tin của ngài và của anh em tông đồ, giúp ngài trở thành một người nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh, như bài đọc trích sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay thuật lại.  Rao giảng cho gia đình ông Cô-nê-li-ô, thánh Phê-rô đã trình bày Tin Mừng dưới hình thức một bài giáo lý ngắn gọn về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su, mà cao điểm là việc Chúa đã sống lại và Chúa truyền cho ông cũng như các tông đồ phải rao giảng và làm chứng cho Người.  Truyền thống còn kể lại cho chúng ta biết rằng thánh Phê-rô đã hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến độ sẵn sàng chấp nhận cái chết tử đạo, xin được đóng đinh ngược đầu xuống, vì ngài nghĩ mình không xứng đáng bị đóng đinh giống như Chúa!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi:  thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la và thánh tông đồ Phê-rô đã loan báo Tin Mừng Chúa sống lại vì các ngài đã đích thân gặp gỡ Chúa Giê-su Phục Sinh, còn chúng tôi là những người hiện đang sống ở đây và lúc này thì phải loan báo như thế nào?  Thánh Phao-lô trả lời chúng ta:  “Nếu anh em đã sống lại với Đức Ki-tô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Ki-tô ngự bên hữu Thiên Chúa”.  Mà muốn tìm những sự trên trời tức là phúc thiên đàng, thì ta phải “nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”.  Đúng vậy, nghĩ đến những sự trên trời phải là lối sống của ta, một lối sống không để cho mình bị ràng buộc do những thứ chóng qua đời này.  Tiền bạc, danh vọng, thậm chí cả đến đau khổ buồn phiền cũng đều là những gì chóng qua và ta không thể mang theo sau khi chết.  Chúng ta “tìm những sự trên trời” thế nào?  Bằng cách kết hiệp với Chúa Giê-su và các anh chị em trong Giáo Hội của Người qua phụng vụ, cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích.  Đó chính là các kho tàng chứa đựng những gì giúp ta “nếm trước” được hạnh phúc thiên đàng.  Có lẽ chúng ta không có dịp đi rao giảng giống như thánh Phê-rô rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho gia đình ông Cô-nê-li-ô tại Gia-phô, nhưng chắc chắn ta có thể rao giảng bằng chính đời sống của ta tại những “Gia-phô” là gia đình, sở làm và bất cứ nơi nào chúng ta tới!

Về mục lục

.

ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2.Ý CHÍNH:

Gio-an viết Tin mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

3.CHÚ THÍCH:

-C 1: +Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày: Ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay ngày của Chúa. +Sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +Ma-ri-a Mác-đa-la: Đây là Ma-ri-a quê tại Mác-đa-la. Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét. Bà này đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giê-su (x. Lc 8,2). Số 7 xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo và Kinh Thánh Tân Ước của Kitô giáo. Nó được coi là con số hoàn mỹ cả về số lượng lẫn tâm linh. Bà Ma-ri-a này là một trong những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).

-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô, là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Nên Ma-ri-a Mác-đa-la đã phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. +Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói chỉ có trong Tin mừng Gio-an. Một kiểu nói khiêm tốn: tác giả không muốn nhắc tên riêng của mình. +Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ nói theo suy luận tự nhiên khi nghĩ rằng có ai đó đã đến lấy xác Thầy và đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Ma-ri-a không đi một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).

-C 3-4: +Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ thông báo mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông này. +Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản vì ông còn trẻ nên khỏe hơn và cũng vì có lòng mến Thầy hơn.

-C 5-6: +Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +Nhưng không vào: Có thể Gio-an chờ để nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông đang bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ mở và mải suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô kịp chạy đến nơi. +Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô vốn tính quả quyết nên đã lập tức vào mộ khi vừa đến nơi.

-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ, các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại đi ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần sự giúp đỡ của người đời mới trỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ chẳng chịu mất nhiều thời giờ ngồi cởi các dây vải ra xếp gọn để vào một nơi rồi mới đem xác đi ! +Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy mồ trống, các khăn vải liệm xác và dây băng được cuộn lại để riêng một chỗ, thì hai ông nhớ lại những lời Thánh Kinh đã được ứng nghiệm và tin Đức Giê-su đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

4.CÂU HỎI: 1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật? 2) So sánh các lời tường thuật của bốn tác giả Tin mừng về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa có giống nhau không? 3) Bạn biết gì về bà Ma-ri-a Mác-đa-la? 4) Bà Ma-ri-a đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào? Tại sao? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin mầu nhiệm Thầy phục sinh không? 6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 8) Tại sao Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào mộ ngay? 9) Phê-rô và Gio-an cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vải và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh trước? 10) Do đâu mà hai ông Gio-an và Phê-rô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị kẻ gian lấy cắp như báo cáo của bà Ma-ri-a trước đó?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) THẾ GIỚI SẼ RA SAO NẾU KHÔNG CÒN ĐỨC TIN VÀO CHÚA?

 “THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI” là tựa đề của cuốn phim diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ học lừng danh, đã tổ chức một công cuộc khai quật mang tính khoa học ở thủ đô Giê-ru-sa-lem.

Ngọn đồi Golgotha đã được đào bới cẩn thận, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, rồi một ngày mọ nhà khảo cổ đã cho biết: “Tôi đã tìm thấy xác của ông Giê-su”. Rồi ông đã tổ chức cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao tháng ngày đào bới vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người khô đét, nhưng vẫn còn nhận ra tay chân bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm.

Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện phục sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn đây”.

Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm thấy xác ông Giê-su:

– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

– Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.

– Chuông các thánh đường im tiếng.

– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

– Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…

– Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong ngôi mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới này”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)

2) SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN NHỜ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:

Bà REGINA RILEY hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã bỏ rơi đức tin nhiều năm… Bỗng vào một buổi sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình khi thấy hai đứa con đi vào nhà thờ ngồi ở hàng ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào đã khiến các con trở về với Chúa như vậy. Đứa em đã mau mắn kể lại như sau:

Trong thời gian đi nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, chúng con thấy một cụ già không mang theo dù, người ướt sũng đang đội mưa bước đi với dáng điệu khập khiễng như sắp ngã quỵ.

Chúng con liền dừng lại và mời cụ lên xe. Sau đó cụ cho biết mình đang đi nhà thờ cách đó 5 cây số để dự lễ Chúa Nhật. Chúng con liền đưa cụ đến tận nhà thờ. Nhưng vì trời vẫn còn mưa nên hai anh em vào nhà thờ dự lễ vói ý định sẽ đưa cụ về nhà sau lễ. Lạ thay, sau khi được nghe Lời Chúa và bài giảng của vik linh mục, chúng con cảm thấy rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như đứa con được trở về sau nhiều ngày đi xa nhà.

Hai anh em trong câu chuyện trên đã một thời tin Chúa. Nhưng giông tố thời niên thiếu đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức tuổi ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện và loan báo một tin mừng bằng gương sáng đạo đức là quyết tâm đội mưa đi dự lễ Chúa Nhật. Điều này như lời Chúa nhắc bảo: “Thầy hẹn gặp hai con tại nhà thờ”. Nhờ được gặp Chúa mà đức tin của hai anh em đã sống lại.

3) VÌ THEO ĐẠO MÀ TÔI ĐÃ MẤT TẤT CẢ:

Trong một xưởng thợ, một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau nói lời khích bác chê bai Đạo Công Giáo. Họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người… Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã lên tiếng: “Phải, vì Đạo Chúa mà tôi đã bị mất tất cả!”

Mọi người đều hướng mắt nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: “Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán làng xóm, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê xa lánh. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi bao tâm địa xấu xa, các đam mê xấu khác nữa… Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến tổ ấm yêu đương trở thành hỏa ngục. Thì nay, mọi người trong gia đình tôi đã nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, do theo đạo mà tôi đã bị mất tất cả “.

Sau đó, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: “Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất đi những gì rồi. Vậy các bạn cũng hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan với các bạn rằng, các bạn sẽ không hối hận đâu”.

4) CHU TOÀN SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC:

Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Hội Thánh như sau:

Sau khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn của Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Chúa Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người gây ra?” Chúa Giê-su đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay cho tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại hỏi: “Thế thì Chúa đã làm gì để con cái loài người nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa Giê-su đáp: “Ta đã sai các môn đệ đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của con cái loài người, nên tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên không thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông xuôi thì sao? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.

3.SUY NIỆM:

Bằng lối văn súc tích Tin mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay như sau:

1) Lòng mến đã thúc bách Ma-ri-a Mác-đa-la mau mắn đi thăm mồ Chúa:

Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ Đức Giê-su ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mồ đã biến mất. Trước đó chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại để chứng kiến hai môn đệ an táng Thầy vào  chiều Thứ Sáu (x. Mt 27,61). Giờ đây lòng mến lại thôi thúc Ma-ri-a và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để xức trên xác Đức Giê-su (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a chẳng hề dám nghĩ là Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a lại quay ra mồ tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

2) Lòng mến đã làm cho môn đệ Gio-an nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất: Dám đi theo sau khi Thầy bị bắt và bị xét xử trước hai tòa án đạo đời; Dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trao phó Đức Ma-ri-a làm mẹ và đã đón Mẹ Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gio-an chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gio-an trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7).

3) Lòng mến là điều kiện để được Chúa trao quyền mục tử chăn dắt đoàn chiên:

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông tình nguyện bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và được đi theo chứng kiến cảnh Thầy hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su thường đến trọ tại nhà Si-mon Phê-rô mỗi khi đi ngang (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông cũng được Đức Giê-su trao sứ vụ củng cố đức tin cho anh em sau khi ăn năn trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù có nhiều khuyết điểm như: khuyên Thầy đừng chấp nhận đi con đường thập giá vào vinh quang nên đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người giáo huấn về thái độ kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc khi không muốn được Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn có lỗi khi quá tự tin vào sức riêng mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x Mt 26,69-75).

Nhưng Phê-rô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi “lưới bắt các linh hồn” (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như: có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Ông cũng hay bàn hỏi Thầy như phải tha thứ cho người khác đến mấy lần? (x Mt 18,21). Có lần ông đại diện anh em tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành theo Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông đã hành động bảo vệ Thầy bằng cách rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi Thầy bị bắt (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gio-an đi theo để biết diễn tiến về cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phê-rô cùng với Gio-an chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô và Gio-an đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Chúa Phục Sinh trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Thầy lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).

4) Giá trị của đức Tin và đức Mến trong cuộc sống của người tín hữu:

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, thành người đầu tiên đi ra thăm mồ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ vụ loan Tin mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước các anh em. Lòng mến Thầy làm cho Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông Phê-rô đã sớm ăn năn sám hối và đã được Thầy tín nhiệm trao cho sứ vụ làm đá tảng đức tin, bảo vệ nâng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên là Hội Thánh.

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hoặc hốt hoảng khi gặp phải đau khổ thất bại. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Ma-ri-a Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giê-su. Sự sống đã trỗi dậy từ sự chết. Ánh Sáng đã bừng lên từ trong bóng tối. Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin mừng Phục Sinh đã và sẽ được loan truyền đi khắp thế gian.

4.THẢO LUẬN: 1) Nơi Đức Giê-su: sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn trỗi dậy?

5.NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời con mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm cho con luôn vững tâm giữa bao sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt con luôn rạng rỡ.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con luôn mau mắn trỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần luôn tác động đổi mới đời con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT PHỤC SINH_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta hân hoan vui mừng và long trọng cử hành mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Mầu nhiệm phục sinh của Chúa là nền tảng đức tin của chúng ta. Trong niềm cảm tạ Thiên Chúa, xin kính chúc quí cha, quí sơ, và tất cả ông bà anh chị em và quí quyến đầy hồng ân của Chúa Ki-tô Phục Sinh.  

Có một người không có đạo đi tham dự lễ cưới tại một nhà thờ Công giáo. Vào trong nhà thờ, nhìn thấy Thánh giá Chúa Giê-su đóng đinh treo trên tường, khi ra về đã tuyên truyền rằng người Công giáo thờ Chúa chết trên thập giá.  Như chúng ta biết điều người này nói chỉ đúng có một nửa, nửa kia họ không nói hay không biết là Chúa đã chết trên thập giá, nhưng sau 3 ngày Người đã phục sinh sống lại như đã được ghi lại trong Thánh kinh rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại (Lc 24:46).  Và chúng ta cũng biết, Chúa Giêsu khi còn sống Người cũng đã tiên báo cho các môn đệ biết một cách rõ ràng Người phải chịu khổ hình, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Sự kiện phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô là một mầu nhiệm, và phải nhìn với con mắt đức tin vì không ai chứng kiến tận mắt khi nào Chúa Giê-su sống lại, ngoại trừ những lính canh được mua chuộc để kể một câu chuyện gian dối mà thôi.  Đối với chúng ta, chúng ta tin vào sự phục sinh của Chúa qua 2 bằng chứng xác thực sau đây. Thứ nhất là ngôi mộ trống.  Tin mừng thánh Gioan hôm nay cho chúng ta biết một số phụ nữ trong đó có bà Maria Madalena đã chứng kiến ngôi mộ trống với những chi tiết như sau, “Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.”  Khi thấy ngôi mồ trống, các bà đã nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói về việc sự kiện phục sinh của Người, và các bà chạy về báo tin cho các môn đệ.

Tin mừng tiếp tục cho chúng ta biết Phêrô và Gioan, người môn đệ thân tín của Chúa, sau khi được báo tin liền chạy ra và cũng đã chứng kiến tận mắt ngôi một trống, và những dấu vết còn lại như băng vải quấn đã được xếp gọn gàng, khăn che đầu được gấp lại và để riêng một chỗ mà thôi.  Cả hai ông thấy những dấu vết này thì các ông tin không chút nghi ngờ: Chúa đã sống lại thật.   Tin Mừng cho thấy sở dĩ hai ông và các tông đồ khác trước đó rơi vào tình trạng sợ hãi trước cái chết của Chúa, là bởi vì các ông chưa tin vào lời Kinh Thánh nói rằng: Chúa Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết.  

Như thế, để đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh thì điều hết sức quan trọng và cần thiết thứ nhất phải có đó là phải tin vào Kinh Thánh vì Kinh Thánh đã nói về Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, về cái chết, và sự phục sinh vinh hiển của Người.  Và điều thứ hai, tin vào Kinh Thánh là phải sống những lời Người dạy để được sống lại và có sự sống hạnh phúc đời đời.

Bằng chứng xác thực thứ hai về sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Ki-tô căn cứ vào sự biến đổi đời sống một cách rõ ràng, vào những lời chứng, lời tuyên xưng, và trên hết vào những hành động can đảm của các người có lòng xác tín vào Chúa Giê-su phục sinh.  Kinh thánh cho chúng ta biết không có gì có thể ngăn cản họ làm chứng và sống cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, hy sinh, đau khổ, gian truân, thiệt thòi và cái chết.  Nếu Chúa không sống lại rồi hiện ra với họ nhiều lần, và nếu Chúa Thánh Thần không ngự xuống trong tâm hồn họ, thì họ đã không có can đảm rao giảng tuyên xưng về Chúa Giêsu, và hy sinh làm chứng cho Người.  Như thế con người nhân loại không có cơ hội để nghe và biết Chúa, tin và yêu mến Người.  Chính vì đã cảm nghiệm sâu xa biến cố phục sinh và có một niềm xác tín vào Kinh Thánh mà các tông đồ đã là những con người đầu tiên được biến đổi để trở thành những nhân chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh.  Đó là 2 nguồn bằng chứng xác thực và nền tảng đức tin của chúng ta vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh.

Chúng ta không được diễm phúc chạy ra để nhìn xem chứng kiến ngôi mồ trống, nhưng hôm nay chúng ta vẫn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục sinh và tin vào Người qua tình yêu, lòng thương xót và ơn sủng mà Người ban cho chính chúng ta.  Và chúng ta cũng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh qua cuộc sống chứng nhân của nhiều người trong Giáo Hội đã để lại cho chúng ta trong suốt 2018 năm qua, trong đó có những bằng chứng can đảm và hùng hồn của các thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông của chúng ta, những người đã dùng máu đào chịu tử đạo để minh chứng cho Chúa Giê-su Phục Sinh.  Các ngài đã từ chối vinh hoa phú quí, tiền bạc và danh vọng, can đảm lãnh những hình phạt đau đớn và cái chết để được hạnh phúc vĩnh cửu trên trời như lời Chúa hứa. Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 khuyên chúng ta: “Anh chị em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất.”  

Ngày hôm nay, chúng ta đang còn phải đối diện với những khó khăn thử thách, đau khổ, và cần những nhu cầu vật chất cần thiết cho đời sống hiện tại, nhưng chúng ta đừng bao giờ chỉ nghĩ và chú ý đến cuộc sống hiện tại mà thôi. Chúng ta phải là những chứng nhân cho Chúa Ki-tô Phục sinh, sống xứng đáng là những Ki-tô đích thực để được an bình và hạnh phúc đời này và đời sau.

Mừng kính Chúa Phục Sinh hôm nay, chúng ta cầu xin cho niềm tin này ngày càng trở nên vững mạnh trong cuộc đời mỗi người, nhất là mọi người trong cộng đoàn giáo xứ và hiện diện.  Xin Chúa Giê-su Phục Sinh tiếp tục thánh hóa, biến đổi chúng ta để qua đời sống hy sinh phục vụ, qua việc bác ái và quảng đại trở nên những nhân chứng sống động cho mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa.  Và những người sống chung quanh hay những người chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc có thể nhận ra và cảm nhận được Đấng Phục sinh đang hiện diện, là nguồn sức sống, hạnh phúc và bình an của mỗi người chúng ta.  Xin Chúa Giê-su Phục Sinh ban nhiền ơn lành cho tất cả mọi người chúng ta.  Một lần nữa, chúc mừng Phục sinh của Chúa Ki-tô đến tất cả mọi người.

Về mục lục

.

NHÂN CHỨNG PHỤC SINH

Trong thời sơ khai của Giáo Hội, những lời giảng dạy của các tông đồ mang nội dung chính yếu là sự phục sinh của Đức Giêsu. Nội dung giảng dạy này được gọi là Kerygma, Đó cũng là chủ đề trọng tâm các cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô với người Do Thái cũng như với dân ngoại. Tại Xêdarê, ông Phéttô báo cáo vua Ác-ríp-pa nhân dịp vua đến thăm: “Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giêsu nào đó đã chết, mà Phaolô quả quyết là vẫn sống” (Cv 25, 19). Giảng về Đức Giêsu phục sinh cũng là một điều gây vấp phạm đối với cử tọa, như trường hợp ở Athena, vừa khi thánh Phaolô nói đến Chúa Giêsu sống lại, thì nhiều người nhạo cười và bỏ về (x. Cv17, 22-32).

Thực ra, khi Chúa bước ra khỏi mồ, không có môn đệ nào chứng kiến. Ngôi mộ trống là khởi điểm cho những câu hỏi được đặt ra, khiến họ hồi tưởng quá khứ để suy tư những lời Chúa đã nói trước. Thế rồi, họ được gặp Chúa phục sinh. Lúc đầu họ còn ngờ vực, nhưng rất nhanh sau đó, họ đã nhận ra Người. Họ còn được đàm đạo và ăn uống với Người. Nhờ đó mà họ có cảm nhận rất sâu sắc về Đấng Phục sinh.

Sự phục sinh của Chúa giúp các tông đồ kiên vững lòng tin vào Thày mình. Trường hợp hai môn đệ trên đường Emmaus là một minh chứng. Trước khi gặp Chúa, các ông mệt mỏi, thất vọng và đang tính bỏ cuộc, nhưng sau khi nhận ra Thày mình, họ tìm lại nghị lực, vui tươi, phấn khởi và lên đường về Giêrusalem ngay trong đêm ấy. Biến cố phục sinh cũng giúp cho họ hiểu hơn về giáo huấn của Chúa Giêsu. Quan niệm của họ về Chúa Giêsu được nhìn với nhãn giới “hậu-phục-sinh” và nhờ đó, họ có một chân dung xác thực về Đấng Thiên Sai.

Chính chứng từ của các tông đồ đã làm nên sức mạnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi và đem lại hiệu quả nhanh chóng của công cuộc truyền giáo. Những người đương thời với tông đồ không nhìn thấy Đấng Phục Sinh, nhưng qua cử chỉ, lời nói và nhất là qua niềm xác tín của những người dân chài chất phác này, họ thấy được Chúa Giêsu đang hiện diện. Họ thấy rằng sự kiện một người đã chết rồi sống lại không thể lý giải được bằng lý trí, nhưng cũng không phải là chuyện tầm phào, vì chứng nhân sẵn sàng lấy mạng sống của mình để làm chứng. Đối diện với các nhà chức trách đạo cũng như đời, những người dân chài hiền lành này lại rất can đảm, không phải bằng một thứ lý luận uyên thâm, nhưng rất đơn giản và chắc chắn: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20).

Những nhân chứng phục sinh là ai? Đầu tiên, phải kể đến Maria Mađalêna, một người đã nghe lời Chúa giáo huấn mà rũ bỏ quá khứ tội lỗi. Kế đến là những tông đồ, những người đã cùng sống với Chúa, đã chứng kiến những phép lạ Người làm. Các tông đồ là những người dân chài ít học. Họ không lý luận uyên thâm thông thái. Họ chỉ nói điều họ đã nghe, đã thấy và đã cảm nhận.

Khi mừng lễ Phục sinh, tôi được mời gọi trở thành nhân chứng của sự kiện Chúa sống lại. Tuy vậy, để có thể làm chứng về Đấng Phục Sinh, tôi phải biết Người, phải gặp Người và cảm nhận được sự hiện diện của Người trong đời tôi. Tôi không thể làm chứng về một người hay một sự việc mà tôi không biết chắc. Làm nhân chứng cho Đấng Phục Sinh hôm nay đôi khi phải chấp nhận là kẻ “ngược dòng” trong một xã hội xô bồ, phức tạp. Các tông đồ và các thánh tử đạo sau này đã những người dám đem mạng sống mình để “đặt cược” cho lời chứng về Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại. Một chứng từ được cam kết bằng mạng sống sẽ có tính thuyết phục mạnh mẽ và làm cho người khác tin. Xác tín nơi Đấng Phục Sinh, các tông đồ khi bị đánh đòn và bạc đãi, lại “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).

“Bà Maria ơi, trên đường bà thấy những gì? Xin kể cho chúng tôi nghe” (Ca Tiếp liên lễ Phục Sinh). Ngày hôm nay, xung quanh tôi, có biết bao người đang đặt câu hỏi này cho tôi. Tôi đã thấy những gì? Tôi có gặp Đấng Phục Sinh giữa đời tôi hay không? Sự hiểu biết Chúa của tôi có thâm sâu đến mức tôi có thể kể cho mọi người nghe về Người? Hay tôi chỉ biết Chúa như một nhân vật của huyền thoại hoặc một nhân vật của lịch sử. Sự hiểu biết Chúa phải dẫn tôi đến việc biến đổi canh tân cuộc đời, để tôi được sống lại với Chúa. Nói cách khác, chính Chúa Phục Sinh sống trong tôi và làm đổi mới tận căn cuộc đời tôi, đến mức “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Đối với những người đang đau khổ vì bệnh tật, vì đói nghèo, vì bất công, tôi làm thế nào để kể cho họ nghe về Đấng Sống Lại đã đến nâng đỡ hai môn đệ trên đường Emmaus, giúp họ tìm lại nghị lực và niềm tin? Với những người đang sống trong chia rẽ bất hòa, tôi làm thế nào để kể cho họ nghe về Đấng Sống Lại đang yêu thương tha thứ? Chứng từ phục sinh phải đến từ cuộc sống an bình, vui tươi và thấm đượm ân sủng.

Hiểu được như trên, mỗi tín hữu sẽ trở thành một nhân chứng của Đấng Phục Sinh giữa đời thường. Họ sẽ làm lan tỏa đến mọi môi trường cuộc sống niềm vui của Tin Mừng và tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại.

Về mục lục

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
  2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
  3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
  4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

Về mục lục

SỰ SỐNG LẠI LÀ NIỀM HY VỌNG

Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình, nhưng chết rồi đi đâu mãi là câu hỏi của con người qua mọi thời đại. Con người vẫn trăn trở, thắc mắc. Có biết bao tôn giáo, có biết bao các hiền sĩ đã mải công đi tìm câu trả lời. Thánh Phao-lô cũng từng đối diện với câu hỏi đầy hóc búa ấy. Qua đây, thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu thế nào về sự sống lại. Ngài nói:

“Khi anh em gieo giống, nếu hạt giống không chết đi thì sẽ không bao giờ nẩy mầm sống lại, cây non từ hạt giống mọc lên trông khác hẳn hạt lúc gieo xuống đất. Thiên Chúa cho nó hình thể theo ý Ngài, mỗi loại hạt giống sinh ra một loại cây; sự sống lại của người chết cũng thế, chết là thân thể hư nát nhưng sống lại là thân thể không hư nát, chết là thân thể xương thịt nhưng sống lại là thân thể thần linh, vì đã có thân thể xương thịt tất nhiên cũng có thân thể thần linh. Tôi xin tỏ cho anh em huyền nhiệm nầy, chúng ta sẽ không chết hết nhưng tất cả đều sẽ biến hóa trong giây lát, trong chớp mắt, khi có tiếng kèn cuối cùng, vì kèn sẽ thổi. Người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta, những người còn sống sẽ được biến hóa” (1 Cor 15, 35-52)

Hóa ra sự sống lại của con người cũng giống như một hạt giống được gieo xuống đất, mục nát chết đi thì sẽ  trồi lên một cây mới. Sự sống của cây mới chắc chắn sẽ khác với hạt giống khi gieo xuống. Cây lúa khác với hạt lúa. Con người sau khi sống lại cũng hoàn toàn đổi mới. Vì mang thân xác thần linh thì hoàn toàn khác với thân xác hữu hạn trần thế. Khi Chúa Giê-su sống lại trên thân xác của Ngài vẫn còn những vết sẹo. Ngài đã đề nghị Tô-ma hãy xỏ ngón tay vào những dấu đinh trên thân thể Ngài. Nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, nên các môn đệ, các người phụ nữ thân tín cũng không nhận ra Người. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho tất cả mọi người như lời Chúa đã dạy: “Trong giây lát, trong chớp mắt sẽ có tiếng kèn cuối cùng vì kèn sẽ thổi, người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta những người còn sống sẽ được biến đổi nên mới hơn”.

Tuy nhiên, Thánh Gioan còn cho biết: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Thiên Chúa sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.

Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.

Chúa Giê-su hôm nay đã bước qua cuộc sống tạm đời này để trở về cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Sự sống lại của Ngài là niềm hy vọng lớn lao cho kiếp người chúng ta. Từ nay chúng ta không còn lo lắng về bước đường tương lai “chết rồi đi đâu?”. Từ nay chúng ta có một con đường để đi, để tiến về quê trời. Đó là con đường Giê-su. Con đường vâng phục thiên ý Chúa Cha. Con đường yêu thương và phục vụ cứu đời.

Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tủy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong Chúa vĩnh viễn.

Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen.

Về mục lục

 .

SỰ SỐNG ĐANG TRÀO DÂNG 

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

 

Khó khăn của đời người thường qui về hai mối : túng thiếu vật chất, và bất ổn về phạm vi tinh thần; mất mát hơn cả là “họa” không có người cảm thông, “phúc” không có người chia sẻ ! Nhớ thương người thân yêu đã qua đời, ta viếng mộ, thắp nhang cầu nguyện, và như thế chết và sống vẫn có hiệp thông. Nhưng điều gì đã xảy ra, nếu khi thăm viếng, người thân của ta không còn xác mà chỉ là “ngôi mộ trống” ! Một tử tội mang tên Giêsu đầy bí ẩn đối với giới chức trách tôn giáo, do họ chủ trương : giết lầm hơn tha lầm, họ dè chừng ông Giêsu đến độ, sau khi giết chết, họ đã cẩn thẩn đặt lính gác nơi đã an táng ông.

Những nghịch lý và mâu thuẫn nơi cuộc sống, nơi tâm hồn, khiến không ít người hồi hộp, ưu tư, khó hiểu : Đức Giêsu nhiều tài năng, nhiều đức độ, từng thu hút đám đông, từng làm phép lạ, nay bị vu khống, kết án chết, ông chỉ im lặng, chấp nhận chết thảm thương !

Sự sống trào dâng bắt đầu từ những điều bé nhỏ, tầm thường, sự sáng luôn tác động theo dây chuyền, từ đơn giản tới phức tạp. Các phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay chỉ quan tâm đến việc xức thuốc thơm cho “xác Thầy”, các môn đệ tán loạn, mỗi người một phương, các ông mong sao đừng có gì rắc rối xảy ra với họ nữa. Nhóm 12, các ông vừa sợ, vừa buồn, chỉ khao khát có được hai chữ bình yên. Khi Phêrô và Gioan thấy ngôi mộ trống trơn, hai ông phân vân, bối rối, tâm trí mới sáng lên chút hy vọng, vì sao kẻ trộm xác Thầy lại có thời gian sắp xếp dây băng và khăn liệm gọn gàng thế ?

Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta hôm nay thấy mình quá quen với chuyện Chúa Phục Sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế, chúng ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất hôm đó. Quả thật, tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Thầy đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Nếu có nhớ lời Thầy dạy, các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo, Con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ là cùng. Các phụ nữ đạo đức lúc bấy giờ nhớ thương Thầy, cùng lắm là các bà nghĩ Đức Giêsu là Vị Thầy hiền hậu, chắc Thiên Chúa sẽ đền bù xứng đáng cho những việc làm của Thầy !

Tâm lý tự nhiên, khi bị ám ảnh bởi cái chết đau thương, người ta dễ bị sa lầy trong u buồn, tiếc xót, không còn khả năng để hy vọng và vui sống. Đối diện với “ngôi mộ trống”, ít nhiều cũng là động lực để tình cảm, lý chí của họ phải quan tâm đến sống – chết. Khi nhìn vào Đức Giêsu ở thập giá, các tông đồ, các chức sắc tôn giáo, dân chúng, họ có thể nhìn thấy gì ? Dám chắc những người thương Đức Giêsu sẽ nghĩ : sao Thiên Chúa lại im lặng làm thinh với kẻ độc ác; người chống đối Đức Giêsu chỉ nghĩ tới, thì ra ông Giêsu cũng là người bình thường….

Chúng ta không thể nhìn và không thể hiểu được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Người, nếu không qua tập luyện làm môn đệ của Chúa. Các phụ nữ đối diện với “ngôi mộ trống”, “sự sốg bừng lên” nên họ đã mau thông báo cho các ông đệ tử của Đức Giêsu. Các tông đồ, đối diện với “ngôi mộ trống”, không khỏi phân vân, vì các ông chưa đủ kinh nghiệm về kẻ chết sống lại. Các chức sắc tôn giáo, đám đông dân chúng hoang mang, khi hay tin “ngôi mộ trống”, vì suy nghĩ của con người chỉ hiểu được những gì cân đo đong đếm thuộc phạm vi trần thế.

Kinh nghiệm tiền nhân nói rằng : “cây thẳng lên, nhờ được uốn; người khôn lớn, nhờ công khó mẹ cha” ! Niềm vui Phục Sinh tác động đến các phụ nữ do lòng yêu mến, đã biết ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm. Niềm vui Phục Sinh thúc giục các tông đồ mạnh dạn khám phá, không được buông xuôi tuyệt vọng. Các phụ nữ, các tông đồ được lớn lên nhờ tình yêu thương do Thầy Giêsu chăm sóc vun trồng, họ được niềm vui Phục Sinh chiếu tỏa khởi đi từ “ngôi mộ trống” !

Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, là những cái chết và từ bỏ liên tục : chết đi cho tội lỗi, ích kỷ…, qua đó niềm vui Chúa Phục Sinh tỏa chiếu, giúp tâm hồn và cuộc sống chúng ta thực sự được biến đổi. Chúng ta đừng sợ chết đi điều phải chết, đừng lo phải xóa đi điều cần tẩy xóa. Đừng sợ bị mục nát hay bị tảng đá to che chắn đời mình. Ước gì mọi “ngôi mộ tâm hồn” của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu được mở tung để sự sống bừng dậy trong chúng ta. Amen.

Về mục lục

 .

TRỞ THÀNH CHỨNG NHÂN ĐÁNG TIN  

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc

Chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành và tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh. Cho đến ngày nay, niềm tin vào Chúa phục sinh là niềm tin chỉ có ở nơi Kitô giáo chúng ta và là một điều khó chấp nhận đối với nhiều người. Khi nói chuyện với những người ngoài Kitô giáo, có thể họ dễ dàng chấp nhận hệ thống giáo lý và luân lý của Kitô giáo, nhưng không dễ để chấp nhận niềm tin Phục Sinh, nhiều người còn lấy niềm tin vào Chúa phục sinh của chúng ta để phản bác chúng ta. Niềm tin Chúa phục sinh không chỉ là niềm tin nền tảng mà còn là niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta. Để đón nhận được niềm tin này, chúng ta phải đặt mình trong niềm tin và lời chứng của Giáo Hội và của Kinh Thánh. Đó cũng là điều các bài đọc cũng như Tin Mừng mùa Phục sinh muốn nói cho chúng ta.

Câu chuyện trong Tin Mừng Gioan nhấn mạnh : Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Macdala đi ra thăm mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Bà chạy về báo cho ông Simon và người môn đệ Đức Giêsu thương mến và nói : Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Lý chứng đầu tiên của việc Chúa sống lại chính là ngôi mộ trống, không còn xác Chúa nữa. Bà Maria này đã không dễ dàng chấp nhận việc Chúa phục sinh, vì trong tâm hồn bà còn bị phủ một màn tối của cái nhìn tự nhiên : Ai đó đã lấy mất xác Chúa ! Trong lúc lo sợ, hoang mang như thế, bà đã chạy về gặp Simon và người môn đệ Chúa yêu. Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh là bà chạy về với Simon, điều đó có nghĩa là bà không chạy đi, mà là chạy về với Simon, là thủ lãnh của Giáo Hội, là người được Chúa trao quyền đứng đầu trong anh em và là người sẽ có tiếng nói chính thức về biến cố này.

Chúng ta cũng thấy vai trò nổi bật của Simon, Tin Mừng kể lại : Cả hai người cùng chạy ra xem mộ, mặc dầu người kia đến trước, song ông không vào trong mộ, mà nhường bước cho người anh cả là Simon Phêrô vào trước. Cả hai ông đều thấy mộ đã trống, và còn thấy dấu chứng khác của việc Chúa đã Phục sinh, đó là những tấm vải và khăn liệm còn để ở đó. Khăn liệm còn nguyên ở đó : chứng tỏ không phải xác Chúa bị mất trộm, vì nếu có người lấy đi, thì họ sẽ đem cả những tấm vải đó theo, chứ không để lại làm gì. Hơn thế nữa, các ông còn thấy các tấm khăn che đầu, che mặt và những băng vải, không hề bị xáo trộn, mà được gấp lại gọn gàng và để riêng thứ nào vào thứ đó. Như thế, câu nói hồ nghi của bà Maria Macdala : Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, là không có cơ sở.

Tác giá Tin Mừng nói lên cảm nghiệm của các ông rằng : Ông đã thấy và đã tin, tức là các ông đã thấy những dấu chứng đầu tiên này, các ông đã tin rằng Chúa đã sống lại thật và không thể có ai đến lấy trộm hoặc mang xác Chúa đi nơi khác. Tác giả cũng nói thêm : Trước đó, họ chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây chính là mấu chốt quan trọng của mầu nhiệm Chúa Phục sinh, đó là phải dựa vào Kinh Thánh, vì Kinh Thánh đã chuẩn bị, đã nói trước và minh chứng về biến cố này. Chúa Giêsu khi còn sống, Ngài cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài sẽ bị người ta giết, bị đóng đinh và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Ngài đã từng dùng quyền năng của mình mà làm cho kẻ chết sống lại, như là một minh chứng về quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài. Dó đó, nếu tin vào Kinh Thánh, thì chúng ta sẽ đón nhận được niềm tin Phục sinh hôm nay.

Bên cạnh đó, Kinh Thánh còn là sách ghi lại lời chứng của các tông đồ về biến cố quan trọng này. Chúng ta lật lại sách Công vụ Tông đồ sẽ tìm thấy những lời chứng mạnh mẽ của Simon Phêrô về việc Chúa Phục sinh : Chúa đã sống lại thật ! Bài đọc một thuật lại bài giảng của Phêrô tại nhà ông Cornêliô. Trong bài giảng này, Phêrô đã tóm lược cả cuộc đời Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài. Thánh nhân còn khẳng định : Như quý vị biết rõ, biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa về Đức Giêsu Nazareth… và chúng tôi xin làm chứng về những việc Người đã làm. Phêrô làm chứng rằng, Chúa Giêsu đã bị người Do Thái giết và treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy và xuất hiện tỏ tường trước mặt những chứng nhân đã được tuyển chọn.

Thánh Phêrô cũng quả quyết rằng : Chúng tôi đã cùng ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Lời chứng này muốn khẳng định rằng Đức Giêsu sống lại thật, sống lại với cả con người bằng xương bằng thịt thật, chứ không phải là một cái bóng. Điều này cho thấy, không phải do các môn đệ ảo tưởng nhìn người này ra người nọ, vì chính các ông đã gặp gỡ, chuyện trò với Ngài, đã ăn uống với Ngài, mặc dù thân xác phục sinh của Chúa không cần phải ăn uống nữa, nhưng đó là cách Chúa làm để củng cố niềm tin cho các tông đồ, và truyền cho các ông phải làm chứng về điều các ông đã thấy. Cũng chính vì thế mà các tông đồ đã dám sống tới cùng điều các ông đã làm chứng và dám chấp nhận cả cái chết để làm chứng cho điều các ông đã thấy và đã tin, vì không ai lại dám chết vì một điều vô lý.

Các tông đồ cũng thấy rằng, các ngôn sứ từ xưa đã nói về Chúa Giêsu và tiên báo về việc sống lại của Ngài, để ai tin vào Ngài thì sẽ được ơn tha tội. Vì thế mà trong thư Côlôsê, Thánh Phaolô đã nói với các tín hữu rằng : Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, thì hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Việc làm phép nước đêm qua nhắc cho chúng ta nhớ rằng : Nhờ Bí tích Rửa tội, mỗi người khi được dìm trong dòng nước thanh tẩy, tức là chết con người cũ và sống lại với một con người mới, thì lòng trí và đời sống cũng sẽ được đổi mới.

Là những người tin và làm chứng về việc Chúa Phục sinh, chúng ta đã sống như thế nào và làm chứng như thế nào ? Tin vào Tin Mừng Phục sinh, trước hết, chúng ta phải sống trong niềm vui, và để có niềm vui này, thì chúng ta phải có Chúa Phục sinh trong tâm hồn. Nói như Thánh Phaolô, chúng ta phải để lòng trí chúng ta thuộc về thượng giới, tức là chúng ta không thể để cho vật chất, của cải thế gian làm chủ đời ta, và càng không thể để cho nó chiếm hết cả cuộc đời, tâm trí chúng ta được. Trái lại, hãy để cho Chúa Phục sinh cư ngụ và thắp sáng tâm hồn chúng ta. Hãy để cho ánh sáng Phục sinh xua đi những mảng tối trong tâm hồn và những góc tối trong cách chúng ta làm ăn buôn bán, cách chúng ta cư xử với anh em. Hãy để cho mầu nhiệm Phục sinh thúc đẩy chúng ta rũ bỏ những lôi kéo của xã hội, như rượu chè, cờ bạc, đam mê xấu, và hãy để những thời giờ ấy làm những việc tốt, việc có ích cho gia đình, người thân và cho cộng đồng, cho giáo xứ.

Đối với các bạn trẻ, trong môi trường học tập hay nơi công sở, các bạn vẫn thường gặp những câu hỏi chất vấn về đức tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh và về Giáo Hội. Mỗi khi bị thử thách về đức tin như thế, hãy noi theo tấm gương của Maria Macdala, chạy về với Simon Phêrô, tức là chạy về với Giáo Hội, vì Giáo Hội là Mẹ và là Thầy của chúng ta trong đức tin. Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn dạy bảo của Giáo Hội, đừng để những lập luận, những lý thuyết của người đời làm lung lạc đức tin của các bạn, và nhất là đừng chạy ra ngoài để chỉ trích Giáo Hội.

Chỉ những ai tin Chúa Giêsu Phục sinh mới được phục sinh như Ngài. Chúng ta không thể tìm kiếm sự phục sinh và hạnh phúc đời đời nơi con người hoặc những lý thuyết của thế gian. Tin vào mầu nhiệm sống lại, chúng ta không thể cứ sống trong tình trạng chết chóc của tội lỗi và tật xấu, mà phải giũ bỏ tất cả để sống con người mới và còn là người làm chứng đáng tin cho mầu nhiệm Chúa Phục sinh. Chúng ta chỉ có thể trở thành người làm chứng đáng tin khi chúng ta được gặp gỡ Chúa Phục Sinh qua việc cầu nguyện, tâm sự với Chúa, qua Bí tích Thánh Thể và qua chính lời Kinh Thánh mỗi ngày. Khi đó, chúng ta mới có thể nói với mọi người rằng : Chúa đã sống lại thật ! Chính chúng tôi làm chứng về Ngài, chúng tôi đã gặp Ngài.

Cầu chúc cho mọi người trở thành chứng nhân đáng tin của Chúa Phục sinh. Amen.

Về mục lục

 .

NHÌN VỚI ĐÔI MẮT TRONG SẠCH

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng… mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không. Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không : “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2). Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo.

Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.

Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể lý khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm được xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.

Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh. Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Ðức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.

Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.

Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế ? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.

Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì ? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.

Đức Kitô đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24).

Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.

Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó. Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thấy được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn. ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).

Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.

Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?

Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường…

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Về mục lục

 .

TÌM ĐẤNG PHỤC SINH 

Trầm Thiên Thu

Chuyện kể rằng… Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tôi để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”.

Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).

Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.

Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.

Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).

Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Ngườiđược ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.

Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17).

Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: Đây là ngày Chúa làm raCùng nhau ta hãy reo ca vui mừng (Tv 118:24).

Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.

Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!

Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).

Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!

Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!

Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)

Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.

(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759): https://www.youtube.com/watch?v=76RrdwElnTU

Về mục lục

 .

CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA KI-TÔ 

Lm. Đan Vinh – HHTM

  1. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.(2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2.Ý CHÍNH:

Sau khi chịu chết vào chiều Thứ Sáu, Đức Giê-su đã được hai môn đệ an táng trong ngôi mộ đá. Nhưng đến ngày Thứ Nhất trong tuần, khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na ra thăm mộ đã tỏ ra hốt hoảng khi thấy tảng đá che đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp hai ông Phê-rô và Gio-an cấp báo sự thể. Hai môn đệ bán tín bán nghi cùng chạy ra mộ để xem rõ sự thể. Hai ông thấy ngôi mộ bị mở toang, nhìn vào trong thì thấy khăn liệm vẫn còn, nhưng xác Thầy đã biến mất. Ông Phê-rô im lặng suy nghĩ, đang khi Gio-an “đã thấy và đã tin”: Qua sự kiện xác Thầy biến mất nhưng khăn vải liệm vẫn còn để lại, nên đã suy luận và tin Thầy đã phục sinh.

3.CHÚ THÍCH:

-C 1: +Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ: Theo Tin Mừng Gio-an, do lòng mến thôi thúc mà chỉ mình bà Ma-ri-a ra thăm mộ để xức dầu thêm cho thân xác mới an táng của Thầy.

-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Khi thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà liền vội vã chạy về nhà Tiệc Ly thông báo sự kiện mồ trống cho hai ông Phê-rô và Gio-an là những người lãnh đạo Nhóm Mười Hai. + Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: Câu này cho thấy bà không hề nghĩ là Thầy Giê-su có thể đã phục sinh.

-C 3: + đi ra mộchạy mau hơn: Sở dĩ Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đến mộ trước Phê-rô là do ông còn trẻ và có sức khỏe dồi dào hơn ông Phê-rô.

-C 4: + Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào: Gio-an thể hiện sự tôn trọng Phê-rô là đán anh, vừa cao niên hơn lại vừa được Đức Giê-su đặt làm người đứng đầu Nhóm Mười Hai.

-C 6: + Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó: Câu này cho thấy tính quyết đoán của Phê-rô. Tuy có chậm hơn Gio-an, nhưng ông Phê-rô đã được Gio-an tôn trọng nhường bước vào bên trong mộ trước. Ông Phê-rô “nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su”. Điều này cho thấy giả thuyết bà Ma-ri-a thông báo xác Thầy đã bị đánh cắp là không có cơ sở, vì “kẻ trộm sẽ chẳng dại mất quá nhiều thời giờ để ngồi tháo các băng vải, cuộn lại đặt riêng ra một nơi” (Theo suy niệm của thánh Gioan Kim Khẩu).

-C 8: + Ông đã thấy và đã tin: Ông Gio-an tuy vào mồ sau Phê-rô, nhưng có lẽ Gio-an đã đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh trước Phê-rô do lòng mến thôi thúc. Chính nhờ lòng mến này mà sau đó, Gio-an đã luôn nhận ra Thầy trước các anh em như ông đã nhận ra Thầy là người mới vừa đứng trên bờ hồ hướng dẫn các ông thả lưới bắt mẻ cá lạ lùng (x. Ga 21,7).

  1. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ từ sáng sớm ngày Thứ Nhất và bà ra thăm mộ để làm gì? 2) Hai môn đệ là Phê-rô và Gio-an đóng vai trò thế nào trong Nhóm Mười Hai Môn Đệ của Đức Giê-su ? 3) Khi thấy cửa mộ mở và xác Thầy biến mất, bà Ma-ri-a có tin Thầy đã sống lại không? Câu nói nào của bà cho thấy thái độ không tin Thầy đã sống lại? 4) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 5) Cả hai ông đều thấy mồ trống, đều thấy những tấm băng vải cột xác Thầy khi an táng đã được xếp để lại gọn gàng và ai trong hai ông đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ xấu đến lấy trộm xác?
  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8b).
  3. CÂU CHUYỆN: Một Sư Bà đã được sống lại về phần linh hồn trong giờ chết.

Cha Giuse Bùi Văn Nho, cha sở họ đạo GIƠN ĐẮC (Jeanne d’ Arc) nhà thờ ngã sáu Chợ lớn đã thuật lại câu chuyện cảm động mà chính cha là người trong cuộc như sau:

Vào một đêm khuya thanh vắng bỗng chuông điện thoại trong nhà xứ reo vang. Có tiếng một bà phước mời cha đến ngay bệnh viện Hồng Bàng để ban phép giải tội cho một sư bà đang nằm điều trị tại đây. Sư bà ngỏ ý muốn gặp cha để xin xưng tội. Sau khi tìm hiểu kỹ về trường hợp này, cha biết được sư bà này vốn là người Công giáo, nay gần chết sư bà đã nhờ bà phước mời cha đến giúp bà được sống lại trong ơn nghĩa Chúa!

Khi đến nơi, thấy sư bà đang nằm thở thoi thóp không nói nhiều được. Cha chỉ hỏi vắn tắt mấy câu để biết rõ xem sư bà có phải là người Công giáo không?

– Tên thánh bổn mạng của bà là gì?

– Maria Anna.

Câu trả lời của sư bà khiến cho cha yên tâm để giúp bà sám hối tội lỗi, trước khi ban phép giải tội, phép xức dầu bệnh nhân và cho bà rước lễ như của ăn đàng. Trước khi về nhà, cha còn căn dặn bà phước: nếu sư bà tỉnh lại, phải báo lại cho cha biết để đến giúp gia tăng đức tin. Bốn ngày sau, bà phước báo tin sư bà đã hồi tỉnh và muốn được gặp cha. Cha đã đến gặp và nghe bà tâm sự về cuộc đời và lý do đi tu chùa của bà như sau:

“Thưa cha, quê con ở Cái Nhum, Chợ Lách, thuộc giáo xứ cha P. Thắng. Con bấy giờ là trưởng hội hát trong xứ và là hội viên đoàn con Đức Mẹ. Khi lên 20 tuổi có một thanh niên ở Sài-gòn làm quen và sau đó xin cưới. Hai gia đình đồng ý và đã làm lễ hỏi. Đến gần ngày hẹn, vị hôn phu lại xin hoãn lại ba tháng để thi lấy bằng thành chung. Anh đã về Sài-gòn và dặn con cứ an tâm chờ đợi. Ba tháng, bốn tháng rồi một năm rưỡi qua đi mà vẫn bặt tin tức của anh. Con buồn rầu xấu hổ, nhất quyết lên Sài-gòn đi tìm, dù mọi người thân đều ngăn cản. Một hôm con đã lén ăn cắp ít tiền của cha mẹ, rồi trốn lên Sài-gòn trong tình trạng bơ vơ không biết đi về đâu. Sau đó con đã tìm đến nhà một chị bạn đồng hương và được cho ở trọ. Ngày ngày con đi dò la tin tức mà vẫn không gặp người xưa. Rồi một hôm khi đi dự lễ tại nhà thờ Huyện-sĩ, con tình cờ trông thấy vị hôn phu của con mà anh ta lại không nhìn thấy con. Lễ xong con đi theo anh ta về tới tận nhà mới biết anh đang sống chung với một người vợ và có một đứa con. Con đã té xỉu khi biết rõ sự việc! Rồi con buồn bã đi lang thang không biết phải đi đâu và làm gì ?… Về nhà thì xấu hổ với mọi người, lại sợ bị cha sở và cha mẹ quở mắng.

Sống lây lất ở Sài-gòn được bốn tháng trong tình trạng không còn tiền, bị thất nghiệp và thất tình, một hôm con đã được người bạn giới thiệu xin việc làm ở vùng Chợ Lớn. Tại đây, bị cơn mưa lớn, con vào trú mưa trong một ngôi chùa. Mưa kéo dài mãi tới tối, con đành xin ngủ đêm tại chùa. Sư trụ trì chùa thương hại cho con ăn cơm thêm bốn năm ngày liền. Một hôm nhà sư đề nghị nếu con muốn tu chùa, sẽ giới thiệu ra ngoài Huế. Không hiểu tại sao con lại đồng ý và nhà sư đã viết giấy giới thiệu và còn cho tiền lộ phí nữa.

Ra Huế, tu được 20 năm, con đã được nhận giấy chứng chỉ của Vua Bảo Đại, công nhận là bậc chân tu. Con được lệnh vô Sài-gòn để thành lập một ngôi chùa sư nữ, vì trong miền Nam bấy giờ chưa có chùa cho nữ giới. Nhưng khi vào đến đây được ít lâu, con đã mắc phải bệnh lao phải nằm nhà thương, đến nay là sáu tháng. Mỗi lần con trông thấy cha vào thăm bệnh đi qua giường con, con muốn nói với cha mà không sao mở miệng, nên chỉ biết cúi đầu chào cha. Hôm bệnh trở nặng bị thổ huyết, con mới đánh bạo nói thật với bà phước, để nhờ bà mời cha đến…”

Bà sư sống thêm được hai tuần lễ nữa rồi qua đời sau khi đã được hoàn toàn quay về làm con cái Thiên Chúa. Khi bà vừa tắt thở thì một điều rắc rối đã xảy ra: một vị sư thày đã đến trách cha sở cướp người nhà chùa của họ. Sư thầy nói: “Bao nhiêu người khác sao cha không dụ theo đạo mà lại dụ dỗ người nhà chùa của chúng tôi?”. Cha cố gắng giải thích thế nào thì sư thày cũng không chấp nhận. Ông không tin sư bà trước kia là người Công giáo. Sau cùng cha đành đồng ý để bên nhà chùa cử hành lễ nghi an táng theo Phật Giáo. Nhưng rồi hai tiếng đồng hồ sau, nhà sư đột nhiên thay đổi ý kiến. Ông đến gặp cha và nói như sau: “Chúng tôi xin nhường việc an táng bà này cho bên Công giáo”. Rồi nhà sư giải thích lý do: “Vì khi thay xiêm áo cho bà, chúng tôi đã tìm thấy trong bóp của bà một bản di chúc nói rõ tên thật, tên cha mẹ, quê quán và yêu cầu nhà chùa nhắn tin cho cha mẹ của bà biết là bà đã được chịu các phép bí tích công giáo trước khi chết. Bà còn nói rõ ý muốn: “Tôi muốn được chôn cất theo nghi lễ Công giáo”. Vì thế chúng tôi xin nhường lại cho bên Công giáo cử hành nghi lễ an táng cho bà và chỉ xin được tiễn đưa bà tới nơi mộ phần thôi. Đám tang của sư bà hôm ấy có rất đông sư sãi đi tiễn đưa và chỉ có một linh mục là cha sở Nhà thờ Ngã sáu. Sau lễ an táng, bà phước đã trao cho cha cái bóp của sư bà, trong đó có một mẫu ảnh áo Đức Bà Núi Carmêlô. Có lẽ nhờ có lòng mến Đức Mẹ nên cuối cùng sư bà đã được Mẹ cầu bầu để sống lại trong ơn nghĩa Chúa vào giờ sau hết.

(Viết theo “Những Trang Sử Đẫm Mồ Hôi Của Họ Chợ Lớn”- VN, tr. 94-100)

3.THẢO LUẬN: 1) Bạn có cảm nghĩ gì sau khi biết được câu chuyện của sư bà nói trên? 2) Theo bạn khi mừng lễ Phục Sinh hằng năm, để việc mừng lễ có giá trị thực sự, mỗi người tín hữu phải làm gì cho bản thân và giúp đỡ tha nhân chung quanh?

4.SUY NIỆM:

1) Sự sống lại của Chúa đã làm cho các Tông đồ được biến đổi:

Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh đã làm biến đổi cuộc đời của các tông đồ: Nếu trước cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, ông Phê-rô đã tỏ ra hèn nhát kém tin khi đã chối Thầy tới ba lần, thì sau khi gặp Chúa Phục Sinh và đón nhận được Thần Khí của Người, ông đã nên can đảm mạnh mẽ, rao giảng về Chúa Ki-tô trước đám đông dân chúng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước công đường… Trước đây chưa hiểu Lời Chúa, thì nay ông đã thông suốt những Lời Chúa trong Sách Thánh nhờ gặp được Chúa Phục Sinh như ông đã khẳng định: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng… Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tưởng”.

2) Điều kiện để nên con người mới: phải chết đi cho con người cũ:

Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi đã chết, nên chúng ta cũng chỉ có được sự sống mới sau khi đã chết đi cho con người cũ. Đó là chết đi cho những thói hư và tội lỗi của con người cũ nơi ta như lời thánh Phao-lô dạy: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).

Sự sống mới đòi hỏi một sự tự hủy và lột xác: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Cũng vậy, khi phá hủy «cái tôi ích kỷ», thì «cái tôi» ấy sẽ không bị mất đi, nhưng sẽ được chuyển hóa thành một con người mới phong phú, mạnh mẽ hơn gấp bội. Thực tế cho thấy: Ai càng ích kỷ thì sức sống của họ càng nhỏ bé và càng mất đi giá trị và hạnh phúc. Ngược lại, «Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân sẽ không tìm thấy hạnh phúc và cũng chẳng giúp cho ai có được hạnh phúc. Trái lại, những vị thánh, những người luôn quên mình, vị tha lại là những người luôn sống trong hạnh phúc, mặc dù xem ra bề ngoài các ngài có bị thiệt thòi và chịu khổ cực hơn ai hết.

3) Xin được sống lại thật về phần linh hồn:

Chúa Ki-tô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Ki-tô đã sống lại, cái chết khộng còn là biểu tượng của thất bại và là ngõ cụt, nhưng đã trở thành cánh cửa mở ra hướng về một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đã về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mời gọi chúng ta đi theo Người “qua đau khổ vào trong vinh quang”. Đó là đức tin và là niềm hy vọng của các tín hữu chúng ta.

Mỗi môn đệ Chúa xưa mỗi người đều có một cách thức đón nhận đức tin và biểu lộ đức tin vào mầu nhiệm phục sinh cách khác nhau; nhưng tất cả đều có chung một lòng yêu mến Chúa Giê-su và sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống quên mình vị tha và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.

4) Sống lại thành con người mới luôn quên mình, vị tha, khiêm nhường phục vụ:

Con người mới được thánh Phaolô xác định như sau: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24). Như vậy, trở nên con người mới chính là nên con người nguyên thủy như khi mới được Thiên Chúa tạo dựng, và trước khi phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản tính của “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Vậy, để có một đời sống mới, con người mới, ta cần quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người tự mãn ích kỷ, khi chỉ biết lo cho bản thân mình… để mặc lấy con người mới là con người vị tha, luôn sống chan hòa yêu thương phục vụ tha nhân. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta cần phải cầu xin ơn Thánh Thần như thánh Phao-lô đã dạy: «Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta có ơn Thánh Thần, chúng ta sẽ được Ngài biến đổi toàn diện: Từ cách suy nghĩ, nói năng đến thái độ và hành động, để trở thành một con người mới thực thụ, giống như các Tông đồ khi xưa sau khi đớn nhận Thánh Thần trong lễ Ngũ tuần. Nhờ đó, mầu nhiệm phục sinh của Đức Giê-su mới thật sự mang lại ích lợi cho cuộc sống đời đời của chúng ta.

 5.LỜI CẦU:

Lạy Chúa Phục Sinh. Xin ban cho con luôn có được sự sống của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ mãi xanh tươi và được đơm bông kết trái. Xin ban cho con luôn có sự bình an của Chúa, nhờ đó con sẽ vững tâm theo Chúa giữa bao sóng gió đường đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, nhờ đó khuôn mặt của con sẽ luôn tươi vui rạng rỡ, sẵn sàng tỏ ra thân thiện và đi bước trước đến kết bạn với tha nhân. Xin ban cho con niềm tin và niềm hy vọng của Chúa, nhờ đó con sẽ hăng hái lên đường chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, không quản ngại những khó khăn gian khổ. Và nhất là: Lạy Chúa, xin ban cho con đầy tràn Thần Khí của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ luôn được đổi mới nên tốt lành thánh thiện và giới thiệu Chúa đến cho mọi người.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

 .

“NGÔI MỘ TRỐNG” HAY “BẰNG CHỨNG SỐNG”? 

Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng

Ngay trong Đêm Canh Thức Vọng Phục Sinh, Giáo hội đã cất cao bài ca khúc khải hoàn: Ha-lê-lui-a, Chúa đã phục sinh như một niềm vui “vỡ òa”. Với niềm vui này, Giáo hội muốn dẫn đưa toàn thể con cái mình bước vào mùa hoan lạc phục sinh. Bởi thế các bài Tin Mừng tối hôm qua và ngày hôm nay đều chung một đề tài, đó là sự kiện “Ngôi mộ trống”. Đây là một sự kiện được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại. Đêm Vọng Phục sinh sẽ lần lượt suy niệm sự kiện này theo các Tin Mừng Nhất Lãm (theo năm phụng vụ), riêng Tin Mừng theo thánh Gioan được suy niệm chính ngày lễ Phục sinh hôm nay.

Sự kiện “Ngôi mộ trống” từ xa xưa đã được xem như một trong những bằng chứng về việc Chúa đã phục sinh. Chúa đã chịu tử nạn, đã được mai táng trong mộ. Nay mộ còn mà người không còn thì chắc chắn người ấy đã phục sinh. Một kiểu lý luận rất đơn giản được sử dụng để khẳng định Chúa đã phục sinh. Nhưng có lẽ vì tính đơn giản đến như vậy, nên ngay từ thời Chúa Giêsu, đã không ít người hồ nghi về tính xác thực của kiểu lý luận này. Cũng chính vì thế mà thánh sử Mát-thêu, sau khi đưa ra sự kiện “Ngôi mộ trống” đã phải giải thích như sau: “Có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự’. Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến nay” (28,11-15).

Thực ra, thánh sử Mát-thêu có biện hộ mấy đi nữa thì ngài cũng là người đã tin rồi. Tin chắc chắn Chúa đã phục sinh rồi thì ngài mới biện hộ như thế để cho những ai đã tin được vững tin hơn, đừng để bị người ta lôi kéo lừa gạt. Còn với người chưa tin, không tin, liệu những lời biện hộ của thánh sử Mát-thêu có giá trị không? Lời của lính canh cũng rất hợp lý đấy chứ? Canh đêm mà ngủ, có gì lạ đâu. Ngủ nên bị mất trộm, lại càng hợp lý. Thời nay, có người đang canh, đang thức, mà vẫn mất trộm. Đấy là chưa nói đến chuyện lính canh có thể nhận tiền hối lộ rồi cho phép môn đệ mang xác đi. Chả lẽ chuyện tham nhũng, hối lộ, bây giờ mới có?

Đã gọi là “bằng chứng”, nghĩa là làm chứng bằng cái gì đấy. Việc lấy sự kiện “Ngôi mộ trống” để chứng minh Chúa đã phục sinh, xem ra không phải là một bằng chứng chắc chắn. Vậy chúng ta phải tìm bằng chứng này ở đâu?

Cho dù cả bốn thánh sử không nói ra, nhưng sau khi kể lại sự kiện “Ngôi mộ trống”, các ngài đều ghi lại sự kiện các tông đồ, môn đệ và một số phụ nữ đã gặp Chúa. Chính những người này luôn khẳng định: Chúa đã phục sinh. Họ chẳng những đã gặp Người mà còn ăn uống, nói chuyện với Người nữa. Bảo rằng những vị này tin Chúa đã phục sinh xem ra không đúng lắm, vì chính các vị đã gặp Chúa rồi còn tin gì nữa. Đấy là một sự thật, một sự hiển nhiên như ban ngày và không gì có thể khuất phục được các vị, dù bắt các vị này phủ nhận đã gặp Chúa, thậm chí bắt các vị phải chết.

Đây mới là bằng chứng giá trị nhất. Chính các tông đồ, môn đệ và cộng đoàn tiên khởi là bằng chứng sống về sự kiện Chúa phục sinh. Vì thế, trong suốt Mùa Phục Sinh, Giáo hội sẽ không ngừng cho chúng ta suy ngắm, gần như hằng ngày, sách Công vụ Tông Đồ. Với cuốn sách này, Giáo hội sẽ giúp chúng ta đi vào đời sống chứng tá của những bậc tiền bối trong đức tin. Chính các ngài có thể dẫn chúng ta vào kho tàng đức tin của Giáo hội.

Sự kiện Chúa phục sinh dường như không thể chứng minh, nhưng vẫn biết bao người vẫn tin và sống mầu nhiệm ấy. Mấy hôm bận việc mục vụ tuần thánh, chúng tôi không kịp theo dõi thông tin đại chúng, đọc bài “Điểm sáng giữa đêm đen” của Đức cha giáo phận trên trang mạng, chúng tôi bị cuốn hút về việc một em sinh viên nhặt được hơn một tỉ đồng, đã trả lại cho người bị mất. Chúng tôi liền vào các trang mạng để biết chi tiết hơn và thật ngạc nhiên khi biết em sinh viên là người Công giáo. Ngày nhặt được tiền cũng là ngày Chúa nhật (22/03/2015), em không thể trả lại tiền ngay được và phải tắt điện thoại vì đang dự lễ như báo chí cho biết. Đọc những lời tâm sự của em, chúng tôi hết sức cảm động: “Mình cũng là người theo đạo, học được những giáo lý sống sao cho không hổ thẹn với lương tâm. Tất cả những điều đó khiến mình không có nhiều đắn đo quyết định trả tiền cho người đánh rơi”.

Chúa phục sinh là điều không thể chứng minh, nhưng đọc những lời của em Lê Doãn Ý, học viên Viện đại học Mở Hà Nội tại Đà Nẵng, chúng tôi muốn nói lời cám ơn em vì qua việc em đã làm, một lần nữa, chứng tá Chúa phục sinh lại được thể hiện ngay trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

 .

Exit mobile version